LETTER VII – THE USE OF COLOUR AND SOUND.
|
AUGUST 27TH, 1920. |
Ngày 27-8-1920. |
|
[204] |
|
|
There is no question that those who break the law perish by the law, whilst those who keep it live it. The true study of occultism is the study of the why and how of phenomena. It is the finding out of the method whereby results are achieved, and it involves close analysis of events and circumstances in order to discover their governing laws. I have been led to make these preliminary remarks today because I saw with clarity the questions that are controlling your mind. These questions are of great value, if you continue to apply yourself to the search for the right answer. Certain definite laws govern the life of the disciple. They are the same laws that control all life. The difference consists in the partial realisation—on the part of the disciple—of the purpose of those laws, their raison d’etre, and their conscious judicious application to the circumstances met in daily living. By conformance to the law is the personal life transmuted…Take for instance the Law of Substance. This law puts the disciple in the position of wisely utilising the universal storehouse. It is the manipulation of matter, and its adaptation to the interacting forces of supply and demand…Blind faith is right for the mystic. It is one of the means whereby the Divine storehouse is entered, but to understand the method whereby that storehouse is kept replenished, and to comprehend the means whereby the bounteous supply of the All Father is brought in contact with the children’s need is better still. One of those maxims I can here give anent supply and demand. It is only as a skilful [205] use is made of the supply for the needs of the worker and the work (I choose these words each one with deliberation) that that supply continues to pour in. The secret is: use, demand, take. Only as the door is unlocked by the law of demand is another and higher door unlocked permitting supply. The law of gravitation holds hid the secret. Think this out. |
Không có vấn đề là kẻ nào phạm luật sẽ bị luật tiêu diệt, còn kẻ nào tuân thủ định luật sẽ được sống nhờ định luật. Việc nghiên cứu huyền bí học đích thực là nghiên cứu về nguyên do và cách nào mà các hiện tượng xảy ra. Đó là việc tìm kiếm phương pháp để đạt kết quả, cũng như phân tích tỉ mỉ các sự kiện và các trường hợp để tìm ra những định luật quản trị chi phối chúng. Sỡ dĩ tôi nói lên các điểm lưu ý sơ khởi này với các bạn hôm nay, vì tôi thấy rõ những vấn đề đang chi phối tâm trí các bạn. Những vấn đề này có giá trị rất lớn nếu các bạn vẫn chuyên chú tìm câu giải đáp đúng đắn. Có những định luật nhất định quản trị đời sống của người đệ tử và đó cũng là những định luật chung cho toàn cuộc sống. Sự dị biệt là do người đệ tử nhận thức thiên lệch về mục đích của các định luật đó, lý do tồn tại của chúng và cách áp dụng chúng một cách hữu thức và đúng đắn vào các trường hợp xảy ra trong đời sống hằng ngày. Cuộc sống cá nhân sẽ được chuyển hóa nhờ tuân thủ định luật. . . Ví dụ như Định luật về Vật chất Cơ bản. Luật này đặt người đệ tử vào vị thế sử dụng kho tàng chung một cách khôn ngoan. Đó là việc vận dụng vật chất và cho nó thích nghi với các sức mạnh tương tác của cung và cầu. . . Đức tin mù quáng chỉ đúng với nhà thần bí, và là một trong các phương tiện để đi vào kho tàng Thiêng liêng này. Nhưng hiểu được phương pháp làm kho chứa này được cung cấp thêm mãi và hiểu được phương tiện nào để mang nguồn cung cấp dồi dào của Đấng Cha Lành đến cho nhu cầu của con cái Ngài, thì còn hay hơn nữa. Một trong những câu châm ngôn về cung và cầu là: Chỉ khi nào mức cung được sử [205] dụng một cách khéo léo cho các nhu cầu của người phụng sự và công việc phụng sự thì nguồn cung cấp ấy mới tiếp tục tuôn tràn vào. (Câu này tôi chọn cẩn thận từng từ). Bí quyết là: sử dụng, yêu cầu, nhận lấy. Chỉ khi nào cánh cửa mở ra do định luật cầu thì một cánh cửa khác cao hơn mới mở ra để cung tuôn vào. Trong luật vạn vật hấp dẫn có ẩn chứa bí mật này. Các bạn hãy suy ngẫm kỹ. |
|
Some remarks on colour. |
Vài nhận xét về màu sắc. |
|
Now we must go to work. The subject for our consideration this evening is of profound and complicated interest. This seventh letter of mine has to do with the use of colour and sound in meditation. |
Trở lại với công việc, tối nay chúng ta phải xét đến vấn đề có ý nghĩa sâu xa và tế nhị, rất đáng quan tâm. Đó là việc sử dụng màu sắc và âm thanh trong tham thiền. |
|
We have, as you know, dealt a good deal with the subject of sound in our earlier letters, both in studying the use of the Sacred Word, and in the study of forms and mantrams. It is a truism to say that sound is colour and colour is sound, yet so it is, and the topic I really seek to bring to your attention is not so much sound as sound, but the colour effects of sound. I seek to emphasise especially the colour aspect in this letter, begging you to remember always that all sounds express themselves in colour. |
Như các bạn biết, chúng ta đã bàn nhiều về vấn đề âm thanh trong những bức thư trước, khi nghiên cứu việc sử dụng Thánh ngữ, các hình thức thiền và những câu thần chú. Khi nói rằng âm thanh là màu sắc và màu sắc là âm thanh, thì đó là sự thực hiển nhiên. Thực vậy, chủ đề tôi muốn các bạn chú ý không phải bàn đến âm thanh với tính cách là âm thanh, mà là các tác dụng của âm thanh về mặt màu sắc. Trong bức thư này, tôi đặc biệt nhấn mạnh đến khía cạnh màu sắc và xin các bạn luôn luôn nhớ rằng tất cả các âm thanh đều tự biểu lộ bằng màu sắc. |
|
When the Logos uttered the great cosmic Word for this solar system, three major streams of colour issued forth, breaking almost simultaneously into another four, so giving us the seven streams of colour by which manifestation becomes possible. These colours are:— |
Khi Thượng Đế phát ra Đại thánh ngữ vũ trụ cho thái dương hệ này thì ba dòng màu sắc chính bừng lên rồi hầu như đồng thời tách ra bốn dòng khác, để thành bảy dòng màu sắc cho vạn vật biểu hiện. Các màu đó là: – |
|
1. Blue. |
1. Xanh (Blue). |
|
2. Indigo. |
2. Chàm (Indigo). |
|
3. Green. |
3. Xanh lục (Green). |
|
4. Yellow. |
4. Vàng (Yellow). |
|
5. Orange. |
5. Vàng cam (Orange). |
|
6. Red. |
6. Đỏ (Red). |
|
7. Violet. [206] |
7. Tím (Violet). [206] |
|
Not unwittingly have I placed them in this order but the exact significance is left for you to discover. |
Không phải tôi vô ý mà đặt các màu sắc theo thứ tự này. Tôi để cho các bạn tự khám phá ra ý nghĩa chính xác. |
|
I want to emphasise a second thought:—These seven streams of colour were the product of logoic meditation. The Logos meditated, brooded, conceived mentally, formed an ideal world, and built it up in thought matter. Then our objective universe flashed into being, radiant with the seven colours, with the deep blue or indigo for synthetic undertone. Therefore certain things can be posited about colour: |
Tôi muốn nhấn mạnh đến ý thứ hai: – Bảy dòng màu sắc này là sản phẩm của cuộc tham thiền của Thượng Đế. Ngài tham thiền, suy ngẫm, nhận thức bằng trí, tạo ra một thế giới lý tưởng và xây dựng nó bằng chất liệu của tư tưởng. Rồi sau đó, vũ trụ khách quan của chúng ta bỗng nhiên xuất hiện, chói lọi trong bảy màu mà màu xanh thẫm hay màu chàm là tông phụ tổng hợp. Vì thế, có thể nói vài điều về màu sắc: – |
|
1. It has to do with objective meditation, therefore it has to do with form. |
1. Màu sắc liên hệ đến tham thiền về thế giới khách quan, vì thế nó liên hệ đến hình thể. |
|
2. It is the result of sound uttered as the culmination of meditation. |
2. Màu sắc là kết quả của âm thanh phát ra ở cao điểm của tham thiền. |
|
3. In these seven colours, and their wise comprehension, lies the capacity of man to do as does the Logos and build. |
3. Nếu hiểu một cách sáng suốt thì bảy màu này có ẩn khả năng của con người có thể làm giống như Thượng Đế và kiến tạo. |
|
4. Colours have certain effects on the different vehicles, and on the planes on which those vehicles function. When it is known by the occultist which colour is applicable to which plane, and which colour therefore is the basic hue for that plane, he has grasped the fundamental secret of microcosmic development, and can build his body of manifestation by means of the same laws that that Logos employed in building His objective solar system. This is the secret that ray meditation will eventually yield up to the wise student. These four points lay the foundation for all that follows. |
4. Màu sắc có những ảnh hưởng nhất định trên các thể khác nhau, và trên các cõi mà những thể này hoạt động. Nếu huyền bí gia hiểu được màu nào áp dụng cho cõi nào, và đâu là màu cơ bản của cõi đó, thì y đã nắm được bí mật nền tảng trong sự phát triển của tiểu vũ trụ. Y có thể tạo ra thể biểu hiện của mình nhờ chính các định luật mà Thượng Đế dùng để tạo ra thái dương hệ khách quan của Ngài. Đây là bí mật mà rốt cuộc sự tham thiền về các cung sẽ tiết lộ cho người môn sinh sáng suốt. Bốn điểm này làm nền tảng cho những điều tôi sẽ nói đến sau đây. |
|
I would here seek to put your mind at rest on the point as to whether the colours enumerated by me conflict with those enumerated by H. P. B. You will not find they [207] do, but both of us use blinds, and both of us use the same blinds as those who have eyes can see. A blind is not a blind when recognised, and I offer not the key. One or two hints however I may give:— |
Các bạn không nên thắc mắc rằng những màu tôi vừa kể có gì tương phản với các màu H. P. B. đã kể hay không. [207] Các bạn sẽ thấy chúng không hề trái ngược nhau, nhưng cả hai chúng tôi đều dùng những màn che, và đều dùng những loại màn che mà người có mắt sẽ có thể thấy được. Một màn che không còn che án khi ta nhận thức được nó, và vì thế tôi không đưa ra chìa khóa ở đây. Tuy nhiên, tôi có thể đưa ra một vài ngụ ý: – |
|
Complementary colours may be spoken of in occult books in terms of each other. Red may be called green and orange may be called blue. The key to the accurate interpretation of the term employed lies in the point of attainment of the unit under discussion. If speaking of the Ego one term may be used; if of the Personality, another; whilst the Monad or higher auric sphere may be described synthetically or in terms of the monadic ray. |
Trong các sách huyền môn, những màu bổ túc có thể được gọi bằng tên của nhau. Màu đỏ có thể gọi là xanh lục và vàng cam có thể gọi là xanh. Chìa khóa để giải thích chính xác các thuật ngữ dùng ở đây đều tùy theo cấp độ của đơn vị đang được bàn đến. Nếu nói về Chân nhân ta có thể dùng từ này thì nói về Phàm nhân ta có thể dùng một từ khác. Trong khi đó Chân thần hay bầu hào quang cao hơn có thể được mô tả một cách tổng hợp hay trong phạm vi của cung Chân thần. |
|
The colours of higher or lower mind are at times spoken of in terms of the plane and not in terms of the ray involved. |
Những màu của thượng và hạ trí đôi khi được nói đến trong phạm vi của cảnh giới chứ không theo phạm vi của cung liên hệ. |
|
Blue-indigo, being cosmically related, and not simply analogous, may be used interchangeably for purposes of blinding. Let me illustrate:— |
Màu xanh-chàm, có liên quan với nhau ở cấp vũ trụ, không những chỉ tương đồng mà có thể được dùng thay cho nhau với mục đích che giấu. Tôi xin nói rõ hơn: – |
|
The Lords of the Flame, in their work in connection with this planet, may be spoken of in terms of four colours:— |
Trong công tác của các Hỏa Tinh quân kết hợp với hành tinh này người ta có thể nói đến các Ngài trong phạm vi bốn màu: – |
|
a. Indigo, as They are in the line of the Bodhisattva in connection with the Love or Wisdom Ray. The Lord of the World is a direct reflection of the second Aspect. |
a. Màu chàm, vì các Ngài cùng đường lối với Đức Bồ-tát, kết hợp với Cung Bác ái hay Minh triết. Đức Chúa tể Hoàn cầu là phản ánh trực tiếp của Ngôi hai. |
|
b. Blue, because of its alliance with indigo and its relationship to the auric egg; just as the Solar Logos is spoken of as the “Blue Logos” (literally indigo), so the colour of the perfected man, and of the auric envelope through which he manifests, will be predominantly blue. |
b. Màu xanh, vì màu này kết hợp với màu chàm và có quan hệ với noãn hào quang. Giống như Đức Thái Dương Thượng Đế được gọi là “Đức Thượng Đế màu Xanh” (đúng ra là màu chàm), màu của người hoàn thiện và của hào quang qua đó y biểu hiện cũng chính yếu là màu xanh. |
|
c. Orange, which is the complementary to blue and which has direct connection with man as an intelligence. He is the custodian of the fifth principle [208] of manas in its relation to the totality of the personality. |
c. Màu vàng cam, bổ túc cho màu xanh và liên quan trực tiếp đến người có trí thông minh. Y là kẻ nắm giữ [208] nguyên khí thứ năm (manas) trong quan hệ với toàn thể phàm ngã. |
|
d. Yellow, being the complement of indigo, and also the colour of buddhi, and on the direct line of the second Aspect. |
d. Màu vàng, là màu bổ túc cho màu chàm, cũng là màu của bồ-đề và trên đường lối trực tiếp của Ngôi hai. |
|
I give the above illustration to demonstrate to you the great complexity involved by the use of blinds, yet also to show you that for those who have the seeing eye even the choice of these blinds is not arbitrary, but subject to rule and law. |
Tôi minh giải các điều trên để chứng tỏ cho các bạn thấy tính phức tạp của việc sử dụng các màn che. Ngoài ra, đối với những người có mắt thấy được thì ngay cả việc chọn lựa các màn che này cũng không tùy ý kiến cá nhân mà phải theo qui luật. |
|
It is therefore obvious to you why it is so often emphasised that in dealing with esoteric matters lower manas helps not. Only he who has the higher vision in process of development can hope to attain any measure of accurate discrimination. Just as the green of the activity of Nature forms the basis of the love aspect, or the indigo vibration of this love system, so will it be found upon the mental plane. More may not be said, but food for thought lies here. Orange also holds the secret for the Sons of Mind, and in the study of flame (which even exoterically blends all the colours) comes illumination. |
Thế nên các bạn thấy rõ tại sao người ta thường nhấn mạnh rằng khi bàn về các vấn đề nội môn thì hạ trí không giúp ích được gì cả. Chỉ người nào có nhãn quan cao đang phát triển mới hy vọng đạt được một mức độ phân biệt chính xác nào đó. Vì màu xanh lục trong hoạt động của Thiên nhiên là căn bản của phương diện bác ái, hay rung động màu chàm của thái dương hệ bác ái này, nên điều đó cũng có trên cõi trí. Tôi không được nói gì thêm mà ở đây chỉ đưa ra đề tài cho các bạn suy ngẫm. Màu vàng cam cũng giữ bí mật của các Chân ngã (Con của Trí tuệ), và khi nghiên cứu về ngọn lửa (ngay ở cấp ngoại môn nó cũng hòa hợp tất cả các màu) các bạn sẽ được soi sáng thêm. |
|
In studying this question of colour and sound in meditation how best shall we divide our vast subject? Let us consider it under the following heads: |
Khi nghiên cứu về vấn đề màu sắc và âm thanh trong tham thiền, chúng ta hãy chia chủ đề rộng lớn này theo cách nào hợp lý nhất và xem xét vấn đề theo các mục sau đây: – |
|
1. Enumeration of the colours and certain comment thereon. |
1. Kể ra các màu với vài nhận xét. |
|
2. Colours and the Law of Correspondences. |
2. Màu sắc và Luật Tương ứng. |
|
3. The effects of colours:— |
3. Hiệu quả của màu sắc: – |
|
a. On the bodies of the pupil. |
a. Đối với các thể của người môn sinh. |
|
b. On groups and on group work. |
b. Đối với các nhóm và công tác tập thể. |
|
c. On the environment. |
c. Đối với môi trường chung quanh. |
|
4. The application of colour:— |
4. Ứng dụng của màu sắc: – |
|
a. In meditation. [209] |
a. Trong tham thiền. [209] |
|
b. For healing in meditation. |
b. Để chữa bệnh qua tham thiền. |
|
c. In constructive work. |
c. Trong công tác xây dựng. |
|
5. The future use of colour. |
5. Công dụng của màu sắc trong tương lai. |
|
Under these five heads we should be able to sum up all that has to be said at present. Perhaps little that I may say will be fundamentally new, for I give not aught which may not he found in that foundation book of H. P. B.’s. But in a newer presentation, and in the aggregation of material under one head may come enlightenment, and a further wise adjustment of knowledge. We will take up these five divisions later. Tonight I will only add a few further points to those already given. |
Theo năm đề mục này chúng ta có thể tóm lược tất cả những điều cần nói hiện nay. Có lẽ các bạn sẽ thấy trong cơ bản những điều tôi nói cũng chẳng mới bao nhiêu, vì tôi không đưa ra điều nào ngoài những gì đã nói trong tác phẩm nền tảng của H. P. B.. Tuy nhiên, với cách trình bày mới mẻ hơn và việc tập hợp tài liệu theo một đề mục, các bạn có thể được khai ngộ với kiến thức được chỉnh đốn tốt hơn. Chúng ta sẽ bàn về năm phần này sau. Tối nay tôi chỉ thêm vài điểm vào những điều đã nói. |
|
Colours as manifested on the physical plane show at their crudest and harshest. Even the most exquisite of shades as seen by the physical eye is hard and harsh compared to those on the emotional plane, and as the finer matter of the other planes is contacted, the beauty, the softness and the exquisite quality of the different hues grow with each transition. When the ultimate and synthetic colour is reached the beauty transcends all conception. |
Các màu sắc biểu hiện ở cõi hồng trần thuộc cấp độ thô kệch nhất. Ngay cả những màu tinh tế nhất mà mắt thường có thể thấy được (ở cõi hồng trần) cũng cứng nhắc và thô sơ so với các màu sắc biểu lộ trên cõi tình cảm. Khi tiếp xúc với vật chất thanh bai hơn ở các cảnh giới khác, thì cứ mỗi lần chuyển tiếp, vẻ mỹ lệ, dịu dàng và phẩm tính tuyệt mỹ của các màu sắc khác nhau lại càng tăng. Khi đạt đến màu tổng hợp tối thượng thì sự mỹ lệ vượt cao hơn mọi quan niệm của con người. |
|
Colours—such as we have now to do with in evolution—are the colours of light. Certain colours, which are the left-overs from the previous solar system, have been seized upon as modes of expression by that mysterious something which we call “cosmic evil” (in our ignorance so we term it). They are involutionary colours, and are media for the force of the Dark Brotherhood. With them the aspirant to the Path of Light has naught to do. They are such hues as brown, grey, the loathsome purple, and the lurid greens that are contacted in the dark places of the earth, on the emotional plane, and on the lower level of the mental plane. They are negations. Their tone is lower than the note of Nature. They are the offspring [210] of night, esoterically understood. They are the basis of glamour, of despair, and of corruption, and must be neutralised by the pupil of the Great Ones by the admission of the colours connected with light. |
Những màu sắc mà hiện chúng ta đang dùng trong cuộc tiến hóa của mình đều là các màu sắc của ánh sáng. Có một số màu là những gì còn sót lại của thái dương hệ trước, và đã bị chiếm lấy để dùng làm phương thức biểu lộ của sự bí mật mà vì thiếu hiểu biết nên chúng ta gọi là “điều ác vũ trụ.” Đó là những màu sắc thoái hoá, và là trung gian của mãnh lực Bàng môn. Người chí nguyện trên Con đường Ánh sáng không sử dụng các màu này. Đó là màu nâu, xám, màu tím bầm và màu xanh lục quái đản, có thể tìm thấy trong những nơi tối tăm của quả đất, trên cõi cảm dục và trên các cấp thấp của cõi trí. Đó là các màu tiêu cực. Âm điệu của chúng thấp độ hơn âm điệu của Thiên nhiên. Hiểu theo nghĩa nội môn thì [210] các màu đó là con cháu của bóng đêm. Chúng là căn bản của ảo cảm, của sự thất vọng, đồi trụy. Đệ tử của các Đấng Cao cả phải vô hiệu hoá chúng bằng cách chiếu rọi vào đó các màu sắc của ánh sáng. |
|
6. The synthesis of all the colours, as aforesaid, is the synthetic ray of indigo. This underlies all and absorbs all. But in the three worlds of human evolution the orange of flame irradiates all. This orange emanates from the fifth plane, underlies the fifth principle, and is the effect produced by the esoteric sounding of the occult words “Our God is a consuming Fire.” These words apply to the manasic principle, that fire of intelligence or reason which the Lords of the Flame imparted, and which stimulates and guides the life of the active personality. It is that light of reason which guides a man through the Hall of Learning on into the Hall of Wisdom. In the latter hall its limitations are discovered, and that structure which knowledge has built (the causal body or the Temple of Solomon) is itself destroyed by the consuming fire. This fire consumes the gorgeous prison house which man has erected through many incarnations, and lets loose the inner light divine. Then the two fires merge, mount upwards and are lost in the Triadal Light. |
6. Như đã nói trước đây, tổng hợp của tất cả các màu là cung tổng hợp màu chàm. Màu này ẩn trong tất cả, và hấp thu tất cả các màu khác. Nhưng trong ba cõi tiến hóa của con người, thì màu vàng cam của ngọn lửa soi rọi tất cả. Màu vàng cam này phát ra từ cõi thứ năm, ẩn trong nguyên khí thứ năm, và là hiệu quả của việc xướng lên câu chân ngôn huyền bí “Thượng Đế của chúng ta là Lửa đang thiêu hủy.” Các từ này áp dụng cho nguyên khí manas là lửa của sự thông tuệ hay lý trí mà các Hỏa Tinh quân đã truyền đạt. Nó kích thích và hướng dẫn cuộc sống của phàm nhân đang hoạt động. Đó là ánh sáng của lý trí dẫn dắt con người từ Phòng Học tập đến Phòng Minh triết. Ở phòng sau, các giới hạn của nó bị khám phá, và chính cái cấu trúc mà kiến thức đã xây dựng (là thể nguyên nhân hay là Ngôi đền của Vua Solomon) bị lửa thiêu hủy. Lửa này thiêu hủy cái nhà tù kỳ diệu mà con người đã xây dựng bao đời để giải phóng ánh sáng thiêng liêng bên trong. Bấy giờ hai loại lửa hợp nhất, cùng vươn lên cao và mất hút trong Ánh sáng của Tam nguyên. |
|
Certain colours belong more exclusively to the human Hierarchy, others to the deva. In their ultimate blending and intermingling comes eventual perfection…. |
Một số màu sắc đặc biệt thuộc về trường tiến hóa nhân loại; có những màu khác thuộc về giới thiên thần. Sự pha trộn và hòa hợp cuối cùng của các màu đó, rốt cuộc sẽ mang lại sự hoàn thiện…. |
|
AUGUST 29TH, 1920. |
Ngày 29-8-1920. |
|
1. Kể ra các màu sắc. |
|
|
Tonight we must continue our study on colour and take up our first point. |
Tối nay, chúng ta đề cập đến điểm cần nghiên cứu đầu tiên về màu sắc. |
|
In doing this I will make certain comments and give you certain data, impressing upon you nevertheless again the fact that I use the exoteric terms, and that the discussion [211] is but for suggestive purposes. The very use of the word “Colour” shews the intention, for, as you know, the definition of the word conveys the idea of concealment. Colour is therefore “that which does conceal.” It is simply the objective medium by means of which the inner force transmits itself; it is the reflection upon matter of the type of influence that is emanating from the Logos, and which has penetrated to the densest part of His solar system. We recognise it as colour. The adept knows it as differentiated force, and the initiate of the higher degrees knows it as ultimate light, undifferentiated and undivided. |
Tôi sẽ đưa ra một vài nhận xét và trao cho các bạn một số dữ liệu, nhưng một lần nữa xin các bạn nhớ rằng tôi đang dùng các từ ngữ ngoại môn, và việc bàn thảo này chỉ có tính [211] cách gợi ý mà thôi. Chính việc sử dụng từ “Màu sắc” cũng cho thấy ý định này, bởi vì như các bạn đều rõ định nghĩa của từ này nói lên ý tưởng che giấu. Vì thế, màu sắc là “cái che giấu.” Nó chỉ là trung gian khách quan để nhờ đó mà sức mạnh bên trong tự truyền ra. Đó là sự phản ánh trên vật chất, loại ảnh hưởng phát xuất từ Thượng Đế và đã xuyên thấu đến phần trọng trược nhất trong thái dương hệ của Ngài. Chúng ta nhận biết được điều đó với tính cách là màu sắc. Vị Chân sư biết rằng đó là mãnh lực đã phân hóa, còn vị điểm đạo đồ cao cấp hơn thì biết đó là ánh sáng tối hậu, không bị phân hóa và phân chia. |
|
We enumerated the colours yesterday and in a certain order. I seek again to enumerate them thus, only this time reminding you that the one Ray of which all the others are but sub-rays, might be regarded as a circle of sevenfold light. Too apt is the student to picture seven bands, striking down athwart the five lower planes till they contact the earth plane and are absorbed into dense matter. Not so is it in fact. The seven colours may be regarded as a band of seven colours circling and continuously shifting and moving through the planes back to their originating source……These seven bands of colour emanate from the synthetic Ray. The indigo sub-ray of the indigo Ray forms the path of least resistance from the heart of densest matter back again to the source. The bands of colour form a circulating ring which, moving at different rates of vibration, passes through all the planes, circling down and up again. What I seek to bring out specially here is that these seven bands do not all move at the same rate, and herein lies hid the key to the complexity of the matter. Some move at a swifter rate of vibration than do some of the others. Hence—as they carry their corresponding monads with them—you have here [212] the answer to the question as to why some egos seem to make more rapid progress than do some others. |
Hôm qua, chúng ta đã kể ra các màu sắc theo một thứ tự nào đó. Tôi sẽ kể lại theo thứ tự đó, nhưng lần này để nhắc các bạn nhớ rằng Cung duy nhất mà tất cả các cung khác chỉ là cung phụ, có thể được xem là một vòng ánh sáng bảy màu. Các môn sinh quá thường hình dung bảy dải màu vạch xuống, xuyên qua năm cõi thấp cho đến khi chúng chạm đến cõi trần và bị hấp thu vào vật chất trọng trược. Sự thực không phải vậy. Bảy màu này được xem như một dải gồm bảy màu xoay tròn, di chuyển liên tục qua các cảnh giới để trở về nguồn xuất phát của chúng. . . . . . Bảy dải màu này phát ra từ Cung tổng hợp. Cung phụ màu chàm của Cung chính màu chàm là con đường ít trở ngại nhất để đi từ tâm của vật chất trọng trược nhất trở về nguồn. Các dải màu này hợp thành một vòng tuần hoàn, chuyển động theo các nhịp rung động khác nhau, đi xuyên qua các cõi và cứ thế mà lên xuống mãi. Điều tôi muốn đặc biệt nêu ra ở đây là bảy dải màu này không chuyển động theo cùng một tốc độ, và đây là điểm then chốt giải thích tính phức tạp của vấn đề. Một vài màu di chuyển với nhịp rung động mau hơn một số màu khác. Vì thế, khi chúng mang theo các Chân thần tương ứng [212] của chúng thì đó là lý do tại sao một số Chân nhân dường như tiến bộ nhanh hơn một số Chân nhân khác. |
|
These coloured rings do not follow a straight unimpeded course, but interweave in a most curious manner, blending with each other, absorbing each other in stated cycles, and grouping themselves in groups of threes or fives, yet ever moving onwards. This is the real foundation to the diamond pattern upon the back of the serpent of wisdom. Three major lines of colour should be portrayed as forming the lattice work on the serpent’s skin, with the four other colours interweaving. Some day some student of colour and of the Divine Wisdom should compile a large chart of the seven planes, and superimposed upon those planes should be placed a seven-coloured serpent of wisdom. If correctly drawn to scale some interesting geometrical patterns will be found as the circles cut across the planes, and some impression will be conveyed occularly of the complexity of the matter of the seven rays…… |
Các vòng nhuộm màu này không đi theo một con đường thẳng thông suốt, mà đan vào nhau một cách thật kỳ lạ. Chúng pha trộn với nhau, hấp thu lẫn nhau trong những chu kỳ đã định sẵn, tự hợp thành những nhóm ba hay nhóm năm, mà vẫn tiến tới mãi. Đây là cơ sở thực tế của mô hình đan chéo trên lưng con rắn minh triết. Ba đường màu sắc chính có thể xem như hình lưới mắt cáo ở trên da rắn, với bốn màu kia đan vào. Một ngày kia người môn sinh nghiên cứu về màu sắc và khoa Minh triết Thiêng liêng sẽ có thể biên soạn một biểu đồ lớn về bảy cảnh giới và con rắn minh triết bảy màu sẽ được đặt lên bảy cảnh giới đó. Nếu vẽ đúng tỉ lệ, ta sẽ thấy được nhiều kiểu sắp xếp hình học rất thú vị, khi những vòng tròn cắt ngang những mặt phẳng, và truyền đến thị giác một ấn tượng nào đó về tính phức tạp của vấn đề bảy cung . . . |
|
Certain brief statements seem to be in place:— |
Có lẽ thích hợp để nói ra đôi điều vắn tắt ở đây: – |
|
The true indigo is the blue of the vault of heaven on a moonless night. It is the culmination, and at the attainment by all of synthesis, the solar night will supervene. Hence the colour corresponds to what the sky nightly proclaims. Indigo absorbs. |
Màu chàm đích thực là màu xanh của bầu trời trong một đêm không trăng. Nó là màu tột đỉnh, và khi tất cả mọi sự tổng hợp đã đạt được thì đêm thái dương sẽ đến. Vì thế, màu này tương ứng với những gì bầu trời ban đêm biểu lộ. Màu chàm có tính hấp thu. |
|
Green is the basis of the activity of Nature. It was the synthetic colour for system 1, and is the foundation for the present manifested system. The note of Nature is green, and each time a man reviews the robe in which the earth is clad he is contacting some of the force that reached its consummation in system 1. Green stimulates and heals. |
Màu xanh lục là căn bản cho sự hoạt động của thiên nhiên. Đây là màu tổng hợp của thái dương hệ 1, và là nền tảng của thái dương hệ được biểu lộ hiện tại. Âm điệu của Thiên nhiên là màu xanh lục. Mỗi khi con người xem xét lớp áo trái đất đang mặc, là y tiếp xúc với một phần mãnh lực đã đến mức hoàn mãn trong thái dương hệ 1. Màu xanh lục có tính kích thích và chữa bệnh. |
|
I seek to call your attention here to the fact that it is not yet permissible to give out the esoteric significance of [213] these colours, nor exact information as to their order and application. The dangers are too great, for in the right understanding of the laws of colour and in the knowledge (for instance) of which colour stands for a particular ray lies the power the adept wields. |
Ở đây cần lưu ý các bạn là chúng tôi chưa được phép tiết lộ ý nghĩa huyền bí của các màu này hoặc là nói chính xác về [213] thứ tự và ứng dụng của chúng. Những mối nguy hiểm quá lớn, vì trong sự thấu hiểu các định luật của màu sắc và trong kiến thức (ví dụ như) về màu nào là tượng trưng cho cung nào, có ẩn chứa quyền năng mà Chân sư vận dụng. |
|
Comments on the colours. |
Vài nhận xét về màu sắc. |
|
Certain colours are known and it might be well if we here enumerated them. The synthetic ray is indigo, or a deep hue. It is the Ray of Love and Wisdom, the great fundamental ray of this present solar system, and is one of the cosmic rays. This cosmic ray divides itself, for purposes of manifestation, into seven sub-rays, as follows: |
Chúng ta đã biết một số màu, và kể lại ở đây cũng tốt. Cung tổng hợp là màu chàm, hay là màu xanh thẫm. Đó là cung của Bác ái và Minh triết là cung nền tảng vĩ đại của thái dương hệ này, và là một trong các cung vũ trụ. Vũ trụ cung này, khi biểu hiện sẽ tự chia ra thành bảy cung phụ như sau: |
|
1. Indigo……………and a colour not disclosed. |
1. Màu chàm . . . . . . . . . .và một màu chưa được tiết lộ. |
|
2. Indigo-indigo…The second sub-ray of Love and Wisdom. It finds its great expression on the second monadic plane, and its major manifestation in the monads of love. |
2. Màu chàm-chàm . . . Cung phụ thứ hai Bác ái và Minh triết. Biểu lộ rõ rệt ở cõi đại niết-bàn (cõi của Chân thần), với biểu hiện chính là những Chân thần bác ái. |
|
3. Indigo-green…….The third sub-ray, the third major Ray of Activity or Adaptability. It is the basic ray of the second system. It is the great ray for the deva evolution. |
3. Màu chàm-xanh lục. . . . . . . Cung phụ thứ ba, Cung chánh thứ ba Hoạt động hay Thích nghi, là cung cơ bản của thái dương hệ thứ hai này. Đó là cung lớn của trường tiến hóa thiên thần. |
|
4. Indigo-yellow……………The Harmony Ray. |
4. Màu chàm-vàng. . . . . . . . . . . . . . . . Cung Điều hòa. |
|
5. Indigo-orange..The Ray of Concrete Knowledge. |
5. Màu chàm-vàng cam. . . . . . Cung Kiến thức Cụ thể. |
|
6. Indigo…and a colour not disclosed. The Ray of Devotion. |
6. Màu chàm. . . và một màu chưa được tiết lộ. Cung Sùng tín. |
|
7. Indigo-violet…..The Ray of Ceremonial Order. |
7. Màu chàm-tím. . . . . . . . . . . . Cung Trật tự Nghi lễ. |
|
Now you will note that I do not name the two colours, indigo-red and indigo-blue, nor do I apportion them to [214] certain rays or planes. It is not that it is not possible to do so, but it is the withholding of this information that creates the puzzle. Certain things you must always remember in dealing with these colours: |
Các bạn lưu ý là tôi không kể ra hai màu, chàm-đỏ và chàm-xanh, hoặc xếp chúng vào cung nào hoặc cõi nào. Không [214] phải là không thể nói được, nhưng tôi giữ lại chi tiết này để làm câu đố. Có một số điểm mà khi nói về màu sắc các bạn phải luôn luôn nhớ là: |
|
That I have given their exoteric names and application, and that of all I have given only two correspond with their esoteric application,—indigo and green. The Synthetic Ray and the Activity Ray are at this stage the only two of which you can be absolutely assured. One is the goal of endeavour, and the other is the foundation colour of Nature. |
Tôi đã cho các tên màu sắc này và ứng dụng của chúng về mặt ngoại môn, và trong đó chỉ có hai màu (chàm và xanh lục) là tương ứng với áp dụng nội môn của chúng. Cung Tổng hợp và Cung Hoạt động, ở giai đoạn này, là hai cung mà các bạn có thể hoàn toàn biết chắc. Một màu là mục tiêu của nỗ lực, còn màu kia là màu sắc nền tảng của Thiên nhiên. |
|
That the other five colours with which our fivefold evolution is concerned, change, intermingle, blend, and are not esoterically understood in the same sense as you might imagine from the use of the words, red, yellow, orange, blue and violet. Esoterically they scarcely resemble their names, and the names themselves are intended to blind and mislead. |
Năm màu kia có liên quan đến cuộc tiến hóa năm giai đoạn của chúng ta, thì thay đổi, pha trộn, hòa hợp cùng nhau. Về mặt nội môn chúng không giống như nghĩa mà các bạn có thể tưởng tượng ra khi dùng các từ đỏ, vàng, vàng cam, xanh và tím. Về mặt nội môn chúng không giống chút nào với các tên gọi này, và chính các tên gọi này cũng nhằm đánh lạc hướng và để che giấu. |
|
That each of these three colours and the other two are only understood as yet through four of their lesser sub-rays. This is the fourth round and only four sub-rays of these colours have as yet been glimpsed. By remembering these three points undue emphasis will not be laid upon apparent information, and the student will wisely reserve his opinion. |
Mỗi một trong ba màu này và hai màu kia, cho đến nay vẫn chỉ được hiểu qua bốn cung phụ của chúng. Đây là cuộc tuần hoàn thứ tư, và cho đến nay chỉ có bốn cung phụ của các màu này là được hiểu thoáng qua. Khi nhớ ba điểm này các bạn sẽ khỏi phải chú trọng không nhằm lối vào sự hiểu biết ở bề ngoài, và người môn sinh khôn ngoan tránh đưa ra ý kiến khi vấn đề chưa sáng tỏ. |
|
Yellow is another of the colours that have come to us from system 1. The blending of blue and of yellow in that system had much to do with the production of activity. Yellow harmonises, it marks completion and fruition. Note how in autumn, when the processes of Nature have run their course and the cycle is complete, the yellow of the autumn is spread upon the landscape. Note also that when the sun pours unimpeded down the yellow of the harvest is also to be seen. So it is in the [215] life of the spirit. When the fourth plane of harmony or of buddhi is achieved, then is consummation. When the work of the personality is completed, and when the sun of the microcosm, the Ego, pours unimpeded down into the personal life, then comes fruition and harvest. The at-one-ment, or the harmonising has been made, and the goal has been reached. Blue and yellow blended result in green, and the synthetic blue or indigo (the love and wisdom aspect) dominates when the plane of harmony is reached. It leads then to the third plane of atma whereon the green of activity predominates…… |
Màu vàng là một màu khác nữa đã đến với chúng ta từ thái dương hệ 1. Sự hoà lẫn màu xanh và màu vàng trong hệ thống đó đã giúp nhiều vào việc làm phát sinh hoạt động. Màu vàng tạo sự điều hòa, nó đánh dấu mức hoàn thành và kết quả. Các bạn hãy để ý trong mùa thu, khi các tiến trình của Thiên nhiên đã xong và chu kỳ hoàn tất, thì bằng cách nào mà màu vàng của mùa thu trải rộng ra bao trùm cảnh vật. Cũng nên lưu ý rằng khi ánh nắng mặt trời thong dong tỏa xuống ta cũng thấy màu vàng của mùa gặt hái. Cuộc sống [215] tinh thần cũng vậy. Khi cõi thứ tư của điều hòa hay cảnh giới bồ-đề đã đạt được thì đó là lúc hoàn thành viên mãn. Khi công việc của phàm nhân đã hoàn tất, và khi mặt trời của tiểu vũ trụ, là Chân nhân, chiếu xuống đời sống cá nhân một cách dễ dàng, thì thành quả và mùa gặt hái đến. Khi tạo được sự điều hòa hay nhất quán là đã đạt mục tiêu. Màu xanh và vàng hòa nhau thành xanh lục, và màu xanh tổng hợp hay màu chàm (trạng thái bác ái và minh triết) sẽ ngự trị khi đạt đến cảnh giới điều hòa. Bấy giờ sẽ đưa đến cảnh giới thứ ba của atma, nơi màu xanh lục của hoạt động chiếm ưu thế. . . . . . |
|
AUGUST 31ST, 1920. |
Ngày 31-8-1920. |
|
In continuing our study of colour and meditation, and our particular division in that study, I would—for your encouragement—point out that the part that falls to you is the reception and publication of these letters and of the imparted data, whereas the responsibility for that data rests with me. Even if you understand them not, and even if it seems to you that some of the data may be contradictory, I would suggest for your consideration that in the esoteric interpretation lies hid half the mystery, and the other half is concealed by the fact that all interpretation depends upon the standpoint of the interpreter, and the plane whereon his consciousness is working. The value of what I impart now consists in this:—that in the study of colour (which is one form of the study of vibration) comes the ability to understand personal vibration, to attune that vibration to the egoic one, and to synchronise it later with that of the Master. One of the main methods of effecting this synchronisation is meditation. When the intelligence grasps the scientific facts anent this subject, then comes the utilisation of these facts for the advancement of vibration, and the wise development of the colours necessitated. [216] |
Tiếp tục nghiên cứu về màu sắc và tham thiền, và phần đặc biệt trong nghiên cứu này, để khích lệ các bạn, tôi xin nói rằng việc nhận và ấn hành các bức thư này là phần các bạn, còn tôi thì chịu trách nhiệm truyền đạt dữ liệu. Dù cho các bạn không hiểu được chúng, hoặc thậm chí một số dữ liệu có vẻ mâu thuẫn, các bạn nên hiểu rằng trong cách lý giải nội môn này có chứa một nửa bí nhiệm. Phân nửa còn lại bị che giấu vì sự thực là toàn bộ việc giải thích đều tùy lập trường của người lý giải và tùy theo cõi mà tâm thức y đang hoạt động. Giá trị của những gì hiện nay tôi trao truyền đều gồm trong điểm này: – khi nghiên cứu màu sắc (là một hình thức nghiên cứu sự rung động) các bạn sẽ có khả năng hiểu được rung động của phàm ngã, biết hòa hợp sự rung động này với sự rung động của Chân nhân, và sau đó làm cho nó đồng bộ với sự rung động của Chân sư. Một trong những phương pháp chính để tạo sự đồng bộ này là tham thiền. Khi trí thông tuệ thấu hiểu được các sự kiện khoa học về vấn đề này thì mới sử dụng được các sự kiện ấy để gia tăng sự rung động, và phát triển được các màu cần thiết một cách khôn ngoan. |
|
We dealt in my last letter with the four colours—blue, indigo, green, and yellow,—and in this primary grouping lies much of interest. We now come to a different group of colours, and one that falls naturally together, orange, red, and violet. |
[216] Trong bức thư vừa qua, tôi có đề cập đến bốn màu – xanh, chàm, xanh lục, và vàng, – và trong cách phân nhóm đầu tiên này có nhiều điều thú vị. Bây giờ chúng ta sang nhóm màu khác, tự nhiên cùng đi với nhau, là vàng cam, đỏ, và tím. |
|
Orange. This colour is for our purpose the colour of the mental plane, the colour that marks burning; it is the symbol of flame, and curiously enough the colour that epitomises separation. But I would have you note that the occult orange is not exactly the colour that you understand by the term. Exoteric orange is a blend of yellow and red; esoteric orange is a purer yellow, and the red scarcely is seen at all. This orange comes in as a vibration set up by a cosmic ray, for you have to remember that this fifth ray (just as the fifth plane and the fifth principle) is closely allied to the cosmic ray of the intelligence, or to that activity aspect that found its great expression in the first solar system. The synthetic ray of that time was the green ray, and it found one of its closest alliances in the ray of orange, or mind or intelligence demonstrating through form. You get a correspondence in this solar system in the synthetic Ray of Love and Wisdom, and its close relationship to the fourth Ray of Harmony. It finds a demonstration in the triangle formed by their interaction, as follows: [217] |
Vàng cam. Đối với mục đích của chúng ta thì đây là màu của cõi trí, là màu đánh dấu sự cháy. Nó là biểu tượng của ngọn lửa, và hơi lạ là màu này cũng tiêu biểu cho sự phân cách. Nhưng cần lưu ý rằng màu vàng cam huyền bí không phải chính xác là màu các bạn hiểu theo từ ngữ này. Màu vàng cam ngoại môn là màu pha trộn của vàng và đỏ. Màu vàng cam huyền bí là màu vàng tinh khiết hơn và hầu như không thấy màu đỏ trong đó. Màu vàng cam này là sự rung động phát ra từ một cung vũ trụ và đến với chúng ta. Các bạn nên nhớ rằng cung thứ năm (cũng như cõi thứ năm và nguyên khí thứ năm) vốn liên kết chặt chẽ với cung thông tuệ của vũ trụ, hay với trạng thái hoạt động là sự biểu lộ vĩ đại trong thái dương hệ thứ nhất. Cung tổng hợp vào thời đó là cung màu xanh lục, liên kết rất mật thiết với cung màu vàng cam, hay trí tuệ hoặc thông tuệ biểu lộ qua hình thể. Ở thái dương hệ này, chúng ta có sự tương ứng trong cung tổng hợp Bác ái và Minh triết, cùng sự liên quan mật thiết của nó với Cung thứ tư là Cung Điều hòa. Mối quan hệ này phát biểu trong tam giác hình thành do sự tương tác của chúng như sau: – |
FIRST SOLAR SYSTEM
Green Ray
|
Third sub-ray |
Fifth sub-ray |
|
|
Activity |
Manas, mind |
|
|
Green-green |
Green-orange |
Third Aspect
Activity or Intelligence
SECOND SOLAR SYSTEM
Indigo Ray
|
Second sub-ray |
Fourth sub-ray |
|
|
Love and Wisdom |
Harmony |
|
|
Indigo-indigo |
Indigo-yellow |
Second Aspect
Love and Wisdom
|
[218] In the activity system you have the third aspect of universal mind or activity, demonstrating through the orange of the concrete sub-ray……adaptability through form—form which perfectly expresses that latent activity. Similarly in the second system of love, you have the love aspect demonstrating through the yellow of the ray of harmony or beauty—love expressing itself perfectly through unity, harmony or beauty. Note here the fact that I again use terms that are dependent for their correctness upon their exoteric or esoteric interpretation. |
|
|
Therefore to return to what I earlier said, this orange comes in as a vibration set up by the earlier cosmic ray of activity in the earlier solar system; the force of orange (which is scientific apprehension by the intelligence) comes in to perfect the link between spirit and form, between life and the vehicles through which it is seeking expression. |
|
1.Life Aspect |
2. Form Aspect |
3. Intelligence Aspect |
|
Spirit |
Matter |
Mind |
|
Consciousness |
Vehicle |
Vitality |
|
Self |
Not-Self |
Relation between |
|
Ray |
Ray |
Ray |
|
2. Love and Wisdom |
1. Power or Will |
3. Activity or Adaptability |
|
4. Harmony |
7. Ceremonial Law |
5. Concrete Knowledge |
|
6. Devotion |
5. Concrete Knowledge |
We might apportion the great basic colours between the various terms that we use to express the totality of the manifested universe:
|
[219] This is but one of the ways in which the rays may be apportioned and considered as influences having direct effect upon the evolving life, or upon the form in which it evolves by means of that third factor, the intelligence. These three divisions make the three points of a cosmic triangle:— |
[219] Đây chỉ là một trong những cách phân bố các cung và xem các cung là những ảnh hưởng tác động trực tiếp vào cuộc sống đang tiến hoá hay trên hình thể mà sự sống tiến hóa trong đó, nhờ yếu tố thứ ba là sự thông tuệ. Ba phần này tạo thành ba đỉnh của một tam giác vũ trụ: – |
—
|
and the current of the rays playing macrocosmically between the three has its microcosmic correspondence in the fire of kundalini (awakened through meditation) playing in accurate geometrical form between the three major centres:— |
—
|
All the seven rays interact between the life, the form and the inner mind, and are in their essence themselves those three. They are life, they are form, they are intelligence, and their totality is the manifested universe. All seven at different times play on the different aspects. [220] |
Tất cả bảy cung đều tương tác giữa sự sống, hình thể và trí tuệ nội tại, và cốt yếu chính là ba trạng thái này. Chúng là sự sống, chúng là sắc tướng, chúng là sự thông tuệ, và tổng thể của chúng là vũ trụ biểu hiện. Trong những thời kỳ khác nhau, tất cả bảy cung đều tác động vào những phương diện khác nhau. [220] |
|
The most important interaction exists between:— |
Sự tương tác quan trọng nhất là giữa: |
|
a. The Love-Wisdom Ray and the Harmony Ray, as it does between the monadic plane and the buddhic. |
a. Cung Bác ái-Minh triết và Cung Điều hòa, cũng như sự tương tác giữa cõi của Chân thần (đại niết-bàn) và cõi bồ-đề. |
|
b. The Power Ray and that of Ceremonial Law, just as it does between the first and the seventh planes. |
b. Cung Quyền lực và cung Định luật Nghi thức, cũng như sự tương tác giữa cõi thứ nhất và cõi thứ bảy. |
|
c. The Activity or Adaptability Ray and that of Concrete Knowledge or Science, just as it does between the third plane of atma and the fifth plane of mind. Green and orange were allied in the first solar system, and continue their alliance here. I have opened up for all true students vast realms of thought. |
c. Cung Hoạt động hay Thích nghi và cung Kiến thức Cụ thể hay Khoa học, cũng như sự tương tác giữa cõi thứ ba của atma (niết-bàn) và cõi thứ năm của trí tuệ. Màu xanh lục và vàng cam đã liên kết nhau trong thái dương hệ thứ nhất, và vẫn tiếp tục liên kết trong hệ thống này. Tôi đã mở ra những lĩnh vực rộng lớn để tất cả các môn sinh chân thành suy ngẫm. |
|
In the relationship between indigo, blue and yellow lies hid a secret. |
Trong quan hệ giữa màu chàm, xanh và vàng có ẩn một điều bí mật. |
|
In the relationship between green, orange and red another is revealed. |
Trong quan hệ giữa màu xanh lục, vàng cam và đỏ có một bí mật khác. |
|
In the relationship between blue, red, and violet lies still another mystery. |
Trong quan hệ giữa màu xanh, đỏ, và tím còn có một bí ẩn khác nữa. |
|
The student, who, by using his intuition, apprehends these three mysteries has found the key to the greater cycle and holds the key to evolutionary development. Remember, therefore, when studying the microcosm that the same relationship will be found, and will open the portal to the “Kingdom of God within.” |
Người môn sinh nào nhờ dùng trực giác của mình mà hiểu được ba điều bí nhiệm này là đã tìm được chìa khóa để đi vào chu kỳ lớn hơn, và nắm được chìa khóa của sự phát triển tiến hóa. Vì thế, khi nghiên cứu tiểu vũ trụ, các bạn hãy nhớ rằng chúng ta sẽ tìm được chính mối quan hệ đó và sẽ mở được cánh cửa vào “Thiên giới trong tâm.” |
|
Red is for all apparent purposes one of the most difficult colours to consider. It ranks as undesirable. Why? Because it has been considered as the colour of kama, or evil desire, and the picture of the dark and lurid reds in the emotional body of the undeveloped man rises ever to one’s vision. Yet—at some distant time—red will be the basis of a solar system, and in the perfect merging of red, green and blue will come eventually the completed [221] work of the Logos and the consummation of the pure white light. |
Màu đỏ có vẻ là một trong những màu khó xem xét hơn hết. Nó bị xếp vào loại bất hảo. Tại sao? Vì màu đỏ đã bị xem là màu của kama, hay là ác dục, và bao giờ ta cũng thấy những màu đỏ bầm và đen tối trong thể cảm dục của người kém tiến hóa. Nhưng khá lâu sau này, màu đỏ sẽ là màu căn bản của một thái dương hệ, và trong sự hòa hợp hoàn hảo của màu đỏ, xanh lục và màu xanh rốt cuộc đưa đến công trình [221] hoàn thành của Đức Thái Dương Thượng Đế và sự viên mãn của ánh sáng trắng tinh khiết. |
|
The activity system was green. |
Thái dương hệ hoạt động đã có màu xanh lục. |
|
The love system is blue. |
Thái dương hệ bác ái hiện có màu xanh. |
|
The power system will be red. |
Thái dương hệ quyền lực sẽ có màu đỏ. |
|
The result of merging red, blue, and green is—as you know—white, and the Logos will then have esoterically “washed His robes and made them white in the blood,” just as the microcosm, in a lesser sense, does in process of evolution. |
Các bạn đều biết ba màu đỏ, xanh và xanh lục hợp nhất thành màu trắng, và nói theo nghĩa huyền bí thì bấy giờ Thượng Đế đã “rửa những lớp áo của Ngài và tẩy chúng trắng tinh bằng máu.” Điều này giống như con người là tiểu vũ trụ đang làm trong diễn trình tiến hóa, theo ý nghĩa thấp hơn. |
|
Violet. In a curious way the violet Ray of Ceremonial Law or Order is a synthetic ray when manifested in the three worlds. Just as the synthetic Ray of Love and Wisdom is the synthesis of all the life forces, so in the three worlds the seventh ray synthesises all that has to do with form. On the first plane, life in its purest, highest, undifferentiated synthetic aspect; on the seventh plane, form in its densest, grossest, most differentiated aspect; one is summed up in the synthetic Ray of Love, whilst the other is worked upon by the seventh. |
Màu tím. Điều kỳ lạ là Cung màu tím, Định luật Nghi thức hay Trật tự, lại là cung tổng hợp khi biểu hiện trong tam giới. Cũng như Cung tổng hợp Bác ái và Minh triết là tổng hợp của tất cả các mãnh lực của sự sống, thì trong tam giới Cung bảy tổng hợp tất cả những gì liên quan đến hình thể. Trên cảnh giới thứ nhất, sự sống ở trong trạng thái tổng hợp tinh khiết nhất, cao cả nhất, chưa phân hóa gì cả. Trong khi trên cảnh giới thứ bảy thì hình thể ở trong trạng thái dày đặc nhất, thô kệch nhất, và phân hóa thành thiên hình vạn trạng. Một mặt, sự sống được thu vào Cung tổng hợp của Bác ái. Trong khi đó phương diện hình thể chịu sự tác động của Cung bảy. |
|
A synthesis too is found in the fact that through the medium of violet the deva and human kingdoms can find a place of contact. Esoterically violet is white. In the blending of these two kingdoms the seven Heavenly Men attain perfection and completeness, and are esoterically considered to be white, the synonym of perfection. |
Cũng có một sự tổng hợp khác do sự thực là nhờ trung gian của màu tím mà hai trường tiến hóa nhân loại và thiên thần có được nơi tiếp xúc. Theo nghĩa huyền bí thì tím là trắng. Khi hòa hợp được hai trường tiến hoá này bảy Đấng Thiên Đế đạt được sự hoàn thiện viên mãn, và về mặt huyền bí các Ngài được xem như đã trở nên khiết bạch, đồng nghĩa với hoàn thiện. |
|
Another point of synthesis is the fact that through the dominance of this seventh ray comes a point of merging between the dense physical and the etheric bodies. This is of paramount importance in the macrocosm, and to the student of meditation. It is necessary to effect this merging and alignment before the transmission of the teaching to the dense physical brain can in any way be [222] considered accurate. It has a close bearing upon the alignment of the centres. |
Một điểm tổng hợp khác nữa là nhờ sự thống ngự của Cung bảy này mà có sự hòa hợp giữa thể xác và thể dĩ thái. Đây là điểm tối quan trọng trong đại vũ trụ và đối với người môn sinh hành thiền. Muốn cho giáo huấn được truyền đến bộ não hồng trần đạt mức chính xác nào đó thì trước phải tạo [222] được sự hòa hợp và chỉnh hợp này. Nó liên quan mật thiết đến sự chỉnh hợp các luân xa. |
|
I have sought in the above remarks solely to indicate lines of thought which, if followed closely, may lead to surprising results. By the study of colours and the planes, by the study of colour and its effect and relationship to the life side, and by the study of the form side of the mind, will come much of value to the student of meditation, provided always he does three things: |
Trong các nhận xét trên, tôi chỉ có ý muốn vạch ra những đường hướng suy tưởng, nếu được theo đúng, chúng có thể mang lại những kết quả làm bạn ngạc nhiên. Nhờ nghiên cứu các màu sắc và các cảnh giới, nhờ nghiên cứu màu sắc cùng ảnh hưởng và mối quan hệ của nó với phương diện sự sống, và nhờ dùng trí nghiên cứu phương diện hình thể mà người môn sinh hành thiền sẽ đạt được nhiều điều có giá trị, miễn là y luôn luôn làm ba việc: – |
|
1. That he seeks to find the esoteric colours and their right application to the planes and centres, to the bodies through which he manifests, and to the bodies through which the Logos manifests (the seven sacred planets); to the rounds and to the races, and to the cycles of his own individual life. When he can do this he holds in his hands the key to all knowledge. |
1. Y cố gắng tìm hiểu các màu huyền bí và ứng dụng đúng đắn của chúng vào các cảnh giới và các luân xa, vào các thể biểu hiện của y, và vào các thể mà Thượng Đế biểu hiện thông qua đó (bảy hành tinh thánh thiện), vào các cuộc tuần hoàn và các giống dân, cùng là các chu kỳ của cuộc sống cá nhân y. Nếu làm được điều này là y đã nắm được chìa khóa của toàn bộ kiến thức. |
|
2. That he endeavours to make practical application of all indicated truth to his personal life of service in the three worlds, and that he tries to conform in his methods of work to the methods demonstrated by the Logos through the seven rays or influences. By this I mean that, through meditation, he brings his life systematically and in ordered occult cycles under those seven great influences, and so produces an ordered beauty in his manifestation of the Ego. |
2. Y cố gắng áp dụng thực hành các chân lý đã học được vào cuộc sống phụng sự của mình trong tam giới. Trong các phương pháp làm việc của mình y cố gắng theo đúng những phương pháp mà Đức Thượng Đế phô bày qua bảy cung hay bảy ảnh hưởng. Có nghĩa là nhờ tham thiền y đã đặt cuộc sống của mình dưới bảy ảnh hưởng vĩ đại này một cách có hệ thống trong các chu kỳ huyền bí tuần tự. Do đó y tạo được sự mỹ lệ trật tự trong việc làm phát lộ Chân ngã nơi mình. |
|
3. That he remembers ever that perfection, as we know it, is only partial and not real, and that even perfection itself—as grasped by the mind of man, is but illusion, and that only the next logoic manifestation will reveal the ultimate glory in view. As long as there is differentiated colour there is imperfection. Remember, colour as we know it is the realisation by the man using a fifth root-race body in the fourth round on the fourth chain, of a vibration that contacts the human eye. What then will [223] colour be as visioned by a man of the seventh round in a seventh root-race body? Even then a whole range of colours of wondrous beauty will be outside and beyond his comprehension. The reason being that only two great aspects of logoic life are being thoroughly demonstrated and the third will be but partially revealed, waiting for the still greater “Day be with us” to flash forth in perfect radiance. This word “radiance” has an occult meaning worthy of your consideration. |
3. Y phải luôn luôn nhớ rằng sự hoàn thiện như chúng ta biết cũng chỉ là một phần và chưa đích thực, và ngay cả chính sự hoàn thiện – hiểu theo trí phàm – cũng chỉ là ảo tưởng. Chỉ có sự biểu hiện (trong thái dương hệ) kế tiếp của Thượng Đế mới cho thấy sự vinh quang tối hậu đã định. Ngày nào còn có các màu sắc khác biệt là còn sự bất toàn. Cần nên nhớ rằng màu sắc như chúng ta biết vốn là nhận thức về một sự rung động chạm vào mắt của người đang sử dụng một cơ thể của căn chủng thứ năm, trong cuộc tuần hoàn thứ tư, trên dãy hành tinh thứ tư. Vậy thì một người với thân xác thuộc căn chủng thứ bảy trong cuộc tuần hoàn [223] thứ bảy sẽ thấy màu sắc ra sao? Thậm chí đến chừng đó trọn cả dãy màu sắc có vẻ đẹp kỳ diệu sẽ vẫn ở ngoài và vượt khỏi tầm hiểu biết của y. Lý do là chỉ có hai trạng thái lớn của sự sống Thượng Đế đang hoàn toàn biểu lộ, còn trạng thái thứ ba sẽ chỉ hiển lộ một phần, chờ đợi “Ngày vĩ đại hơn nữa đến với chúng ta” để bừng lên trong sự chói rạng hoàn toàn. Từ “chói rạng” này có một ý nghĩa huyền bí đáng cho các bạn xem xét. |
|
SEPTEMBER 3RD, 1920 |
Ngày 3-9-1920. |
|
In the steady adherence to the next duty and the planting of the foot firmly on the next step ahead lies the open road to the Master, and the incidental clearing away of all difficulties. In the formulating of high mental concepts, and the expressing of them on the physical plane lies that development of the mental body that permits of an ever greater influx of the life from above. In the stabilising of the emotions, and in the transference of desire from that plane to the buddhic comes the ability to reflect truly the higher point of view. In the disciplined, purified physical body comes the capacity to work out that which the inner man knows. If these three things are attended to, the law can then work and emancipation be hastened. People ask themselves, how does the law work? What is our part in the carrying out of action that sets the law loose in the individual life? Simply adherence, as stated above, to the highest duty and an ordering of the personality life so that that duty may be perfectly achieved. |
Bền lòng gắn bó với bổn phận kế tiếp và đặt chân vững vàng lên bước tiến tiếp theo sẽ rộng mở con đường đi đến Chân sư và đồng thời dẹp sạch những nỗi khó khăn. Minh định các quan niệm tri thức cao thượng và phát biểu chúng ở cõi trần giúp thể trí phát triển, để cho nguồn sống ngày càng lớn lao hơn tuôn tràn từ trên xuống. Ổn định tình cảm và thăng hóa dục vọng từ cõi này lên cõi bồ-đề, khiến hành giả có khả năng phản ánh trung thực quan điểm cao siêu. Tinh luyện và giữ giới luật thân xác giúp hành giả có khả năng phát triển những gì mà Chân ngã nội tâm hiểu biết. Nếu ba điều này được quan tâm tuân thủ thì bấy giờ định luật có thể tác động và việc khai phóng được xúc tiến mau lẹ. Vậy định luật vận hành cách nào? Phần chúng ta phải hành động ra sao để cuộc sống cá nhân khỏi bị định luật trói buộc? Như đã nêu trên, đơn giản chỉ là gắn bó với bổn phận cao cả nhất, và sắp xếp đời sống phàm nhân thế nào để bổn phận này có thể được hoàn thành mỹ mãn. |
|
The Esoteric and Exoteric colours. |
Các Màu sắc Thông thường và Huyền bí. |
|
Today our subject is the second one in our letter on the use of colour and deals with the law of correspondences [224] and of colour……The esoteric meaning of the exoteric colours is not yet wholly imparted, as I have already told you. Some of these meanings have been given out by H.P.B. but their significance has not been sufficiently apprehended. One hint I give for your wise consideration. Some of the information given in The Secret Doctrine anent colour and sound concerns the first solar system and some concerns a portion of the second solar system. The distinction has naturally not been apprehended, but as a key fact for studying in the newer school, the revelation will be great. In this statement as to the esoteric significance of the colours I would have you now tabulate (even though it can be found in The Secret Doctrine), in order to form the basis of such later communications as I may seek to impart. |
Đề tài hôm nay là điểm thứ hai về việc sử dụng màu [224] sắc và bàn đến luật tương ứng và màu sắc . . . . . . Như tôi đã nói với các bạn, ý nghĩa huyền bí của các màu sắc thông thường vẫn chưa được tiết lộ trọn vẹn. Một số ý nghĩa này đã được H.P.B. nói đến, nhưng nguyên nghĩa của chúng vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ. Đây là điều gợi ý để các bạn suy xét. Một số kiến thức về màu sắc và âm thanh được đề cập trong bộ Giáo lý Bí nhiệm có liên quan đến thái dương hệ thứ nhất, và một số chi tiết lại liên quan đến một phần của thái dương hệ thứ hai. Đương nhiên sự phân biệt đó vẫn chưa được thấu hiểu, nhưng đây sẽ là sự tiết lộ với tính cách một sự kiện then chốt để nghiên cứu trong trường phái mới sau này. Về ý nghĩa huyền bí của màu sắc, tôi muốn các bạn lập một bảng liệt kê (dù điều này có thể tìm thấy trong Giáo lý Bí nhiệm), để làm căn bản cho những điểm tôi có thể sẽ truyền đạt sau này. |
|
Only four as yet can be communicated, but if rightly understood they hold the key to the present fourth round, and to its history. This being the fourth chain and the fourth round you will note therefore how in the number four lies the history of the present. Especially would I urge you who are the teachers and students of the coming generation to ponder upon the significance of white being esoterically violet. It has special application now in the coming in of the violet ray, the seventh ray being one of the three major rays in this round; it wields power in ratio to the four, on the four and under the four. |
Hiện nay, chỉ có bốn màu này là có thể nói đến, nhưng nếu được hiểu đúng thì các màu này là chìa khóa của cuộc tuần hoàn thứ tư hiện nay và lịch sử của nó. Vì chúng ta đang ở trong dãy hành tinh thứ tư và cuộc tuần hoàn thứ tư nên lịch sử của thời kỳ hiện tại đang nằm trong số 4. Đặc biệt tôi khuyến khích các bạn, là các huấn sư và các môn sinh của thế hệ mới sau này, hãy suy ngẫm xem tại sao màu trắng hiểu theo nghĩa nội môn lại là màu tím. Hiện nay màu tím đang có ứng dụng đặc biệt khi cung của màu tím đang nhập cuộc, và Cung bảy hiện là một trong ba cung chính yếu trong cuộc tuần hoàn này. Nó vận dụng quyền lực trong tỉ lệ của số 4, dựa vào số 4 và theo số 4. |
|
The esoteric colours of the exoteric red, green and orange may not yet be imparted to the general public, [225] though students and accepted chelas, whose discrimination can be trusted, can attain the necessary knowledge with effort. |
Các màu huyền bí tương ứng với màu đỏ, xanh lục và vàng cam thông thường, chưa có thể phổ biến cho công chúng. Tuy [225] nhiên, các môn sinh và các đệ tử nhập môn với khả năng phân biện đáng tin cậy nếu cố gắng họ có thể đạt được kiến thức cần thiết. |
|
I would here like to point out certain other considerations which can be best dealt with by a brief consideration of the law of analogy and correspondence. We might therefore consider the following points:— |
Ở đây tôi muốn nêu ra một số điểm khác để xem xét thật kỹ bằng cách bàn vắn tắt về luật tương đồng và tương ứng. Đó là các điểm sau đây: – |
|
a. Wherein the microcosm and the macrocosm correspond. |
a. Các tương ứng giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ. |
|
b. The basic correspondences. |
b. Các tương ứng cơ bản. |
|
c. Colour in the microcosm and in the macrocosm. |
c. Màu sắc trong tiểu vũ trụ và trong đại vũ trụ. |
|
Let us briefly take up each point, for in the right apprehension of the law lies the ability to think esoterically, and wrest the inner meaning out of the external happenings. |
Chúng ta hãy bàn từng điểm một, vì có hiểu đúng định luật chúng ta mới có khả năng suy nghĩ về mặt nội môn, và thấy được ý nghĩa sâu xa của các sự việc xảy ra bên ngoài. |
Exoteric Esoteric
Purple Blue
Yellow Indigo
Cream Yellow
White Violet
2 – Microcosmic and macrocosmic correspondence.— Sự tương ứng giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ.
|
The relationship between the microcosm and the macrocosm is accurate, and exists not only broadly but likewise in detail. This is a fact to be grasped and worked out. As knowledge increases and progress is made, and as the ability to meditate results in the faculty of transmitting from the higher Triad to the Personality, via the causal, then these facts will be ever more clearly demonstrated in detail, and perfect comprehension will ensue. “As above, so below” is a truism glibly repeated but little realised. What is found above and what will consequently be developing below? |
Mối quan hệ giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ rất chính xác, không những về mặt đại thể mà trong chi tiết cũng vậy. Đây là một sự kiện cần phải nắm vững và thấu hiểu. Khi kiến thức gia tăng với nhiều tiến bộ và khi năng lực tham thiền tạo được khả năng truyền đạt từ Tam nguyên qua thể nguyên nhân đến Phàm ngã thì các sự kiện này sẽ ngày càng được chứng minh trong từng chi tiết, cho đến mức hành giả thấu hiểu được trọn vẹn. “Trên sao dưới vậy” là một chân lý hiển nhiên thường được nói suông, nhưng ít được nhận thức. Ở trên có gì, và những gì sẽ phát triển tương ứng ở dưới? |
|
Above will be found Will, Love and Activity, or Power, Wisdom and Intelligence, the terms that we apply to the three aspects of divine manifestation. Below will be found these three in process of appearing:— |
Ở trên có Ý chí, Bác ái và Hoạt động, hay là Quyền lực, Minh triết và Thông tuệ, là những từ áp dụng cho ba trạng thái biểu hiện thiêng liêng. Ở dưới cũng có ba trạng thái này đang xuất lộ: – |
|
a. The Personality expresses active intelligence. [226] |
a. Phàm nhân phát biểu trí thông minh tích cực. [226] |
|
b. The Ego expresses love or wisdom. |
b. Chân nhân phát biểu bác ái hay minh triết. |
|
c. The Monad expresses power or will. |
c. Chân thần phát biểu quyền lực hay ý chí. |
|
You have in the three worlds of the Personality:— |
Trong tam giới của Phàm nhân ta cũng có: – |
|
a. The physical, expressing a reflection of the activity aspect. |
a. Thể hồng trần, phát biểu phản ánh phương diện hoạt động. |
|
b. The astral, expressing a reflection of the love or wisdom aspect. |
b. Thể tình cảm, phát biểu phản ánh phương diện bác ái hay minh triết. |
|
c. The mental, expressing a reflection of the will or power aspect. |
c. Thể trí, phát biểu phản ánh phương diện ý chí hay quyền lực. |
|
What have you for the colours of those three bodies, exoterically described? |
Nếu mô tả theo lối thông thường, thì ba thể trên có màu sắc nào? |
|
a. The violet of the physical as expressed by the etheric. |
a. Màu tím của thể hồng trần phát biểu qua thể dĩ thái. |
|
b. The rose or red of the astral. |
b. Màu hồng hay đỏ của thể cảm dục. |
|
c. The orange of the mental. |
c. Màu vàng cam của thể trí. |
|
What have you in the Triad, or the world of the threefold Ego? |
Trong Tam nguyên hay thế giới của Chân nhân tam phân có những gì? |
|
a. Higher manas, expressing the activity or intelligence aspect. |
a. Thể thượng trí, phát biểu phương diện hoạt động hay thông tuệ. |
|
b. Buddhi, expressing the love or wisdom aspect. |
b. Thể bồ-đề, phát biểu phương diện bác ái hay minh triết. |
|
c. Atma, expressing the will or power aspect. |
c. Thể atma, phát biểu phương diện ý chí hay quyền lực. |
|
What again are the colours of those bodies exoterically described? |
Và nếu mô tả theo lối thường thì ba thể trên có màu sắc nào? |
|
a. The blue of the higher manasic levels. |
a. Màu xanh của thượng trí. |
|
b. The yellow of the buddhic level. |
b. Màu vàng của cấp bồ-đề. |
|
c. The green of the atmic level. |
c. Màu xanh lục của cấp atma. |
|
They are in the process of transmutation. You have to effect the corresponding change of colour from the lower to the higher. Couple up this information that I have here imparted with that given in an earlier letter on the transference of polarisation. |
Các màu trên đang trong tiến trình chuyển hóa. Các bạn phải thực hiện sự thay đổi tương ứng của màu sắc từ thấp lên cao. Các bạn hãy kết hợp những điều này với những điều tôi đã nói trong một bức thư trước về việc chuyển di sự phân cực. |
|
There is a direct correspondence between:— |
Có sự tương ứng trực tiếp giữa: – |
|
a. The violet of the etheric level and the blue of the higher mental. [227] |
a. Màu tím của cấp dĩ thái và màu xanh của cấp thượng trí. [227] |
|
b. The rose of the astral and the yellow of the buddhic. |
b. Màu hồng của thể cảm dục và màu vàng của thể bồ-đề. |
|
c. The orange of the mental and the green of the atmic. |
c. Màu vàng cam của thể trí và màu xanh lục của atma. |
|
The secret of it all is to be found in the application of the occult laws of meditation. |
Sự bí mật của tất cả các tương ứng này phải được khám phá bằng cách áp dụng các định luật của tham thiền huyền môn. |
|
Again you can shift the whole range of colour higher, and in the Monad work out the correspondence. |
Các bạn có thể chuyển trọn dãy màu lên cao hơn nữa, và ở cấp Chân thần có sự tương ứng như sau: – |
|
a. The green of the third aspect. |
a. Màu xanh lục của trạng thái thứ ba. |
|
b. The synthetic blue or indigo of the second aspect. |
b. Màu xanh tổng hợp hay màu chàm của trạng thái thứ hai. |
|
c. The red of the first aspect. |
c. Màu đỏ của trạng thái thứ nhất. |
|
I would point out here that as you return to the centre of systemic evolution the nomenclature of these colours is most misleading. The red, for instance, has no resemblance to that termed red or rose on the lower plane. The red, the green and the indigo of these high levels are to all intents and purposes new colours of a beauty and translucence inconceivable. If justly interpreted, you have here a hint of the correspondence between the microcosm and the macrocosm. |
Ở đây cần lưu ý rằng khi chúng ta trở về trung tâm cuộc tiến hóa của thái dương hệ, thì tên gọi của các màu này rất dễ gây nhầm lẫn. Ví dụ như màu đỏ không có gì giống với cái gọi là đỏ hay hồng ở cõi thấp. Màu đỏ, màu xanh lục, và màu chàm của cấp cao này hầu như đều là những màu mới, với sự mỹ lệ và trong trẻo không thể tưởng. Nếu được diễn giải đúng đắn, ở đây chúng ta sẽ có ngụ ý về sự tương ứng giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ. |
|
The colours exoterically have to do with the form. The forces or qualities which those colours conceal and hide have to do with the life, evolving within those forms. By the use of meditation the bridge is formed which connects these two. Meditation is the expression of the intelligence that links life and form, the self and the not-self, and in time and in the three worlds the process of this connection eventuates on the plane of mind which links the higher and the lower. The correspondence will always be found perfect. Therefore through meditation will come that knowledge which will effect three things:— |
Các màu ở ngoại giới có liên quan đến hình hài, sắc tướng. Các mãnh lực hay phẩm tính mà các màu này che giấu đều liên hệ đến sự sống đang tiến hóa trong các hình thể đó. Tham thiền giúp hình thành cầu nối hai phương diện vừa kể. Tham thiền là sự phát biểu của trí thông tuệ liên kết sự sống và hình thể, ngã và phi-ngã. Theo thời gian trong tam giới, tiến trình liên kết này rốt cuộc sẽ xảy ra trên cõi trí để nối liền thượng và hạ trí. Sự tương ứng này luôn luôn hoàn toàn. Vì thế, tham thiền mang lại kiến thức để thực hiện ba điều: – |
|
1. Give the inner significance of the exoteric colour. |
1. Cho biết thực nghĩa bên trong của màu sắc bên ngoài. |
|
2. Build in the qualities that those colours veil. [228] |
2. Xác định những phẩm tính mà các màu sắc này che giấu. [228] |
|
3. Effect the necessary transmutation of the colours from the Personality to the Triad, and later from the Triad to the Monad. |
3. Tạo sự chuyển hóa cần thiết của các màu, từ Phàm nhân đến Tam nguyên, và về sau từ Tam nguyên đến Chân thần. |
|
The causal body acts as a synthesis of these colours in the life of the reincarnating Ego, just as the synthetic ray blends all the colours in logoic manifestation. Endeavour to keep clear in your own mind……that colours are the expressions of force or quality. They hide or veil the abstract qualities of the Logos, which qualities are reflected in the microcosm in the three worlds as virtues or faculties. Therefore, just as the seven colours hide qualities in the Logos, so these virtues demonstrate in the life of the personality and are brought forward objectively through the practice of meditation; thus each life will be seen as corresponding to a colour. Ponder on this. |
Thể nguyên nhân đóng vai trò tổng hợp các màu sắc này trong cuộc sống của Chân nhân đang lâm phàm, cũng như cung tổng hợp hòa trộn mọi màu sắc trong cuộc biểu hiện của Thượng Đế. Hãy ghi nhớ rõ trong trí bạn . . . . . . rằng màu sắc là các phát biểu của mãnh lực hay phẩm tính. Chúng che giấu những phẩm tính trừu tượng của Thượng Đế. Những phẩm tính này được phản chiếu vào tiểu vũ trụ trong tam giới thành các đức hạnh hay khả năng. Vì thế, giống như bảy màu che giấu những phẩm tính của Thượng Đế, các đức hạnh cũng biểu lộ trong đời sống của phàm nhân, và nhờ hành thiền làm phát lộ ra bên ngoài. Do đó mỗi kiếp sống sẽ được xem như tương ứng với một màu. Hãy suy ngẫm kỹ điều này. |
|
The basic correspondences. |
Các tương ứng căn bản. |
|
It is in the study of these correspondences in the different departments of the manifested universe, and the application of these colours to their adjusted portion that the beauty of the synthetic whole and the illuminating of the microcosmic life ensues. Let us enumerate or tabulate in broad general fashion, leaving the detailed working out to the student of meditation. More at this juncture is not possible. |
Chính việc nghiên cứu những sự tương ứng này trong các ngành khác nhau của vũ trụ biểu hiện, và việc áp dụng các màu này vào phần đã được điều chỉnh của chúng, giúp chúng ta thấy được sự mỹ lệ của cái toàn thể tổng hợp và sự khai ngộ cho cuộc sống tiểu vũ trụ. Chúng ta hãy kể ra tổng quát thôi, còn chi tiết thì để cho các môn sinh hành thiền tự khám phá. Vào lúc này, tôi không thể nói nhiều hơn. |
|
1. The threefold solar system. |
1. Thái dương hệ tam phân. |
|
The threefold evolving jiva. |
Linh hồn cá nhân tam phân, đang tiến hóa. |
|
The three aspects of the Logos. |
Ba trạng thái của Thượng Đế. |
|
The threefold Monad. |
Chân thần tam phân. |
|
The spiritual Triad, the Ego. |
Tam nguyên tinh thần, Chân nhân. |
|
The threefold Personality. |
Phàm nhân tam phân. |
|
The three worlds of human evolution. |
Tam giới, trường tiến hóa của nhân loại. |
|
The three persons of the Deity. [229] |
Ba ngôi của Thượng Đế. [229] |
|
2. The four Lipika Lords. |
2. Bốn Đấng Nghiệp quả Tinh quân. |
|
The four Maharajahs. |
Tứ Đại Thiên vương. |
|
The fourfold lower man, the quaternary. |
Phàm ngã tứ phân và tứ hạ thể. |
|
3. The five planes of human evolution. |
3. Năm cảnh giới tiến hóa của nhân loại. |
|
The five senses. |
Năm giác quan. |
|
The fivefold department of the Mahachohan. |
Năm phân ngành của Đức Văn minh Đại đế. |
|
The five kingdoms of nature. |
Năm giới trong thiên nhiên: |
|
a. The mineral kingdom. |
a. Giới khoáng vật. |
|
b. The vegetable kingdom. |
b. Giới thực vật. |
|
c. The animal kingdom. |
c. Giới động vật. |
|
d. The human kingdom. |
d. Giới nhân loại. |
|
e. The spiritual or superhuman kingdom. |
e. Giới tinh thần hay giới siêu nhân. |
|
The fifth principle of manas. |
Nguyên khí thứ năm là trí tuệ (manas). |
|
4. The seven rays or hierarchies. |
4. Bảy cung hay bảy huyền giai. |
|
The seven colours. |
Bảy màu. |
|
The seven planes of manifestation. |
Bảy cảnh giới biểu hiện. |
|
The seven Kumaras. |
Bảy Đấng Thiên tôn (Kumara). |
|
The seven principles of man. |
Bảy nguyên khí của con người. |
|
The seven centres. |
Bảy luân xa. |
|
The seven sacred planets. |
Bảy hành tinh thánh thiện. |
|
The seven chains. |
Bảy dãy hành tinh. |
|
The seven globes. |
Bảy bầu hành tinh. |
|
The seven rounds. |
Bảy cuộc tuần hoàn. |
|
The seven root-races and subraces. |
Bảy căn chủng và phân chủng. |
|
The seven initiations. |
Bảy cuộc điểm đạo. |
|
What I seek to emphasise in the above table is that to the adept the correspondence of all these is perfectly known and exists in terms of consciousness, in terms of form, and in terms of intelligence. He knows it,—if I may so express it,—in terms of colour when dealing with form; in terms of sound when dealing with the life side, and in terms of vitality when dealing with intelligence, or the activity aspect. The above statement will repay much [230] earnest thought; it contains a statement of occult fact. According to the three lines of approach as dealt with in our preceding letter, will be the use of the terms as above described |
Tôi muốn nhấn mạnh trong bảng kê nói trên là vị Chân sư hoàn toàn hiểu được sự tương ứng của tất cả các điều đó và thấy nó hiện hữu trong phạm vi của tâm thức, của hình thể, và của trí thông tuệ. Có thể nói là Ngài hiểu sự tương ứng này trong phạm vi màu sắc khi nói về hình thể; trong phạm vi âm thanh khi nói về sự sống; và trong phạm vi sinh lực khi nói [230] về trí thông tuệ, hay trạng thái hoạt động. Lời phát biểu trên sẽ rất hữu ích nếu được suy ngẫm kỹ vì nó hàm chứa một sự kiện thực tế huyền môn. Các từ ngữ mô tả trên đây được sử dụng tùy theo ba đường lối cận tiến như đã đề cập trong bức thư trước. |
|
Colour in the microcosm and in the macrocosm. |
Màu sắc trong tiểu vũ trụ và trong đại vũ trụ. |
|
Here lies much of difficulty owing to the process of constant mutation. Colour in the microcosm is subject to the following factors:— |
Phần này có nhiều điểm khó vì tiến trình thay đổi liên tục. Màu sắc trong tiểu vũ trụ thì tùy theo ba yếu tố: – |
|
1. The factor of the ray of the Ego. |
1. Cung của Chân nhân. |
|
2. The factor of the ray of the Personality. |
2. Cung của Phàm nhân. |
|
3. The factor of the point in evolution. |
3. Trình độ tiến hóa. |
|
One hint may here be given. At a low point in evolution the colours are largely based on the activity aspect. Later comes the working in the love, or wisdom aspect, which has three effects:— |
Một điều ngụ ý có thể nói ở đây là ở mức tiến hóa thấp thì phần lớn màu sắc đều dựa vào phương diện hoạt động. Về sau, khi đã làm việc trong phương diện bác ái hay minh triết, sẽ có ba hiệu quả: – |
|
a. The dropping out of colours from the lower sheaths which are the left-overs from a previous system. It involves the elimination of such hues as brown and gray. |
a. Loại khỏi các hạ thể những màu sắc vốn là các tàn tích của thái dương hệ trước, gồm việc loại bỏ những màu như nâu và xám. |
|
b. The transmutation of certain colours into those of higher tone. |
b. Chuyển hóa một số màu thành những màu ở cấp độ cao hơn. |
|
c. An effect of translucence, or an underlying radiance or brilliance, which is the result of the greater purity of the bodies and the dimensions of the ever-growing inner flame. |
c. Hiệu quả của sự trong sáng, huy hoàng hay chói rạng của ánh sáng ẩn tàng, vốn là kết quả của độ tinh khiết cao hơn của các thể và kích thước ngày càng tăng của ngọn lửa nội tại. |
|
4. The factor of the ray, or rays, that are manifested passing out of manifestation or coming into manifestation. These rays necessarily affect the egos in incarnation; they cause a change of vibration somewhat or a consequent change of colouring or of quality. If a man, for instance, is on the Ray of Science, and comes under the influence of the incoming Ray of Harmony, the effect on his trend of thought, and consequently on the colour he [231] will be demonstrating, will be quite noticeable. All these factors cause the blending and merging and mixing that is practically inextricably confusing to the man from the standpoint of the three worlds. |
4. Cung, hay các cung được biểu hiện đang rút lui hoặc đang nhập cuộc. Tất nhiên các cung này ảnh hưởng đến các Chân nhân đang lâm phàm. Chúng làm thay đổi phần nào sự rung động hoặc do đó tạo sự biến đổi màu sắc hay phẩm tính. Ví dụ như một người thuộc Cung Khoa học chịu ảnh hưởng của cung nhập cuộc là Cung Điều hòa, thì tác dụng đối với khuynh hướng tư tưởng của y và hậu quả là đối với [231] màu sắc mà y biểu lộ, sẽ rất quan trọng. Tất cả các yếu tố này phối hợp, pha trộn và hòa lẫn vào nhau, khiến người nhìn từ quan điểm của tam giới sẽ thấy rất rắc rối khó khăn. |
|
……I appreciate your feeling that even these hints but lead apparently to greater confusion. But by constant application to the subject in hand, by frequent brooding and meditation on the colours, and by an endeavor to attain their esoteric significance, and their microcosmic application, will gradually appear the thread that will lead the student out of his confusion into the clear light of perfect knowledge. Have, therefore, courage, a broad elasticity of view, and an ability to reserve opinion until further facts are demonstrated, and also an avoidance of dogmatic assertion. These will be your best guides in the early days of your search. Many have, through meditation and a receptiveness to the higher teaching, found their way out of the Hall of Learning into the Hall of Wisdom. Only in the Hall of Wisdom can the esoteric interpretation of the colours be truly known. That Hall is entered through the meditation which prepares the student for that initiation which opens to him the door. Therefore, hold fast to meditation and falter not in purpose. |
. . . . . . Tôi hiểu rằng các bạn cảm thấy những điều vừa nói có vẻ chỉ gây thắc mắc nhiều hơn. Nhưng nhờ kiên trì chú tâm vào vấn đề trước mắt, nhờ thường xuyên suy ngẫm và tham thiền về màu sắc, nhờ cố gắng tìm hiểu ý nghĩa huyền bí và sự ứng dụng của màu sắc vào tiểu vũ trụ mà lần hồi các bạn sẽ nắm được đầu mối dẫn dắt ra khỏi sự rắc rối, để đi vào ánh sáng hiểu biết hoàn toàn. Vì thế hãy can đảm, hãy có quan điểm linh động rộng mở, và khả năng dè dặt, không phát biểu ý kiến cho đến khi có thêm những sự kiện mới đủ để chứng minh, và cũng để tránh những khẳng định võ đoán. Đây là các hướng dẫn viên tốt nhất cho các bạn ở những bước đầu tìm kiếm. Nhờ tham thiền và khả năng tiếp thu giáo huấn cao siêu mà nhiều người đã tìm được con đường từ Phòng Học tập đến Phòng Minh triết. Chỉ ở Phòng Minh triết, sự giải thích nội môn về các màu sắc mới được hiểu đúng. Qua tham thiền, người môn sinh chuẩn bị cho cuộc điểm đạo để mở cánh cửa giúp y bước vào Phòng này. Vì thế, hãy kiên trì hành thiền và giữ vững chủ đích, đừng ngập ngừng do dự. |
|
SEPTEMBER 4TH, 1920. |
Ngày 4-9-1920. |
|
We have for discussion today, something of real spiritual application in a practical sense. Much that I have imparted to you has provided food for thought and for speculation. It tends to the development of the higher mind and by stimulation of imagination it somewhat develops the intuition. Much of it has been in the nature of prophecy, and of the holding forth of an ideal some day to be attained. Only by pointing out the goal and by emphasising that point will man be induced to make the [232] necessary effort and thereby approximate in some measure the desired position. But today we come down to practical living and the imposing upon the personality of a certain rate of rhythm. We do this in our study of the third point upon the effect of colour:— |
Hôm nay, chúng ta bàn đôi điều có ứng dụng thực tế về mặt tinh thần. Tôi đã trao cho các bạn nhiều chi tiết để suy tư và nghiền ngẫm. Tất cả đều hướng về sự phát triển thượng trí, và sự kích thích khả năng tưởng tượng cũng phần nào giúp phát triển trực giác. Nhiều điểm có tính cách tiên đoán, và đưa ra một lý tưởng mà sau này phải đạt. Chỉ bằng cách vạch ra mục tiêu và chuyên chú vào đó mới khiến [232] hành giả có nỗ lực cần thiết để tiến gần ít nhiều đến vị thế mong muốn. Nhưng hôm nay chúng ta đi vào cuộc sống thực tế và áp dụng cho phàm ngã một mức độ rung động nhất định bằng cách bàn đến điểm thứ ba nói về ảnh hưởng của màu sắc: – |
|
a. On the bodies of the student. |
a. Trên các thể của môn sinh. |
|
b. On the groups with which he is affiliated. |
b. Vào những nhóm mà y liên hệ. |
|
c. On his environment. |
c. Vào môi trường chung quanh. |
|
The point I seek specially to emphasise is the life side and not the form side of colour. As I wrote earlier, colour is but the form assumed by force, of some kind, when that force is moving at a certain measure, and when its action and movement is impeded or unimpeded by the material through which it plays. In this sentence lies the key to the solution of the problem as to the colour differences on the higher planes and on the lower. The resistance of matter to the downflow of force or life, and its relative density or rarity accounts for much of the colour distinction. One of the distinctions has, necessarily, a cosmic basis and is consequently difficult of apprehension by three-dimensional man in this, the fourth round. But the basic reason of the difference can be apprehended sufficiently to permit the pupil to realise the absolute necessity of steadily refining his vehicles so that the force may radiate through with greater facility. It is therefore on the three lower planes a question of practical living and a bringing of all the three bodies under edict rules of refinement. |
Điều tôi đặc biệt nhấn mạnh là phương diện sự sống chứ không phải phương diện hình thể của màu sắc. Trước tôi đã nói rằng màu sắc chỉ là hình thể được hiển thị do một loại mãnh lực, khi lực ấy đang vận chuyển ở một tầm mức nhất định, và khi sự tác động và vận hành của nó bị ngăn trở hay không bị ngăn trở do loại vật chất mà nó tác động xuyên qua đó. Trong câu này có chìa khóa giải quyết vấn đề tại sao màu sắc ở những cõi cao và những cõi thấp lại khác nhau. Mật độ tương đối và sức cản của vật chất đối với dòng mãnh lực của sự sống tuôn xuống là lý do của phần lớn sự khác biệt về màu sắc. Tất nhiên, một trong những khác biệt này có căn bản vũ trụ, nên khó hiểu cho con người sống trong không gian ba chiều của cuộc tuần hoàn thứ tư này. Nhưng người môn sinh có thể hiểu lý do cơ bản của sự dị biệt đến mức đủ để ý thức được sự tuyệt đối cần thiết phải liên tục tinh luyện các thể của y để mãnh lực có thể phóng rải xuyên qua dễ dàng hơn. Thế nên, trong ba cõi thấp đó là vấn đề của cuộc sống thực hành và là việc đặt cả ba hạ thể dưới những qui luật tinh luyện xác định. |
|
These forces in terms of spiritual development, and not so much in terms of form, demonstrate through the virtues, as you call them, through magnetism and through vitality and intelligence. To put it quite briefly, as the student builds a pure physical body and a refined etheric, as he develops the emotional virtues and as he co-ordinates [233] and enlarges his mental body, he is continuously altering its rate of vibration, and changing its rhythm, which change demonstrates to the eye of the clairvoyant as mutation in colour. As you have been taught, the colours as seen in the aura of a savage and in those of the average developed man are extraordinarily dissimilar. Why? Because one is moving or vibrating at a slow rate and the other with greatly increased rapidity. One has a rhythm slow, sluggish and heavy, the other is pulsating and moving with a tremendous velocity permitting consequently a more rapid play of the material of which those bodies are constructed. |
Trong phạm vi phát triển tinh thần (và ở mức độ ít hơn, trong phạm vi hình thể), các mãnh lực này phát biểu thông qua những đức hạnh (như các bạn thường gọi), thông qua từ lực, thông qua sinh lực và trí thông minh. Nói vắn tắt là khi người môn sinh đã kiến tạo được một thể xác tinh khiết, một thể dĩ thái đã tinh luyện, khi y phát triển các đức hạnh [233] của thể tình cảm, và khi y điều hợp, mở mang thể trí, tức là y đang liên tục thay đổi tốc độ rung động của nó, đang thay đổi nhịp điệu của nó mà dưới mắt của nhà thần nhãn thì đây là sự thay đổi về màu sắc. Như các bạn đã biết, màu sắc thấy trong hào quang của người dã man và trong hào quang của người tiến hóa trung bình đã rất khác nhau rồi. Tại sao? Vì một người đang vận chuyển hay rung động một cách chậm chạp còn người kia đang rung động với tốc độ tăng cường rất lớn lao. Một người thì có tiết điệu chậm chạp, trì trệ và nặng nề, trong khi người kia đang chuyển động với vận tốc rất cao, và tất nhiên sẽ làm cho vật chất trong các thể của y hoạt động nhanh hơn. |
|
Therefore, I would like to point out that as the race progresses as a collective unit, Those Who gaze upon it from a higher plane are aware of the steady improvement in the colours seen, and of a greater purity and clarity of hue in the aura of the race, which aura is composed of the composite auras of the units of the race. For instance, the aura of the Atlantean root-race and that of the Aryan are widely diverse, and radically different. We have, therefore, demonstrated our first point that, as the units evolve, the colours change and this is brought about by the transmutation of what you term vices, into virtues. A vice is dominance of an involutional quality of the same force which at a later period will show forth as a virtue. |
Vì thế, khi toàn thể nhân loại đồng tiến lên như một đơn vị tập thể thì các Đấng thiêng liêng từ cõi cao nhìn xuống sẽ nhận ra được sự cải thiện đều đặn của các màu sắc, sự tinh khiết và trong sáng hơn rất nhiều trong hào quang của nhân loại, là tổng hợp các hào quang của mọi người. Ví dụ như hào quang của căn chủng Atlantis và của căn chủng Aryan (Ấn-Âu) thì rất dị biệt và trong cơ bản khác nhau. Thế nên, chúng ta đã giải rõ điểm đầu tiên là khi các cá nhân tiến hóa thì màu sắc thay đổi, do sự chuyển hóa cái gọi là tật xấu thành đức hạnh. Tật xấu là sự chi phối của đặc tính tiến hóa giáng hạ trong cùng một mãnh lực mà chính mãnh lực đó về sau sẽ biểu lộ thành đức hạnh. |
|
The second point I seek to make is that these influences (which show forth as colours when they contact matter) move in their own ordered cycles. These cycles we describe as the coming in or the going out of a ray. In this fourth round usually four rays are in flux at any one given time; by this I seek to impress upon you that though all rays manifest in the solar system, at certain stages of manifestation more or less of them will be dominating simultaneously. These rays, forces, influences, or [234] co-ordinations of qualities, when expressed in terms of light, colour the matters they impinge upon with certain recognisable hues, and these give the tone to the life of the personality or to the Ego. They are recognized by you as the composite character and are seen by the clairvoyant as colour. |
Điểm thứ nhì là những ảnh hưởng này (biểu lộ thành màu sắc khi chúng tiếp xúc với vật chất) vận chuyển theo những chu kỳ có trật tự riêng biệt. Chúng ta mô tả những chu kỳ vừa kể là sự nhập cuộc hay ra đi của một cung. Trong cuộc tuần hoàn thứ tư này thường có bốn cung thay đổi nhau tác động trong bất cứ thời gian nào. Nói điều này là tôi muốn các bạn ghi nhớ rằng dù tất cả các cung đều biểu hiện trong thái dương hệ, nhưng ít nhiều gì cũng có những cung đồng thời nổi bật vào những giai đoạn biểu hiện nhất định. Các cung, các mãnh lực, các ảnh hưởng, hay những phối hợp [234] các phẩm tính này khi được phát biểu trong phạm vi ánh sáng thì tô điểm những loại vật chất mà chúng chạm đến bằng một số màu sắc có thể nhận ra được. Các màu này mới phổ âm điệu vào cuộc sống của phàm nhân hay Chân nhân. Các bạn nhận thấy chúng là phẩm tính phức hợp, còn nhà nhãn thông thì thấy chúng là màu sắc. |
|
Groups, therefore, of units who converge through similarity of vibration will be seen as having approximately the same basic hue, though with many lesser differentiations in colour and tone. As stated before, the colour of large masses of people can be gauged and judged. It is in this way that the members of the Hierarchy in Whose Hands is placed evolutionary development in the three worlds, judge of the stage attained and the progress made. |
Vì thế, đối với những nhóm gồm những người qui tụ lại do sự rung động tương tự nhau, chúng ta sẽ thấy hầu như họ có cùng một màu cơ bản, dù vẫn có các khác biệt nhỏ về màu sắc và âm điệu. Trước tôi có nói, màu sắc của đại khối quần chúng có thể đo lường và thẩm định được. Chính là theo cách này mà các nhân viên của Đ.Đ.C.G., đang chưởng quản cuộc tiến hóa trong tam giới, cân nhắc được giai đoạn đã trải qua và tiến bộ đã đạt được. |
|
Different rays come in bearing units coloured by that ray. Other rags pass out carrying with them units of a different basic hue. In the period of transition the blending of colour is of deep complexity, but of mutual helpfulness and benefit. Each ray imparts somewhat to the other rays in incarnation at the same time, and the rate of rhythm will be slightly affected. This from the standpoint of the present and of time in the three worlds, may be almost inappreciably small, but through the frequent meeting and interplay of the forces and colours, and their constant action and interaction upon each other, will come a steady, general levelling up, and an approximation in vibration. You will see, therefore, how synthesis is achieved at the end of a greater maha-manvantara. The three rays absorb the seven and lead eventually to a merging in the synthetic ray. |
Các cung khác nhau nhập cuộc mang theo những phần tử có màu sắc của cung đó. Những cung ra đi cũng mang theo những phần tử với một màu cơ bản khác. Trong thời gian chuyển tiếp, sự pha trộn màu sắc hết sức phức tạp, nhưng cũng có tính tương trợ và giúp ích lẫn nhau. Mỗi cung đều truyền đạt ít nhiều cho các cung khác đang lâm phàm đồng thời, và mức độ tiết điệu cũng phần nào ảnh hưởng nhau. Nhìn theo quan điểm của hiện tại và của thời gian trong tam giới thì ảnh hưởng này hầu như rất ít ỏi, không thể đánh giá được. Nhưng nhờ sự thường xuyên gặp gỡ và tương tác của các mãnh lực và màu sắc, nhờ chúng luôn tác động và ảnh hưởng lẫn nhau mà có sự liên tục nâng cao chung, và sự rung động tương tự. Cho nên, các bạn sẽ thấy cách nào để đạt được sự tổng hợp vào cuối mỗi đại giai kỳ sinh hóa. Bảy cung thu vào ba và rốt cuộc hòa vào cung tổng hợp. |
|
In the microcosm the three rays of the Monad, the Ego, and the Personality will likewise dominate and absorb the seven, and in time also lead to a merging in the [235] synthetic ray of the Monad. The correspondence will be found perfect. |
Trong tiểu vũ trụ thì ba cung của Chân thần, Chân nhân và Phàm nhân cũng sẽ chế ngự và hấp thu bảy cung, và cũng [235] đưa đến sự hòa hợp đúng lúc vào cung tổng hợp của Chân thần. Sự tương ứng này thật hoàn toàn. |
|
These forces, or virtues, or influences (I reiterate synonymous terms because of the need of clear thinking on your part) are gradually received into the bodies of the personality with ever greater facility and fuller expression. As the bodies are refined they provide better mediums for incoming forces, and the quality of any particular force,—or, to reverse it, the force of any particular quality—becomes more perfectly expressed. Here comes in the work of the student in meditation. Early in evolution these forces played through and on the bodies of a man with little understanding on his part, and small ability to profit thereby. But as time proceeds, he comprehends more and more the value of all that eventuates, and seeks to profit by the sum of the qualities of his life. Herein comes opportunity. In the intelligent apprehension of quality, in the striving after virtue, and in the building-in of God-like attribute, comes response to those forces and a facilitating of their action. The student of meditation ponders on those forces or qualities, he seeks to extract their essence, and to comprehend their spiritual significance; he broods on his own lack of response, he realises the deficiencies in his vehicle as a medium for those forces; he studies the rate of his rhythmic vibration, and he strenuously endeavors to bend every opportunity to meet the need. He concentrates on the virtue, and (if he is so situated that he is aware of the incoming ray or of the ray in dominance at that time), he avails himself of the hour of opportunity and co-operates with the force extant. All this he does through the ordered forms of the true and occult meditation. |
Những mãnh lực hay đức hạnh, hoặc ảnh hưởng này (tôi lặp lại các thuật ngữ đồng nghĩa vì các bạn cần suy tư thật sáng tỏ) được thu nạp dần vào các hạ thể của phàm nhân ngày càng dễ dàng hơn và phát biểu đầy đủ hơn. Khi các thể được tinh luyện, chúng trở thành những phương tiện tốt hơn cho các mãnh lực lưu nhập. Và phẩm tính của một loại mãnh lực nào đó – hay nói ngược lại, mãnh lực của một phẩm tính nào đó – sẽ nhờ thế mà được phát biểu hoàn hảo hơn. Đây là công việc của người môn sinh hành thiền. Ở giai đoạn tiến hóa ban đầu, các mãnh lực này tác động vào và thông qua các thể của con người mà y chẳng nhận biết được bao nhiêu và ít có khả năng ích dụng được chúng. Nhưng thời gian qua, y ngày càng hiểu được giá trị của tất cả các thành quả và tìm cách ích dụng tất cả những phẩm tính của cuộc sống y. Đây là cơ hội. Nhờ thông hiểu phẩm tính, nhờ phấn đấu tập rèn đức hạnh, và nhờ kiến tạo các thuộc tính giống như Thượng Đế, y có thể ứng đáp với các mãnh lực này và giúp chúng dễ dàng tác động hơn. Khi suy ngẫm về các mãnh lực hay phẩm tính này, người môn sinh hành thiền tìm cách thu thái tinh hoa của chúng và thấu hiểu nguyên nghĩa tinh thần của chúng. Y ngẫm nghĩ về sự đáp ứng thiếu sót của mình. Y nhận thức được những khiếm khuyết trong các thể dùng làm phương tiện cho các mãnh lực này. Y nghiên cứu mức độ rung động tiết điệu của mình, rồi ra sức cố gắng tìm mọi cơ hội để đáp ứng nhu cầu cần thiết. Y chú tâm vào đức hạnh, và nếu y có thể biết được cung nào đang đến, hay cung nào đang chế ngự vào thời gian đó y sẽ nắm được thời cơ và hợp tác với mãnh lực đang có. Tất cả các việc này y thực hiện được qua những phương thức thiền huyền môn có trình tự và chân truyền. |
|
As time progresses—yes, again I prophesy—occult students will be given certain facts anent the dominating [236] rays which will enable them to avail themselves of the opportunity any particular ray affords. |
Theo thời gian – vâng, tôi lại tiên đoán nữa – các đạo sinh [236] sẽ được chỉ dạy một số sự kiện về các cung đang chế ngự, để họ có thể nắm lấy cơ hội mà bất cứ cung nào mang lại. |
|
Ảnh hưởng đối với Môi trường chung quanh. |
|
|
As regards our third point, the effect of all the above on the environment, it will be obvious at once to the careful student that the effect upon the environment will be noticeable, especially as more and more of the human race come under the conscious control of their higher self and in line with the law. Certain things will then be possible:— |
Về điểm thứ ba, tức là ảnh hưởng của tất cả các điều kể trên vào môi trường chung quanh, nếu xem xét kỹ các bạn sẽ thấy rõ ngay rằng ảnh hưởng này rất đáng kể. Đặc biệt là vì nhân loại ngày càng ở dưới sự kiểm soát hữu thức của Chân ngã họ, và sống càng đúng theo định luật. Bấy giờ một số điều có thể xảy ra: – |
|
a. Direct contact with the deva or angel evolution will come about, though it is impossible now through instability of vibration. |
a. Sẽ có sự liên giao trực tiếp với trường tiến hoá thiên thần, dù việc ấy hiện nay chưa thể có, vì sự rung động của nhân loại chưa ổn định. |
|
b. Many very highly developed souls will come in who are at present hindered by the low rate of vibration and consequent heaviness of colour of the majority of the human race. There are, in the heaven world and on the causal level, some great, and, to you, incomprehensible units of the fourth Creative Hierarchy, awaiting opportunity of expression, just as some of you awaited a period in the Atlantean race before taking incarnation on this planet. When the rate of the vibration of a larger percentage of the race has reached a certain measure, and when the colour aspect of the co-ordinated auras of the groups is of a certain tone, they will return, and bring to the earth much of value past your realisation. |
b. Nhiều linh hồn tiến hóa rất cao sẽ đến, mà hiện tại họ bị trở ngại vì mức rung động chậm chạp, tạo nên những màu sắc u tối trong phần đông nhân loại. Trong thiên giới và ở cấp thượng thiên có một số linh hồn cao cả – mà các bạn không thể hiểu được – là những vị trong Huyền giai Sáng tạo thứ tư đang chờ cơ hội biểu hiện. Điều này giống như một số bạn đã chờ đợi một thời gian trong căn chủng Atlantis trước khi đầu thai. Khi độ rung động của phần đông nhân loại đã đạt một mức nhất định và khi màu sắc trong các hào quang phối hợp của các nhóm đạt một độ sáng nào đó, những vị này sẽ trở lại và đem đến cho địa cầu nhiều điều giá trị vượt khỏi tầm nhận thức của các bạn. |
|
c. Another interesting point upon which we have not time to dwell is that the rhythmic effect on even the two kingdoms beneath the human will be objectively demonstrable. It was no idle boast of the prophet of Israel when he said “The leopard shall lie down with the lamb” or that “the desert shall blossom like a rose”. It will be [237] brought about by the domination of certain vibrations and the bringing in of certain colours veiling certain virtues or influences. |
c. Còn một điểm thú vị khác nữa mà chúng ta không có thời gian để bàn là tác dụng nhịp nhàng vào ngay cả hai giới thấp hơn nhân loại cũng sẽ biểu lộ ra ngoại giới. Nhà tiên tri của dân Do Thái đã nói không ngoa rằng “Con báo sẽ nằm bên cạnh con cừu” hay là “sa mạc sẽ bừng nở như đóa [237] hoa hồng.” Điều này sẽ xảy ra nhờ sự thống ngự của những rung động nhất định và nhờ mang lại một số màu sắc ẩn chứa những phẩm tính hay ảnh hưởng nhất định. |
|
SEPTEMBER 7TH, 1920. |
Ngày 7-9-1920. |
|
Today we will take up the subject of the application of colour. If colours are but the veil cast over an influence, and if you can, by use of the intuition, find out which colours thus shroud a virtue you have the key to the matter in hand. You will have noted two facts that stand out in these letters:— |
Hôm nay chúng ta bàn đến sự ứng dụng của màu sắc. Nếu màu sắc chỉ là bức màn che giấu một ảnh hưởng, và nếu các bạn có thể dùng trực giác khám phá ra màu sắc nào bao hàm đức hạnh nào, thì các bạn sẽ nắm được chìa khóa của vấn đề đang bàn. Trong những bức thư này, các bạn nên lưu ý đến hai sự kiện nổi bật là: – |
|
That the subject touched upon is so vast that only its outline has in any way been attempted. |
Vấn đề chúng ta đang bàn vốn rất rộng rãi nên chỉ có thể đưa ra những nét đại cương thôi. |
|
That each sentence written in these letters aims at an exact impartation of a complete thought and is full of matter for consideration. Why have I not dealt with the matter in greater detail, and why have I not entered into lengthy explanations and sought to expand the sentences into paragraphs? For the sole reason that if the preliminary work has been done in the meditation of the past years by the student he will find the material of these letters conducive to the development of abstract thought, and to the widening of the channel that communicates with the intuition. I but seek to be suggestive. My aim is but to indicate. The usefulness of the teaching I give depends upon the intuition of the pupil. Therefore, when I say that colour has certain effects when applied I would warn you that it will be necessary to interpret the above in terms of life, in terms of form, and in terms of mind. |
Mỗi câu trong các bức thư này đều nhằm truyền đạt chính xác một tư tưởng đầy đủ, và có nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Tại sao tôi không bàn vấn đề với nhiều chi tiết hơn, và tại sao tôi không giải thích dài dòng bằng cách khai triển các câu thành những đoạn văn? Lý do duy nhất là nếu trong những năm hành thiền đã qua người môn sinh đã làm xong công việc ở bước đầu cần thiết, y sẽ tìm thấy trong những bức thư này đủ tài liệu giúp có thể phát triển tư tưởng trừu tượng, và mở rộng con đường thông đạt với trực giác. Tôi chỉ tìm cách gợi ý thôi. Mục tiêu của tôi là chỉ dẫn, còn lợi ích của các lời giáo huấn thì tùy theo trực giác của người môn sinh. Vì thế, khi tôi nói rằng màu sắc có những hiệu quả nhất định khi đem áp dụng tức là tôi muốn khuyên các bạn rằng cần phải giải thích điều đó trong phạm vi sự sống, trong phạm vi hình thể, và trong phạm vi trí tuệ. |
|
Ứng dụng của màu sắc. |
|
|
a. In meditation. |
a. Trong tham thiền. |
|
b. In healing. |
b. Trong việc chữa bệnh. |
|
c. In constructive work. [238] |
c. Trong công tác kiến tạo. [238] |
|
Colour may be used in many ways, and the above three ways do not cover the subject. They but indicate three ways that are of immediate and practical use to the student. Colour may be employed in contacting other evolutions, subhuman or superhuman; in definite work of destruction or of shattering; it may be used in connection with other methods such as music or movement, or in connection with stated mantrams, thereby bringing about certain results, but with all these we need not, in this series of letters, concern ourselves. The growth of the individual and his increased capacity to be of service are all brought about by the wise use of occult meditation. Let us therefore consider our first point. |
Màu sắc có thể được sử dụng nhiều cách, và ba cách trên không gồm trọn cả vấn đề. Ba cách này chỉ có tính trực tiếp và thực dụng đối với người môn sinh mà thôi. Màu sắc có thể được dùng để tiếp xúc với các giới tiến hóa khác, thấp hơn hay cao hơn nhân loại, hoặc trong công tác xác định nhằm tiêu hủy hay phá vỡ. Màu sắc cũng có thể được dùng phối hợp với những phương pháp khác như âm nhạc hay chuyển động, hoặc với các câu thần chú đặt sẵn để mang lại những kết quả nhất định. Nhưng tất cả các công dụng đó chúng ta không cần phải quan tâm đến trong loạt thư này. Sự phát triển của con người và khả năng phụng sự ngày càng tăng của y đều được thực hiện nhờ sử dụng thiền huyền môn một cách khôn ngoan, sáng suốt. Vậy chúng ta hãy xem xét điểm đầu tiên. |
|
Use of Colour in Meditation. |
Sử dụng Màu sắc trong Tham thiền. |
|
All colours emanate from one source or one primary colour—in this solar system the cosmic ray of indigo veiling cosmic love or wisdom,—and then split into three major colours and thence into the four minor, making the seven colours of the spectrum. You will expect to see the same effect in the life of the individual, for always the macrocosm affects the microcosm. His primary colour will be his monadic ray, manifesting next in the three colours of the Triad and in the four colors of the Quaternary. These colours on the path of return are resolved into the three and thence again into the one. |
Tất cả màu sắc đều phát ra từ một nguồn hay từ một màu nguyên thủy – trong thái dương hệ này cung vũ trụ màu chàm hàm chứa nguồn bác ái hay minh triết vũ trụ, – và sau đó phân thành ba màu chính, rồi bốn màu phụ để thành bảy màu trong quang phổ. Các bạn có thể thấy hiệu quả tương tự trong cuộc sống cá nhân, vì bao giờ đại vũ trụ cũng ảnh hưởng đến tiểu vũ trụ. Màu nguyên thủy của cá nhân là cung Chân thần của y, kế đó biểu hiện thành ba màu của Tam nguyên và thành bốn màu của tứ hạ thể. Những màu này trên con đường phản bổn hoàn nguyên trở thành ba rồi lại thành một. |
|
The path of manifestation, of differentiation, is the path of acquisition. It is the homogeneous becoming the many or the heterogeneous. It is the breaking up of the one basic colour into its many component parts. This is the form side, the expression of that which veils the life. On the life side it is the development from the one basic quality of the many inherent virtues; it is the latent possibility of divinity demonstrating as the many attributes of [239] the divine; it is the one life manifesting its many qualities through diversity of form. It is the self, with the inherent capabilities of the All Self, utilising forms for the demonstration of its all-including perfections. On the intelligence side it is the method whereby the life utilises the form and develops its thorough comprehension, analysis and intellect. It is the relation between life and form, the self and the not-self, between spirit and matter, manifesting as modes of expression whereby the indwelling divinity imposes his characteristics upon the material provided for his using. The God within expresses all his latent virtues through forms by the use of activity or intelligence. The life shows colour and the form perfects those colours, as the intelligence aspect (which forms the energising link) becomes more evolved and comprehension is developed. |
Con đường biểu hiện hay phân hóa là con đường hoạch đắc. Đó là cái đồng nhất trở thành cái vạn thù, dị biệt. Đó là sự phân tách màu căn bản duy nhất thành nhiều màu phối hợp. Đó là phương diện sắc tướng, là sự phát biểu của những gì che giấu sự sống. Về phương diện sự sống, đó là sự phát triển từ một phẩm tính căn bản duy nhất thành nhiều đức hạnh cố hữu. Đó là khả năng ẩn tàng của Thiên tính phát [239] biểu thành nhiều thuộc tính thiêng liêng. Đó là sự sống duy nhất phát biểu những phẩm tính của Nó qua sắc tướng thiên hình vạn trạng. Đó là cái ngã có đủ khả năng tiềm tàng của Toàn Ngã, sử dụng các hình thể để phát biểu những mức độ hoàn thiện bao gồm tất cả. Về phương diện thông tuệ, đó là phương pháp để sự sống sử dụng hình thể và phát triển sự hiểu biết, khả năng phân tích và trí tuệ toàn vẹn của nó. Đó là mối liên hệ giữa sự sống và hình thể, giữa cái ngã và phingã, giữa tinh thần và vật chất thể hiện dưới mọi cách phát biểu để cho thiên tính ẩn nội áp đặt các đặc tính của nó vào phần vật chất dành cho nó sử dụng. Thượng Đế nội tâm phát biểu tất cả các thiên đức ẩn tàng của Ngài thông qua các hình thể, nhờ sử dụng sự hoạt động hay thông tuệ. Sự sống phô bày màu sắc, và hình thể làm hoàn hảo các màu sắc này khi phương diện thông tuệ (là liên kết truyền năng lượng) trở nên tăng tiến hơn và sự thông hiểu phát triển. |
|
On the path of return, renunciation is the rule, in contradistinction to the earlier method. The indwelling life renounces the forms, hitherto regarded (and necessarily so) as essential. By the use now of the intelligence which has linked these two pairs of opposites, spirit and matter, consciousness and form, the forms built of matter by the aid of the intelligence are one after another repudiated by the aid of that same intelligence, or reasoning faculty transmuted into wisdom. The forms go, but the life remains. The colours are gradually reabsorbed, but the divine virtues persist, stable now and enduringly of use by reason of experience. Not potential are these attributes divine, but developed into powers for use. Inherent faculty has become active characteristics carried to the nth power. The veils are discarded one by one; the sheaths are dropped and superseded; the vehicles are dispensed with and the forms are no longer required, but the life ever remains and returns to its parent ray. It is [240] resolved back into its primary, plus activity and expression plus experience and the ability to manifest; plus all that constitutes the difference between the ignorant savage and the solar Logos. This has been consummated by the utilisation of many forms by the life, the intelligence constituting the means whereby that life employed those forms as a mode for learning. Having manifested as an aspect of this primary ray, having through many incarnations differentiated that ray into its many component parts, having veiled himself under all the seven colours that compose that ray, the reincarnating jiva takes the path of return and from the seven becomes the three and from the three again becomes the one. |
Trên đường trở về cội nguồn, qui luật là sự từ bỏ, ngược lại với phương pháp trước. Sự sống nội tại từ bỏ các hình thể mà từ trước đến giờ vẫn được xem là (và tất nhiên là) thiết yếu. Giờ đây nhờ sử dụng trí thông tuệ vốn đã liên kết các cặp đối cực, tinh thần và vật chất, tâm thức và hình thể, mà các hình tướng vật chất được kiến tạo nhờ trí thông tuệ sẽ lần hồi bị từ bỏ cũng bởi chính trí thông tuệ đó, hay khả năng suy luận đã được chuyển hóa thành minh triết. Hình thể bị bỏ đi nhưng sự sống vẫn còn. Các màu sắc dần dần bị tái hấp thu, nhưng các thiên đức vẫn tồn tại, giờ đây nhờ có kinh nghiệm nên rất vững bền và mãi mãi hữu dụng. Các thuộc tính thiêng liêng này không còn tiềm tàng mà đã được phát triển thành các quyền năng để sử dụng. Khả năng bẩm sinh trở thành những đặc tính tích cực, tăng lên đến lũy thừa bậc n. Các màn che lần lượt bị loại bỏ. Các thể bị bỏ rơi và thay thế. Các vận cụ bị tháo bỏ và những hình thể không còn cần thiết nữa, nhưng sự sống vẫn còn mãi và trở về với bản cung [240] đã sinh ra nó. Nó trở về điểm khởi thủy, có thêm khả năng hoạt động và phát biểu, thêm kinh nghiệm và khả năng biểu hiện. Nó cũng có thêm tất cả những sự khác biệt giữa một người dốt nát dã man và Đức Thái Dương Thượng Đế. Điều này đã được thực hiện hoàn tất nhờ sự sống sử dụng các hình thể, lấy trí thông tuệ làm phương tiện để sử dụng các hình thể đó như một phương cách học tập. Khi đã biểu hiện với tư cách một trạng thái của cung nguyên thủy này, khi qua nhiều kiếp luân hồi đã phân hóa cung này thành các bộ phận kết hợp, sau khi đã khoác lên mình cả bảy màu sắc của cung này, linh hồn cá nhân đang luân hồi bèn lên đường trở về, từ bảy trở thành ba và từ ba lại trở thành một. |
|
When the man does this consciously, when he willingly and with full comprehension of what he has to do endeavours to set the indwelling life free from the veils that hide, and from the sheaths that imprison, he discovers that the method whereby this is accomplished is by the subjective life of occult meditation, and the objective life of service. In service is renunciation, and, under the occult law, therefore, in service the subjective finds liberation, and is set free from objective manifestation. Think this out, for it has much hidden under the veil of words. |
Khi hành giả làm được điều này một cách hữu thức, khi với sự tự nguyện và thông hiểu những gì cần phải làm y cố gắng giải thoát sự sống bên trong khỏi các lớp màn che án và khỏi các lớp vỏ giam hãm, thì y khám phá ra rằng phương pháp mà y dùng để hoàn tất điều này là cuộc sống thiền huyền môn ở nội tâm và cuộc sống phụng sự ở ngoại cảnh. Trong phụng sự có sự từ bỏ, thế nên theo định luật huyền môn sự sống nội tâm tìm được sự giải thoát trong phụng sự và được tự do, khỏi vướng bận trong cuộc biểu hiện ở ngoại cảnh. Hãy suy ngẫm kỹ điều này vì trong ngôn từ có nhiều ẩn nghĩa. |
|
The occult student, therefore, from the standpoint of colour has two things to do in meditation. |
Vì thế, về phương diện màu sắc người đạo sinh phải làm hai việc trong tham thiền. |
|
1. To discover his three major colours as manifested in the Personality, the Ego, and the Monad. |
1. Khám phá ba màu chính yếu của y biểu lộ trong Phàm nhân, Chân nhân và Chân thần. |
|
2. To resolve then the lower quaternary into the three, the first stage of which is consciously to withdraw into the Ego and so atrophy the lower self. The student begins by eliminating the colours that are not desirable, killing out all low or coarse vibration and eventually so [241] refining his vehicles that the three major colours—of which he is the expression—shine out with perfect clarity. This leads him up to the third initiation. After that, he seeks to resolve the three into the one until he has withdrawn all his consciousness from the lower vehicles into the monadic sheath. |
2. Chuyển tứ hạ thể thành Tam nguyên, mà giai đoạn đầu là hữu ý thu vào Chân nhân để giảm dần sự chi phối của phàm tính. Người môn sinh bắt đầu thải trừ những màu sắc không thích hợp, loại các rung động thấp và thô để cuối cùng [241] tinh luyện các hiện thể đến mức ba màu chính yếu mà y biểu lộ tỏa chiếu một cách trong sáng hoàn toàn. Điều này đưa y đến mức điểm đạo lần thứ ba. Sau đó, y biến đổi ba màu thành một, cho đến khi từ các hạ thể y thu trọn cả tâm thức vào trong lớp áo của Chân thần. |
|
It was not my intention, as you erroneously supposed, to give you information as to the effect of colours playing on the bodies in meditation. I have sought only to give you some idea of colour as a veil that must eventually be set aside. Under the heading of the “Future use of colour,” I may touch upon that which interests you, but to understand fundamentals is far better than to have formulas for experimenting given to you. |
Tôi không có ý định nói rõ về tác dụng của màu sắc vào các thể trong tham thiền như các bạn vẫn tưởng. Tôi chỉ tìm cách trao cho các bạn ý niệm về màu sắc là bức màn che mà cuối cùng phải loại bỏ. Với đề mục “Công dụng của màu sắc trong tương lai,” tôi có thể nói đến những điểm khiến các bạn quan tâm nhưng hiểu các điều căn bản thì vẫn tốt hơn là cho những công thức để các bạn thí nghiệm. |
|
SEPTEMBER 10TH, 1920. |
Ngày 10-9-1920. |
|
We will, today, scarcely do more than touch upon our second point, which is the application of colour for healing purposes, the reason for this brevity being that the subject, in order to be handled correctly and therefore safely, should be dealt with at length, and the old adage will consequently prove true in this connection that “a little knowledge is a dangerous thing”. Unless the matter of healing with colour is dealt with in correct fashion and with technical knowledge and at length, the results achieved might prove more disastrous than beneficent. The subject will later be fully elucidated if the future brings that which is intended, and in the meantime I can, for your information, outline certain features of this work, point out certain conditions incident to success, and foretell for you somewhat the trend the matter will probably take. [242] |
Hôm nay chúng ta chỉ bàn sơ qua điểm thứ hai, là vấn đề ứng dụng màu sắc để chữa bệnh. Sở dĩ phải nói vắn tắt là vì muốn vận dụng vấn đề này một cách đúng đắn và nhờ đó mới an toàn thì cần phải nói đầy đủ chi tiết. Ở đây một câu tục ngữ xưa sẽ tỏ ra là đúng: “Sự hiểu biết thiếu sót là một điều nguy hiểm.” Ngày nào vấn đề chữa trị bằng màu sắc chưa được đề cập một cách đúng đắn, đầy đủ chi tiết cùng với kiến thức chuyên môn, thì các kết quả đạt được có thể cho thấý nhiều tai hại hơn là lợi ích. Sau này vấn đề sẽ được minh giải đầy đủ, nếu tương lai mang lại được những gì đã định. Trong thời gian chờ đợi, để giúp các bạn hiểu thêm, tôi có thể nói sơ lược một số đặc điểm của công việc này, nêu ra một số điều kiện để được thành công, và tiên đoán phần nào khuynh hướng khả dĩ có của vấn đề. [242] |
|
Application of colour in healing. |
Ứng dụng màu sắc để chữa bệnh. |
|
We are dealing with the subject now from the standpoint of meditation. It is essential therefore that we consider the subject from that angle. In meditation the work of healing is handled entirely from the mental standpoint. The direction of any force supplied will be from the mental body of the patient and will work from thence to the physical via the emotional. |
Chúng ta đang bàn về vấn đề này theo quan điểm tham thiền. Trong tham thiền, việc trị liệu được thực hiện hoàn toàn trên bình diện trí tuệ. Việc vận dụng bất cứ loại mãnh lực nào được cung cấp cũng từ thể trí của bệnh nhân, và từ đó tác động vào thể xác, thông qua thể tình cảm. |
|
This involves on the part of the person or group that undertakes this work the ascertaining of certain facts. Let us briefly enumerate them in order to clarify the mind of the reader:— |
Người hay nhóm đảm nhận việc trị liệu phải xác định được một số sự kiện. Hãy kể sơ lược ra đây để độc giả dễ hiểu hơn: – |
|
1. The work will be largely subjective and will deal with causes and not with effects. The primary aim of the healing group will be to discover the originating cause of the trouble and having located that cause in either the emotional or the mental body the members of the group will then proceed to deal with the effect as demonstrated in the physical or the etheric. Should the trouble be entirely physical, such as is the case in an accident of any kind, or in some affliction which is purely the result of heredity or of congenital trouble, the ordinary high class physical plane scientific methods will be applied at first, and the work of the healers will be to aid those methods through concentration on the subtler bodies. This applies during the transition period into which the race is now entering. Later, when the knowledge of occult healing is more familiar, and the laws which govern the subtle bodies are more known, physical plane science will be superseded by the preventive science of the subtler planes, that science which aims at the provision of right conditions and the building of bodies that are both self-protecting and neutral to all attack. It will he found that the comprehension [243] of the law of vibration, and the effect of one vibration upon another vibration holds the key to the establishing of better conditions of living, and of sound bodies on all planes. |
1. Phần lớn công việc có tính cách nội tại và sẽ xem xét các nguyên nhân chứ không chú trọng đến hiệu quả. Mục tiêu đầu tiên của nhóm trị liệu là khám phá ra nguyên nhân phát khởi căn bệnh. Khi đã định được nguyên nhân đó trong thể tình cảm hay thể trí, các thành viên của nhóm mới tiến hành xem xét hiệu quả biểu lộ trong thể xác hay thể dĩ thái. Nếu vấn đề hoàn toàn thuộc về thể xác, như trường hợp một loại tai nạn, hay một bệnh tật hoàn toàn do di truyền hoặc bẩm sinh, thì các phương pháp trị liệu cấp cao của khoa học thường thức ở cõi trần sẽ được áp dụng trước hết. Công việc của nhóm trị liệu sẽ là trợ giúp các phương pháp này bằng cách tập trung vào các thể thanh hơn. Điều vừa kể được áp dụng trong thời kỳ chuyển tiếp mà hiện nay nhân loại đang bước vào. Về sau, khi kiến thức về khoa trị liệu nội môn trở nên phổ biến hơn và những định luật chi phối các thể thanh được hiểu biết nhiều hơn thì khoa trị liệu ở cõi trần sẽ được thay thế bằng khoa phòng bệnh ở các cõi tế vi. Khoa này sẽ nhằm cung ứng những điều kiện đúng đắn và kiến tạo các thể để vừa tự bảo vệ vừa hóa giải được mọi sự tấn công của bệnh tật. Người ta sẽ thấy sự thấu hiểu luật rung động và ảnh [243] hưởng của một rung động vào một rung động khác, là chìa khóa của việc cải thiện điều kiện sống, và tạo nên những thể lành mạnh trên mọi cảnh giới. |
|
But as things are now, disease, corruption of different kinds and trouble in all the bodies is everywhere contacted, and when conditions are thus recognised, means of aiding must be earnestly sought. This leads us on to our next point: |
Nhưng như hiện nay bệnh tật, những loại suy yếu khác và sự đau đớn trong tất cả các thể đang có khắp nơi, và khi những tình trạng đó đã được nhận thức, thì rất cần tìm phương tiện để trợ giúp. Điều này đưa chúng ta đến điểm kế tiếp: |
|
2. The ascertaining by the group that practises healing of full information as to the patient, based on the following questions:— |
2. Nhóm trị liệu phải xác định đầy đủ các chi tiết về bệnh nhân, dựa theo những câu hỏi sau đây: – |
|
a. What are his basic lines of thought? |
a. Bệnh nhân có những lối suy tư cơ bản nào? |
|
By what thoughtforms is he principally surrounded? |
Chính yếu là những hình tư tưởng nào đang bao bọc quanh y? |
|
b. What is the predominant hue of his emotional body? What is its rate of vibration? |
b. Màu sắc nào nổi bật trong thể tình cảm của bệnh nhân? Với mức độ rung động ra sao? |
|
Is the patient subject to sudden turmoils that throw the entire emotional body into disorder? |
Bệnh nhân có đang bị một xáo trộn bất ngờ khiến cho toàn bộ thể tình cảm của y bị rối loạn không? |
|
c. What are his most ordinary topics of conversation? What are his principal interests? |
c. Y thường đề cập đến những vấn đề nào? Những quan tâm chính của y là gì? |
|
What literature does he study? |
Y thường nghiên cứu những loại sách báo gì? |
|
What are his favourite pursuits? |
Và thích theo đuổi những điều gì? |
|
d. What is the condition of the centres in his body? Which centres are awakened? |
d. Tình trạng các luân xa trong cơ thể của y ra sao? Những luân xa nào đã được đánh thức? |
|
Are any centres rotating in fourth dimensional order? Which centre is the major one in any particular case? |
Có luân xa nào đang quay trong phạm vi bề đo thứ tư không? Trong một trường hợp đặc biệt nào đó thì luân xa nào là chính yếu? |
|
e. What is the state of the etheric body? |
e. Tình trạng thể dĩ thái của bệnh nhân ra sao? |
|
Does it show symptoms of devitalisation or of congestion? |
Nó có triệu chứng mất sinh lực hay bế tắc không? |
|
Is the patient lacking in vitality? |
Bệnh nhân có thiếu sinh lực không? |
|
What is the value of his magnetic action on other people? [244] |
Ảnh hưởng từ lực của y đối với người khác như thế nào? |
|
Having studied the patient from all these angles, and not at any earlier time, will the group who purpose healing study the physical vehicle itself in detail. Then—with some idea of the inner conditions that underlie the trouble—they will study as follows:— |
[244] Khi đã xem xét bệnh nhân theo tất cả các khía cạnh này rồi (chứ không sớm hơn), nhóm trị liệu mới quan sát chi tiết trong chính thể xác của y. Sau đó, khi đã có ý niệm về các tình trạng gây bệnh, nhóm sẽ nghiên cứu đến: – |
|
f. The condition of the nervous system, giving particular attention to the spine, and to the state of the inner fire. |
f. Tình trạng hệ thần kinh của bệnh nhân, đặc biệt lưu ý đến cột sống và tình trạng của luồng nội hỏa. |
|
g. The state of the various organs of the body, and especially the organ, or organs, that are causing distress. |
g. Tình trạng của các cơ quan trong cơ thể, nhất là cơ quan hay những cơ quan đang gây bệnh. |
|
h. The structure itself, studying the bones and the flesh, and the condition of the vital fluid, the blood. |
h. Cấu trúc cơ thể của bệnh nhân, xương, thịt và tình trạng của chất lỏng thiết yếu là máu. |
|
Higher vision and health. |
Nhãn quan cao và sức khỏe. |
|
This, as you can see, necessarily involves either direct scientific knowledge, or else it involves the faculty of inner vision, that sees the trouble wherever it may be, and can clairvoyantly view the entire frame and organs, so locating instantaneously any trouble. This capacity presupposes the development of those inner powers which give knowledge in the three worlds, and so obviates the disastrous mistakes that so oft eventuate in the modern practice of medicine, as you call the art of healing. There will not be so much danger of error in the future day of healing, but what I seek to point out is that although those errors will be obviated in the case of the physical body, yet much time must elapse before full comprehension of the emotional body has reached the point where modern science has placed the physical. The healing of the physical body and its due comprehension and study can be carried on by the man who has the inner vision. With his ability to see on emotional levels he can co-operate with the modern enlightened medical man, and thus safeguard [245] him from error, enabling him to judge truly of the extent of the trouble, the seat of distress, its assistance, and the progress of the cure. |
Như các bạn có thể thấy, nhất thiết việc định bệnh này phải cần kiến thức khoa học trực tiếp, hoặc bằng cách khác là dùng nội nhãn thông để thấy được căn bệnh ở đâu, và có thể dùng nhãn thông quan sát toàn thân và các cơ quan, để định ngay được vị trí bệnh tật. Muốn có khả năng này cần phải phát triển các quyền năng nội tại để thu được kiến thức trong tam giới. Nhờ đó tránh được những sai lầm tai hại thường xảy ra trong việc thực hành y khoa hiện nay, gọi là thuật điều trị. Trong tương lai sẽ không còn nguy cơ sai lầm nhiều đến thế trong trị liệu. Thế nhưng, dù có thể tránh được các sai lầm này trong trường hợp điều trị thể xác, hãy còn lâu sự hiểu biết đầy đủ về thể tình cảm mới đến mức mà khoa học hiện đại đã đạt đối với thể xác. Việc chữa trị thể xác và sự hiểu biết hay nghiên cứu đúng đắn về thể xác có thể thực hiện được do một người có nội nhãn thông. Nhờ khả năng thấy được các cấp độ tình cảm, y có thể hợp tác với người [245] thầy thuốc sáng suốt hiện nay để giúp vị này khỏi bị sai lầm, xác định đúng tầm mức của cơn bệnh, nguyên nhân bệnh tật, phương tiện trợ giúp, và tiến độ trị liệu. |
|
Emotional trouble that is working out in the physical body, as is the case in the majority of physical ills today, can usually be located and eliminated by judicious treatment. But emotional trouble that is deepseated in the subtle body has to be dealt with from mental levels, so that it requires a mental psychic to deal with and eliminate it. All these methods of course entail the active conscious co-operation of the patient himself. |
Bệnh tật của thể tình cảm biểu lộ trong thể xác, như phần lớn các bệnh thân xác của nhân loại hiện nay, thường có thể định bệnh và loại trừ được nhờ điều trị đúng. Nhưng đối với các bệnh ở thể tình cảm đã ăn sâu vào thể thanh này thì phải đối trị từ các cấp độ trí tuệ, vì thế phải cần người có nhãn thông thể trí để đối trị và tiêu trừ. Dĩ nhiên là tất cả những phương pháp này đều cần đến sự hợp tác hữu ý và tích cực của chính bệnh nhân. |
|
Similarly, mental trouble has to be dealt with directly from the causal level, and necessitates therefore the assistance of the Ego, and the help of someone who has causal vision and consciousness. This latter method, and the major part of these types of trouble, lie far ahead for the race, and therefore little concern us at this time. Nevertheless the curing of physical ailments that have their seat in the emotional body is already beginning to be known and slightly studied. In the study of psychology and in the comprehension of nervous diseases and troubles and their linking together will come the next step ahead in medical science. The link between the body of the emotions and physical body is the etheric body. The next immediate step is to consider the etheric body in two ways, either as a transmitter of prana, the life force, vitality or magnetism, or as the vehicle which links the emotional nature to the dense physical. The physical invariably follows the behests of that nature as transmitted via the etheric. |
Tương tự, bệnh tật của thể trí thì phải đối trị ngay từ cấp của thể nguyên nhân, cho nên cần sự trợ giúp của Chân nhân, và người đã có nhãn quan và tâm thức của thể này. Phương pháp sau cùng vừa kể và phần lớn các bệnh loại này còn lâu mới xảy ra cho nhân loại, nên ngày nay không mấy liên quan đến chúng ta. Tuy nhiên, việc trị liệu các bệnh của xác thân (bắt nguồn từ thể tình cảm) thì đã bắt đầu được biết và nghiên cứu đôi chút. Khi kết hợp nghiên cứu tâm lý học và thấu hiểu các loại bệnh thần kinh, y khoa sẽ tiến đến bước kế tiếp. Thể dĩ thái là thể nối liền thể tình cảm và thể xác. Bước kế tiếp là nghiên cứu thể dĩ thái theo hai lối, hoặc xem nó là bộ máy truyền dẫn prana, sức sống, sinh khí hay từ lực, hoặc là vận cụ nối liền bản tính tình cảm với xác thân. Thể xác triệt để tuân theo mệnh lệnh của bản tính này truyền qua thể dĩ thái. |
|
In forming groups for healing under ideal conditions you would have at the head of the group a person with causal consciousness, who can deal with any trouble in the mental body, and who can study the alignment of all [246] the bodies with the Ego. The group will also include:— |
Khi thành lập các nhóm trị liệu theo những điều kiện lý tưởng, vị trưởng nhóm phải là người có được tâm thức của thể nguyên nhân. Người này có thể đối trị được bất cứ bệnh tật nào trong thể trí, và có thể khảo sát được sự chỉnh hợp của [246] các thể với Chân nhân. Nhóm cũng sẽ bao gồm: – |
|
a. A person, or persons who can clairvoyantly view the subtle body of the emotions. |
a. Một người hay nhiều người có nhãn thông, thấy được thể thanh là thể tình cảm. |
|
b. A number of people who know somewhat the rudiments of the law of vibration, and can definitely, by the power of thought, apply certain waves of colour to effect certain cures, and bring about, through scientific comprehension, the desired results. |
b. Một số người hiểu được phần nào các nguyên tắc căn bản của luật rung động. Họ có thể dùng quyền năng tư tưởng để áp dụng chính xác những sóng màu sắc trong một số cuộc trị liệu, và nhờ kiến thức khoa học mà đạt được những kết quả mong muốn. |
|
c. Some member of the group will also be a member of the medical profession, who will work with the physical body, under the direction of conscious clairvoyants. He will study the resistance of the body, he will apply certain currents, and colours, and vibrations, which will have a direct physical effect, and by the co-operation of all those units in the group, results will be achieved that will merit the name of miracles. |
c. Một thành viên của nhóm là người của ngành y để trị bệnh xác thân, dưới sự chỉ đạo của các nhà nhãn thông hữu thức. Vị này sẽ nghiên cứu sức đề kháng của cơ thể, sẽ áp dụng một số dòng mãnh lực, màu sắc, và rung động có tác dụng trực tiếp vào thể xác. Nhờ sự hợp tác của toàn nhóm mà các kết quả đạt được sẽ đáng gọi là phép lạ. |
|
d. In the group, also, will be a number of people who can meditate occultly, and can, by the power of their meditation, create the necessary funnel for the transmission of the healing forces of the higher self and of the Master. |
d. Trong nhóm cũng có một số người có khả năng thiền huyền môn, và nhờ năng lực tham thiền tạo nên đường dẫn hình phễu cần thiết để truyền các mãnh lực chữa trị của Chân ngã và Chân sư. |
|
e. Besides this, in each group will be found some person who can accurately transcribe all that takes place, and so keep records that will prove to be the literature of the new school of medicine. |
e. Ngoài ra trong nhóm cũng có người có thể ghi chép một cách chính xác mọi việc xảy ra, để làm hồ sơ và tài liệu học tập cho trường phái y khoa mới. |
|
I have here touched on the ideal group. It is not as yet in any way possible, but a beginning can be made by the utilisation of any knowledge and powers that may be found amongst those who seek to serve their race and the Master. |
Tôi đang nói đến nhóm trị liệu lý tưởng. Hiện tại nhóm này chưa thể nào có được. Nhưng có thể khởi đầu bằng cách sử dụng bất cứ kiến thức và quyền năng nào có được trong những người đang tìm cách phụng sự chủng tộc mình và Chân sư. |
|
As you will note from the above, colours will be applied in two ways:— [247] |
Từ các điều trên, ta thấy rằng màu sắc được áp dụng theo hai lối: – |
|
1. On the subtler planes by the power of thought, and |
1. Trên các cõi cao nhờ quyền năng của tư tưởng, và |
|
2. By means of coloured lights applied to the physical body. |
2. Dùng các loại ánh sáng màu chiếu vào thể xác. |
|
On the physical plane the exoteric colour will be applied, whilst on the subtler the esoteric. The work therefore will be (until the esoteric becomes the exoteric) largely in the hands of the occult students of the world, working in organised groups under expert supervision. |
Với thể xác thì các màu thông thường sẽ được áp dụng, còn những màu huyền bí thì sẽ được dùng cho các thể thanh hơn. Thế nên, phần lớn công tác này nằm trong tay các môn sinh huyền bí học trên thế giới, họ làm việc trong những nhóm có tổ chức, dưới sự giám sát chuyên môn (cho đến khi kiến thức nội môn này trở thành ngoại môn). |
|
You ask, just what is the point at which these groups may now begin to work with colour? The thing that now lies ahead to be mastered and done is to develop the knowledge necessary anent the etheric, to inculcate the building of pure bodies, and to study the effect of different colours on the dense physical. It has been but little studied as yet. It will be found that certain colours will definitely affect certain diseases, cure certain nervous troubles, eradicate certain nervous tendencies, tend to the building of new tissues, or to the burning out of corruption. All this must be studied. Experiments can be made along the line of vitalisation and magnetisation, which involve direct action on the etheric, and this again will be found hid in the law of vibration and of colour. Later…….we can take up with greater detail the work of these healing groups when gathered for meditation. Here I would but add that certain colours have a definite effect, though I can only as yet enumerate three, and them but briefly:— |
Các bạn hỏi hiện nay các nhóm này có thể bắt đầu dùng màu sắc đến mức nào để làm việc? Hiện nay, vấn đề trước mắt cần nắm vững và thực hiện là phát triển kiến thức cần thiết về thể dĩ thái, luôn ghi nhớ việc kiến tạo các thể tinh khiết, và nghiên cứu ảnh hưởng của các màu sắc khác nhau đối với thể xác. Vấn đề này vẫn chưa được nghiên cứu nhiều. Các bạn sẽ thấy rằng những màu nhất định ảnh hưởng rõ rệt đến những loại bệnh nhất định, trị được một số bệnh thần kinh, xóa được một số khuynh hướng đau yếu trong thần kinh hệ, giúp tạo lập những mô mới, hoặc thiêu hủy các thối nát. Tất cả những điều này đều phải được nghiên cứu. Có thể thí nghiệm việc truyền sinh lực và từ lực, cả hai đều tác động trực tiếp vào thể dĩ thái, và bí ẩn này cũng thuộc luật rung động và màu sắc. Về sau . . . . . . . . chúng ta có thể bàn nhiều chi tiết hơn về công việc của các nhóm trị liệu này, khi họ được qui tụ để tham thiền. Ở đây tôi muốn nói thêm về các hiệu quả nhất định của một số màu, dù cho đến nay tôi chỉ có thể kể thêm ba màu và nói vắn tắt thôi: – |
|
1. Orange stimulates the action of the etheric body; it removes congestion and increases the flow of prana. |
1. Màu vàng cam kích thích hoạt động của thể dĩ thái, giải trừ những tắc nghẽn và tăng cường dòng sinh khí prana. |
|
2. Rose acts upon the nervous system and tends to vitalisation, and to the removal of depression, and [248] symptoms of debilitation; it increases the will to live. |
2. Màu hồng tác động vào hệ thần kinh và có khuynh hướng làm sinh động, loại trừ trầm cảm và những [248] triệu chứng suy yếu, tăng cường ý chí muốn sống. |
|
3. Green has a general healing effect, and can be safely used in cases of inflammation and of fever, but it is almost impossible as yet to provide the right conditions for the application of this colour, or to arrive at the adequate shade. It is one of the basic colours to be used eventually in the healing of the dense physical body, being the colour of the note of Nature. |
3. Màu xanh lục có hiệu quả trị liệu tổng quát, có thể được sử dụng một cách an toàn trong các trường hợp bị viêm và sốt. Nhưng hiện nay hầu như không thể cho biết những điệu kiện đúng đắn để áp dụng màu này, hay độ đậm nhạt theo nhu cầu. Đây là một trong những màu căn bản rốt cuộc sẽ được dùng trong việc điều trị xác thân, và hiện là màu của âm điệu của Thiên nhiên. |
|
This seems to you sketchy and inadequate? So it is, even more so than you can grasp. But forget not that which I have often told you, that in the following up of brief hints lies the path that leads to the source of all knowledge. |
Dường như các bạn thấy những lời này quá sơ sài và không đầy đủ? Vậy mà nó còn vượt khả năng hiểu biết của các bạn đó. Nhưng đừng quên điều tôi thường nói với các bạn là sau các lời ngụ ý ngắn ngủi này có sẵn con đường đưa đến nguồn cội của mọi tri thức. |
|
SEPTEMBER 11, 1920. |
Ngày 11-9-1920. |
|
We come now to the final part of our thoughts on the use of colour in meditation. We have dealt with the matter in such a way that if the hints that are scattered throughout the communication are adequately followed up they will form the basis of certain inevitable conclusions. These conclusions will eventually prove to be the postulates upon which the newer schools of medicine or science will base the continuance of their work. We might sum up the imparted data under definite statements:— |
Giờ đây chúng ta đến phần cuối về việc sử dụng màu sắc trong tham thiền. Chúng ta đã bàn vấn đề theo cách mà nếu những ẩn ngữ rải rác trong những lời truyền đạt này được theo dõi đúng mức thì chúng sẽ là cơ bản cho những kết luận tất phải có. Rốt cuộc những kết luận này sẽ là những định đề mà các trường phái y khoa hay khoa học tương lai sẽ dựa vào để tiếp tục công việc của họ. Chúng ta có thể tóm lược các điều đã học như sau: – |
|
1. That the basic colours of the Personality must be transmuted into the colours of the Triad, or the threefold Spirit. This is effected by the truly occult meditation. |
1. Các màu sắc căn bản của Phàm nhân phải được thăng hoa thành các màu của Tam nguyên hay là Tinh thần tam phân. Điều này được thực hiện nhờ tham thiền huyền môn đích thực. |
|
2. That the colours with which the beginner will be primarily concerned are orange, rose and green. |
2. Những màu sắc mà người mới học khoa trị liệu cần quan tâm chính yếu là màu vàng cam, màu hồng và xanh lục. |
|
3. That the violet ray holds the secret for this immediate cycle. [249] |
3. Cung màu tím giữ bí mật cho chu kỳ hiện tại. [249] |
|
4. That the next point of apprehended knowledge will be the laws governing the etheric body. |
4. Điểm kế tiếp phải hiểu biết thấu đáo sẽ là những định luật chi phối thể dĩ thái. |
|
5. That in the development of the intuition comes cognisance of the esoteric colours which the exoteric veil. |
5. Khi phát triển trực giác, con người sẽ nhận biết được các màu huyền bí mà các màu thông thường đang che giấu. |
|
6. That colour is the form and force of virtue (in the occult sense) in the inner life. |
6. Màu sắc là hiện tướng và sức mạnh của đức hạnh (hiểu theo nghĩa huyền bí) trong đời sống nội tâm. |
|
I have summed up the practical points requiring immediate attention for the purposes of clarification. With this as the basis of study the student may expect eventually to see the complete transformation of the type of work done both by the schools of medicine and by chairs of psychology. Certain prophecies I may here make which you can note down for the benefit of those who may come after. |
Tôi đã tóm tắt các điểm thực dụng, cần được chú ý ngay để hiểu rõ thêm. Dùng những điều này làm căn bản để nghiên cứu, rốt cuộc người môn sinh có thể hy vọng thấy loại công việc của cả những trường y khoa và các phân khoa tâm lý sẽ hoàn toàn thay đổi. Các bạn có thể ghi nhận nơi đây đôi lời tiên đoán để giúp ích thế hệ mai sau. |
|
Forecasts anent the future. |
Dự báo về tương lai. |
|
1. The phraseology of the medical schools will more and more become based on vibration and be expressed in terms of sound and colour. |
1. Cách giảng dạy trong các trường y khoa sẽ ngày càng dựa vào sự rung động, và được phát biểu trong phạm vi âm thanh và màu sắc. |
|
2. The religious teaching of the world and the inculcation of virtue will be likewise imparted in terms of colour. People will eventually be grouped under their ray-colour, and this will be possible as the human race develops the faculty of seeing auras. The number of clairvoyants is already greater than is realised, owing to the reticence of the true psychic. |
2. Giáo huấn tôn giáo trên thế giới và sự chú trọng đến đức hạnh cũng sẽ được truyền dạy trong phạm vi màu sắc. Rốt cuộc người ta sẽ được phân nhóm theo màu sắc của cung họ, và điều này có thể thực hiện khi nhân loại phát triển khả năng thấy các hào quang. Số những nhà nhãn thông hiện nay đã nhiều hơn con số chúng ta biết được, vì người có thần thông chân chính thường giữ im lặng. |
|
3. The science of numbers, being in reality the science of colour and sound, will also somewhat change its phraseology and colours will eventually supersede figures. |
3. Khoa số học thực ra là khoa học về màu sắc và âm thanh cũng sẽ thay đổi chút ít về cách dụng ngữ, và cuối cùng màu sắc sẽ thay thế các con số. |
|
4. The laws that govern the erection of large buildings and the handling of great weights will some [250] day be understood in terms of sound. The cycle returns, and in the days to come will be seen the re-appearance of the faculty of the Lemurians and early Atlanteans to raise great masses,—this time on a higher turn of the spiral. Mental comprehension of the method will be developed. They were raised through the ability of the early builders to create a vacuum through sound, and to utilise it for their own purposes. |
4. Một ngày kia những định luật chi phối việc xây dựng các công trình lớn và việc nâng những vật nặng sẽ [250] được hiểu trong phạm vi âm thanh. Khi chu kỳ trở lại và ngày giờ đến, chúng ta sẽ thấy sự tái hiện khả năng nâng các khối lớn cực nặng, của người Lemuria và người Atlantis nguyên thủy, – nhưng lần này ở trên vòng tiến hóa cao hơn. Việc dùng trí để thấu hiểu phương pháp này sẽ được phát triển. Các khối nặng này đã được nâng lên nhờ những nhà kiến tạo thời xưa có khả năng dùng âm thanh tạo được một khoảng chân không và dùng cho các mục đích riêng của họ. |
|
5. Destruction, it will be shewn, can be brought about by the manipulation of certain colours, and by the employment of united sound. In this way terrific effects will be achieved. Colour can destroy just as it can heal; sound can disrupt just as it can bring about cohesion; in these two thoughts lie hid the next step ahead for the science of the immediate future. The laws of vibration are going to be widely studied and comprehended and the use of this knowledge of vibration on the physical planes will bring about many interesting developments. They will be partially an outgrowth of the study of the war and its effect, psychological and otherwise. More was effected by the sound of the great guns, for instance, than by the impact of the projectile on the physical plane. These effects are as yet practically unrecognised, and are largely etheric and astral. |
5. Cũng sẽ chứng tỏ rằng có thể vận dụng một số màu sắc kết hợp với âm thanh để tạo sự hủy diệt và những hiệu quả lớn lao sẽ được thực hiện theo lối này. Màu sắc có thể chữa trị cũng như có thể hủy diệt. Âm thanh có thể phá vỡ cũng như có thể tạo sự cố kết. Hai tư tưởng này bao hàm bước kế tiếp của khoa học trong tương lai gần đây. Những định luật về rung động sẽ được nghiên cứu và hiểu biết sâu rộng, và việc sử dụng kiến thức về sự rung động ở cõi trần sẽ mang lại nhiều phát triển thú vị. Các phát triển đó sẽ là một phần kết quả tự nhiên của việc nghiên cứu về chiến tranh và các ảnh hưởng của chiến tranh, về mặt tâm lý và các mặt khác. Ví dụ như âm thanh của những súng lớn lại có nhiều hậu quả hơn là tác động của quả đạn ở cõi trần. Các ảnh hưởng này phần lớn ở cấp dĩ thái và tình cảm nên hiện nay chúng ta chưa thực sự nhận biết được. |
|
6. Music will be largely employed in construction, and in one hundred years from now it will be a feature in certain work of a constructive nature. This sounds to you utterly impossible, but it will simply be the utilisation of ordered sound to achieve certain ends. [251] |
6. Âm nhạc sẽ được sử dụng rộng rãi trong kiến tạo, và trong 100 năm nữa âm nhạc sẽ là một yếu tố trong một số công trình xây dựng. Đối với các bạn điều này dường như hoàn toàn không thể được, nhưng đó chỉ là việc sử dụng âm thanh có qui củ để đạt những mục tiêu nhất định. |
|
You will ask, what place has all this in a series of letters on meditation? Simply this:—that the method employed in the utilisation of colour and sound in healing, in promoting spiritual growth, and in exoteric construction on the physical plane, will be based on the laws that govern the mental body, and will be forms of meditation. Only as the race develops the dynamic powers and attributes of thought—which powers are the product of meditation, rightly pursued—will the capacity to make use of the laws of vibration be objectively possible. Think not that only the religious devotee or mystic, or the man imbued with what we call higher teaching, is the exponent of the powers attained by meditation. All great capitalists, and the supreme heads of finance, or organised business, are the exponents of similar powers. They are personifications of one-pointed adherence to one line of thought, and their evolution parallels that of the mystic and the occultist. I seek most strongly to emphasise this fact. They are the ones who meditate along the line of the Mahachohan, or the Lord of Civilisation or Culture. Supreme concentrated attention to the matter in hand makes them what they are, and in many respects they attain greater results than many a student of meditation. All they need to do is to transmute the motive underlying their work, and their achievement will then outrun that of other students. They will approach a point of synthesis, and the Probationary Path will then be trodden. |
[251] Các bạn sẽ hỏi, tất cả những điều đó có tác dụng gì trong loạt thư nói về tham thiền này? Đơn giản là phương pháp sử dụng màu sắc và âm thanh để chữa bệnh, để xúc tiến sự phát triển tinh thần, và để xây dựng ở cõi trần đều sẽ dựa vào các định luật chi phối thể trí, và sẽ là những hình thức tham thiền. Ngày nào nhân loại phát triển được những quyền năng mạnh mẽ và các thuộc tính của tư tưởng (các quyền năng này là sản phẩm của tham thiền đúng đắn), chừng ấy người ta mới có thể áp dụng được các định luật rung động vào những mục tiêu bên ngoài. Đừng nên nghĩ rằng chỉ có nhà thần bí hay người sùng tín trong tôn giáo, hoặc người thấm nhuần những gì chúng ta gọi là giáo huấn cao siêu mới là người giỏi về các quyền năng đạt được qua tham thiền. Tất cả các nhà đại tư bản, những thủ trưởng tối cao của ngành kinh tài, hoặc tổ chức thương mại đều là những kẻ nắm giữ các quyền năng tương tự. Họ là hiện thân của sự chuyên nhất theo một đường lối tư tưởng và họ tiến hóa song hành với nhà thần bí hay huyền bí gia. Tôi hết sức nhấn mạnh vào sự kiện này. Họ là những người tham thiền theo đường lối của Đức Văn minh Đại đế, là vị Chúa của Văn minh hay Văn hóa. Sự cực kỳ chuyên chú vào vấn đề trước mắt là bản tính đặc thù của con người họ, và trong nhiều phương diện họ đạt được những kết quả to tát hơn nhiều môn sinh hành thiền. Tất cả những gì họ cần phải làm là thăng hóa nguyên động lực ẩn trong công việc của họ, rồi ra họ sẽ thành tựu vượt hơn các môn sinh khác. Họ sẽ tiến đến một điểm tổng hợp, và sẽ dấn bước trên Con đường Dự bị. |
|
The Law of Vibration will gradually, therefore, be more and more understood, and be seen to govern action in all of the three departments of the Manu, the World Teacher and the Mahachohan. It will find its basic expression and its familiar terminology in those of colour and sound. Emotional disorder will be regarded as discordant sound; mental lethargy will be expressed in terms of low [252] vibration, and physical disease will be numerically considered. All constructive work will eventually be expressed in terms of numbers, by colours, and through sound. |
Vì thế, Luật Rung động sẽ ngày càng được mọi người thấu đáo và chúng ta sẽ thấy nó chi phối sự hoạt động trong cả ba ngành của Đức Bàn cổ, Đức Chưởng giáo và Đức Văn minh. Luật này sẽ phát biểu cơ bản là qua màu sắc và âm thanh, với các thuật ngữ quen thuộc của hai lĩnh vực này. Sự xáo trộn tình cảm sẽ được xem như là âm thanh thiếu hài hòa. Trí tuệ [252] trì độn sẽ được gọi là sự rung động thấp, và bệnh tật thân xác sẽ được xem xét về mặt số học. Rốt cuộc, toàn bộ công tác kiến tạo sẽ được phát biểu trong phạm vi số học, màu sắc, và âm thanh. |
|
This suffices on this matter and at this juncture I have naught further to communicate. The subject is abstruse and difficult, and only by patient brooding will the darkness lighten. Only when the ray of the intuition strikes athwart the pall of darkness (which pall is the ignorance that hides all knowledge) will the forms that veil the subjective life be irradiated and known. Only when the light of reason is dimmed by the radiant sun of wisdom will all things be seen in their just proportions, and will the forms assume their exact colours, and their numerical vibration be known. |
Vấn đề này bàn bấy nhiêu là đủ, và giờ đây tôi không còn gì để nói thêm. Chủ đề này thật sâu xa khó hiểu và chỉ nhờ kiên trì suy ngẫm chúng ta mới soi sáng được sự tối tăm. Chỉ khi nào tia sáng trực giác chiếu xuyên qua bức màn tăm tối (tức là màn vô minh che án mọi hiểu biết) thì các hình tướng che giấu sự sống nội tại sẽ được soi sáng và thấu hiểu. Chỉ đến khi ánh sáng của lý luận mờ đi trước ngôi mặt trời minh triết huy hoàng, thì mọi sự vật sẽ được thấy đúng tỉ lệ của chúng, và người ta mới biết được tần số rung động và những màu sắc chính xác của các hình thể. |
—
—
LETTER VIII – ACCESS TO THE MASTERS VIA MEDITATION.
|
SEPTEMBER 12TH, 1920. |
Ngày 12-09-1920. |
|
The search for the goal. |
Tìm kiếm mục tiêu. |
|
[256] Today it may be possible to touch somewhat upon the subject of the Masters and how They may be approached through meditation. This I know is a subject close and dear to your heart, as it is to the heart of all those who earnestly follow the light within. I seek to handle this subject with you in such a way that at the close of this letter the Masters will be more real to you than ever before; the significance of approach to Them be better comprehended and the method more simplified; and the effect of contact with Them will be so demonstrated in the life that its immediate and practical attainment will be earnestly pursued. Let us, therefore, as we have always done, divide our subject into certain heads and divisions:— |
Hôm nay chúng ta có thể đề cập đôi điều về các Chân sư, và cách đến gần các Ngài qua tham thiền. Tôi biết đây là một vấn đề thân thiết với tâm hồn các bạn, cũng như đối với những ai đang thiết tha đi theo ánh sáng nội tâm. Tôi tìm cách trình bày vấn đề sao cho khi đọc hết bức thư này các bạn sẽ thấy các Chân sư có thực hơn các bạn đã từng biết trước đây. Các bạn sẽ hiểu rõ hơn về thực nghĩa của việc tiến đến gần các Ngài và phương cách đến gần trở nên giản dị hơn. Hiệu quả của việc tiếp xúc với các Ngài sẽ tỏ rõ trong cuộc sống đến mức giúp hành giả hăng hái theo đuổi sự thành đạt có tính thực dụng và trực tiếp này. Vì vậy, chúng ta hãy chia vấn đề làm nhiều mục, như vẫn làm từ trước đến nay: – |
|
1. Who are the Masters? |
1. Các Chân sư là ai? |
|
2. What does access to Them entail:— |
2. Việc tiến đến Chân sư cần những gì: – |
|
a. From the standpoint of the pupil? |
a. Về phần môn sinh? |
|
b. From the standpoint of the Master? |
b. Về phần Chân sư? |
|
3. Methods of approach to the Masters through meditation. |
3. Những phương cách tiến đến Chân sư bằng tham thiền. |
|
4. The effect of this access on the three planes. |
4. Hiệu quả của việc cận tiến này trên ba cõi thấp. |
|
Everywhere throughout the whole world is felt the urge that drives a man to seek out someone who, for him, embodies the ideal. Even those who do not admit the existence of the Masters seek some ideal, and then visualise that ideal as embodied in some form on the physical plane. They picture themselves, perhaps, as the exponents [257] of ideal action, or visualise some great philanthropist, some superlative scientist, some notable artist or musician, as embodying their supreme conception. The human being,—simply because he is himself fragmentary and incomplete—has always this urge within himself to seek other and greater than himself. It is this that drives him back to the centre of his being, and it is this that forces him to take the path of return to the All-Self. Ever, throughout the aeons, does the Prodigal Son arise and go to his Father, and always latent within him is the memory of the Father’s home and the glory there to be found. But the human mind is so constituted that the search for light and for the ideal is necessarily long and difficult. “Now we see through a glass darkly, but then face to face”; now we catch glimpses through the occasional windows we pass in our ascension of the ladder, of other and greater Beings than ourselves; They hold out to us helping hands, and call to us in clarion tones to struggle bravely on if we hope to stand where They are now standing. |
Ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng đều có sự thôi thúc con người tìm kiếm một vị nào đó mà đối với y là hiện thân cho lý tưởng. Ngay cả những người không chấp nhận sự hiện hữu của các Chân sư, họ cũng tìm kiếm một lý tưởng rồi hình dung lý tưởng ấy được thể hiện dưới một hình thức nào đó ở cõi trần. Có lẽ họ tự nghĩ mình là tiêu biểu cho hành động [257] lý tưởng. Hoặc họ hình dung ra một nhà từ thiện danh tiếng nào đó, một nhà khoa học xuất chúng, một họa sĩ hay nhạc sĩ tài danh và cho rằng vị ấy đang thể hiện được cái quan niệm tuyệt vời của họ. Con người, – vì vốn là một mảnh nhỏ (của Thượng Đế) và chưa hoàn thiện – nên đã luôn luôn có sự thôi thúc trong tâm, muốn tìm một bậc nào khác cao cả hơn y. Chính sự thôi thúc này đưa y trở về trung tâm của bản thể y, và cũng chính sự thôi thúc này khiến y phải theo con đường trở về với Toàn Ngã. Qua những kỳ gian vô lượng, bao giờ đứa Con đi hoang cũng trỗi dậy và quay về với Cha mình. Y luôn luôn âm thầm nhớ nhung Ngôi Nhà Cha và sự vinh quang ở đó. Nhưng vì cấu trúc của trí tuệ con người nên tất nhiên là cuộc tìm kiếm ánh sáng và lý tưởng này phải lâu dài và khó nhọc. “Hiện nay chúng ta đang nhìn xuyên qua một tấm kính màu đen, nhưng về sau chúng ta sẽ nhìn trực tiếp”. Giờ đây thỉnh thoảng nhìn qua những khung cửa sổ mà chúng ta lướt ngang khi leo lên những nấc thang tiến hóa, chúng ta thoáng thấy những vị khác và những Đấng cao cả hơn chúng ta. Các Ngài đang đưa tay trợ giúp chúng ta, và mạnh mẽ kêu gọi chúng ta hãy tiếp tục chiến đấu dũng cảm, nếu chúng ta muốn đến được vị thế của các Ngài hiện nay. |
|
We sense beauties and glories surrounding us that as yet we cannot revel in; they flit into our vision, and we touch the glory at a lofty moment only again to lose the contact and to sink back again into the murky gloom that envelopes. But we know that outside and further on is something to be desired; we learn also the mystery that that external wonder can only be contacted by withdrawing within, till the centre of consciousness is found that vibrates in tune with those dimly realised wonders, and with those radiant Souls Who call Themselves our Elder Brothers. Only by trampling on the external sheaths that veil and hide the inner centre do we achieve the goal, and find the Ones we seek. Only by the domination of all forms, and the bringing of those forms under the rule of the God within, can we find the God in all, for it is only the [258] sheaths in which we move upon the plane of being that hide from us our inner God, and that shut us off from Those in Whom the God transcends all outer forms. |
Chúng ta cảm được những sự mỹ lệ và huy hoàng bao quanh chúng ta mà từ trước đến giờ chúng ta chưa hề thưởng thức. Chúng thoáng vờn qua tầm mắt, và chúng ta chạm đến sự vinh quang trong giây phút tuyệt vời ngắn ngủi, rồi sự tiếp xúc qua mất, ta lại chìm vào sự tối tăm u ám bao quanh. Nhưng chúng ta biết được rằng ở bên ngoài và ở đằng xa kia có một điều gì đó đáng cho ta mong mỏi. Chúng ta cũng học được sự bí nhiệm là chỉ có thể tiếp xúc với điều kỳ diệu ở bên ngoài bằng cách đi sâu vào bên trong, cho đến khi tìm được trung tâm của ý thức. Trung tâm này hòa điệu với những điều kỳ diệu mà ta chỉ nhận thức được một cách lờ mờ, và với những linh hồn sáng chói mà các Ngài tự gọi là Huynh trưởng của chúng ta. Chỉ bằng cách phá vỡ những lớp vỏ cứng bên ngoài che giấu nội tâm, chúng ta mới đạt được mục tiêu và tìm thấy được những Đấng chúng ta đang tìm kiếm. Chỉ bằng cách chế ngự tất cả mọi hình tướng, và đặt chúng dưới sự ngự trị của Đấng Thượng Đế nội tâm, chúng ta mới tìm được Thượng Đế trong vạn vật. Vì chỉ có [258] những lớp vỏ chúng ta dùng để sinh hoạt mới che không cho ta thấy Đấng Thượng Đế ngự trong tâm, mới ngăn cách chúng ta với những Đấng mà Thượng Đế trong các Ngài vượt cao hơn mọi hình hài sắc tướng. |
|
The great Initiate, Who voiced the words I quote, added still other words of radiant truth: “Then shall we know even as we are known.” The future holds for each and all who duly strive, who unselfishly serve and occultly meditate, the promise of knowing Those Who already have full knowledge of the struggler. Therein lies the hope for the student of meditation; as he struggles, as he fails, as he perseveres, and as he laboriously reiterates from day to day the arduous task of concentration and of mind control, there stand on the inner side Those Who know him, and Who watch with eager sympathy the progress that be makes. |
Một vị Điểm đạo đồ cao cấp có nói những lời chói ngời chân lý rằng: “Rồi chúng ta sẽ biết chính những điều mà hiện nay chúng ta được truyền dạy.” Đối với mỗi người và tất cả những ai phấn đấu đúng đắn, phụng sự vô kỷ và tham thiền huyền môn, tương lai hứa hẹn rằng họ sẽ biết được những Bậc đã có đầy đủ kiến thức của người chiến sĩ. Đó là niềm hy vọng của người môn sinh hành thiền. Khi y chiến đấu, khi y thất bại, khi y kiên trì, và khi y lặp lại một cách nhọc nhằn hết ngày này qua ngày khác, cái công việc khó khăn là định trí và kiểm soát tư tưởng, thì ở nội môn có các Đấng biết rõ y, các Ngài trông nom bước tiến của y với tấm lòng dồi dào thiện cảm. |
|
Forget not the earlier part of the Initiate’s remarks where he points out the way whereby the darkness is dispelled, and knowledge of the Great Ones is reached. He emphasises that only by love is the path of light and knowledge trodden. Why this emphasis upon love? Because the goal for all is love, and therein lies the merging. To put scientifically what is oft a nebulous sentiment, we might express it as follows:—It is by the attainment of the vibration which is analogous to the Ray of Love-Wisdom (the Divine Ray) that the Lords of Love are contacted, that the Masters of Compassion are known, and that the possibility of entering into the consciousnesses of the Great Ones and of all our brothers of whatsoever degree, becomes a fact in manifestation. |
Chúng ta đừng quên phần đầu trong những lời nhận xét của vị Điểm đạo đồ này, khi người chỉ con đường để dẹp tan hắc ám và đạt đến mức hiểu biết được các Đấng Cao cả. Người nhấn mạnh rằng chỉ nhờ tình thương chúng ta mới có thể dấn bước lên con đường của ánh sáng và tri thức. Tại sao lại phải chú trọng đến tình thương? Bởi vì mục tiêu cho tất cả là tình thương, và trong tình thương có sự hòa hợp. Tình thương thường khi chỉ là một xúc cảm mơ hồ, và chúng ta có thể phát biểu nó một cách khoa học như sau: – Chính nhờ đạt được sự rung động tương đồng với cung Bác ái-Minh triết (Cung Thiêng liêng) mà chúng ta tiếp xúc được với các Đấng Chúa tể Bác ái, và biết được các Chân sư Từ ái. Bấy giờ khả năng nhập vào tâm thức của các Đấng Cao cả cùng tất cả các cấp huynh đệ của chúng ta mới trở thành hiện thực. |
|
This is the path to be trodden by one and all, and the method is meditation. The goal is perfect love and wisdom; the steps are the surmounting of subplane after subplane on all the three planes; the method is that of occult meditation; the reward is the continuous expansion [259] of consciousness that puts a man eventually en rapport with his own Ego, with other selves, with the waiting eager Master to Whom he is assigned, with fellow disciples and more advanced Initiates whom he may contact in that Master’s aura, till he finally contacts the One Initiator, is admitted into the Secret Place, and knows the mystery that underlies consciousness itself. |
Đó là con đường mà mỗi người và tất cả mọi người đều phải đi qua, bằng phương pháp tham thiền. Mục tiêu là minh triết và tình thương hoàn hảo. Những bước tiến là vượt lên hết cõi phụ này đến cõi phụ khác trong tam giới. Phương pháp là phương pháp thiền huyền môn. Phần thưởng là sự [259] liên tục mở mang tâm thức, để cuối cùng giúp hành giả hòa hợp với Chân ngã của mình, với các Chân ngã khác, với vị Chân sư đang thiết tha mong đợi mà y được giao phó cho Ngài, với các bạn đồng môn và các vị Điểm đạo đồ cao cấp mà y có thể tiếp xúc được trong hào quang của Chân sư. Cho đến cuối cùng y tiếp xúc được với Đấng Điểm đạo Duy nhất, để Ngài nhận y vào trong Chốn Bí mật, và biết được bí nhiệm của chính tâm thức. |
|
SEPTEMBER 14TH, 1920. |
Ngày 14-9-1920. |
|
Các Chân sư là ai? |
|
|
It might be of value to us in our consideration of the subject of access to the Masters via meditation if we started with a few fundamental statements, dealing with the Masters and Their place in evolution. We will therefore take up our first point. We shall thus bring before the readers of these letters some idea as to Their status, Their comprehensive development, and Their methods of work. Needless to say, much that will follow will carry nothing new in import. The things that concern us most closely and the things that are to us the most familiar are oft the most frequently overlooked, and the most nebulous to our reasoning faculty. |
Nên bắt đầu xem xét vấn đề tiến đến các Chân sư nhờ tham thiền qua một số phát biểu căn bản, về các Chân sư và vị trí của các Ngài trên thang tiến hóa. Vì thế chúng ta hãy đề cập đến điểm đầu tiên. Chúng ta sẽ nêu vài ý tưởng về địa vị của các Ngài, về sự phát triển toàn diện và những phương pháp làm việc của các Ngài. Khỏi phải nói trước rằng phần lớn những điều sau đây đều không có tầm quan trọng nào mới mẻ. Thế nhưng những gì liên quan mật thiết với chúng ta và những gì chúng ta quen thuộc nhất lại thường là những điều ta hay sơ sót và suy luận về chúng một cách mơ hồ. |
|
A Master of the Wisdom is One Who has undergone the fifth initiation. That really means that His consciousness has undergone such an expansion that it now includes the fifth or spiritual kingdom. He has worked His way through the four lower kingdoms:—the mineral, the vegetable, the animal and the human—and has, through meditation and service, expanded His centre of consciousness till it now includes the plane of spirit. |
Một Chân sư Minh triết là Vị đã được năm lần điểm đạo. Quả thực điều đó có nghĩa là tâm thức của Ngài đã mở mang đến mức bao gồm trường tiến hóa thứ năm hay là giới tinh thần. Ngài đã tự vạch lối đi qua bốn giới thấp: – khoáng vật, thực vật, động vật và nhân loại – và nhờ hành thiền và phụng sự mà tâm thức của Ngài đã triển khai đến mức bao gồm được cảnh giới tinh thần. |
|
A Master of the Wisdom is One Who has effected the transfer of polarisation from the three atoms of the personal life—as included in the causal body—into the three atoms of the spiritual Triad. He is consciously [260] spirit-intuition-abstract mind, or atma-buddhi-manas, and this is not potentially but in full effective power, realised through experience. This has been brought about, as earlier said, through the process of meditation. |
Một Chân sư Minh triết là Vị đã chuyển được sự phân cực từ ba nguyên tử trường tồn của đời sống phàm ngã – khi chúng được bao gồm trong thể nguyên nhân – vào ba nguyên tử của Tam nguyên Tinh thần. Ngài là sự phối hợp hữu thức của tinh [260] thần-trực giác-trí tuệ trừu tượng, hay là atma-buddhi-manas. Và điều này không còn tiềm ẩn mà trở thành quyền năng đầy hiệu lực, được Ngài thực hiện qua kinh nghiệm. Như tôi đã nói, Ngài đạt được trạng thái này nhờ quá trình tham thiền. |
|
A Master of the Wisdom is One Who has found not only the chord of the Ego, but the full chord of the Monad, and can ring the changes therefore at will upon all the notes from the lowest to that of the monadic. This means occultly that He has now developed the creative faculty, and can sound the note for each plane and build thereon. This power—first to discover the notes of the monadic chord and secondly to use those notes in constructive building—is first realised through meditation occultly performed, balanced by service lovingly administered. |
Một Chân sư Minh triết là Vị không những đã tìm được hòa âm của Chân ngã, mà còn tìm được đầy đủ hòa âm của Chân thần. Vì thế Ngài có thể tùy ý phát ra tất cả những nốt khác nhau, từ nốt thấp nhất cho đến nốt của Chân thần. Điều này có ý nghĩa huyền bí là giờ đây Ngài đã phát triển được khả năng sáng tạo, có thể ngân lên âm điệu của mỗi cảnh giới và kiến tạo ở đó. Quyền năng này – một là khám phá ra các nốt trong hòa âm của Chân thần, và hai là sử dụng các nốt đó trong kiến tạo. Trước hết quyền năng này được nhận thức qua tham thiền huyền môn, được thực hiện và làm quân bình nhờ phụng sự trong tình thương. |
|
A Master of the Wisdom is He Who can wield the law in the three worlds and can dominate all that evolves on those planes. By learning the laws of mind through the practice of meditation, He expands the laws of mind till they embrace the laws of the Universal Mind as demonstrated in lower manifestation. The Laws of Mind are mastered in meditation. They are applied in the life of service which is the logical outcome of true knowledge. |
Một Chân sư Minh triết là Vị có thể vận dụng định luật trong tam giới và có thể chế ngự tất cả những gì đang tiến hóa trong ba cõi đó. Nhờ học được các định luật của trí tuệ qua hành thiền, Ngài triển khai các định luật của trí tuệ cho đến mức chúng bao gồm các định luật của Trí tuệ Vũ trụ biểu lộ ở cấp thấp. Các định luật trí tuệ được thấu đáo trong tham thiền và được áp dụng trong cuộc sống phụng sự, vốn là thành quả hợp lý của chân tri thức. |
|
A Master of the Wisdom is He Who has passed out of the Hall of Learning into the Hall of Wisdom. He has there graduated through its five grades and has transmuted lower mind into mind pure and unalloyed, has transmuted desire into intuition, and has irradiated His consciousness with the light of pure Spirit. The discipline of meditation is the only way in which this can be accomplished. |
Một Chân sư Minh triết là Vị đã đi qua Phòng Học tập và vào được Phòng Minh triết. Ngài đã vượt qua được năm cấp bậc của Phòng này và đã chuyển hóa hạ trí thành trí tuệ thuần khiết, đã chuyển hóa dục vọng thành trực giác, và đã chiếu sáng tâm thức Ngài bằng ánh sáng của Tinh thần thuần khiết. Sự tuân thủ các giới luật của tham thiền là phương cách duy nhất giúp công việc này thành tựu. |
|
A Master of the Wisdom is He Who, through knowledge acquired by means of the five senses, has learnt [261] that synthesis exists and has merged those five senses into the synthetic two, that mark the point of attainment in the solar system. Through meditation the geometrical sense of proportion is adjusted, the sense of values is clearly recognised, and through that adjustment and recognition, illusion is dispelled and reality is known. The practice of meditation and the inner concentration there brought about awakens the consciousness to the value and true use of form. Thereby reality is contacted and the three worlds can no more ensnare. |
Một Chân sư Minh triết là Vị, nhờ kiến thức hoạch đắc qua năm giác quan, đã học biết rằng sự tổng hợp vốn có thực, [261] và đã hòa nhập ngũ quan vào hai quan năng tổng hợp. Đó là mức thành đạt của Ngài trong thái dương hệ. Nhờ tham thiền Ngài điều chỉnh được ý thức cân đối về phương diện hình học, nhận định rõ ý thức về giá trị, và nhờ sự điều chỉnh và nhận định này mà xóa tan ảo tưởng và biết được thực tại. Sự hành thiền và tập trung vào nội tâm đã làm cho tâm thức bừng tỉnh, và nhận biết giá trị cũng như công dụng đích thực của hình thể. Nhờ đó Ngài biết được thực tại và vượt hết mọi cạm bẫy trong tam giới. |
|
A Master of the Wisdom is He Who knows the meaning of consciousness, of life, and of spirit. He can pass—by the line of least resistance—straight to the “bosom of His Father in Heaven”. The approach to the line of least resistance, the direct path, is found through the practice of meditation. |
Một Chân sư Minh triết là Vị đã biết được ý nghĩa của tâm thức, của sự sống, và tinh thần. Ngài có thể theo con đường ít trở ngại nhất mà đi thẳng vào “lòng của Cha Ngài ở trên Trời.” Cách tiến theo con đường trực tiếp, ít trở ngại nhất, được tìm thấy qua tham thiền. |
|
A Master of the Wisdom is He Who has resolved Himself from the five into the three, and from the three into the two. He has become the five-pointed star, and when that moment is reached He sees that star flash out above the One Initiator, and recognises it in those of equal place to His. He has sanctified (in the occult sense) the Quaternary, has used it as the foundation stone upon which to erect the Temple of Solomon. He has grown beyond that Temple itself and has come to recognise it as limitation. He has withdrawn Himself from its confining walls and has entered within the Triad. He has done this always by the occult method, that is, consciously and with full knowledge of each step taken. He learns the meaning of each confining form; then, He has assumed control and wielded the law upon the plane consistent with the form. He has then outgrown the form and has discarded it for other and higher forms. Thus He has progressed always by means of the sacrifice and death of the form. Always [262] it is recognised as imprisoning; always it must be sacrificed and must die so that the life within may speed ever on and up. The path of resurrection presupposes crucifixion and death, and then leads to the Mount whence Ascension may be made. In meditation the value of the life, and the confines of the form, can be appreciated and known, and by knowledge and service can the life be set free from all that limits and trammels. |
Một Chân sư Minh triết là Vị đã tự biến đổi từ năm thành ba, và từ ba thành hai. Ngài đã trở thành ngôi sao năm cánh, và đến lúc ấy Ngài thấy ngôi sao này bừng chiếu trên Đấng Điểm đạo Duy nhất và nhận ra ngôi sao này trong những người có cùng địa vị như Ngài. Hiểu theo ý nghĩa huyền bí, Ngài đã thánh hoá Tứ hạ thể, và đã dùng chúng làm viên đá nền tảng để xây dựng Ngôi đền Solomon trên đó. Ngài đã tăng trưởng vượt cao hơn chính Ngôi đền ấy và đã nhận thấy đó là hạn chế. Ngài đã thoát ra khỏi các bức tường vây bọc của nó và đã nhập vào Tam nguyên. Luôn luôn Ngài thực hiện điều này bằng phương pháp huyền môn, tức là thực hiện một cách hữu thức và hiểu biết đầy đủ từng bước một. Ngài học được ý nghĩa của mỗi hình thể đang giới hạn. Bấy giờ Ngài kiểm soát và vận dụng được định luật trên cảnh giới phù hợp với hình thể đó. Rồi Ngài tăng trưởng lớn hơn hình thể, bỏ nó đi để lấy một hình thể khác cao khiết hơn. Cứ thế, Ngài luôn luôn tiến tới bằng sự hy sinh và chết dứt của hình [262] thể. Luôn luôn chúng ta phải nhận thấy sự tù hãm của hình thể. Luôn luôn nó phải hy sinh và chết đi, để cho sự sống bên trong ngày càng tăng tiến và hướng thượng. Con đường phục sinh báo trước khổ hình thập tự và sự chết, rồi đưa hành giả đến Đỉnh núi để thực hiện sự Thăng thiên. Trong tham thiền, giá trị của sự sống và các giới hạn của hình thể được đánh giá và hiểu biết, và nhờ hiểu biết và phụng sự mà sự sống có thể giải thoát khỏi mọi hạn chế và chướng ngại. |
|
A Master of the Wisdom is One Who has chosen to stay upon our planet to help His fellowmen…. All who attain the fifth Initiation are Masters of the Wisdom, but all stay not and work as servers of the race. They pass to other work of greater or equal importance. To the general public the significance of the term lies in the thought that They choose to stay and limit Themselves for the sake of men who are pressing forward on the wave of evolution. Through meditation has the Great One reached His goal and (which is a thing not so oft comprehended) through meditation, or the manipulation of thought matter, and by work on the mental bodies of the race, is the work carried on that aids the evolutionary process. |
Một Chân sư Minh triết là Vị đã tình nguyện ở lại Địa cầu để giúp các huynh đệ của Ngài. . . . Tất cả những Vị đã được điểm đạo lần thứ năm đều là những Chân sư Minh triết, nhưng không phải tất cả các Ngài đều ở lại để phụng sự nhân loại. Các Ngài chuyển sang công việc khác có tầm quan trọng bằng hay lớn hơn. Đối với công chúng thì điều này có nghĩa là các Ngài chọn việc ở lại và tự giới hạn vì nhân loại, là những người đang dấn bước trong trào lưu tiến hóa. Nhờ tham thiền mà Đấng Cao cả đạt được mục tiêu của Ngài, và (một điều thường không được hiểu là) nhờ tham thiền, hay vận dụng chất liệu tư tưởng, và nhờ tác động vào trí tuệ của nhân loại mà công việc được tiến hành để trợ giúp diễn trình tiến hóa. |
|
A Master of the Wisdom is He Who has taken the first initiation that links Him up with the greater Brotherhood on Sirius. As afore I have told you, He is an Initiate of the First Degree in the greater Lodge. He has attained an expansion of consciousness that has admitted Him into touch with the solar system in many of its departments. Now He has ahead of Him a vast reach of expansions that will eventually take Him beyond systemic consciousness into something far greater and wider. He has to begin to learn the rudiments of that cosmic meditation that will admit Him into a Consciousness past our conceivable surmise. [263] |
Một Chân sư Minh triết là Vị đã được điểm đạo lần đầu liên kết Ngài với các Đấng Cao cả của hệ Sirius. Như tôi đã nói trước đây, Ngài là vị Điểm đạo đồ được điểm đạo lần thứ nhất trong Huyền giai vĩ đại này. Ngài đã đạt mức phát triển tâm thức giúp Ngài tiếp xúc với nhiều phân bộ của Thái dương hệ. Giờ đây, trước mắt Ngài là tầm phát triển bao la mà cuối cùng sẽ đưa Ngài vượt ra ngoài tâm thức Thái dương hệ để nhập vào những gì còn vĩ đại hơn và rộng lớn hơn nhiều. Ngài phải bắt đầu học những nguyên tắc cơ bản của tham thiền vũ trụ, để giúp Ngài nhập vào một trạng thái Tâm thức vượt ngoài tầm nhận biết và ước đoán của chúng ta. [263] |
|
A Master of the Wisdom is He Who can consciously function as part of the Heavenly Man to Whose Body He may belong. He understands the laws governing groups and group souls. He governs a group soul consciously Himself (a group on the path of return and formed of the lives of many sons of men) and He knows His place in the body systemic. He realises the centre in the Body of the Heavenly Man by means of which He and His group are kept in sympathetic vibration, and conducts His relationship with other groups in the same Body under certain definite laws. The value of meditation as a preparation for this activity will be realised by all thoughtful students, for meditation is the one means whereby the sense of separateness is transcended, and unity with one’s kind occultly comprehended. |
Một Chân sư Minh triết là Vị có thể hoạt động một cách hữu thức với tư cách là thành phần của Đấng Thiên đế mà Ngài thuộc về cơ thể của Đấng ấy. Ngài hiểu những định luật quản trị các nhóm và các linh hồn của nhóm. Chính Ngài cũng quản trị linh hồn của nhóm một cách hữu thức (một nhóm đang trên đường phản bổn hoàn nguyên và gồm sinh mệnh của nhiều người) và Ngài biết vị trí của mình trong cơ thể của Đức Thái Dương Thượng Đế. Ngài nhận biết được luân xa trong Cơ thể của Đấng Thiên Đế này để nhờ đó Ngài và nhóm của Ngài giữ được sự rung động hòa hợp, và xúc tiến mối quan hệ của Ngài với các nhóm khác (ở trong cùng Cơ thể ấy) theo một số định luật xác định. Tất cả các môn sinh suy ngẫm sâu xa sẽ nhận thức được giá trị của tham thiền là sự chuẩn bị cho hoạt động này. Vì tham thiền là phương tiện duy nhất để vượt khỏi ý thức chia rẽ, và hiểu được sự hợp nhất huyền bí với đồng loại. |
|
A Master of the Wisdom is He Who has entrusted to Him, by virtue of work accomplished, certain Words of Power. By means of these Words He wields the law over other evolutions than the human, and through them He co-operates with the activity aspect of the Logos. Thus He blends His consciousness with that of the third Logos. Through these Words He assists with the building work, and the cohesive manipulating endeavor of the second Logos, and comprehends the inner working of the law of gravitation for attraction and repulsion) that governs all the functions of the second aspect logoic. Through these Words He co-operates with the work of the first Logos, and learns, as He takes the sixth and seventh Initiations (which is not always done) the meaning of Will as applied in the system. These Words are imparted orally, and through clairvoyant faculty but must be found by the Initiate Himself, by the use of atma and as He attains atmic consciousness…. When atmic consciousness is developing by means of the intuition, the [264] Initiate can contact the stores of knowledge inherent in the Monad, and thus learn the Words of Power. This ability comes only after the application of the Rod of Initiation as wielded by the Lord of the World. Therefore by the higher stages of occult meditation does a Master of the Wisdom increase still further His knowledge. Not static is His consciousness, but daily embracing more. Daily does He apply Himself to further expansion. |
Một Chân sư Minh triết là Vị đã được giao phó một số Quyền lực từ, vì công tác Ngài cần phải hoàn thành. Nhờ các linh từ này Ngài vận dụng được định luật quản trị các trường tiến hóa khác nhân loại, và qua các giới này Ngài cộng tác với trạng thái hoạt động của Thượng Đế. Bằng cách này Ngài hoà hợp tâm thức của Ngài với tâm thức của Thượng Đế Ngôi Ba. Dùng các linh từ này Ngài trợ giúp công cuộc kiến tạo và nỗ lực vận dụng kết hợp của Thượng Đế Ngôi Hai, và hiểu thấu tác động nội tại của định luật trọng trường (hay hấp dẫn và đối kháng). Luật này chi phối mọi hoạt động của Ngôi Hai Thượng Đế. Qua các Linh từ kể trên, Ngài hợp tác với công việc của Thượng Đế Ngôi Một, và học được ý nghĩa của Ý chí (Thiên ý) áp dụng trong thái dương hệ, khi Ngài được điểm đạo lần thứ sáu và thứ bảy (không phải luôn luôn vị Chân sư nào cũng làm thế). Các Linh từ này được khẩu truyền, và truyền qua khả năng nhãn thông, nhưng vị Điểm đạo đồ phải tự mình tìm ra bằng cách sử dụng atma và khi Ngài đạt được tâm thức niết-bàn. . . . Khi tâm thức niết-bàn phát triển nhờ [264] trực giác, vị Điểm đạo đồ có thể tiếp xúc với các kho tri thức sẵn có trong Chân thần và nhờ đó mà học được các Quyền lực từ. Khả năng này chỉ có sau khi Đức Chúa tể Hoàn cầu áp dụng Điểm đạo Thần trượng cho vị Điểm đạo đồ. Vì thế, nhờ các giai đoạn cao của thiền huyền môn mà vị Chân sư Minh triết ngày càng tăng thêm sự hiểu biết của Ngài. Tâm thức Ngài không tĩnh tại mà ngày càng bao gồm nhiều hơn. Mỗi ngày Ngài càng triển khai tâm thức rộng lớn hơn. |
|
A Master of the Wisdom is One Who has earned the right through similarity of vibration to work with the Heads of the Hierarchy of this planet, and in conjunction with analogous Heads on two other planets connected with our chain. When He has taken other initiations He can contact and work in conjunction with all the seven Planetary Logoi, and not just the three in control of allied chains. The whole system can be embraced by Him, and His consciousness has expanded to include the entire objective solar system. |
Một Chân sư Minh triết là Vị nhờ sự tương đồng rung động mà được quyền làm việc với các vị Lãnh đạo của Đ.Đ.C.G. địa cầu, và phối hợp với các vị Lãnh đạo tương ứng trên hai hành tinh khác liên kết với dãy hành tinh của chúng ta. Khi được điểm đạo cao hơn Ngài có thể tiếp xúc và hoạt động phối hợp với cả bảy vị Hành tinh Thượng đế, chứ không phải chỉ với ba vị đang điều khiển các dãy hành tinh liên kết này. Ngài có thể thấu đáo cả thái dương hệ và tâm thức Ngài đã triển khai đến mức có thể bao trùm cả thái dương hệ khách quan. |
|
I could enumerate still other definitions, and further elucidate the matter for you, but that imparted today suffices. The point reached by a Master is high, but only relatively so, and you must not forget that when attained by Him it seems low indeed, for He measures it up with the vista expanding before Him. Each expansion of consciousness, each step upon the ladder, but opens before the Initiate another sphere to be embraced, and another step ahead to be taken; each initiation achieved but reveals still higher ones to be mastered, and never comes the point where the aspirant (be he an average man, an initiate, a Master, a Chohan, or a Buddha) can remain in a condition static, and is incapable of future progress. Even the Logos Himself aspires, and even the One to Whom He aspires reaches up to a Greater. [265] |
Tôi có thể kể ra nhiều định nghĩa khác nữa và giải rõ thêm vấn đề cho các bạn, nhưng hôm nay thế là đủ. Trình độ thành đạt của một vị Chân sư tuy cao thật, nhưng cũng chỉ tương đối thôi. Các bạn đừng quên rằng ở mức thành đạt ấy Ngài cũng thấy còn thấp khi so sánh với các viễn ảnh bao la trước mắt Ngài. Mỗi lần mở rộng tâm thức, mỗi lần bước lên một nấc thang cao hơn, trước mắt vị Điểm đạo đồ lại mở ra một phạm vi mới phải thấu đáo và một bước mới phải tiến thêm. Mỗi cuộc điểm đạo đạt được lại hé lộ cho ta thấy cần phải tiến đến những cuộc điểm đạo khác còn cao hơn nữa. Và không bao giờ có lúc mà người chí nguyện (dù đó là một người thường, một điểm đạo đồ, một Chân sư, một Đế quân hay một vị Phật) lại có thể ở trong tình trạng tĩnh tại, và không thể tiến xa hơn. Ngay cả Đức Thái Dương Thượng Đế Ngài cũng ước nguyện tiến lên, và chính Đấng mà Ngài ngưỡng vọng cũng đang hướng đến một Đấng cao cả hơn. [265] |
|
What happens in the system transpires likewise on cosmic levels, and what is mastered here must be repeated on a vaster scale in the cosmos itself. In this thought lies inspiration and development and not despair or weariness. The reward that comes with each step forward, the delight that lies in increased comprehension, rewards the struggling aspirant in adequate fashion…. Tomorrow we will deal with the more practical side, that of the man who aims at this high calling. |
Điều gì xảy ra trong thái dương hệ thì cũng xảy ra tương tự ở các cấp vũ trụ. Và những gì ta đã thấu đạt trong thái dương hệ hẳn phải được thấu đạt trên qui mô rộng lớn hơn trong vũ trụ. Tư tưởng này mang lại nguồn hứng khởi và sự phát triển chứ không làm chúng ta cảm thấy thất vọng và mệt mỏi. Phần thưởng kèm theo mỗi bước tiến tới và niềm vui thích của khả năng thông hiểu gia tăng là sự ban thưởng thích đáng cho người chí nguyện đang phấn đấu. . . . Ngày mai, chúng ta sẽ bàn đến khía cạnh thiết thực hơn, nói về người nào đang hướng đến tiếng gọi cao cả này. |
|
SEPTEMBER 16TH, 1920. |
Ngày 16-9-1920. |
|
Điều kiện để đến gần Chân sư. |
|
|
We deal today with the second point in our eighth letter, and we have to look at the subject in two ways, briefly from the standpoint of the Master, and rather lengthily from the viewpoint of the pupil. |
Hôm nay, chúng ta bàn đến điểm thứ hai của bức thư thứ tám. Chúng ta phải nhìn vấn đề theo hai hướng, về phần Chân sư chỉ bàn vắn tắt, còn về phần đệ tử thì nói nhiều hơn. |
|
We have in these letters given a broad outline of the magnitude of the task that lies ahead of the man who proposes to attain. Much that has been written has no interest for the man who is only of average development, but chiefly concerns the man who has reached a specific point in evolution, and stands upon the Path of Probation. Much that might be said upon this matter has been covered in that earlier series I communicated to you. I seek not to cover the same ground here, but to deal more specifically with the internal relationship which exists between Master and pupil. |
Trong các bức thư này, chúng ta đã phác họa tầm mức rộng lớn của công việc trước mắt những ai muốn thành đạt. Nhiều điều đã viết ra có lẽ không thú vị gì đối với người có trình độ phát triển trung bình, mà chính yếu là liên quan đến những người đã đạt một mức tiến hóa nhất định, và đang đi trên Đường Dự bị. Trong loạt thư đầu, tôi đã truyền đạt cho các bạn nhiều điều có thể nói về vấn đề này. Tôi không muốn nói lại các điều đó ở đây, mà sẽ bàn cụ thể hơn về mối liên quan nội tại giữa Chân sư và đệ tử. |
|
That relationship exists in four grades, in each of which a man progresses nearer to his Master. These four grades are as follows and cover the period wherein the man is under training until the time when he himself becomes an adept. |
Sự liên hệ này có bốn cấp bậc, và theo từng bậc người môn sinh ngày càng tiến gần Chân sư hơn. Bốn cấp bậc đó được kể sau đây từ giai đoạn người môn sinh được huấn luyện, cho đến lúc chính y trở thành một vị Chân sư. |
|
They are:— |
Đó là: – |
|
a. The period wherein he is on probation. [266] |
a. Giai đoạn y được thử thách. [266] |
|
b. The period wherein he is an accepted disciple. |
b. Giai đoạn y là một đệ tử nhập môn. |
|
c. The period wherein he is regarded as the Master’s intimate, or—as it is esoterically termed—the “Son of the Master.” |
c. Giai đoạn y được xem là người thân cận của Chân sư, hoặc gọi theo danh từ nội môn là “Con của Chân sư.” |
|
d. The period wherein the final three initiations are taken, and he knows himself as one with the Master. He ranks then as the “Beloved of the Master,” a position analogous to that which John, the beloved disciple, held in the Bible story. |
d. Giai đoạn y được ba lần điểm đạo sau, và biết mình là một với Chân sư. Y được xếp vào hàng “Đệ tử thân yêu của Chân sư,” một địa vị tương tự như địa vị của Thánh John, người đệ tử thân yêu, trong câu chuyện Kinh thánh. |
|
All these stages are governed by two things:— |
Tất cả các giai đoạn trên đều chịu sự chi phối của hai điều: – |
|
a. Similarity of vibration. |
a. Sự tương đồng rung động. |
|
b. Karma, |
b. Nghiệp quả, |
|
and all are involved in the ability of tie man to develop group consciousness. |
và tất cả đều được bao gồm trong khả năng phát triển tâm thức tập thể nơi hành giả. |
|
On the planes of the higher mind, on the second subplane you have a reflection of what can be seen on the highest planes of our solar system. What have you there? The seven Heavenly Men are there to be found, each of Whom is composed (from the standpoint of form) of group souls,—those group souls being made up of the individual human and angel units of consciousness. On the second subplane of the mental plane you have the groups belonging to the Masters, if so I may express it. These groups are animated and vitalised from the atomic subplane where the Masters (when manifesting for the helping of the sons of men) have Their habitat,* just as the Heavenly Men have Their originating source and the cause of Their life on the atomic plane of the solar system, that which we call the plane of adi, or the first plane. These groups are formed around a Master, are enclosed within His aura, and are a part of His consciousness. They include people whose egoic ray is the same as His, or whose monadic ray is the same. |
Trên các cấp thượng trí, ở cõi phụ thứ nhì, chúng ta thấy được phản ánh của những gì có trên cảnh giới cao nhất của thái dương hệ này. Trên các cảnh giới đó có gì? Có bảy Đấng Thiên đế, mỗi Đấng bao gồm các hồn nhóm (nói theo phương diện hình thể), – các hồn nhóm này được tạo thành bởi những đơn vị tâm thức của thiên thần và con người. Có thể nói rằng ở cõi phụ thứ hai của cõi trí có những nhóm thuộc về các Chân sư. Những nhóm này được phát động và làm sinh động từ cõi phụ nguyên tử là điểm trụ[1] của các Chân sư (khi các Ngài biểu hiện để trợ giúp nhân loại). Tương tự, nguồn cội của các Đấng Thiên đế đều phát khởi từ cảnh giới nguyên tử của Thái dương hệ, tức là cảnh giới thứ nhất mà chúng ta gọi là cõi adi. Các nhóm này được hình thành chung quanh một vị Chân sư, được hào quang của Ngài bao bọc, và là một thành phần của tâm thức Ngài. Các nhóm này gồm những người có cùng cung Chân ngã hay cung Chân thần với Ngài. [267] |
|
* Since 1920, great changes have occureed. Now (1949) there has been a shift to the Buddhic Plane. (A.A.B.) |
[1] Từ năm 1920, đã có những thay đổi lớn. Hiện nay (năm 1949) điểm trụ này đã chuyển lên Cõi Bồ-đề. (A.A.B.) |
|
[267] This means that two types of people are concerned:— |
Đó là hai hạng người: – |
|
1. Those who are preparing for the first and second initiations, taken upon the ray of the Ego, and |
1. Những người đang chuẩn bị để được điểm đạo lần thứ nhất hay thứ hai là những cuộc điểm đạo có liên quan đến cung của Chân nhân; và |
|
2. Those who are preparing for the two next initiations, which are taken upon the ray of the Monad. You have here a cause of the transference of people from one ray to another. It is only an apparent transference, even though it entails passing into the group of a different Master. This takes place after the second initiation. |
2. Những người đang chuẩn bị cho hai cuộc điểm đạo kế tiếp, liên quan đến cung của Chân thần. Ở đây, chúng ta thấy có một nguyên nhân khiến hành giả đổi từ cung này sang cung khác. Đó chỉ là sự thay đổi ở bề ngoài, dù rằng nó cũng đòi hỏi phải dời qua nhóm của một Chân sư khác. Điều này xảy ra sau cuộc điểm đạo thứ hai. |
|
A Probationer’s three objects. |
Ba mục tiêu của Người dự bị. |
|
During the period wherein a man is under probation, he is supposed to be developing three things:— |
Trong suốt thời gian trên đường dự bị, người môn sinh cần phát triển ba điều: – |
|
1. The ability to contact his group, or in other words, to be sensible of the vibration of the group of which some particular Master is the focal point. He contacts it at times and at rare intervals at first. During the early part of his probation, whilst he is under observation, he can only sense and hold the group vibration (which is the Master’s vibration) for a very brief interval. He will at some high moment link up with the Master and with the group, and his whole being will be flooded with that high vibration, and surge upward in an outburst of his group colour. Then he will relax, drop back and lose the contact. His bodies are not refined enough and his vibration is too unstable to hold it long. |
1. Khả năng tiếp xúc với nhóm của y, hay nói cách khác là y phải cảm được sự rung động của nhóm mà tiêu điểm là một vị Chân sư. Lúc đầu sự tiếp xúc này ít khi xảy ra. Trong giai đoạn đầu của con đường dự bị, trong khi y được quan sát, y chỉ cảm nhận và giữ được sự rung động của nhóm (tức là sự rung động của Chân sư) trong những phút giây ngắn ngủi thôi. Khi tâm thức dâng cao, y liên kết được với Chân sư và với nhóm, và trọn cả bản thể y tràn ngập sự rung động cao thượng đó, và bừng lên màu sắc của nhóm y. Sau đó, y buông lơi, thối lui và không còn tiếp xúc được nữa. Các thể của y chưa được tinh luyện đúng mức và sự rung động của y chưa đủ vững bền để giữ được trạng thái này lâu. |
|
But, as time progresses (longer or shorter according to the earnestness of the pupil) the frequency of the times of contact increases; he can hold the vibration somewhat longer, and does not relax back to normal with so much ease. Then the time comes when he can be trusted to hold the contact fairly stably. He passes then to the second stage. [268] |
Nhưng, thời gian qua (lâu hay mau là tùy sự tinh tấn của người môn sinh) sự tiếp xúc thường xảy ra hơn. Y có thể giữ được sự rung động khá lâu hơn, và không rơi trở lại mức tầm thường một cách dễ dàng như trước. Rồi đến lúc y có thể được tin cậy để giữ sự tiếp xúc khá vững vàng hơn. Đó là lúc y bước sang giai đoạn thứ hai. [268] |
|
2. The second thing he is supposed to be developing on the probationary path is the faculty of abstract thought, or the power to link up with the higher mind, via the causal body. He must learn to contact the lower mind simply as an instrument whereby he can reach the higher, and thus transcend it, until he becomes polarised in the causal body. Then, through the medium of the causal body, he links up with the abstract levels. Until he can do this he cannot really contact the Master, for, as you have been told, the pupil has to raise himself from his world (the lower) into Their world (the higher). |
2. Điều thứ hai mà y cần phát triển trên đường dự bị là khả năng suy tư trừu tượng hay năng lực tiếp xúc với thượng trí, thông qua thể nguyên nhân. Y phải học cách chỉ dùng hạ trí làm phương tiện để đạt đến thượng trí. Bằng cách đó y vượt cao hơn hạ trí cho đến mức trở nên phân cực trong thể nguyên nhân. Bấy giờ, nhờ trung gian của thể này, y liên kết được với các cấp độ trừu tượng. Ngày nào làm được như thế y mới có thể thực sự tiếp xúc với Chân sư. Bởi vì như các bạn đã biết người môn sinh phải tự tiến lên từ cảnh giới của mình (cõi thấp) đến cảnh giới của các Ngài (cõi cao). |
|
Now both these things—the power to touch the Master and the Master’s group, and the power to polarise himself in the causal body and touch the abstract levels—are definitely the result of meditation, and the earlier letters you have received from me will have made this clear. There is therefore no need to recapitulate the earlier imparted data, save to point out that by strenuous meditation, and the faculty of one-pointed application to the duty in hand (which is after all the fruit of meditation worked out in daily living) will come the increased faculty to hold steadily the higher vibration. Again and again would I reiterate the apparently simple truth, that only similarity of vibration will draw a man to the higher group to which he may belong, to the Master Who represents to him the Lord of His Ray, to the World Teacher Who administers to him the mysteries, to the One Initiator Who effects the final liberation, and to the centre within the Heavenly Man in Whose Body he finds a place. It is the working out of the Law of Attraction and Repulsion on all the planes that gathers the life divine out of the mineral kingdom, out of the vegetable and animal kingdoms, that draws the latent Deity from out of the limitations of the human kingdom, and affiliates the man [269] with his divine group. The same law effects his liberation from subtler forms that likewise bind, and blends him back into his animating source, the Lord of the Ray in Whose Body his Monad may be found. Therefore the work of the probationer is to attune his vibration to that of his Master, to purify his three lower bodies so that they form no hindrance to that contact, and so to dominate his lower mind that it is no longer a barrier to the downflow of light from the threefold Spirit. Thus he is permitted to touch that Triad and the group on the subplane of the higher mental to which he—by right and karma—-belongs. All this is brought about by meditation, and there is no other means for achieving these aims. |
Cả hai điểm này – khả năng tiếp xúc với Chân sư và nhóm của Ngài, và khả năng phân cực trong thể nguyên nhân và tiếp xúc với các cấp độ trừu tượng – nhất định là kết quả của tham thiền, đã được tôi giải rõ trong những bức thư các bạn đã nhận trước đây. Vì thế, tôi không cần lặp lại những điều đã nói, trừ việc chỉ cho các bạn thấy rõ rằng nhờ hành thiền cần mẫn và khả năng chuyên chú vào bổn phận đang làm (nói cho cùng khả năng này là kết quả của tham thiền thể hiện trong đời sống hàng ngày) mà chúng ta ngày càng thêm khả năng giữ vững các rung động cao. Tôi muốn lặp đi lặp lại mãi chân lý có vẻ đơn giản là chỉ có sự tương đồng rung động mới đưa hành giả đến nhóm của y ở cõi cao, đến với vị Chân sư (mà đối với y) là tiêu biểu cho Đấng Chủ tể của Cung Ngài, đến Đức Chưởng giáo là Đấng ban cho y các bí nhiệm, đến Đấng Điểm đạo Duy nhất, Người giúp y được sự giải thoát cuối cùng, và đến Trung tâm trong Đấng Thiên đế mà y ở trong mình của Ngài. Đó là sự vận hành của Luật Hấp dẫn và Đối kháng trên mọi cảnh giới. Luật này thu góp sự sống thiêng liêng ra khỏi giới khoáng vật, ra khỏi giới thực vật và động vật, đưa Thiên tính ẩn tàng ra khỏi các hạn chế của nhân loại và kết hợp hành giả vào [269] nhóm của y ở cõi thiêng liêng. Chính luật này giúp y giải thoát ra khỏi các thể thanh (những thể này cũng lại ràng buộc y), để hòa hợp y trở về với cội nguồn sinh động là Đấng Chủ tể của Cung mà Chân thần của y ở trong cơ thể Ngài. Cho nên công việc của người trên đường dự bị là cố gắng hòa hợp rung động của mình với rung động của Chân sư, là tinh luyện ba hạ thể của y sao cho chúng không gây trở ngại cho sự tiếp xúc đó, và chủ trị hạ trí thế nào để nó không còn là một chướng ngại cho dòng ánh sáng tuôn xuống từ Tinh thần tam phân. Nhờ thế, y được phép tiếp xúc với Tam nguyên và nhóm trên cõi phụ của cấp thượng trí mà y liên kết (vì y có quyền đó và do nghiệp quả). Tất cả những mục tiêu này đều nhờ tham thiền mang lại, chứ không thể đạt bằng phương tiện nào khác. |
|
3. The third thing the probationer has to do is to equip himself emotionally and mentally, and to realise and prove that he has somewhat to impart to the group with which he is esoterically affiliated. Think upon this: too much emphasis is laid at times upon that which the pupil will get when he becomes an accepted disciple or probationer. I tell you here, in all earnestness, that he will not take these desired steps until he has somewhat to give, and something to add that will increase the beauty of the group, that will add to the available equipment that the Master seeks for the helping of the race, and that will increase the richness of the group colouring. This can be brought about in two ways that mutually interact:— |
3. Điều thứ ba mà người đệ tử dự bị phải làm là tự trang bị về mặt tình cảm và trí tuệ. Y phải thực hiện và tự chứng tỏ đã có một điều gì đó để mang lại cho nhóm mà y liên hệ về mặt nội môn. Hãy nghĩ kỹ điểm này: người ta thường chú trọng quá nhiều về những gì mà người môn sinh sẽ nhận được khi y trở thành một đệ tử dự bị hay đệ tử nhập môn. Ở đây, với tất cả tâm thành, tôi xin nói với các bạn rằng ngày nào người môn sinh chưa có phần nào để cho ra, và một điều gì để làm tăng vẻ đẹp của nhóm, chưa trở thành một khí cụ hữu dụng mà Chân sư tìm kiếm để trợ giúp nhân loại, và chưa làm cho màu sắc của nhóm được thêm phong phú thì ngày ấy y vẫn chưa đạt được những bước tiến mong muốn kể trên. Điều này có thể thực hiện bằng hai cách, tương tác với nhau: – |
|
a. By the definite equipping, through study and application, of the content of the emotional and mental bodies. |
a. Nhờ học hỏi và áp dụng mà trang bị nội dung của thể tình cảm và thể trí theo những điều kiện xác định. |
|
b. By the utilisation of that equipment in service to the race on the physical plane, thereby demonstrating to the eyes of the watching Hierarchy that the pupil has somewhat to give. He must show that his one desire is to be a benefactor and [270] to serve, rather than to grasp and acquire for himself. This life of acquisition for the purposes of giving must have for incentive the ideals touched in meditation, and for inspiration those downpourings from the higher mental levels and from the buddhic levels which are the result of occult meditation. |
b. Dùng trang bị đó để phụng sự nhân loại ở cõi trần, bày tỏ dưới ánh mắt đang trông nom của Đ.Đ.C.G. rằng người môn sinh đã có một điều gì đó để cho ra. Y phải cho thấy rằng ý muốn duy nhất của y là giúp [270] ích và phụng sự, hơn là nhằm thu đạt cho riêng mình. Cuộc sống thu đạt nhằm mục đích cho ra phải được khích lệ bởi các lý tưởng tìm thấy trong tham thiền, và phải có nguồn cảm hứng tuôn xuống từ các cấp thượng trí và bồ-đề, vốn là kết quả của thiền huyền môn. |
|
When these three results are brought about, and when the high vibration touched is more frequent and stable, then the probationer takes the next step forward and becomes an accepted disciple. |
Khi đã đạt được ba kết quả này, và khi nguồn rung động cao được tiếp xúc thường xuyên và vững bền hơn, thì người đệ tử dự bị sẽ tiến lên bước kế tiếp và trở thành một đệ tử nhập môn. |
|
Accepted Discipleship. |
Tư cách Đệ tử Nhập môn. |
|
The second period, wherein a man is an accepted disciple, is perhaps one of the most difficult in a man’s whole period of lives. It is made so in several ways:— |
Có lẽ giai đoạn hai, giai đoạn của người đệ tử nhập môn, là một trong những giai đoạn khó khăn nhất trong toàn bộ các kiếp sống của con người, và khó khăn trong nhiều phương diện: – |
|
He is definitely a part of the Master’s group, and is within the consciousness of the Master at all times, being kept within His aura. This involves the steady holding of a high vibration. I would have you ponder on what the effect of this would be. To hold this vibration is at all times a difficult thing to do; it frequently involves an intensification of all that subsists within a man’s nature, and may lead (especially at first) to curious demonstration. Yet, if ever a man is to be able to hold the force that is the result of the application of the Rod of Initiation, he has to demonstrate his ability to do so at an earlier stage, and be able to hold himself stably and to move steadily forward when subjected to the intensification of vibration that comes from the Master. |
Rõ ràng y là một thành phần trong nhóm của Chân sư, luôn luôn ở trong tâm thức của Chân sư, và được giữ trong hào quang của Ngài. Điều này bao gồm việc giữ vững một rung động cao. Tôi muốn các bạn hãy suy ngẫm về hiệu quả của điều này. Bao giờ cũng khó giữ được một rung động cao. Cố gắng này thường cần phải tăng cường tất cả những gì có trong bản tính của hành giả, và có thể đưa đến những sự biểu lộ kỳ lạ (nhất là trong lúc đầu). Tuy nhiên, nếu hành giả muốn có thể giữ được thần lực là kết quả của việc áp dụng Điểm đạo Thần trượng, thì y phải tỏ ra có khả năng làm được điều đó ở giai đoạn đầu, và có thể giữ mình vững vàng và tiến tới đều đặn khi chịu ảnh hưởng sự tăng cường rung động đến từ Chân sư. |
|
He has to discipline himself so that nothing can enter into his consciousness that could in any way harm the group to which he belongs, or be antagonistic to the Master’s vibration. If I might so express it, so as to give [271] you some conception of my meaning, when he first forms part of the group enclosed in the Master’s aura, he is kept on the periphery of that aura until he has learnt to throw off automatically, and to reject immediately, every thought and desire unworthy of the Self and thus harmful to the group. Until he has learnt to do this he cannot advance into a closer relationship, but must remain where he can be automatically shut off. But gradually he purifies himself still more, gradually he develops group consciousness and thinks in group terms of service, gradually his aura takes on more and more the colouring of his Master’s aura, till he blends and has earned the right to be gathered closer to his Master’s Heart. Later I will explain the technical meaning of this phrase, when dealing with the work of the Master with the pupil. Suffice it to say, that as the term of “accepted disciple” progresses (and it varies in different cases) the disciple advances ever closer to the heart of the group, and finds his own place and functional activity in that body corporate. That is the secret: the finding of one’s place,—not so much one’s place upon the ladder of evolution (for that is approximately known), but in service. This is of more importance than is realised, for it covers the period which, at the end, will definitely demonstrate which path a man will follow after the fifth initiation. |
Y phải tự giữ giới luật sao cho không có gì nhập vào tâm thức của y lại có thể gây hại cho nhóm của y theo lối nào đó, hoặc đối nghịch với rung động của Chân sư. Để các bạn có vài khái niệm về ý nghĩa của điều này, tôi có thể nói rằng khi lần [271] đầu y trở nên thành viên của nhóm được bao bọc trong hào quang của Chân sư thì y được giữ ở ngoại vi của hào quang này, cho đến khi nào y đã học được cách tự động ném bỏ và loại bỏ ngay tức khắc mọi tư tưởng và ham muốn không xứng đáng với Chân ngã và vì thế mà làm phương hại đến nhóm. Ngày nào chưa học được cách thực hiện điều này thì y không thể nào tiến đến quan hệ gần gũi hơn, và phải còn ở nơi mà y có thể tự động bị ngăn lại. Nhưng dần dần y tự tinh luyện nhiều hơn, dần dần phát triển tâm thức tập thể và suy tư trong phạm vi phụng sự tập thể, hào quang của y ngày càng có màu sắc hào quang của Chân sư y, cho đến khi y hòa hợp được và có quyền tiến đến gần Tâm của Chân sư hơn. Sau này khi bàn về công việc của Chân sư làm cho đệ tử, tôi sẽ giải thích ý nghĩa kỹ thuật của câu này. Có thể nói tạm đủ là khi thời kỳ “đệ tử nhập môn” tiến triển (và biến đổi trong nhiều trường hợp khác nhau) thì người đệ tử càng tiến đến gần tâm của nhóm hơn và tìm thấy vị trí và phận sự của mình trong cơ thể hợp nhất đó. Bí quyết là: tìm thấy vị trí của y, – không phải vị trí của y trên thang tiến hóa (vì điều đó được biết gần đúng) mà là vị trí của y trong phụng sự. Điều này còn quan trọng hơn là các bạn tưởng, vì nó bao gồm giai đoạn mà ở mức cuối sẽ cho thấy rõ rệt con đường nào hành giả sẽ đi theo, sau cuộc điểm đạo thứ năm. |
|
Sonship to the Master. |
Vị thế Con của Chân sư. |
|
We now come to the time when the disciple moves on to the much coveted position of a “Son of the Master.” He is then a part consciously and at all times of the Master’s consciousness. The interplay between the Master and disciple is being rapidly perfected, and the disciple can now consciously and at will link up with the Master and ascertain His thoughts. He can enter into His plans, desires [272] and will. This he has won by the right of similarity of vibration, and because the shutting off process (necessitated earlier by discordant vibration) is practically superseded; the disciple has so purified himself that his thoughts and desires cause no disquietude to the Master, and no contrary vibration to the group. He has been tried and not been found wanting. His life of service in the world is more concentrated and perfected, and he is daily developing his power to give, and increasing his equipment. All this concerns his relationship to some Master and to some one group soul. It is not dependent upon his taking initiation. Initiation is a technical matter and can be expressed in terms of esoteric science. A man can take initiation and yet not be a “son of a Master.” Discipleship is a personal relationship, governed by terms of karma and affiliation, and is not dependent upon a man’s status in the Lodge. Keep this clear in your mind. Cases have been known when a man has acquired—through diligence—the technical requisites for initiation before becoming affiliated with any particular Master. |
Giờ đây đã đến lúc người đệ tử tiến đến vị thế mà nhiều người mong mỏi là “Con của Chân sư.” Bấy giờ y luôn luôn là một thành phần hữu thức của tâm thức Chân sư. Sự tương tác giữa Chân sư và đệ tử được kiện toàn nhanh chóng, và lúc này người đệ tử có thể tùy ý liên kết với Chân sư một cách hữu thức và nhận rõ được các tư tưởng của Ngài. Y có thể [272] thấu hiểu các kế hoạch, ý muốn và quyết định của Ngài. Y có quyền làm điều này nhờ sự tương đồng rung động và vì tiến trình ngăn chặn (cần thiết lúc đầu do sự rung động thiếu hài hòa) đã thực sự được thay thế. Người đệ tử đã thanh luyện mình đến mức các tư tưởng và ý muốn của y không còn gây phiền phức cho Chân sư và không có sự rung động nào trái ngược với nhóm. Y đã được thử thách và người ta thấy rằng y không thiếu điều kiện. Cuộc sống phụng sự của y ở thế gian ngày càng tập trung và hoàn hảo hơn, và hằng ngày y phát triển năng lực cho ra và tăng cường trang bị. Tất cả những điều này đều thuộc về mối quan hệ của người đệ tử với một vị Chân sư và một linh hồn tập thể, chứ không phụ thuộc vào việc y được điểm đạo hay không. Điểm đạo là một vấn đề kỹ thuật và có thể diễn tả theo khoa nội môn. Một người có thể được điểm đạo mà không phải là “Con của một Chân sư.” Tư cách đệ tử là một quan hệ cá nhân, do nghiệp quả và mối liên kết chi phối, chứ không tùy thuộc vào vị trí của hành giả trong Huyền giai. Hãy ghi nhớ rõ điều này. Đã có những trường hợp nhờ tinh tấn chuyên cần mà hành giả đạt được những điều kiện kỹ thuật cần thiết để được điểm đạo trước khi trở nên thân thiết với một vị Chân sư. |
|
This later relationship of “son” to some Master has a peculiar sweetness all its own, and carries with it certain privileges. The disciple can then lift some of the burden off his Master’s shoulders, and relieve Him of some of His responsibilities, thereby setting Him free for more extended work. Hence the emphasis laid on service, for it is only as a man serves that he advances. It is the keynote of the vibration of the second abstract level. The Master at this period will confer with His “Son” and plan the work to be done upon their united point of view. In this way He will develop His pupil’s discrimination and judgment, and lighten His own load along certain lines, thus setting Himself free for other important work. [273] |
Mối quan hệ này ở giai đoạn sau với tư cách “con” của một Chân sư có sự ngọt ngào riêng cùng với những đặc ân nhất định. Bấy giờ, người đệ tử có thể chia bớt một phần gánh nặng trên vai Chân sư, đảm đương cho Ngài một số trách nhiệm để Ngài rảnh tay thực hiện những công việc rộng lớn hơn. Bởi thế mà có chú trọng đến phụng sự, vì chỉ khi phụng sự hành giả mới tiến bộ. Đây là chủ âm của sự rung động ở cõi phụ trừu tượng thứ hai. Ở giai đoạn này Chân sư sẽ bàn bạc với “Con” của Ngài và trù liệu công việc phải làm trong quan điểm hợp nhất với nhau. Bằng cách này Ngài phát triển trí phân biện và phán đoán của đệ tử, và làm giảm nhẹ gánh nặng của Ngài theo một số chiều hướng, để Ngài rảnh tay đảm nhận công tác quan trọng khác. [273] |
|
The final period of those under discussion can have but little submitted about it. It covers the period when a man is mastering the final stages of the Path and is entering into closer and closer touch with his group and with the Hierarchy. He is not only vibrating in tune with his group and with his Master, but is beginning now to gather out his own people, and form a group himself. This group will be at first only on emotional and physical levels and on the lower mental. After the fifth initiation he will enclose within his aura these groups and those on egoic levels who are his own. This in no way prevents his being one with his Master and group, but the method of interblending is one of the secrets of initiation. |
Giai đoạn cuối của những điều chúng ta đang bàn chỉ được đề cập chút ít thôi. Nó bao gồm thời kỳ hành giả tiến đến những đoạn cuối của Đường Đạo và ngày càng giao tiếp mật thiết hơn với nhóm và với Đ.Đ.C.G.. Giờ đây, không những y rung động hòa hợp được với nhóm và với Chân sư y, mà còn qui tụ một số người chung quanh y và lập nhóm của chính mình. Lúc đầu, nhóm này chỉ ở cõi trần, cõi tình cảm và hạ trí. Sau lần điểm đạo thứ năm, y sẽ bao bọc trong hào quang của y những nhóm và những Chân nhân của chính mình. Điều này không hề ngăn cản việc y hợp nhất với Chân sư và nhóm của y, mà phương pháp tương liên hòa hợp là một trong các bí mật của điểm đạo. |
|
All this, coupled with what has been earlier imparted, will give you some idea of the rights and powers acquired on the Probationary Path and on the Path of Initiation. The means of development are ever the same:—occult meditation and service; the inner life of concentration and the outer life of practice; the inner ability to contact the higher, and the outer ability to express that faculty in terms of holy living; the inner irradiation from the Spirit, and the outer shining before men. |
Tất cả những điều này cùng với những gì đã truyền đạt trước đây, sẽ cho các bạn một vài ý tưởng về các quyền hạn và năng lực đạt được trên Con đường Dự bị và Con đường Điểm đạo. Bao giờ phương tiện phát triển cũng giống nhau: – thiền huyền môn và phụng sự; cuộc sống tập trung ở nội tâm và cuộc sống thực hành ở bên ngoài; khả năng nội tâm giao tiếp với tầm mức cao siêu và năng lực phát biểu khả năng đó trong cuộc sống thánh thiện ở bên ngoài; sự phóng quang bên trong từ Tinh thần, và sự chói rạng bên ngoài trước mắt mọi người. |
|
SEPTEMBER 17TH, 1920. |
Ngày 17-9-1920. |
|
……The subject that we have for the past few days been studying, though not so technical as some of the earlier imparted data, yet carries with it a vibration that will make this eighth letter one of those with the most potent appeals in the series. We have dealt with the facts as to the Masters and Who They are, and Their place in the scheme of things, and we have touched briefly upon what access to a Master entails from the standpoint of a pupil. We have seen that that access is a gradual process and carries a man from an occasional outer contact with [274] a Master and His group to a position of the closest intimacy, and to an attitude that places the pupil within the aura and close to the heart of his Teacher. Today we will consider for a while what this gradual changing of position has entailed on the part of the Master and what it has necessitated on His side. |
. . . . . . Đề tài chúng ta nghiên cứu trong mấy ngày qua dù không có tính cách kỹ thuật như một số điều đã được truyền đạt trước đây, nhưng lại có sự rung động khiến cho bức thư thứ tám trở thành một trong những lời kêu gọi mạnh mẽ nhất trong loạt thư này. Chúng ta đã bàn đến sự kiện thực về các Chân sư, các Ngài là ai, vị trí của các Ngài trong Thiên cơ, và nói sơ qua về những điều kiện mà các đệ tử cần có khi muốn đến gần Chân sư. Chúng ta đã thấy rằng việc tiếp cận này là một diễn trình tuần tự và đưa hành giả từ sự thỉnh [274] thoảng tiếp xúc ở bên ngoài với Chân sư và nhóm của Ngài, đến vị trí thân thiết nhất, một vị thế đặt người môn đệ trong hào quang và kề cận với tâm của Sư phụ y. Hôm nay, chúng ta sẽ xem xét sơ qua về những gì mà sự thay đổi vị trí một cách tuần tự này cần ở Chân sư. |
|
The relationship of Master and pupil. |
Mối liên hệ giữa Chân sư và đệ tử. |
|
As you have frequently been told, the attention of a Master is attracted to a man by the brilliance of the indwelling light. When that light has reached a certain intensity, when the bodies are composed of a certain grade of matter, when the aura has attained a certain hue and when the vibration has reached a specific rate and measure, and when a man’s life commences to sound occultly in the three worlds (which sound is to be heard through the life of service), some one particular Master begins to test him out by the application of some higher vibration, and by the study of his reaction to that vibration. The choice of a pupil by a Master is governed by past karma and by old association, by the ray on which they both may be found, and by the need of the hour. The Master’s work (as much of it as may wisely be made exoteric) is varied and interesting, and is based on a scientific comprehension of human nature. What is it that a Master has to do with a pupil? By enumerating the chief things to be done we may get some idea of the scope of His work:— |
Như tôi thường nói với các bạn, một người hấp dẫn được sự chú ý của Chân sư là nhờ sự chói rạng của ánh sáng nội tâm. Khi ánh sáng ấy đạt đến cường độ nhất định, khi chất liệu của các thể đạt đến cấp độ nhất định, khi hào quang của y có được màu sắc nhất định, khi sự rung động của y đạt tần số nhất định, và khi cuộc sống của y bắt đầu phát ra âm thanh về mặt huyền bí trong tam giới (âm thanh này nghe được qua cuộc sống phụng sự), thì một vị Chân sư mới bắt đầu thử thách bằng cách áp đặt vào y một loại rung động cao hơn, và nghiên cứu phản ứng của y đối với sự rung động ấy. Việc Chân sư chọn đệ tử tùy theo nghiệp quả xưa, tùy theo mối quan hệ cũ, tùy theo cung mà cả Chân sư và đệ tử có thể cùng chung, và tùy theo nhu cầu của thời gian đó. Công việc của Chân sư (phần việc có thể đưa ra ngoại môn một cách thích hợp) thì thật là đa dạng và thú vị, và dựa vào sự thấu đáo bản tính của con người một cách khoa học. Chân sư phải làm gì với người đệ tử? Bằng cách kể ra những việc chính cần phải làm, chúng ta có thể phần nào ý niệm được phạm vi công việc của Ngài: – |
|
He has to accustom the pupil to raise his rate of vibration till he can continuously carry a high one, and then assist him until that high vibration becomes the stable measure of the pupil’s bodies. |
Ngài phải tập cho đệ tử quen nâng cao tốc độ rung động của y, cho đến khi y có thể liên tục giữ được một mức rung động cao. Rồi lại giúp y cho đến khi sự rung động ấy trở thành một nhịp điệu vững bền trong các thể của y. |
|
He has to assist the pupil to effect the transfer of polarisation from the lower three atoms of the Personality to the higher ones of the Spiritual Triad. [275] |
Ngài phải giúp đệ tử chuyển sự phân cực từ ba nguyên tử thấp của phàm nhân lên các nguyên tử cao của Tam nguyên Tinh thần. |
|
He has to watch over the work accomplished by the pupil whilst making the channel between higher and lower mind, whilst he builds and employs this channel (the antahkarana). This channel eventually supersedes the causal body as a means of communication between the higher and the lower. The causal body is itself eventually done away with when the pupil takes the fourth initiation and can freely create his own body of manifestation. |
[275] Ngài trông nom việc người đệ tử hoàn thành đường truyền giữa thượng và hạ trí, khi y kiến tạo và sử dụng đường truyền này (antahkarana). Cuối cùng đường dẫn này thay thế cho thể nguyên nhân để làm phương tiện truyền thông giữa thượng và hạ. Rốt cuộc thể nguyên nhân bị loại bỏ khi người đệ tử được điểm đạo lần thứ tư và có thể tự do tạo ra thể biểu hiện của mình. |
|
He definitely assists at the vivification of the various centres and their correct awakening, and He later aids the pupil to work consciously through those centres, and to carry the circulating fire in right geometrical progression from the base of the spine to the head centre. |
Ngài giúp đệ tử làm sinh động rõ rệt các luân xa khác nhau và khơi hoạt chúng đúng cách. Về sau Ngài giúp y làm việc thông qua các luân xa này một cách ý thức và chuyển lửa từ luân xa chót xương sống lên luân xa đầu theo diễn tiến hình học đúng đắn. |
|
He superintends the work of the pupil on different planes and makes records of the extent of the work accomplished, and the far-reaching effect of the spoken word as enunciated by the pupil. This is (putting it occultly) the effect on the inner planes of the note of the pupil’s exoteric life. |
Ngài giám sát công việc của người đệ tử trên nhiều cảnh giới khác nhau, ghi nhận tầm mức của công việc đã thành tựu và ảnh hưởng sâu rộng của những lời y thốt ra. Về mặt huyền môn thì đây là hiệu quả trên các cõi cao của âm điệu cuộc sống thường nhật của y. |
|
He enlarges the consciousness of the pupil in various ways, and develops his capacity to include and contact other rates of vibration than the human, to understand the consciousness of other evolutions than the human, and move with facility in other spheres than the earth sphere. |
Ngài giúp khai mở tâm thức của đệ tử bằng nhiều cách, và phát triển khả năng của y để có thể bao gồm và giao tiếp với những nhịp độ rung động khác hơn nhân loại, hiểu được tâm thức của các trường tiến hóa khác nhân loại, và di chuyển dễ dàng trong những bầu hành tinh khác ngoài địa cầu. |
|
His immediate goal in working with the pupil is to prepare him for the first initiation. This takes place when the capacity of the pupil to hold a certain rate of vibration for a specific length of time is developed, the length of time being that wherein he must stand before the Lord of the first two initiations. This is accomplished by a gradual raising of the vibration at few and stated intervals, and later more frequently, until the pupil can vibrate with greater ease and comfort to the vibration of his Master, and can hold the vibration for an ever increasing [276] length of time. When he can hold it for this period (the length of which is of course one of the secrets of the first initiation) he is subjected to the application of a still higher vibration which—when held—will enable him to stand before the Great Lord for a length of time sufficient to permit of the initiation ceremony. The application then of the Rod of Initiation effects something that stabilises vibration, and makes it easier to progress in the task of vibrating to the higher measure of the subtler planes. |
Mục tiêu trước mắt của Ngài khi làm việc với người đệ tử là chuẩn bị cho y được điểm đạo lần thứ nhất. Điều này xảy ra khi y phát triển được khả năng giữ một mức rung động nhất định trong một khoảng thời gian cụ thể. Đó là thời gian mà y phải đứng trước Đấng Chủ tể của hai cuộc điểm đạo đầu tiên. Điều này được thực hiện bằng cách tuần tự nâng cao sự rung động trong những thời khoảng ngắn định sẵn. Về sau thường xuyên nâng cao hơn, cho đến khi người đệ tử có thể rung động theo mức của Chân sư một cách dễ dàng, thoải mái và có thể [276] giữ mức rung động này càng lâu hơn nữa. Khi y đã giữ được sự rung động này lâu đúng mức (dĩ nhiên, độ lâu này là một trong các bí mật của cuộc điểm đạo thứ nhất) thì y được áp dụng một sự rung động còn cao hơn nữa để – khi giữ được – y có thể đứng trước Đấng Đại Chủ tể trong suốt thời gian đủ cho cuộc lễ điểm đạo. Bấy giờ, việc áp dụng Điểm đạo Thần trượng có một số hiệu quả ổn cố sự rung động, giúp dễ dàng nâng lên nhịp rung động cao hơn của các cảnh giới ẩn vi. |
|
He develops the capacity of the pupil to work in group formation. He studies his action and interaction on his own affiliated group. He works with the pupil’s causal body and its expansion and development, and teaches the pupil to understand the law of his own being and through that understanding brings him to a comprehension of the macrocosm. |
Ngài giúp đệ tử phát triển khả năng làm việc trong hình thức tập thể. Ngài xem xét sự tác động và tương tác của y vào nhóm y liên kết. Ngài ảnh hưởng đến thể nguyên nhân của môn sinh, giúp nó mở mang, phát triển, và dạy cho y hiểu biết định luật trong chính cuộc sống của mình, để nhờ sự hiểu biết đó mà thấu đáo được đại vũ trụ. |
|
Now all these various aspects of the Master’s work (and these are but a few of the points which might be considered) might be dealt with at length and would prove of illuminating interest to the reader. All the above paragraphs could be extended and prove of exceeding interest. But the main point I seek to make here is in connection with the earlier stages of this work, before the pupil is admitted into the later stages of close intimacy with his Master. The Master during this period works with his disciple principally:— |
Tất cả những khía cạnh này trong công việc của Chân sư (đây chỉ là một số ít điểm có thể xem xét được) có thể bàn rộng hơn và hẳn là độc giả sẽ thấy thú vị và sáng tỏ hơn. Tất cả những đoạn nói trên đều có thể được triển khai một cách thật hứng thú. Nhưng ở đây tôi muốn nêu điểm chính liên quan đến những giai đoạn đầu của công việc này, trước khi người đệ tử được phép bước vào những giai đoạn sau, thân cận với Chân sư hơn. Trong giai đoạn đầu, Ngài làm việc với đệ tử, chính yếu là: – |
|
a. At night, when he is out of the physical body. |
a. Vào ban đêm, khi y ra khỏi xác thân. |
|
b. During the periods when the disciple is meditating. |
b. Trong những khi y thiền định. |
|
According to the success of the meditation, according to the ability of the student to shut off the lower and contact the higher, so will come the opportunity of the Master to accomplish successfully the scientific definite work that [277] needs His attention. Students of meditation would be astounded and perhaps discouraged, could they realise how seldom they provide the right conditions through meditation which will enable their watching Teacher to bring about certain effects. By the frequency of the student’s ability to do this comes indication of progress, and the possibility of carrying him on another step. Emphasise this point in teaching, for it carries with it an incentive to greater diligence and application. If the pupil himself on his side provides not the just conditions, the Master’s hands are tied and He can do but little. Self-effort is the key to progress, coupled to conscious comprehending application to the work laid down. When that effort is made with perseverance, then comes the opportunity of the Master to carry out His side of the work. |
Tùy mức y thành công trong tham thiền, tùy khả năng của y có thể đoạn tuyệt với phàm tính và giao tiếp với Chân ngã, mà Chân sư có cơ hội hoàn thành công việc xác định có tính [277] khoa học này, cần được Ngài lưu ý. Các môn sinh hành thiền hẳn sẽ ngạc nhiên và có lẽ thấy thất vọng, nếu họ nhận ra rằng rất ít khi họ làm đúng các điều kiện trong tham thiền, để vị Huấn sư đang trông nom họ có thể mang lại được một vài hiệu quả. Khi người môn sinh thường xuyên làm được điều này, thì đó là dấu hiệu tiến bộ, và y có thể chuyển sang một bước khác. Tôi nhấn mạnh điều này vì nó có tính khích lệ giúp các bạn chuyên cần và chăm chú áp dụng nhiều hơn. Nếu người đệ tử không làm được các điều kiện đúng đắn về phần y, thì Chân sư cũng đành bó tay và Ngài chỉ làm được chút ít thôi. Tự cố gắng là điều then chốt để tiến bộ, kèm theo sự chuyên chú đầy hiểu biết và ý thức vào công việc đã định. Khi người đệ tử bền lòng cố gắng, thì Chân sư mới có cơ hội thực hiện phần việc của Ngài. |
|
As the pupil meditates with occult accuracy he brings his three lower bodies into alignment and—with emphasis I reiterate—only as alignment is effected is the Master able to work with the bodies of the pupil. If naught else is effected by the publication of these letters except the intensification of the desire to meditate with correctness, the object in view will be largely attained. In that effort the right conditions between pupil and Master, and a correct interrelation will be brought about. Meditation provides these conditions, when rightly followed. It prepares the field for labour and for work. |
Khi người đệ tử hành thiền huyền môn một cách đúng đắn, y sẽ chỉnh hợp được ba hạ thể và – tôi xin lặp lại và nhấn mạnh – chỉ khi có sự chỉnh hợp này thì Chân sư mới có thể làm việc với các thể của người đệ tử. Nếu khi được công bố mà không mang lại hiệu quả nào khác hơn là tăng cường ý muốn hành thiền một cách đúng đắn, thì các bức thư này sẽ đạt được phần lớn mục tiêu đã nhắm đến. Chính nỗ lực vừa kể mới mang lại những điều kiện thích hợp giữa Chân sư và đệ tử cùng mối tương giao đúng đắn giữa đôi bên. Các điều kiện này có được là nhờ hành thiền đúng phương pháp, chuẩn bị môi trường cho nỗ lực và phụng sự. |
|
Let us briefly consider the various periods as enumerated yesterday when considering the pupil’s relationship to a Master. |
Chúng ta hãy xem xét khái quát những giai đoạn đã kể hôm qua về mối quan hệ của đệ tử với Chân sư. |
|
In the period when the man is under probation and supervision………he is left almost entirely to himself and is only conscious of the attention of the Master at rare and irregular intervals. His physical brain is not often receptive to the higher contact, and though his Ego [278] is fully aware of his position on the Path, not yet is the physical brain in a condition to know. But on this point no hard and fast rule can be laid down. When a man has been for several lives making contacts with his Ego or with his Master he may be aware of it. Individuals differ so much that no universal rule in detail can be formulated. As you know, the Master makes a small image of the probationer, which image is stored in certain subterranean centres in the Himalayas. The image is magnetically linked with the probationer, and shows all the fluctuations of his nature. Being composed of emotion and mental matter it pulsates with every vibration of those bodies. It shows their predominating hues, and by studying it the Master can rapidly gauge the progress made and judge when the probationer may be admitted into a closer relationship. The Master views the image at stated intervals, rarely at first, as the progress made in the beginning stages is not so rapid, but with ever increasing frequency as the student of meditation comprehends more readily and more consciously co-operates. The Master when inspecting the images works with them, and through their means effects certain results. Just as later the Rod of Initiation is applied to the bodies and centres of the initiate, so at certain times the Master applies certain contacts to the images and via them stimulates the bodies of the pupil. |
Khi môn sinh ở trong giai đoạn dự bị và được giám sát . . . . . . . . . hầu như y được để tự do hoàn toàn và thỉnh thoảng trong những lúc hiếm hoi bất thường y mới biết được sự chú ý của Chân sư. Bộ óc hồng trần của y không thường cảm nhận được những cuộc giao tiếp cấp cao. Và dù Chân nhân y hoàn [278] toàn ý thức vị trí của mình trên Đường Đạo, nhưng bộ óc hồng trần chưa đủ điều kiện để biết được điều đó. Tuy nhiên, ở trình độ này không có qui luật khắt khe và cứng nhắc nào cả. Khi một người đã nhiều kiếp tiếp xúc với Chân nhân hay với Chân sư thì y có thể ý thức được điều vừa kể. Các cá nhân đều khác nhau nhiều đến đỗi không thể đặt ra một qui luật chung nào với từng chi tiết. Như các bạn biết, Chân sư tạo ra một hình thu nhỏ của người đệ tử dự bị, được giữ trong những trung tâm ngầm dưới đất, trong dãy Hy-mã-lạp-sơn. Hình tượng này được liên kết với người đệ tử dự bị bằng từ điện và phô bày tất cả những chuyển biến thăng trầm trong bản tính của y. Vì được tạo nên bằng chất liệu trí tuệ và tình cảm, nên nó rung động theo nhịp của các thể ấy. Nó phô bày những màu sắc nổi bật của các thể ấy, và khi nghiên cứu nó Chân sư có thể mau lẹ đo lường bước tiến đã đạt, và xét xem chừng nào người đệ tử dự bị được phép có mối quan hệ gần gũi hơn. Ngài xem xét hình này trong từng thời khoảng đã định, lúc đầu thì rất hiếm khi vì trong giai đoạn này y tiến tới không mau lắm. Nhưng khi người môn sinh hành thiền thấu hiểu vấn đề và cộng tác một cách hữu thức hơn thì Ngài càng xem xét thường hơn. Khi quan sát các hình này, Chân sư làm việc với chúng và thông qua chúng tạo được một số kết quả. Giống như về sau Điểm đạo Thần trượng được áp dụng vào các thể và các luân xa của điểm đạo đồ, trong những lúc nhất định Chân sư cũng tiếp xúc với các hình này và thông qua chúng mà kích thích các thể của người đệ tử. |
|
A time comes when the Master sees, from His inspection of the image, that the needed rate of vibration can be held, that the required eliminations have been made, and a certain depth of colour attained. He can then take the risk (for risk it is) and admit the probationer within the periphery of His own aura. He becomes then an accepted disciple. [279] |
Sẽ đến lúc Chân sư thấy (qua việc kiểm tra hình tượng ấy) rằng người đệ tử đã có thể giữ được nhịp độ rung động cần thiết, đã thải trừ được đúng mức, và đạt được sắc độ nhất định trong các thể. Ngài bèn đánh liều (quả thật là đánh liều) nhận người đệ tử dự bị vào bên trong chu vi hào quang của Ngài. Bấy giờ, y trở thành người đệ tử nhập môn. |
|
During the period wherein a man is an accepted disciple the work done by the Master is of very real interest. The pupil is assigned to special classes conducted by more advanced disciples under the supervision of the Master, and though he may attend still the larger general classes in the Ashram (the Master’s hall for teaching) he is subjected to a more intensified training……….The Master works in the earlier stages in four main ways:— |
[279] Trong suốt thời kỳ hành giả làm đệ tử nhập môn thì công việc Chân sư thực hiện thật rất thú vị. Y được cho vào những lớp học đặc biệt do các đệ tử cao cấp hơn hướng dẫn, dưới sự giám sát của Chân sư. Và dù y có thể tham dự những lớp chung, có tầm mức rộng rãi hơn, trong Đạo viện (tức là Phòng giáo huấn của Chân sư) y vẫn được huấn luyện chuyên sâu hơn . . . . . . . . . . Trong những giai đoạn đầu, Chân sư làm việc theo bốn lối chính: – |
|
a. At intervals, and when the progress of the pupil justifies it, He “gathers the pupil to His Heart.” This is an esoteric statement of a very interesting experience to which the pupil will be subjected. At the close of some class in the ashram, or during some specially successful meditation wherein the pupil has reached a certain rate of vibration, the Master will gather him close to Himself, bringing him from the periphery of His aura to the centre of His consciousness. He thereby gives him a tremendous temporary expansion of consciousness, and enables him to vibrate at an unusual rate for him. |
a. Thỉnh thoảng, và khi người đệ tử tiến đến mức đủ điều kiện, Ngài mới “đem đệ tử vào Tâm Ngài.” Đây là một cách phát biểu nội môn nói về một kinh nghiệm rất thú vị mà người đệ tử sẽ có. Vào lúc kết thúc một lớp học trong đạo viện, hoặc trong một buổi tham thiền đặc biệt thành công (khi người đệ tử đạt nhịp rung động nhất định), Chân sư sẽ đưa y lại gần Ngài, từ ngoại vi hào quang của Ngài vào đến trung tâm ý thức của Ngài. Nhờ đó Ngài giúp y tạm thời triển khai tâm thức thật rộng lớn, và có thể rung động theo nhịp độ phi thường (đối với y). |
|
Hence the need for meditation. The reward of such an experience far outweighs any of the strenuous parts of the work. |
Vì thế, cần phải tham thiền. Phần thưởng của kinh nghiệm đó còn quan trọng hơn bất cứ nỗ lực khó nhọc nào trong công việc. |
|
b. The Master works upon the bodies of his pupil with colour, and brings about results in those bodies that enable the pupil to make more rapid progress. Now you will see why……so much emphasis is laid upon colour. It is not only because it holds the secret of form and manifestation (which secret must be known by the occultist) but the emphasis is laid thus in order that he may consciously co-operate in the work of the [280] Master on his bodies, and intelligently follow the effects brought about. Ponder on this. |
b. Chân sư dùng màu sắc để ảnh hưởng đến các thể của đệ tử, mang lại một số kết quả nơi chúng, để cho y có thể tiến bộ nhanh hơn. Giờ đây, các bạn sẽ thấy tại sao. . . . . . . tôi đã chú trọng rất nhiều đến màu sắc. Không chỉ vì màu sắc nắm giữ sự bí mật của hình thể và cuộc biểu hiện (sự bí mật mà huyền bí gia phải hiểu) mà tôi đã nhấn mạnh như thế để người đệ tử có thể cộng tác một cách hữu thức với Chân sư trong việc [280] Ngài làm cho các thể của y, và sáng suốt theo dõi được các hiệu quả mang lại. Hãy suy ngẫm kỹ điều này. |
|
c. At stated intervals the Master takes His pupils, and enables them to contact other evolutions, such as the great angels and devas, the lesser builders and the sub-human evolutions. This can be safely done by the pupil through the protective effect of the Master’s aura. Later, when himself an initiate, the pupil will be taught how to protect himself and to make his own contacts. |
c. Vào những thời khoảng định sẵn, Chân sư cho đệ tử tiếp xúc với các giới tiến hóa khác, như các đại thiên thần và thiên thần, những tiểu thần kiến tạo và các giới tiến hóa kém nhân loại. Nhờ hiệu quả bảo vệ của hào quang Chân sư người đệ tử mới có thể làm điều này một cách an toàn. Về sau, khi đã trở thành một điểm đạo đồ, y sẽ được dạy cách tự phòng ngự và tự mình tiếp xúc với các giới đó. |
|
d. The Master presides over the work of stimulating the centres in the pupil’s bodies and the awakening of the inner fire. He teaches the pupil the meaning of the centres and their correct fourth dimensional rotation and in time He will bring the pupil to a point where he can consciously and with full knowledge of the law work with his centres, and bring them to a point where they can be safely stimulated by the Rod of Initiation. More on this subject is not yet possible……… |
d. Chân sư chủ trì công việc kích thích các luân xa trong các thể của đệ tử và khởi hoạt ngọn lửa nội tại. Ngài dạy y ý nghĩa của các luân xa và sự quay đúng đắn của chúng trong bề đo thứ tư. Đúng lúc Ngài sẽ giúp người đệ tử đến mức (nhờ hiểu biết đầy đủ về định luật) có thể dùng các luân xa một cách hữu thức để làm việc. Bấy giờ chúng đủ điều kiện để có thể được Điểm đạo Thần trượng kích thích một cách an toàn. Chưa có thể nói gì thêm về vấn đề này. . . . . . |
|
I have only touched in the briefest manner on a few of the things a Master has to do with His pupils. I take not up the later stages of the pupil’s progress. We lead all on by gradual steps, and as yet even accepted disciples are rare. If by meditation, service, and the purifying of the bodies, those now on probation can be led to make more rapid progress, then will come the time for the communication of further information. What use is it to give facts of which the student cannot as yet make use? We waste not time in interesting intellectually those we seek to help. When the pupil has equipped himself, when he has purified himself and is vibrating adequately, naught can withhold all knowledge from him. When he opens the [281] door and widens the channel, light and knowledge will pour in. |
Tôi chỉ nói thật vắn tắt đôi điều về những gì mà Chân sư phải làm cho đệ tử. Tôi không bàn đến những giai đoạn tiến bộ sau này của môn sinh. Chúng tôi hướng dẫn mọi người theo những bước đi tuần tự, và hiện nay ngay đến những đệ tử nhập môn cũng hãy còn hiếm có. Nếu nhờ tham thiền, phụng sự và tinh luyện các thể mà những người đang trên đường dự bị có thể được hướng dẫn để tiến bộ mau lẹ hơn, thì sẽ đến lúc phổ biến thêm những chi tiết mới. Có lợi gì khi đưa ra những sự kiện mà người môn sinh chưa có thể sử dụng được? Chúng tôi không phí thì giờ để làm hứng thú trí tuệ của những người mà chúng tôi muốn giúp đỡ. Khi người môn sinh đã tự trang bị, đã tự tinh luyện và đạt độ rung động thích hợp, thì không có gì mà y không được phép biết. Khi y [281] mở cửa tâm hồn và mở rộng đường truyền, thì ánh sáng và tri thức sẽ tuôn tràn vào. |
|
Tomorrow we will take up our third point, methods of approach to a Master via meditation; certain types of meditation will be slightly enlarged upon which will facilitate contact, but forget not that the life of objective service must keep pace with the subjective growth; only when the two are seen together and approved are the necessary steps for contact permitted. A Master is only interested in a man from the point of view of his usefulness in the group soul, and his capacity to help. |
Ngày mai, chúng ta sẽ đề cập đến điểm thứ ba, là phương pháp tiến đến Chân sư bằng tham thiền. Một số loại thiền sẽ được mở rộng thêm để giúp sự giao tiếp dễ dàng hơn, nhưng đừng quên cuộc sống phụng sự bên ngoài phải đi đôi với sự tăng trưởng ở nội tâm. Chỉ khi nào cả hai điều này đều có và được xác nhận thì người môn sinh mới được phép thực hiện những bước cần thiết để giao tiếp. Chân sư chỉ chú ý đến một người vì y hữu ích cho linh hồn của nhóm, và có khả năng giúp đỡ. |
|
SEPTEMBER 19TH, 1920. |
Ngày 19-9-1920. |
|
We can today take up our last two points practically simultaneously. They deal with methods of approach to the Masters and the objective effects on the three planes of human evolution. Some of the points touched upon are already well known. Others may not be so familiar to the general student…….In these letters we have dealt with the student himself and what he has to bring to the endeavour; we have indicated likewise his goal—and very sketchily—the forms and methods whereby success may be achieved. We have dealt also with those aids to meditation, the Sacred Word, Colour and Sound, and have indicated that which (brooded upon in silence) may lead to the student making some discoveries for himself. Lastly we have tried to bring the Masters and Their reality nearer to the student, and thereby facilitate his approach to Them. |
Hôm nay, chúng ta bàn cùng một lúc hai điểm chót của vấn đề này về mặt thực hành. Tức là bàn đến những phương pháp để tiến đến Chân sư và những ảnh hưởng khách quan của cố gắng này trong ba cảnh giới tiến hóa của nhân loại. Một số điểm các bạn đã hiểu rõ rồi. Còn những điểm khác thì nói chung có thể là các bạn chưa quen thuộc. . . . . . . . Trong những bức thư này, chúng ta đã bàn về phần người môn sinh và những điều y phải cố gắng. Chúng ta cũng đã vạch ra mục tiêu của y và nói – rất sơ lược – về những hình thức và phương pháp để thành công. Chúng ta cũng bàn về các trợ giúp trong tham thiền như Thánh ngữ, Màu sắc và Âm thanh, và đã chỉ ra những gì (nếu được suy ngẫm trong im lặng) sẽ giúp người môn sinh khám phá ra đôi điều hữu ích cho y. Vừa rồi chúng ta đã cố gắng đưa các Chân sư và sự thật về các Ngài đến gần người môn sinh hơn, để tạo điều kiện dễ dàng cho y tiến đến các Ngài. |
|
What now remains to be done? To indicate five things that may be looked for with conviction by the student who has endeavoured to conform his life to the lines laid down by me in these letters. If the student but provides the right conditions, if he conforms to the necessary [282] rules, if he aims always at regularity, at calmness, at that inner concentration that holds the mystery of the High Places, he will on certain occasions and with ever-increasing frequency awake to some definite realisations. These realisations will be the outer recognition of inner results, and will be the guarantee to him that he is on the right path. But I would here point out again that these results are only achieved after long practice, strenuous struggle, diligent disciplining of the threefold lower man, and consecrated service to the world. |
Vậy thì, giờ đây còn gì phải nói thêm? Tôi sẽ chỉ ra năm điểm mà người môn sinh có thể tìm kiếm một cách tin tưởng nếu y đã cố gắng sống theo những lời giáo huấn trong các bức thư này. Nếu người môn sinh hội đủ những điều kiện thích [282] hợp, nếu y tuân thủ những qui luật cần thiết, nếu y luôn luôn nhắm đến sự đều đặn, điềm tĩnh, và tập trung ở nội tâm (vốn hàm chứa bí nhiệm của những Chốn Cao siêu) thì sẽ có lúc y đạt được một số nhận thức xác định, ngày càng thường xuyên hơn. Những nhận thức này là sự công nhận ở bên ngoài về các kết quả ở bên trong, bảo đảm rằng y đi đúng đường. Nhưng ở đây tôi phải nói thêm rằng những kết quả này chỉ đạt được sau một thời gian thực hành lâu dài, phấn đấu gian nan, cần mẫn nghiêm trì giới luật của phàm nhân với ba hạ thể, và hiến mình phụng sự thế gian. |
|
Các phương pháp tiếp cận và những hiệu quả đạt được. |
|
|
The methods of approach are broadly three and we might indicate five results that will eventuate from the employment of these methods. The three methods are:— |
Nói chung có ba phương pháp tiếp cận và chúng ta có thể kể ra năm hiệu quả của việc sử dụng các phương pháp này. Ba phương pháp đó là: – |
|
1. Sanctified service. |
1. Phụng sự thánh hóa. |
|
2. Love demonstrating through wisdom. |
2. Bác ái biểu lộ qua minh triết. |
|
3. Intellectual application. |
3. Áp dụng tri thức. |
|
They are all three but diverse methods of expressing one and the same thing,—active one-pointedness that expresses itself in service for the race through love and wisdom. But some individuals express this in one way and some in another; some carry the outer appearance of intellectuality and others of love, yet before the attainment is possible intellectuality must be based on love, whilst love without mental development and that discrimination that mind affords is apt to be unbalanced and unwise. Both love and mind must be expressed in terms of service before the full flower of either is attained. Let us consider each of these methods separately and indicate the meditation to be followed thereon:— |
Cả ba chỉ là những phương pháp khác nhau để phát biểu cùng một điều duy nhất, – là sự nhất tâm tích cực, tự phát biểu trong việc phụng sự nhân loại qua bác ái và minh triết. Nhưng một số người phát biểu điều đó theo lối này, có những người lại phát biểu theo lối khác. Một số người mang dáng vẻ trí thức, một số khác biểu lộ tình thương. Dù vậy trước khi thành đạt trí thức phải dựa vào tình thương, và nếu tình thương mà không có sự mở mang trí tuệ và khả năng phân biện thì thường mất quân bình và thiếu khôn ngoan. Cả tình thương và trí tuệ phải được phát biểu trong phạm vi phụng sự, trước khi một trong hai phần này được hoàn thành viên mãn. Chúng ta hãy xét riêng từng phương pháp và chỉ cách tham thiền theo phương pháp ấy: – |
|
Sanctified Service. This is the method of the man who wields the law, the method of the occultist, and the rudiments of the method are laid down in raja-yoga [283] …………..The word “sanctification,” as you know, in the basic sense signifies the complete surrender of the whole being to one object, the Lord or Ruler. It means the giving wholly to the one the devotee aspires to. It means the consecration of the whole threefold man to the work in hand. It entails, therefore, the application of the entire time and self to the bringing of each body under the subjugation of the Ego, and the complete mastery of each plane and subplane. It involves the comprehension of each evolution and form of divine life as found on those planes and sub-planes, with one aim in view and only one—the furthering of the plan of the Hierarchy of Light. The method followed is that of the intensest application to the work of rounding out the bodies and of making them fit instruments for service. It is perhaps the hardest way that a man can tread. It leaves no department of the life untouched. All is brought under law. In meditation therefore the form of that meditation will be a threefold structure:— |
Phụng sự thánh hóa. Đây là phương pháp của người vận dụng định luật, phương pháp của huyền bí gia, và những nguyên tắc cơ bản của phương pháp này được ấn định trong [283] khoa Raja Yoga. . . . . . . . . . . . . . Như các bạn hiểu, từ “thánh hóa” trong căn bản có nghĩa là hoàn toàn giao phó trọn cả bản thể cho đối tượng duy nhất, là Đấng Chí tôn hay Đấng Chủ tể. Tức là hiến dâng trọn vẹn cho Đấng mà người sùng tín ngưỡng vọng. Nó cũng có nghĩa là hiến trọn cả phàm nhân và ba thể vào công việc đang làm. Vì thế mà cần phải dồn hết thời gian và phàm ngã vào việc làm cho mỗi thể tuân phục Chân ngã và hoàn toàn chế ngự được từng cảnh giới, và từng cõi phụ. Điều này bao gồm sự thông hiểu về mỗi cuộc tiến hóa và hình thể của sự sống thiêng liêng trong các cảnh giới và cõi phụ kể trên, với mục tiêu duy nhất trước mắt là phụng hành kế hoạch của Đại đoàn Chưởng giáo Quang minh. Phương pháp phải theo là hết sức chăm chú làm cho các thể này phát triển đầy đủ và biến chúng thành những khí cụ thích hợp để phụng sự. Đây có lẽ là con đường khó đi nhất. Không khu vực nào của cuộc sống mà nó không chạm đến. Tất cả đều được thực hiện theo định luật. Vì thế, thể thức tham thiền này có ba phần: – |
|
a. The laws governing the physical body will be studied and brooded over. This brooding will find expression in a rigid disciplining of the physical body. It will be set apart wholly for service, and subjected consequently to a process that will attune and develop it more quickly. |
a. Những định luật quản trị thể xác sẽ được nghiên cứu và suy ngẫm. Sự suy ngẫm này sẽ trở thành việc nghiêm trì giới luật đối với thể xác. Thể này được hoàn toàn dành cho phụng sự, và do đó phải trải qua một tiến trình điều hợp và phát triển nhanh chóng hơn. |
|
b. The body of the emotions will be scientifically studied and the laws of water (occultly understood) will be comprehended. The significance of the term, “there shall be no more sea” will be known, and the sea of storm and passion will be superseded by the sea of glass, which directly reflects the higher intuition, and mirrors it with perfect accuracy, being unruffled and immovable. The emotional body will [284] be set apart wholly for service, and its place in the threefold microcosm will be regarded as corresponding to that in the macrocosm, whilst the occult significance of its being the only complete unit in the threefold lower nature will be apprehended, and the fact made use of to effect certain results. Ponder on this. |
b. Thể cảm dục sẽ được nghiên cứu một cách khoa học và các định luật của nước (hiểu theo nghĩa huyền bí) sẽ được thấu đáo. Chúng ta hiểu ý nghĩa của thuật ngữ này là “sẽ không còn biển nữa.” Biển bão tố và dục vọng sẽ được thay thế bằng biển gương trong, không hề xao động, đổi đời, mà phản ánh được trực giác cao siêu và phản chiếu nó một cách hoàn toàn chính xác. [284] Thể tình cảm này sẽ được hoàn toàn dành cho phụng sự. Vị trí của nó trong tiểu vũ trụ tam phân sẽ được xem là tương ứng với vị trí ấy trong đại vũ trụ. Hành giả sẽ thấu hiểu ý nghĩa huyền bí của nó là đơn vị toàn vẹn duy nhất trong phàm tính tam phân và dùng sự kiện đó để tạo nên một số kết quả. Hãy suy ngẫm kỹ điều này. |
|
c. The place of lower mind in the scheme of things will be studied, and the quality of discrimination developed. Discrimination and fire are occultly allied and just as the Logos by fire tries every man’s work of what sort it is, so the microcosm on a lesser scale has to do the same. Just as the Logos likewise does this paramountly in the fifth round of judgment and of separation, so the microcosm on his lesser scale does the same in the last and fifth period of his evolution,—touched upon and described earlier in these letters. Every power of the mind will be utilised to the uttermost for the furtherance of the plans of evolution; first in the man’s own development, then in the special field of work wherein he expresses himself, and lastly in his relationship with other units of the race, as he constitutes himself their guide and servant. |
c. Hành giả sẽ nghiên cứu vị trí của hạ trí trong hệ thống và phát triển khả năng phân biện. Sự phân biện và lửa vốn liên kết nhau về mặt huyền bí, và giống như Thượng Đế nhờ lửa mà thử được loại công việc của mỗi người, thì ở tầm mức thấp hơn, tiểu vũ trụ cũng phải làm như thế. Giống như Đức Thượng Đế làm điều đó chính yếu là vào kỳ phán xét và phân tách của cuộc tuần hoàn thứ năm, thì ở qui mô nhỏ hơn, con người cũng làm như vậy trong giai đoạn tiến hóa cuối cùng của y, là thời kỳ thứ năm – đã được đề cập và mô tả trong những bức thư trước. Mọi năng lực của trí tuệ sẽ được tận dụng để phục vụ các kế hoạch tiến hóa. Trước là cho sự phát triển của chính hành giả, sau là môi trường hoạt động đặc biệt mà y tự phát biểu và cuối cùng là mối quan hệ của y với những người khác trong nhân loại, khi chính y trở thành người hướng dẫn và phụng sự họ. |
|
See you therefore the synthesis of it? First the strenuous one-pointedness that is the sign of the occultist blended with the wisdom and love which are reflected from the higher in the mirror of the emotional body, and then the intellect forced to act as the servant of the Ego through one-pointed effort animated by love and wisdom. The result will be the true Yogi. |
Vậy các bạn có thấy được sự tổng hợp của vấn đề chăng? Trước hết, nỗ lực chuyên nhất là dấu hiệu của huyền bí gia được hòa hợp với bác ái và minh triết phản ánh từ cõi cao (qua tấm gương phản chiếu của thể tình cảm). Sau đó, tri thức bị buộc phải hành động như là tôi tớ của Chân nhân qua nỗ lực chuyên nhất nhờ bác ái và minh triết làm sinh động. Kết quả là hành giả trở thành một đạo gia (nhà yogi) chân chính. |
|
I would point out here that the true Yogi is he who, after due carrying out of the set forms and times of meditation, merges that meditation in the everyday living, and will eventually be in the attitude of meditation all the day. [285] Meditation is the means whereby the higher consciousness is contacted. When the contact becomes continuous, meditation, as you understand it, is superseded. In this first method the occult student works from the periphery to the centre, from the objective to the subjective, from the form to the life within the form. Therefore through the emphasis laid in Raja Yoga on the physical body and its wise control the occultist realises the essential importance of the physical, and the uselessness of all his knowledge apart from a physical body whereby he can express himself and serve the race. It is the line of the first ray, and its affiliated or complementary ray. |
Ở đây, tôi muốn nói rằng đạo gia chân chính là người sau khi đã thực hiện đúng các thể thức và giờ khắc tham thiền đã định bèn hòa lẫn cuộc tham thiền ấy vào đời sống hàng ngày, và cuối cùng giữ được tâm thái thiền ấy suốt cả ngày. [285] Tham thiền là phương tiện để tiếp xúc với tâm thức cao siêu. Khi sự giao tiếp trở nên liên tục thì tham thiền như các bạn hiểu hiện nay sẽ được thay thế. Trong phương pháp đầu tiên này, người môn sinh huyền bí làm việc từ ngoại vi vào trung tâm, từ khách thể đến chủ thể, từ hình tướng đến sự sống bên trong hình tướng. Vì thế, khi Raja Yoga chú trọng đến thể xác và việc kiểm soát nó một cách khôn ngoan, huyền bí gia nhận thức được sự trọng yếu của thể xác và sự vô dụng của tất cả những hiểu biết nào tách rời thể xác. Vì nhờ nó mà y có thể tự phát biểu và phụng sự nhân loại. Đây là đường lối của cung một, của các cung liên hệ và bổ túc với nó. |
|
Love and Wisdom. This method is the line of least resistance for the sons of men. It is the sub-ray of the synthetic ray of an analogous vibration, of which our solar system is the objective manifestation. But I would seek to point out that the love achieved by the student of meditation who follows this line is not the sentimental conception that is so often discussed. It is not the non-discriminating love that sees no limitation, nor concedes a fault. It is not the love that seeks not to correct and that expresses itself in an ill advised attitude to all who live. It is not the love that sweeps all into service, suitable or unsuitable, and that recognises no difference in point of development. Much that is called love,—if logically followed out—would apparently dispense with the ladder of evolution, and rank all as of equal value. So potentially all are, but in present terms of service all are not. |
Bác ái và minh triết. Phương pháp này là con đường ít trở ngại nhất cho mọi người. Đây là cung phụ của cung tổng hợp có một sự rung động tương đồng mà thái dương hệ của chúng ta là biểu hiện khách quan của nó. Nhưng cần lưu ý rằng lòng bác ái đạt được bởi người môn sinh hành thiền theo đường lối này không phải là khái niệm xúc cảm mà chúng ta quá thường bàn đến. Đây không phải là tình thương thiếu phân biện, không thấy có giới hạn, không thừa nhận một sự lầm lỗi nào. Đây không phải là tình thương không tìm cách sửa đổi, và tự phát biểu trong thái độ khuyên bảo những người khác một cách sai lầm. Đây không phải là tình thương lôi cuốn tất cả mọi người vào việc phụng sự, dù điều đó có thích hợp hay không, và không thừa nhận sự khác biệt nào trong trình độ phát triển của mọi người. Có nhiều cái được gọi là tình thương, – nếu được thực hiện theo lý luận – thì rõ là đã bỏ qua chiếc thang tiến hóa và xếp mọi người đều ngang nhau. Trong tiềm năng, tất cả mọi người đều có giá trị như nhau, nhưng trong phạm vi phụng sự hiện tại thì không phải vậy. |
|
True love or wisdom sees with perfect clarity the deficiencies of any form, and bends every effort to aid the indwelling life to liberate itself from trammels. It wisely recognises those that need help, and those that need not its attention. It hears with precision, and sees the thought of the heart and seeks ever to blend into one whole the [286] workers in the field of the world. This it achieves not by blindness, but by discrimination and wisdom, separating contrary vibrations and placing them in position diverse. Too much emphasis has been laid on that called love (interpreted by man, according to his present place in evolution) and not enough has been placed on wisdom, which is love expressing itself in service, such a service that recognises the occult law, the significance of time, and the point achieved. |
Bác ái hay minh triết đích thực thì thấy rõ rệt sự khiếm khuyết trong bất cứ hình tướng nào, và dồn mọi nỗ lực để giúp sự sống ngự trong hình thể tự giải thoát khỏi các chướng ngại. Đó là sự khôn ngoan nhận ra những ai cần được giúp đỡ, và người nào không cần phải quan tâm. Nó nghe chính xác và thấy được tư tưởng trong tâm con người và tìm cách [286] hòa hợp tất cả những người phụng sự trên thế giới thành một toàn thể. Điều này không được thực hiện một cách mù quáng, mà bằng sự phân biện và minh triết, tách ra được những rung động trái nghịch và đặt chúng vào vị trí khác. Người ta đã chú trọng quá nhiều đến cái gọi là tình thương (do con người giải thích theo trình độ tiến hóa của họ hiện nay). Họ thiếu chú trọng đến minh triết vốn là tình thương tự phát biểu trong phụng sự, là phụng sự mà nhận thức được định luật huyền bí, ý nghĩa của thời cơ, và mục tiêu cần đạt. |
|
This is the line of the second ray and its affiliated and complementary rays. Later it is the all-inclusive one, and the solvent and absorber. It can be followed, being synthetic, on either the Raja Yoga line or the Christian Gnostic line, owing to its synthetic significance…. |
Đây là đường lối của cung hai, của những cung liên hệ và bổ túc với nó. Về sau, nó là cung bao gồm tất cả, là dung môi và là tác nhân hấp thu. Người ta có thể đi theo cung này bằng đường lối của Raja Yoga hoặc khoa thần bí Thiên Chúa giáo, vì nó có ý nghĩa tổng hợp. . . . |
|
Intellectual application. Here the order is reversed and the student, being frequently polarised in his mental body has to learn through that mind to understand the other two, to dominate and control, and to utilise to the uttermost the powers inherent in the threefold man. The method here is perhaps not so hard in some ways, but the limitations of the fifth principle have to be transcended before real progress can be made. These limitations are largely crystallisation and that which you call pride. Both have to be broken before the student who progresses through intellectual application can serve his race with love and wisdom as the animating cause. |
Áp dụng tri thức. Ở đây thì thứ tự ngược lại. Người môn sinh thường vẫn phân cực trong thể trí, giờ đây phải học cách dùng nó để hiểu hai thể kia, để chế ngư, kiểm soát và sử dụng đến mức tối đa các quyền năng ẩn tàng trong phàm nhân với ba hạ thể. Có lẽ phương pháp này không đến đỗi quá khó khăn trong vài phương diện, nhưng môn sinh phải vượt qua được những giới hạn của nguyên khí thứ năm trước khi có thể tiến bộ thực sự. Những giới hạn này phần lớn là thành kiến (sự kết tinh) và cái gọi là sự kiêu căng. Người tiến theo con đường áp dụng tri thức phải xóa tan cả hai giới hạn này trước khi y có thể phụng sự nhân loại với nguyên động lực là tình thương và minh triết. |
|
He has to learn the value of the emotions, and in so learning he has to master the effect of fire on water, occultly understood. He has to learn the secret of that plane, which secret (when known) gives him the key to the downpour of illumination from the Triad via the causal and thence to the astral. It holds the key also of the fourth etheric level. This will not as yet be comprehended [287] by you, but the above hint holds for the student much of value. |
Y phải học giá trị của các tình cảm, và trong sự học hỏi này y phải thấu đáo hiệu quả của lửa trên nước (hiểu theo nghĩa huyền bí). Y phải học sự bí mật của cảnh giới mà khi biết được sẽ cho y chìa khóa để làm tuôn tràn ánh sáng khai ngộ từ Tam nguyên qua thể nguyên nhân, rồi đến thể tình cảm. Nó cũng giữ chìa khóa của cấp dĩ thái thứ tư. Bạn chưa [287] hiểu được điều này, nhưng đối với người môn sinh lời ngụ ý vừa kể có chứa nhiều điều giá trị. |
|
This is the line of the third ray and of its four subsidiary rays, and is one of great activity, of frequent transference, and of much mental display in the lower worlds. |
Đây là đường lối của cung ba, và bốn cung phụ thuộc nó, là một đường lối hoạt động vĩ đại, biến đổi thường xuyên và biểu lộ trí tuệ tích cực trong các cõi thấp. |
|
Only when the student, who progresses by intellectual application, has learned the secret of the fifth plane, will he live the life of sanctified service, and so blend the three rays. Always synthesis most be attained, but always the fundamental colouring or tone remains. The next or fifth round will show the greatest exposition of this method. It will be the round of supreme mental development, and will carry its evolving Monads to heights undreamed of now. |
Chỉ khi nào người môn sinh tiến theo con đường áp dụng tri thức đã học được bí mật của cảnh giới thứ năm, y mới có thể sống cuộc đời phụng sự thánh hóa và hòa hợp được cả ba cung. Bao giờ cũng phải đạt cho được sự tổng hợp, nhưng luôn luôn màu sắc hay âm điệu căn bản vẫn tồn tại. Cuộc tuần hoàn thứ năm tức là cuộc tuần hoàn tới đây sẽ phô bày phương pháp này đến mức vĩ đại nhất. Đó là cuộc tuần hoàn phát triển trí tuệ tột đỉnh, và sẽ đưa những Chân thần đang tiến hóa trong cung này đến những đỉnh cao mà hiện tại chúng ta không thể nào mơ tưởng. |
|
This round marks the height of the second method, that through love or wisdom. It is the fourth round, that wherein the emotional reaches a high point of vibration, and there is direct connection between the fourth plane of harmony, between the emotional body, or the fourth principle, the quaternary, the fourth root-race or the Atlantean which co-ordinated the astral. I give you food for thought in these correspondences. |
Cuộc tuần hoàn hiện tại là cao điểm của phương pháp thứ hai dùng tình thương và minh triết. Trong cuộc tuần hoàn thứ tư này, thể cảm dục đạt đến rung động cao độ, và có sự nối kết trực tiếp giữa các cảnh giới thứ tư của sự điều hòa, giữa thể tình cảm hay nguyên khí thứ tư, và tứ hạ thể với căn chủng thứ tư (dân Atlantis) là giống dân đã điều hợp thể cảm dục. Tôi đã cho các bạn nhiều điều để suy ngẫm trong các tương ứng này. |
|
SEPTEMBER 21ST, 1920. |
Ngày 21-9-1920. |
|
Năm hiệu quả của Tham thiền trong tam giới. |
|
|
Today we are to take up the five effects in the three bodies in the lower worlds that the student of meditation will be conscious of if he has duly followed the course laid down. |
Hôm nay, chúng ta bàn về năm hiệu quả trong ba hạ thể ở các cõi thấp mà người môn sinh hành thiền sẽ ý thức được nếu y theo đúng tiến trình đã vạch. |
|
These effects are not specifically effects in the life as apparent to the onlooking world, such as greater love or [288] spirituality or capacity to serve. What I seek today to bring out are the indications in the physical brain consciousness of the student that he has done some of the necessary work and is attaining somewhat the desired object. Keep this very clearly in mind. I do not seek to make clear all the many and various results achieved by the successful following of the occult laws of meditation. I deal here only with one phase of the matter, and that is, the realisation, in the physical brain consciousness, of certain results along the line of our immediate topic,—access to the Masters. |
Đây không đặc biệt là những hiệu quả trong cuộc sống mà người đời nhìn vào thấy được, như tình thương rộng lớn hơn, [288] hay sự phát triển tinh thần, hoặc khả năng phụng sự. Những gì mà tôi muốn đề cập hôm nay là những biểu thị trong ý thức não bộ hồng trần của người môn sinh khi y đã làm được một số công việc cần thiết và đạt được phần nào mục tiêu mong muốn. Hãy lưu ý kỹ điều này. Tôi không tìm cách nói rõ tất cả các kết quả khác nhau đạt được do hành thiền huyền môn thành công. Ở đây tôi chỉ đề cập đến một phương diện của vấn đề thôi. Đó là sự nhận biết trong ý thức não bộ hồng trần về một số kết quả liên quan đến vấn đề đang bàn, – việc đến gần các Chân sư. |
|
This narrows down our subject to that of a conscious realisation of the Masters and of some one particular Master by the student in his physical brain. This realisation is very largely independent of his place upon the Path, of his nearness to or distance from initiation. Some very advanced egos may be working at this problem, and be close indeed to their Master, without being able to bring through to the physical brain specific facts proving to them this nearness. Some effect this knowledge at earlier stages than others. It is dependent upon the type of body in use and the work done in previous lives, resulting in a physical vehicle that is a fairly just exponent of the inner man. Oft the man is of far greater calibre and attainment on the inner planes than he is on the physical. So many of our most earnest workers in this particular half century are working out evil karma through the possession of inadequate bodies. Through diligence, application, high endeavour, and the long and patient following of the rules laid down, there comes a time when the student is suddenly conscious—right within the physical brain—of certain unexpected events, an illumination or a seeing that has before been unknown. It is something that is so real yet so momentarily surprising that no amount of subsequent [289] apparent disproving can take away fron him the knowledge that he saw, he contacted, he felt. |
Điều này gom vấn đề của chúng ta vào sự nhận biết hữu thức về các Chân sư và về một vị Chân sư nào đó trong não bộ hồng trần của hành giả. Sự nhận thức này rất ít phụ thuộc vào vị trí của y trên Đường Đạo, và việc y sắp sửa hay còn lâu mới được điểm đạo. Một số Chân nhân tiến hóa rất cao có thể là đang cố gắng giải quyết vấn đề này, và dù họ thực sự rất gần Chân sư nhưng không thể đưa vào não bộ hồng trần của mình những sự kiện cụ thể để tự chứng minh sự thân cận đó. Một vài người biết được điều này sớm hơn những người khác. Điều này tùy theo loại thể xác đang được sử dụng và công việc đã làm trong những kiếp trước, tạo thành một thể xác đại diện khá đúng cho con người ở nội tâm. Thường thì hành giả có khả năng làm việc và thành đạt lớn lao trên các cõi cao hơn ở cõi trần. Rất nhiều người phụng sự nhiệt thành nhất của chúng ta, đặc biệt là trong nửa thế kỷ này đang trả quả xấu của họ bằng cách nhận những thể không thích hợp. Nhờ chuyên cần, áp dụng, nhờ cố gắng cao độ, và nhờ bền bỉ kiên trì theo đúng những qui luật đã vạch mà sẽ đến lúc người môn sinh bỗng nhiên ý thức được – ngay trong não bộ hồng trần – một số sự kiện bất ngờ, một sự khai ngộ hay thấy được những điều từ trước y chưa hề biết. Đó là một điều hết sức thực cho đến đỗi dù tạm thời nó làm cho y ngạc nhiên nhưng sau đó không sự [289] phủ nhận nào bên ngoài có thể làm cho y mất đi sự hiểu biết những gì mà y đã thấy, đã giao tiếp và đã cảm nhận. |
|
As often I have told you, it is not possible in any way in this work to do more than widely generalise. Sixty thousand million souls in process of evolving, each following certain rounds of lives totally different from those of others, offer a wide field to choose from, and no one experience is exactly the same as another. But it might be generally laid down that there are five ways (out of the many possible) which are of such frequent occurrence, comparatively speaking, as to warrant our enumerating them. All have been hinted at, but I may somewhat enlarge the already imparted data. |
Như tôi vẫn thường nói cùng các bạn, ở đây không thể làm gì hơn là chỉ nói tổng quát. Sáu mươi ngàn triệu linh hồn đang tiến hóa. Mỗi người theo những chu kỳ sống hoàn toàn khác nhau, trong một môi trường rộng rãi để chọn lựa, và không có hai kinh nghiệm nào hoàn toàn giống hệt nhau. Nhưng có thể nói khái quát là nên kể ra năm cách (trong số rất nhiều cách khác khả dĩ có) mà tương đối những sự kiện này thường xảy ra. Tất cả đều đã được truyền đạt theo lối gợi ý nhưng tôi có thể nói rộng thêm ít nhiều. |
|
Seeing the Master and the self within the cave of the heart. As you know, the student has often been told to visualise himself and the Master—about the size of a quarter inch—within the circumference of the etheric heart. He is told to picture, toward the close of his meditation the heart etheric, and therein build minute forms of the Master to Whom he is drawn and of himself. This he proceeds to do with due and elaborate care, with the aid of the imagination and loving effort, working daily on his figures till they become to him very real, and their building and forming becomes almost an automatic part of his meditation form. Then comes a day (usually when astrological conditions are fit and the moon approaches the full) when he becomes conscious within his brain that those figures are not the little puppets he thinks, but that he is within the figure representing himself, and that he stands literally and in all verity before the Master. This occurs at rare intervals at first, and the consciousness of the fact is held but for a few brief seconds; as progress is made, and every department of his nature and of his service develops, with greater frequency will come the experience, [290] with longer periods will it be marked, until there comes a time when the pupil can link up as easily in this manner with his Master as earlier he formed his figures. |
Nhìn thấy Chân sư và Chân ngã ở nơi sâu thẳm của luân xa tim. Như các bạn biết, người ta thường dạy môn sinh tự hình dung ra chính mình và Chân sư – kích thước khoảng 1/4 inch (0,64 cm) – ở bên trong luân xa tim dĩ thái. Y được dạy, khi gần kết thúc tham thiền, hình dung luân xa tim bằng chất dĩ thái, trong đó y tạo ra những hình nhỏ của Chân sư (là Đấng y hướng đến) và của chính y. Hằng ngày y thực hiện điều này một cách đúng đắn và cẩn trọng với khả năng tưởng tượng và nỗ lực yêu thương, cho đến khi đối với y các hình thể này trở nên rất thực và việc kiến tạo này hầu như thành tự động trong phương thức thiền của y. Rồi sẽ đến ngày (thường là khi những điều kiện chiêm tinh đã thích hợp và gần lúc trăng tròn) y trở nên ý thức được trong não bộ rằng những hình này không phải là những hình bù nhìn nhỏ bé như y tưởng mà y đang ở trong hình ảnh tượng trưng cho chính mình, và nói theo nghĩa đen thì quả thực là y đang đứng trước Chân sư. Lúc đầu điều này rất hiếm khi xảy ra, và thời gian giữ được ý thức này chỉ trong vài giây ngắn ngủi. Khi y tiến bộ hơn, và khi mỗi phương diện trong bản tính y, trong việc phụng sự của y đều phát triển, thì kinh nghiệm này sẽ [290] đến thường xuyên hơn trong những thời khoảng lâu hơn. Mọi sự tiếp diễn cho đến khi người môn sinh có thể liên kết với Chân sư của y theo lối này một cách dễ dàng như trước kia y đã tạo ra những hình thể đó. |
|
Just what did occur? The pupil had succeeded in doing three things:— |
Thực sự điều gì đã xảy ra? Người môn sinh đã thực hiện thành công ba việc: – |
|
1. Identifying himself with the figure within the heart, and aspiring to the Master. |
1. Tự đồng hóa với hình ảnh trong luân xa tim và ngưỡng vọng đến Chân sư. |
|
2. Making a definite channel between the heart centre (wherein he is endeavouring to focus his consciousness) and its corresponding head centre. Each of the seven centres in the body, as you know, has a counterpart within the head. It is in the linking up of the centre with its counterpart in the head that illumination comes. This,—in the case in point—has been accomplished by the student. He has connected the heart with its head centre. |
2. Tạo một đường truyền rõ rệt giữa luân xa tim (nơi y đang cố gắng tập trung tâm thức) đến trung tâm tương ứng của nó ở đầu. Như các bạn biết, mỗi luân xa trong bảy luân xa đều có phần tương ứng của nó ở đầu. Chính sự liên kết luân xa này với phần tương ứng của nó ở đầu mang lại sự khai ngộ. Trong trường hợp này thì người môn sinh đã hoàn thành điều đó. Y đã nối kết luân xa tim với trung tâm của nó ở đầu. |
|
3. Not only has he accomplished the two above things but he has so purified that part of the physical brain that corresponds with the particular head centre that it can respond to the higher vibration necessitated, and therefore accurately record what has transpired. |
3. Không những y thành tựu hai điều trên, mà y còn tinh luyện được phần tương ứng của trung tâm ấy trong bộ não hồng trần đến mức nó có thể ứng đáp được với những rung động cao hơn cần có, và vì thế mà ghi nhận được những sự việc xảy ra một cách chính xác. |
|
Recognition of vibration. In this instance the method is not quite the same. The student becomes conscious during his moments of intensest aspiration in meditation of a certain peculiar vibration or sensation in his head. It may be in one of three places:— |
Nhận ra sự rung động. Trong trường hợp này, phương pháp không hoàn toàn giống như trên. Vào những lúc đạo tâm dâng cao nhất trong tham thiền, người môn sinh trở nên ý thức được một sự rung động hay cảm giác đặc biệt trong đầu. Cảm giác này có thể ở một trong ba vị trí sau: – |
|
a. At the top of the spine. |
a. Ở đầu cột sống. |
|
b. In the forehead. |
b. Ở trán. |
|
c. At the top of the head. |
c. Ở đỉnh đầu. |
|
I speak not here of the sensation that comes when psychic faculty develops, though there is an alliance between the two, but I speak of a definite vibration that accompanies contact with one of the Great Ones. The student at first is only conscious of a feeling of momentary heightening, which takes the form of a ripple or movement in the head. [291] At first it may be attended with some discomfort, if felt in the forehead it may cause tears and weeping, if at the top of the spine or base of the skull exhilaration and even dizziness, and if at the top of the head a sense of expansion with a feeling of fullness, as if the limiting skull were too confining. This wears off with greater use. It is all caused by a contact, momentary at first, with some one Master. In time the student comes to recognise this vibration and to associate it with some particular Great One, for each Master has His own vibration which impresses itself upon His pupils in a specific manner. This method of contact is frequently attended by perfume. In time the pupil learns how to raise his vibration to a certain pitch. Having done this he holds the vibration steady until he senses the Master’s answering vibration or the perfume. Then he endeavours to merge his consciousness with the Master’s as far as may be, to ascertain the Master’s will, and to understand what it is that the Master has to communicate. As time progresses and the response of the pupil grows, the Master on His side will attract his attention or signal to him approval (for instance by arousing this vibration within his head)…. |
Ở đây tôi không nói đến cảm giác nhận được khi quan năng thần thông phát triển, dù rằng điều đó cũng có liên quan, mà tôi chỉ nói đến một sự rung động rõ rệt kèm theo việc tiếp xúc với một trong các Đấng Cao cả. Lúc đầu người môn sinh chỉ ý thức được một cảm giác được nâng cao tạm thời dưới hình thức như có một cái gì gờn gợn hay vận chuyển trong đầu. Lúc đầu [291] y có thể thấy hơi khó chịu, nếu cảm thấy ở trán thì có thể làm chảy nước mắt hoặc khóc. Nếu ở đầu cột sống hay đáy sọ thì có trạng thái phấn khởi thậm chí hơi choáng váng, còn nếu ở đỉnh đầu thì có cảm giác mở rộng, sung mãn, chẳng khác nào xương sọ có vẻ quá chật hẹp tù túng. Khi được sử dụng nhiều hơn thì cảm giác này sẽ mất dần. Đó là do sự tiếp xúc (lúc đầu rất ngắn ngủi) với một vị Chân sư. Theo thời gian, người môn sinh sẽ nhận ra được sự rung động này và liên tưởng tới một Đấng Cao cả nào đó, vì mỗi Chân sư đều có sự rung động riêng và tạo ấn tượng nơi các đệ tử của Ngài theo một lối riêng. Phương pháp tiếp xúc này thường kèm theo mùi hương. Theo thời gian, người môn sinh sẽ học được cách nâng rung động của mình đến một cao độ nhất định. Khi làm được điều này y giữ vững sự rung động cho đến khi cảm được sự rung động ứng đáp hay là mùi hương của Chân sư. Rồi y cố gắng hòa lẫn tâm thức của mình với tâm thức của Ngài đến mức cao nhất theo khả năng, để biết chắc ý muốn của Chân sư và hiểu được những điều Ngài cần truyền đạt. Thời gian qua, khi sự ứng đáp của người đệ tử càng tăng tiến thì về phần Chân sư Ngài sẽ hấp dẫn sự chú ý của y hoặc tỏ dấu hiệu hài lòng y (như việc khơi dậy rung động này trong đầu y) . . . . |
|
SEPTEMBER 23RD, 1920. |
Ngày 23-9-1920. |
|
……We have now our three remaining points to take up, having already dealt with the two that touched upon contact with the Master in the cave of the heart, and the recognition of His vibration. There are still three other ways (out of many, forget not) whereby the earnest student may be conscious in his physical brain of having contacted his Master. |
. . . . . . Hôm nay chúng ta còn ba điểm phải bàn. Hai điểm đã nói về sự tiếp xúc với Chân sư ở nơi sâu thẳm của luân xa tim và nhận ra được sự rung động của Ngài. Còn ba lối nữa, (xin nhớ là trong rất nhiều lối) mà người môn sinh nhiệt tâm có thể ý thức được trong não bộ hồng trần việc y đã tiếp xúc với Chân sư y. |
|
Bringing through into the physical brain consciousness the memory of the Master’s ashram and the lessons imparted there. [292] |
Đưa ký ức về đạo viên của Chân sư và những bài học đã được truyền dạy ở đó vào ý thức não bộ hồng trần. [292] |
|
As the student perseveres in his meditation, as he increases his facility to throw himself into the right vibration, he builds up a pathway (if so we may term it) that leads him direct to his Master. This is a literal statement of fact. Good work earns for the man in time the right to be with the Master at stated periods. This entails good work in meditation coupled with active service for the race. These intervals are rare at first but come more frequently as progress is made. He will then become aware of this contact through remembrance on awakening. He will see the room of the Master, and remember his associates in the work of the class. He will remember certain sentences, as spoken by his Master, and will bring back a recollection of work suggested or of admonition. This is one of the methods which are indicative to the pupil that he is succeeding, through the ability built up in meditation, in gaining access to the Master. |
Khi người môn sinh kiên trì hành thiền, khi y ngày càng dễ dàng áp dụng nhịp rung động đúng đắn, thì y tạo ra một con đường (xin tạm gọi như thế) đưa y thẳng đến Chân sư. Đây là một câu nói đúng với sự kiện thực tế. Nhờ thiện hành mà cuối cùng người môn sinh được quyền tiếp xúc với Chân sư vào những thời khoảng định sẵn. Thiện hành là công tác tốt đẹp trong tham thiền kèm theo cố gắng tích cực phụng sự nhân loại. Những khoảnh khắc này lúc đầu rất hiếm hoi, nhưng ngày càng xảy ra thường xuyên hơn khi hành giả đạt được nhiều tiến bộ. Bấy giờ khi thức tỉnh trong xác thân, y nhớ lại và biết được sự tiếp xúc này. Y sẽ thấy phòng của Chân sư, và nhớ được các cộng sự của y trong công tác của lớp học. Y sẽ nhớ lại một số câu Ngài nói, và hồi tưởng được công việc Ngài đề nghị, hay lời Ngài khuyên bảo. Đây là một trong những phương pháp chỉ cho người môn sinh thấy rằng y đang thành công trong việc đến gần Chân sư, nhờ khả năng tăng dần trong tham thiền. |
|
The attainment of a certain amount of causal consciousness. This is indicative of the pupil’s having developed (mayhap in small degree, yet definitely realised) the power to enter somewhat into Their world. The faculty of abstract thought and contemplation, the power to transcend the limitations of time and space, are powers of the body egoic, and as all egoic groups are—as aforesaid—controlled by some one Master, the development of egoic consciousness (when consciously recognised) is indicative of contact and access. Many souls unconsciously contact their Ego, and temporarily have flashes of egoic consciousness but when the pupil can consciously raise himself, when he with deliberation intensifies his vibration, and transfers his polarisation into the body egoic, even if for a brief moment, then he can know that he is for that brief moment vibrating to the key of the Master of his group. He has made contact. He may not remember [293] in his physical brain, at first, the details of that contact, he may not realise the appearance of the Master or the words that passed His lips, but having consciously conformed to rule, and entered within the silence of the high places, the law ever works, and he has made his contact. Some disciples know their Master intimately on the inner planes and work under His direction, but many lives may elapse before they comprehend the law and with deliberation can make the channel of access, through power developed in meditation. |
Đạt được phần nào ý thức của thể nguyên nhân. Điều này cho thấy rằng người môn sinh đã phát triển (có lẽ mức độ còn ít, nhưng cũng cảm nhận được rõ rệt) phần nào năng lực đi vào thế giới của các Ngài. Khả năng suy tư trừu tượng và chiêm ngưỡng (đại định), năng lực vượt khỏi các giới hạn của thời gian và không gian, là những quyền năng của thể chân nhân. Và, như trước tôi đã nói, vì tất cả mọi nhóm Chân nhân đều được một vị Chân sư kiểm soát, nên việc phát triển tâm thức của Chân ngã (khi nhận biết được một cách hữu thức) là dấu hiệu của sự tiếp xúc và đến gần Ngài. Nhiều người tiếp xúc được với Chân nhân của họ một cách vô thức và nhất thời có được những tia chớp của tâm thức Chân ngã. Nhưng chỉ khi nào người đệ tử có thể tự nâng cao một cách hữu thức, khi y thận trọng tăng cường sự rung động và chuyển sự phân cực của mình vào trong thể chân nhân dù chỉ trong phút giây ngắn ngủi, thì bấy giờ y hiểu được rằng trong phút giây ngắn ngủi ấy y đang rung động theo âm khóa của Chân sư của nhóm y. Y đã tiếp xúc được với Ngài. Có thể lúc đầu bộ não hồng trần [293] của y không ghi nhớ được các chi tiết của cuộc tiếp xúc, có thể y không nhận ra được dung mạo của Chân sư hay những lời Ngài thốt ra. Nhưng vì y đã hữu ý tuân thủ qui luật, đã nhập vào sự im lặng của những chốn cao thâm, và định luật bao giờ cũng tác động, nên y đã tạo được sự tiếp xúc. Một số đệ tử hiểu biết thân cận với Chân sư của họ ở các nội giới và làm việc dưới sự hướng dẫn của Ngài, nhưng có khi phải qua rất nhiều kiếp họ mới hiểu được định luật và thận trọng tạo con đường tiếp cận Chân sư nhờ quyền năng phát triển trong tham thiền. |
|
As time elapses this ability to contact increases until the point is reached when the pupil can at any time find out what is the will of the Master and have access to His heart. |
Theo thời gian, khả năng tiếp xúc này tăng thêm mãi cho đến mức người đệ tử có thể bất cứ lúc nào cũng thấy được ý muốn của Chân sư và tiếp cận với tâm Ngài. |
|
This fifth method is not so usual but it is known to some natures. Through sound the aspirant is aware of success. He follows his usual form of meditation. He perseveres from day to day and works on all the three planes over the work to be done. He continuously raises his vibration and aspires in the needed endeavour, coupling all interior effort to the external life of loving service. At some one meditation he will suddenly become aware of a note of music, that seems to be sounded within his head or to emanate from his heart. It will not be evoked by the sounding of the Sacred Word, which Word when sounded by the man on a certain key may call forth a musical response from the Ego, but it will come as a result or culmination of the meditation, and the sound of the note will vibrate within the centre so distinctly as never to be forgotten. It is again an indication of success. The Master has been contacted, and has responded by sounding the tone of the man’s own Ego. This is really the basis of the custom of the doorkeeper responding to the would-be aspirant to the mysteries of the group. When the work [294] is properly done, the aspirant will sound the admission word in his own key or tone, endeavouring to strike the note that will evoke the Ego. The doorkeeper will respond and chant forth the reply in the same full sonorous tone, thereby, through the power of sound, linking the man up with the Master of the coming ceremonies. This puts each member of the group—through his own effort and through the third factor, the doorkeeper—en rapport with the Master. In time this will be more fully understood and effort will be made to keep the tone reverberating between those who enter and those who guard the Threshold. When perfectly accomplished (a thing impossible now) it forms a perfect protection. Groups will be formed according to egoic formation and the particular Master. The note of the group will be known to the one who guards the entrance, and no one can get in who sounds not the note in either the higher or lower octave. This applies to groups consecrated to inner spiritual development, and that are directly concerned with the work of a Master with His affiliated pupils or disciples or probationers. Other groups, formed of units diverse and under different rays and Masters, will guard their door by another method, later to be revealed. |
Phương pháp thứ năm không thường thấy nhưng cũng có đối với một số bẩm tính của người đệ tử. Nhờ âm thanh mà hành giả biết được thành công. Y hành thiền theo thể thức thường ngày. Y kiên trì ngày này qua ngày khác và thực hiện công việc cần làm trong cả tam giới. Y liên tục nâng cao sự rung động và nguyện vọng tinh thần trong cố gắng cần thiết, kết hợp mọi nỗ lực ở nội tâm với cuộc sống phụng sự yêu thương ở bên ngoài. Rồi trong một lần tham thiền nào đó, y chợt nghe được một nốt nhạc, chừng như ngân lên trong đầu, hay từ luân xa tim phát ra. Nốt nhạc đó không trỗi lên do việc xướng Thánh ngữ (Thánh ngữ này khi được hành giả xướng lên theo một âm khóa nhất định thì có thể được Chân nhân đáp lại bằng một nốt nhạc), mà nó đến do thành quả của tham thiền và tiếng nhạc này ngân lên trong luân xa rõ rệt đến mức không bao giờ ta quên được. Đó cũng là một ấn chứng của thành công. Y đã được tiếp xúc với Chân sư và Ngài đã đáp ứng bằng cách ngân lên âm điệu của chính Chân ngã y. Đây quả thật là thông lệ căn bản mà vị thủ môn ứng đáp với người chí nguyện tương lai muốn biết các bí nhiệm của nhóm. Khi [294] công việc được thực hiện đúng đắn, người chí nguyện sẽ xướng lên lời xin gia nhập bằng âm khóa hay âm điệu của chính y, cố gắng chạm đến nốt nhạc có thể cảm ứng được Chân nhân. Vị thủ môn sẽ đáp lại và ngân lên cùng âm điệu đó nhưng vang dội và đầy đủ hơn, để nhờ quyền năng của âm thanh mà liên kết người ấy với Chân sư trong các cuộc lễ sắp đến. Việc làm này giúp mỗi thành viên của nhóm liên hệ mật thiết với Chân sư – nhờ nỗ lực của chính y và nhờ nhân tố thứ ba là vị thủ môn. Theo thời gian người môn sinh sẽ thấu đáo điều này hơn và cố gắng giữ cho âm thanh vang dội giữa y và vị thủ môn. Khi đã thực hiện được hoàn hảo (điều mà ngay bây giờ chưa có thể làm được) thì đó là sự bảo vệ an toàn. Các nhóm được thành lập tùy theo sự hình thành tập thể các chân nhân và tùy mỗi Chân sư. Vị thủ môn sẽ được báo cho biết nốt của nhóm, và người nào không ngân được một nốt trong bát độ thấp hơn hoặc cao hơn nốt đó thì không được vào. Điều này áp dụng cho những nhóm đã hiến dâng cho công cuộc phát triển tinh thần nội tại, và những gì liên quan trực tiếp đến công việc của một Chân sư, với các môn sinh, các đệ tử hay những người dự bị của Ngài. Những nhóm khác được thành lập với những thành viên khác, thuộc những cung và những Chân sư khác nhau, sẽ giữ cửa vào bằng một phương pháp khác, sau này sẽ được tiết lộ. |
|
When, in meditation, a student hears this inner musical note, he should endeavour to register it, and cultivate the faculty of both recognising it and utilising it. This is not easy at first, as the sounding is both unlooked for and too brief to catch. But as time progresses, and the pupil succeeds in again and yet again getting a similar response, then he can begin to find out the method and watch the causes that set the vibration in motion. |
Khi trong tham thiền người môn sinh nghe được nốt nhạc nội tâm này, y nên cố gắng ghi nhận nó và cố gắng vun bồi khả năng nhận ra nó và sử dụng nó. Lúc đầu việc này không dễ làm vì âm thanh phát ra vừa bất ngờ vừa ngắn ngủi. Nhưng thời gian qua, người môn sinh cứ tiếp tục nhận được sự đáp ứng tương tự hết lần này đến lần khác. Bấy giờ y có thể bắt đầu tìm ra phương pháp và trông chừng các nguyên nhân làm phát sinh sự rung động đó. |
|
As I have said before, many are the methods whereby a pupil becomes aware of success in the path of access. Above are but five out of these many. Later, when the [295] Schools are organised and watched over by a Master in physical plane consciousness, records will be kept of the times and modes of contact and in this manner much knowledge will accrue. I would in conclusion point out that always the calling forth of the response must be the work of the pupil, and that the hour of that response depends upon the earnestness of his work, the consecration of his service and his karmic liabilities. When he merits certain response it will be demonstrated in his stars, and naught can hinder or delay. Equally, naught can really hasten, so the pupil need not waste time in doleful ponderings upon the lack of response. His the part to obey the rules, to conform to the forms laid down, to ponder and wisely adhere to the prescribed instructions, and to definitely work and to ardently serve his fellowmen. When he has done all this, when he has built the necessary vibrating material into his three lower bodies, when he has aligned them with the body egoic (even if only for a brief minute) suddenly he may see, suddenly he may hear, suddenly he may sense a vibration, and then forever he may say that faith is merged in sight, and aspiration has become recognition. [296] |
Như trước đây tôi đã nói, có rất nhiều phương pháp để người môn sinh ý thức được sự thành công của y trên đường tiến đến Chân sư. Trên đây tôi chỉ đề cập đến năm cách thôi. [295] Về sau, khi các trường tham thiền được tổ chức và được một vị Chân sư có tâm thức trong thể xác chăm sóc, thì những lần và những cách thức tiếp xúc sẽ được ghi nhận, nhờ vậy mà vấn đề này sẽ được sẽ hiểu biết nhiều hơn. Để kết luận, tôi muốn nêu ra rằng luôn luôn người môn sinh phải làm công việc kêu gọi sự đáp ứng. Thời điểm đáp ứng tùy theo nhiệt tâm của y trong công việc, tùy sự hiến dâng trong phụng sự và tùy nghiệp quả của y. Khi y xứng đáng được một sự ứng đáp nhất định, điều này sẽ được chỉ rõ trong lá số tử vi của y, mà không điều gì có thể ngăn cản hay làm chậm trễ được. Đồng thời cũng không có gì phải hấp tấp thực sự, nên người môn sinh không cần phí thì giờ để băn khoăn sầu muộn vì chưa được ứng đáp. Phần việc của y là tuân thủ các qui luật, là tuân hành các thể thức thiền đã vạch ra, là suy ngẫm và theo đúng những lời giáo huấn một cách khôn ngoan, là làm việc một cách dứt khoát, và nhiệt tình phụng sự chư huynh đệ. Khi y đã làm được tất cả những điều này, khi y đã sử dụng chất liệu có sự rung động cần thiết để kiến tạo ba hạ thể, khi y đã chỉnh hợp được ba thể này với thể Chân nhân (dù chỉ trong phút giây ngắn ngủi thôi) thì bỗng nhiên y có thể thấy, bỗng nhiên y có thể nghe, bỗng nhiên y có thể cảm nhận được một sự rung động. Từ đó về sau bao giờ y cũng có thể nói rằng lòng tin đã hòa lẫn với mắt thấy, và ước nguyện đã trở thành hiện thực. |
|
[296] |
LETTER IX – FUTURE SCHOOLS OF MEDITATION.
|
SEPTEMBER 26TH, 1920. |
Ngày 26-9-1920. |
|
[297] We take up today another of the series of letters on occult meditation, that dealing with “Future Schools of Meditation”. In this letter I shall attempt somewhat to show how the training and development indicated in the other letters will be applied and I shall deal somewhat with prophecy, pointing out what will some day be possible and present, and not what is as yet in any way approachable. Always it is necessary to have high ideals, and ever the human mind leaps forward to some appointed goal. If I here outline what may seem a visionary impossibility it is but that I seek to hold up such an ideal, and to give to the race an objective well worth their highest endeavour. |
Hôm nay chúng ta nhận một loạt thư khác về tham thiền huyền môn, đề cập đến “Các Trường Tham thiền Tương lai.” Trong thư này tôi sẽ nói ít nhiều về cách áp dụng những lối phát triển và huấn luyện đã nêu trong những bức thư trước. Tôi cũng tiên đoán phần nào các việc xảy ra sau này, chứ không nói về những gì mà cho đến nay chúng ta có thể đạt bằng cách nào đó. Luôn luôn cần phải có những lý tưởng cao cả và bao giờ trí tuệ con người cũng phóng tới trước hướng đến một mục tiêu đã chọn. Nếu ở đây tôi phác họa ra những gì xem chừng viễn vông không thể có là chỉ vì tôi muốn nêu lên lý tưởng đó và đặt cho nhân loại một mục tiêu xứng đáng với nỗ lực cao nhất của họ. |
|
Preliminary remarks. |
Nhận xét sơ bộ. |
|
Let us pause a moment and lay down certain postulates anent the present that will (so to speak) clear the ground for future action. |
Chúng ta hãy dừng lại trong giây lát và đưa ra một số định đề trong hiện tại để (gọi là) dọn đường cho hoạt động ở tương lai. |
|
The value of meditation is becoming everywhere admitted. Schools for concentration and methods of mental development are commonly advertised in the daily papers. |
Giá trị của tham thiền đang ngày càng được thừa nhận ở khắp nơi. Các trường dạy định trí và những phương pháp phát triển trí tuệ thường được quảng cáo trên các nhật báo. |
|
True meditation is as yet little understood. Concentration is but the foundation upon which the future work is to be based. |
Người ta vẫn còn chưa hiểu được bao nhiêu về tham thiền đích thực. Sự tập trung tư tưởng chỉ là nền tảng cho công việc tương lai mà thôi. |
|
As yet the future structure cannot be raised, due to two causes primarily:— [298] |
Cho đến nay chưa thể xây dựng được cơ cấu tương lai, vì hai lý do chính yếu: – [298] |
|
a. The inherent inability of mind at this juncture to attain the causal level and the consciousness of the causal level. |
a. Trong thời gian hiện nay, con người vẫn chưa có khả năng đạt đến cấp độ thể nguyên nhân và tâm thức của thể này. |
|
b. The absence of a Master in personal presence, able and equipped to teach the true scientific development which is the aim of true meditation. |
b. Chưa có được một vị Chân sư hiện diện trong thể xác, với khả năng và trang bị để truyền dạy cách phát triển có tính khoa học thực sự, là mục tiêu của chân tham thiền. |
|
The troubled condition of the world at present is sufficient barrier to any general acceptation of training, and of the scientific development of the vehicles. |
Tình trạng khó khăn của thế giới hiện tại cũng đủ gây chướng ngại khiến nói chung người ta không chấp nhận bất cứ sự rèn luyện nào hay việc phát triển các hạ thể một cách khoa học. |
|
These premises are laid down here as a starting point. That some individuals here and there achieve the goal, that some people do master the system of Occult Meditation and make the desired progress is undeniable, but they are only few in number and those numbers are inappreciable when set against the vast bulk of human beings in incarnation at the same time. They achieve by right of age-long effort, and because in previous lives they trod the Path or neared the portal of initiation. But even the average man of intelligence of today—the product, for instance, of western civilisation—is far from being ready for occult training. Experiments are being made now, unknown oft to the subjects themselves, to see how quickly a man may be pushed through experience and a general hastening of the evolutionary process into a position where it will be safe to train him further. People in many civilised countries are under supervision, and a method of stimulation and intensification is being applied which will bring to the knowledge of the Great Ones Themselves a mass of information that may serve as a guide to Their future efforts for the race. Especially are people in America, Australia, India, Russia, Scotland and Greece being dealt with. A few in Belgium, Sweden, and Austria are likewise under observation, and should the response [299] be as hoped they will form a nucleus for further expansion. |
Tôi đặt những tiền đề này ở đây để làm khởi điểm cho chúng ta. Không thể phủ nhận rằng ở nơi này nơi khác đã có một số người đạt được mục đích, đã có những người nắm vững được phương thức Thiền Huyền môn và đã thực hiện được sự tiến bộ như mong muốn. Thế nhưng đây chỉ là số ít, quá ít so với đại khối nhân loại đang đầu thai đồng thời với họ. Họ thành công vì lẽ họ đã nỗ lực lâu đời, và bởi trong các kiếp trước họ đã bước trên Đường Đạo hay đã đến gần cửa Điểm đạo rồi. Nhưng ngay đến người có trí thông minh trung bình hiện nay – ví dụ như người hấp thụ nền văn minh Tây phương – cũng còn lâu mới sẵn sàng để được huấn luyện huyền môn. Hiện đang có những cuộc thí nghiệm (thường thì những người được thí nghiệm không hề hay biết) để xem một người được thúc đẩy qua kinh nghiệm và diễn trình tiến hóa thông thường, phải mất bao lâu mới đến mức có thể được huấn luyện nhiều hơn một cách an toàn. Dân chúng ở nhiều nước văn minh đang được giám sát và một phương pháp kích thích và tăng cường đang được áp dụng, nhằm mang lại cho các Đấng Cao cả một số dữ kiện có thể làm phương châm cho các Ngài dùng trợ giúp nhân loại sau này. Đặc biệt là các dân tộc ở Mỹ, Úc, Ấn Độ, Nga, Scotland và Hy Lạp đang được lưu ý. Một số người ở Bỉ, [299] Thụy Điển và Áo cũng đang được quan sát, và nếu đáp ứng được như kỳ vọng thì họ sẽ làm hạt nhân cho công cuộc phát triển rộng lớn hơn. |
|
Future Schools of Meditation |
Các Trường Tham thiền Tương lai. |
|
In handling this matter we might, as is our usual custom, divide the subject matter under different heads:— |
Như thường lệ, chúng ta chia vấn đề thành nhiều mục nhỏ: – |
|
1. The one fundamental School. |
1. Trường cơ bản duy nhất. |
|
2. Its national subdivisions. |
2. Những chi nhánh ở các quốc gia. |
|
3. The location, personnel, and buildings of the School. |
3. Vị trí, nhân sự, và các cơ sở của trường. |
|
4. The grades and classes. |
4. Cấp bậc và khóa học. |
|
Now I would emphatically point out to you the fact that all that I now impart is a portion of a tentative plan, which has in view the hastening of the evolution of the higher mind, and the bringing under control of the bodies of men, through the power of the God within. This plan has been drawn up in view of the crying need of a world in which the mental equipment of men is increasing out of all proportion to their emotional balance and to their physical equipment. The rapid advance of knowledge, the spreading of the educational system which brings the product of many minds into the environment of the very poor, the ability of all to read and write in such a country as America or among the other Anglo-Saxon races, has been the cause of a very real (I might almost say an unexpected) problem arising to confront the Great Ones. |
Các bạn nên chú trọng đến sự kiện là tất cả những điều tôi sắp nói ra đây chỉ là một phần của một kế hoạch thử nghiệm nhằm đẩy nhanh sự tiến triển của thượng trí và chế ngự các thể của con người bằng quyền năng của Thượng Đế nội tâm. Kế hoạch này được vạch ra vì nhu cầu khẩn thiết của thế giới, trong đó trí tuệ con người phát triển không còn cân đối với sự thăng bằng của tình cảm và sự chuẩn bị ở xác thân. Bước tiến nhanh chóng của tri thức, sự mở mang hệ thống giáo dục để đưa sản phẩm của nhiều nhà trí thức vào cảnh sống của dân nghèo, khả năng đọc và viết của tất cả mọi người trong những nước như Hoa Kỳ hay các chủng tộc khác của giống dân Nhật nhĩ-man (Anglo-Saxon) đã là nguyên nhân làm phát sinh vấn đề khó khăn thực sự (có thể nói là không ngờ) mà các Đấng Cao cả đang phải đối phó. |
|
Mental development when paralleled by emotional stability and a strong healthy body is the aim for all. But now you have mental development paralleled by an unstable astral and a weak, underfed, badly raised physical. Hence disorder, lack of balance, the clouding of the vision and disproportionate discussion. Lower mind, instead of being a means to an end and a weapon for use, is in fair [300] way of being a ruler and a tyrant, preventing the play of the intuition and shutting out the abstract mind. |
Mục tiêu của tất cả mọi người là phát triển trí tuệ song song với tình cảm ổn định và xác thân mạnh khỏe. Nhưng hiện nay các bạn thấy sự phát triển trí tuệ lại kèm theo thể cảm dục xáo động và một thể xác yếu đuối, thiếu dinh dưỡng, và nuôi nấng sai lầm. Cho nên mới có sự rối rắm, thiếu quân bình, thị kiến lờ mờ và lập luận thiên lệch. Thay vì hạ trí là phương tiện để đạt mục đích và lợi khí để sử dụng, nó lại sắp [300] trở thành kẻ cai trị độc đoán, ngăn cản tác động của trực giác và bưng bít trí tuệ trừu tượng. |
|
Hence the Masters, if it can in any way be accomplished, purpose a movement that has in view the harnessing of the lower mind through the instrumentality of the people themselves. With this object in view They plan to utilise the incoming Ray of Ceremonial Law or Organisation, and the period immediately co-incident or following the coming of the Great Lord, to start these schools (in a small inconspicuous way at first) and bring to the consciousness of men everywhere the following four fundamentals:— |
Vì thế mà các Chân sư dự định tạo ra một phong trào (nếu bằng cách nào đó thành công được) nhằm kềm chế hạ trí bằng phương tiện của chính con người. Với mục tiêu trước mắt này, các Ngài đặt kế hoạch sử dụng cung sắp đến là Cung Định luật Nghi thức hay Tổ chức và dùng giai đoạn đồng thời hay kế theo sự lâm phàm của Đức Chưởng giáo để bắt đầu thiết lập các trường tham thiền kể trên (lúc đầu thì chưa lộ rõ, trong qui mô nhỏ) và giúp cho mọi người ở khắp nơi ý thức được bốn điều căn bản: – |
|
a. The evolutionary history of man from the mental side. |
a. Lịch sử tiến hóa của con người về phương diện trí tuệ. |
|
b. The septenary constitution of the macrocosm and the microcosm. |
b. Sự cấu tạo thất phân của đại vũ trụ và tiểu vũ trụ. |
|
c. The laws governing man’s being. |
c. Những định luật chi phối sự sống của con người. |
|
d. The method of occult development. |
d. Phương pháp phát triển huyền môn. |
|
A beginning has already been made……..through the various schools at present extant…….All these are the beginnings of the plan. When they are firmly grounded, when they are working smoothly and with public recognition, and when the world of men is being somewhat coloured by them and their subjective emphasis, when they are producing scholars and workers, politicians and scientists and educational leaders who make their impress on their environment, then mayhap will come the time for the founding in exoteric fashion of the true occult school. By that I mean that if the earlier schools and colleges do their work satisfactorily they will have demonstrated to the world of men that the subjective is the true reality and that the lower is but the stepping stone to the higher. This subjective reality being universally admitted will, therefore, permit of the founding of a chain of inner schools [301] …that will be publicly recognised. This will never at any time obviate the necessity for always having an esoteric and secret section, for always there will be certain truths and facts of dangerous import to the uninitiated; but what I seek to point out is that the mysteries will eventually be admitted as facts for universal recognition and for universal aim and goal. They will be prepared for and entered from schools that definitely undertake, under expert guidance, to train novitiates for the mysteries. |
Bước đầu đã được thực hiện . . . . . . . . qua các trường hiện nay vẫn còn tồn tại . . . . . . . . tất cả đều là khởi điểm của kế hoạch. Khi các trường này đã có cơ sở vững chắc, đã hoạt động điều hòa và được công chúng biết đến; khi các trường này với sự chú trọng về mặt nội tâm đã phần nào ảnh hưởng được người đời; khi các trường này đã đào tạo được những học giả, những người phụng sự, những nhà chính trị, những nhà khoa học và những nhà lãnh đạo giáo dục có thể ảnh hưởng được môi trường chung quanh họ; thì có lẽ bấy giờ mới đến lúc xây dựng được trường huyền môn đích thực ở ngoài đời. Điều này có nghĩa là nếu các trường và các phân viện đầu tiên hoàn tất được công việc của họ một cách thỏa đáng thì họ sẽ chứng tỏ cho người đời thấy rằng nội tâm chính là thực tại, và cái thấp chỉ là nấc thang để tiến đến cái cao hơn. Vì thế, khi thực tại nội tâm được mọi người đồng công nhận thì bấy giờ mới có thể thiết lập được một hệ thống các trường nội môn [301] . . . sẽ được công chúng thừa nhận. Hệ thống này không bao giờ loại trừ sự cần thiết phải luôn luôn có một phân bộ nội giáo bí truyền, vì bao giờ cũng có một số chân lý và những sự kiện rất nguy hiểm nếu phổ biến cho người chưa được điểm đạo. Nhưng tôi muốn nêu rõ rằng rốt cuộc các bí nhiệm sẽ được thừa nhận là những sự kiện thực tế để mọi người đồng nhận thức, lấy đó làm mục tiêu chung. Họ sẽ được chuẩn bị để nhập học các trường có chuyên gia lão luyện hướng dẫn, đảm nhận công việc nhất định là huấn luyện những người sơ cơ để họ có thể hiểu được các bí nhiệm đó. |
|
Such schools have existed before and in the turning of the wheel again they will be in manifestation. |
Những trường này trước đây đã có, và khi bánh xe tiến hóa quay thêm một vòng, chúng sẽ tái hiện. |
|
You ask, when? That depends on humanity itself and on all of you who work with faith and aspiration at the beginnings of the plan. |
Các bạn hỏi chừng nào việc này xảy ra? Điều đó còn tùy chính nhân loại và tùy theo công việc của tất cả các bạn là những người đang phụng sự với niềm tin và chí nguyện trong những bước đầu của kế hoạch. |
|
H. P. B. laid the foundation stone of the first school in this particular lesser cycle (which is nevertheless a relatively important one, being an outgrowth of the fifth root-race, the efflorescence of the fifth principle). This is the keystone. The work proceeds in the founding, as aforesaid, of the various schools, and mental science also has its place. It will go forward as desired if each one who is now under occult training strains every nerve and bends every effort to the work in hand. If all that is possible is done, when the Great Lord comes with His Masters the work will receive a still further impetus, and will gradually expand and grow till it becomes a power in the world. Then will come the day of the occult schools that will definitely train men for initiation. |
H. P. B. đã đặt viên đá nền tảng cho trường đầu tiên trong tiểu chu kỳ đặc biệt này (tuy nhiên, lại là thời kỳ tương đối quan trọng, là thời gian lớn mạnh mau lẹ của căn chủng thứ năm, và là thời kỳ bừng nở của nguyên khí thứ năm). Đây là nền tảng chính yếu. Như trước tôi đã nói, công tác này tiến hành tạo lập những thiền viện khác nhau, và khoa học trí tuệ cũng góp phần vào đó. Công việc sẽ được xúc tiến như ý muốn, nếu mỗi người đang được huấn luyện huyền môn đều cố gắng hết sức và chuyên chú vào phần việc đang làm. Nếu tất cả các công tác có thể làm đều được thực hiện thì khi Đức Chưởng giáo lâm phàm với các Chân sư phụ tá Ngài công việc sẽ được thêm một sức thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Công cuộc này sẽ mở rộng và phát triển cho đến mức trở thành một sức mạnh trên thế giới. Bấy giờ mới đến ngày các trường huyền môn đảm nhận công việc rõ rệt là huấn luyện cho con người được điểm đạo. |
|
SEPTEMBER 27TH, 1920. |
Ngày 27-9-1920. |
|
We must today take up our first point for it is only as we lay the foundation aright that the superstructure measures up to requirements. [302] |
Hôm nay chúng ta bàn đến điểm đầu tiên, vì chỉ khi đặt được nền móng đúng đắn thì thượng tầng kiến trúc mới đạt yêu cầu. |
|
1. Trường cơ bản duy nhất. |
|
|
It is therefore very essential that the emphasis is laid on the fact that no matter what the offshoots, the basic school of occultism is that one which has its root in the sacred centre of the planet, Shamballa. At that place, directly under the eyes of the One Initiator Himself, Who is—as is seldom realised—the highest expression of the Teaching Ray upon the earth, is found what might be termed the central office for the educational disciplinary training work of the Hierarchy. There will be found the Chohan Who is directly responsible for the various endeavours, and to Whom the Masters Who take pupils, and the Heads of the various occult schools are directly responsible. All proceeds under law and order. |
Thế nên nhất thiết phải nhấn mạnh rằng dù cho các chi nhánh có thế nào, trường huyền môn căn bản vẫn bắt nguồn từ trung tâm linh thánh của địa cầu là Shamballa. Dưới sự giám sát của chính Đấng Điểm đạo Duy nhất là Đấng mà chúng ta ít khi biết được rằng Ngài là sự biểu lộ cao nhất của Cung Giáo dục trên Địa cầu, có tổ chức mệnh danh là cơ quan trung ương cho cuộc huấn luyện kỷ luật và giáo dục của Đ.Đ.C.G.. Ở đó có một vị Đế quân chịu trách nhiệm trực tiếp cho nhiều nỗ lực khác nhau, và các Chân sư thu đệ tử cũng như các vị Lãnh đạo của những trường huyền môn đều chịu trách nhiệm trực tiếp với Ngài. Tất cả đều tiến hành theo định luật và trật tự. |
|
One point that it will here be necessary to emphasise is that the Brotherhood of Light, as represented by the Himalayan Masters, has its other representatives elsewhere who all carry out specific work under proper and adequate supervision. Too apt are the Theosophists to think that they alone are the repositories of the wisdom religion. Not so is the fact. At this particular moment (with the aim in view of the development and tendering of opportunity to the fifth subrace) the Himalayan Brotherhood is the main channel of effort, power and light. But the work with other races proceeds simultaneously and numerous other projects, all emanating from the central office at Shamballa, are paralleling the Himalayan work. Get this clearly in mind, for the point is important. The Himalayan School and Lodge is the one that principally concerns the Occident and the only school without any exception that should control the work and output of the occult students in the West. It brooks no rival nor contemporary work with its pupils, not for the [303] sake of its own teachers but to ensure the safety of its pupils. Danger lurks in the path of the occult student and the Himalayan adepts know adequately how to protect their pupils, provided those pupils stay within the periphery of Their united auras, and wander not out to other schools. All true occult schools demand this of their pupils, and all true Masters expect Their pupils to refrain from taking other occult instructions at the same time as they are receiving it from Them. They say not: “Our method is the only right and true method.” They say: “When receiving instructions from Us it is the part of wisdom and the line of safety to refrain from occult training in another school or under another Master.” Should a pupil desire so to do he is perfectly free to seek out other schools and teachers, but he must first break his connection with the old. |
Một điều cần phải nhấn mạnh ở đây là Quang minh Chánh đạo, mà tiêu biểu là các Chân sư ở Hy-mã-lạp-sơn, có đại diện ở nhiều nơi khác để thực hiện công tác cụ thể dưới sự giám sát thích hợp và đầy đủ. Nhiều nhà Thần triết thường cho rằng chỉ có họ là những người được ủy thác nền tôn giáo minh triết. Sự thực không phải vậy. Vào thời gian đặc biệt này (mà mục tiêu trước mắt là nhằm phát triển và tạo cơ hội thuận lợi cho phân chủng thứ năm) các Chân sư ở Hy-mã-lạp-sơn là đường truyền chính yếu để mang lại nỗ lực, quyền năng và ánh sáng. Nhưng công việc cho những giống dân khác cũng tiến hành đồng thời, và nhiều kế hoạch khác nữa, tất cả đều phát xuất từ cơ quan trung ương ở Shamballa, cũng đang song hành với công việc của các Chân sư ở Hy-mã-lạp-sơn. Hãy ghi nhớ rõ điều này vì đây là điều quan trọng. Trường phái và Phân bộ Hy-mã-lạp-sơn quan tâm chính yếu đến Tây phương và là trường phái duy nhất (không ngoại lệ) chuyên lo công việc và đào tạo các môn sinh huyền bí ở Tây phương. Các môn sinh của trường không có gì phải cạnh tranh hay [303] làm việc trùng hợp. Điều này không vì lợi ích của các huấn sư mà để bảo đảm an toàn cho họ. Những hiểm nguy ẩn nấp trên đường đi của người môn sinh huyền bí, và các Chân sư ở Hy-mã-lạp-sơn biết đủ mọi cách để bảo vệ môn sinh của các Ngài, miễn là họ vẫn ở trong phạm vi hào quang thống nhất của các Ngài chứ không đi thụ huấn ở các trường phái khác. Tất cả các trường huyền môn đích thực đều yêu cầu môn sinh tuân thủ điều này, và tất cả các Chân sư thực sự đều mong đệ tử của Ngài đừng thụ huấn nơi khác khi đang nhận giáo huấn từ các Ngài. Các Ngài không nói: “Chỉ có phương pháp của chúng tôi là đúng và thực,” mà bảo rằng: “Khi thụ huấn với chúng tôi thì đường lối khôn ngoan và an toàn là các bạn đừng thụ huấn với một trường phái khác hay Chân sư khác.” Còn nếu một môn sinh muốn làm điều đó thì y được hoàn toàn tự do chọn trường phái và huấn sư khác, nhưng trước hết y phải chấm dứt liên hệ với trường phái cũ. |
|
The one fundamental school may be recognised by certain outstanding characteristics:— |
Có thể nhận ra trường cơ bản duy nhất nhờ một số đặc trưng rõ rệt sau đây: – |
|
By the basic character of the truths taught as embodied in the following postulates:— |
Bởi đặc tính căn bản của những chân lý được truyền dạy, thể hiện trong các định đề sau: – |
|
a. The unity of all life. |
a. Tính duy nhất của toàn bộ cuộc sống. |
|
b. The graded steps of development as recognised in man, and by the graded steps of its curriculum, which lead a man from one expansion of consciousness to another until he has reached that which we call perfection. |
b. Những bước phát triển tuần tự được nhận ra nơi hành giả, và học trình ngày càng nâng cao dần, để giúp hành giả mở mang tâm thức từ mức này đến mức khác, cho đến khi đạt được trình độ mà chúng ta gọi là hoàn thiện. |
|
c. The relationship between the microcosm and the macrocosm and its sevenfold application. |
c. Sự liên hệ giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ và sự áp dụng bảy phương diện của mối liên hệ đó. |
|
d. The method of this development and the place of the microcosm within the macrocosm as revealed through the study of the periodicity of all manifestation and the basic law of cause and effect. |
d. Phương pháp phát triển và vị trí của tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ được tiết lộ nhờ nghiên cứu tính tuần hoàn của toàn cuộc biểu hiện và định luật cơ bản về nhân quả. |
|
By the emphasis laid on character building and spiritual development as a foundation for the development of [304] all the faculties inherent in the microcosm. |
Bởi sự chú trọng vào việc lập hạnh và phát triển tinh thần, lấy đó làm nền tảng cho sự phát triển tất cả những khả [304] năng ẩn tàng trong tiểu vũ trụ. |
|
By the requirement, demanded of all affiliated pupils without exception, that the life of inner unfoldment and development should be paralleled by a life of exoteric service. |
Bởi sự đòi hỏi tất cả các môn sinh liên hệ (không ngoại lệ) phải có cuộc sống khai mở và phát triển nội tâm song hành với cuộc sống phụng sự bên ngoài. |
|
By the graded expansions of consciousness that are the result of the imparted training; these lead a man on from step to step till he contacts his higher self, his Master, his egoic group, the First Initiator, the One Paramount Initiator, until he has contacted the Lord of his Ray and has entered into the bosom of his “Father Which is in Heaven”. |
Bởi những bước tuần tự mở mang tâm thức là kết quả của cuộc rèn luyện được chỉ dạy. Sự mở mang này đưa hành giả từng bước tiến lên đến mức tiếp xúc được với chân ngã y, với Chân sư y, với nhóm chân ngã của y, với Đấng Điểm đạo Đầu tiên, với Đấng Điểm đạo Tối cao, cho đến khi tiếp xúc với Đấng Chủ tể của Cung y và nhập vào lòng “Cha của y ở trên Trời.” |
|
These are the outstanding features that are descriptive of the one true fundamental School. |
Đó là những đặc điểm nổi bật của Trường tham thiền thực sự cơ bản và duy nhất. |
|
This fundamental school has three main branches and a fourth that is in process of forming and which will make the four branches of this fourth round. These branches are as follows:— |
Trường cơ bản này có ba chi nhánh chính, chi nhánh thứ tư đang được hình thành và sẽ là bốn chi nhánh của cuộc tuần hoàn thứ tư hiện nay. Các chi nhánh này là: – |
|
1. The trans-Himalayan Branch. |
1. Chi nhánh xuyên Hy-mã-lạp-sơn. |
|
2. The southern India Branch. (these are Aryan Branches) |
2. Chi nhánh Nam Ấn Độ. (đây là các Chi nhánh của giống dân Aryan) |
|
3. A Branch that works with the fourth root-race and has two fourth root-race adepts at its head. |
3. Một Chi nhánh dành cho căn chủng thứ tư do hai vị Chân sư của căn chủng này lãnh đạo. |
|
4. A Branch in process of forming that will have its headquarters in the Occident at some place not yet disclosed. It has for its main object the instructing of those connected with the coming sixth root-race. |
4. Một Chi nhánh đang được thành lập, sẽ có trụ sở chính ở phương Tây, nơi chốn chưa được tiết lộ. Mục tiêu chính của chi nhánh này là giáo hóa người của căn chủng thứ sáu sắp đến. |
|
These branches are and will be closely inter-allied and will work in the closest co-operation, being all focused and under the control of the Chohan at Shamballa. The heads of each of the four branches communicate with each other frequently and are really like the faculty of one stupendous university, the four schools being like the [305] various major departments of the foundations—like subsidiary colleges. The aim of all is the evolution of the race, the object of all is to lead all to the point of standing before the One Initiator, the methods employed are fundamentally the same, though varying in detail, due to the racial characteristics of the races and types dealt with, and the fact that certain schools work paramountly with one ray and others with another. |
Những chi nhánh này đang và sẽ liên hệ mật thiết với nhau và sẽ cộng tác thật chặt chẽ. Tất cả đều được tập trung dưới quyền kiểm soát của vị Đế quân ở Shamballa. Các vị Huynh trưởng của mỗi chi nhánh đều thường xuyên liên lạc với nhau và thật sự giống như ban giáo sư của một viện đại học khổng lồ. Bốn trường phái này giống như các ngành lớn [305] khác nhau của cơ sở – như các phân khoa đại học. Cả bốn trường đều nhằm mục tiêu trợ giúp cuộc tiến hóa của nhân loại, đều có mục đích dẫn dắt tất cả mọi người đến trình độ có thể đứng trước Đấng Điểm đạo Duy nhất, đều sử dụng những phương pháp trong cơ bản giống nhau, dù khác nhau trong chi tiết. Đó là vì những chủng tính đặc thù của các giống dân và các mẫu người thụ huấn, và vì sự kiện là có những trường chính yếu dành cho một cung, trong khi những trường khác lại hoạt động cho một cung khác. |
|
The trans-Himalayan school has its adepts as known to you, and others Whose Names are not known. |
Trường phái xuyên Hy-mã-lạp-sơn có những Đấng trọn lành mà các bạn đã biết, còn những vị khác thì chưa. |
|
The southern Indian school has special work with the deva evolution, and with the second and third sub-races of the Aryan race. |
Trường Nam Ấn có công tác đặc biệt với giới tiến hóa thiên thần và lo cho phân chủng thứ hai và thứ ba của giống dân Aryan. |
|
The Himalayan school works with the first, fourth and fifth sub-races. |
Trường Hy-mã-lạp-sơn làm việc với phân chủng thứ nhất, thứ tư và thứ năm của giống dân này. |
|
The fourth root-race branch works under the Manu of that race and his brother of the Teaching Ray. Their headquarters are in China. |
Chi nhánh dành cho căn chủng thứ tư ở dưới quyền của Đức Bàn cổ của giống dân này và vị Huynh đệ thuộc Cung Giáo dục của Ngài. Các trụ sở chánh của chi nhánh này đều ở Trung Quốc. |
|
The Master R.— and one of the English Masters are concerning Themselves with the gradual founding of the fourth branch of the school, with the assistance of the Master Hilarion. Ponder on these imparted facts, for the significance is of profound importance. |
Chân sư R.– và một vị Chân sư người Anh, đang chăm lo từ từ hình thành chi nhánh thứ tư của trường, có sự trợ giúp của Chân sư Hilarion. Các bạn hãy suy ngẫm kỹ các sự kiện kể trên, vì ý nghĩa của chúng có tầm quan trọng sâu sắc. |
|
Tomorrow we will deal with the future. Today I have but imparted facts in present manifestation. |
Ngày mai chúng ta sẽ bàn về tương lai. Hôm nay tôi chỉ nói đến những gì đã biểu lộ trong hiện tại. |
|
SEPTEMBER 28TH, 1920. |
Ngày 28-9-1920. |
|
Today our second point comes up for consideration, and we shall in the elucidation of it enter into the realms of prophecy. I would here point out to you that the thing which is indicated as existing in the future may not always work out in detail as foreseen. I but seek to lay before you the big general plan in its outline. The working out in the future will depend upon the intuition or high [306] perception of the thinkers of the race and upon the ability of the incarnating jivas to seize upon the opportunities and fulfil their destiny. |
Hôm nay chúng ta xét đến điểm thứ hai và sẽ làm sáng tỏ bằng cách tiên đoán. Ở đây các bạn cần lưu ý rằng những gì được xem là sẽ có sau này không hẳn là luôn luôn có thể xảy ra đúng từng chi tiết như dự kiến. Tôi chỉ muốn trình bày cho các bạn những nét phác họa của kế hoạch lớn và tổng quát thôi. Sự thực hiện trong tương lai sẽ tùy theo trực giác hay [306] nhận thức cao độ của các nhà tư tưởng trong nhân loại và khả năng của các linh hồn nhập thế có biết nắm lấy những cơ hội và hoàn thành vận mệnh của họ hay không. |
|
We touched yesterday upon the one fundamental school with its four branches. Today I would take up:— |
Hôm qua chúng ta đã bàn về trường cơ bản duy nhất với bốn chi nhánh. Nay tôi sẽ nói đến: – |
|
2. Các phân chi cấp quốc gia của Trường Duy nhất này. |
|
|
At the outset I would point out to you that not every nation in the world will have its occult school. Only as the causal body of the national group has reached a certain rate of vibration will it be possible to found and institute these schools. Only as the educational work of the nation has reached a certain height will it be possible to use the mental equipment of the nation as a stepping stone for further expansion, and to use it as a basis for the occult school. And, curiously enough, only those nations which originally had a training school for the mysteries (with three exceptions) will be again, during the earlier stages, permitted national schools. The exceptions are:— |
Trước hết, cần lưu ý rằng không phải mọi nước trên thế giới đều có trường huyền môn. Chỉ khi thể nguyên nhân của tập thể toàn quốc gia đó đạt đến một mức độ rung động nhất định thì mới có thể lập ra các trường này. Chỉ khi công cuộc giáo dục của quốc gia đó được nâng cao đến trình độ nhất định mới có thể sử dụng trí năng của cả nước làm bàn đạp để mở mang rộng lớn hơn và dùng nó làm căn bản để phát triển trường huyền môn. Và cũng lạ là chỉ những quốc gia nào nguyên đã có trường huấn luyện các bí nhiệm (ngoại trừ ba nước) mới có lại những trường tham thiền ở quốc gia họ, trong những giai đoạn đầu tiên. Những nước ngoại lệ là:— |
|
1. Great Britain. |
1. Anh Quốc. |
|
2. Canada and the United States. |
2. Canada và Hoa Kỳ. |
|
3. Australia. |
3. Úc. |
|
And even these exceptions might be considered only one, the case of Australia, for the other two in Atlantean days had their occult foundations when they formed part of the earlier continent. In the turning of the wheel, earth itself reincarnates; places pass into pralaya and emerge into manifestation, holding within them the seeds that will eventuate in similar vibration, and bring into being again similar modes of expression, and similar forms. |
Ngay cả trong ba ngoại lệ này cũng xem như chỉ có một (trường hợp của Úc), vì hai trường hợp kia đã có những cơ sở huyền môn trong thời Atlantis, khi họ còn là một phần đất của châu lục này. Theo đà quay của bánh xe tiến hóa, quả đất tự nó cũng tái sinh. Những nơi đã qua thời kỳ ngơi nghỉ và đang đi vào cuộc biểu hiện vẫn còn giữ trong chúng những hạt giống để cuối cùng khi gặp sự rung động tương đồng sẽ làm tái hiện những cách phát biểu và những hình thể tương tự. |
|
It will be found later on, when the Occult Schools are founded, that they will be situated where some of the old magnetism yet lingers, and where in some cases certain [307] old talismans have been kept by the Brotherhood with just this aim in view. |
Sau này, khi những Trường Huyền môn được thành lập, các bạn sẽ thấy chúng tọa lạc ở những nơi còn vấn vương từ lực của thời xưa. Hoặc những nơi mà trong vài trường hợp [307] Thiên đoàn có trấn những linh phù cổ xưa, cũng nhằm mục đích này. |
|
Branches, affiliated with one of the four central divisions of the one occult foundation, will be found in the following countries: |
Các phân chi liên thuộc một trong bốn chi nhánh trung ương của tổ chức huyền môn duy nhất này sẽ được thiết lập ở các nước sau đây: |
|
1. Egypt. This will be one of the later schools founded and will be profoundly occult and an advanced school in direct communication with the inner grades. This will be touched upon later. |
1. Ai Cập. Ở đây có một trong những trường sẽ được thành lập về sau, là một trường cấp cao, có tính huyền môn sâu sắc và liên hệ trực tiếp với các cấp đẳng nội môn. Việc này chúng ta sẽ bàn sau. |
|
2. The United States will have a preparatory school somewhere in the southern part of the Middle West, and an extensive occult college in California in a place later to be revealed. This school will be one of the first started when the Great Lord begins His earthly career, and during the next five years the seeds of it may be laid if students rightly apprehend the work to be done. |
2. Hoa Kỳ sẽ có một trường dự bị ở phía nam của miền Trung Tây, và một trường huyền môn cao đẳng mở rộng ở California, nơi chốn sẽ được tiết lộ sau này. Đây là một trong những trường đầu tiên sẽ được mở ra khi Đức Chưởng giáo bắt đầu làm công việc của Ngài ở thế gian. Trong vòng năm năm tới trường này sẽ được đặt nền móng nếu các môn sinh biết được đúng những việc phải làm. |
|
3. There will be one school for the Latin countries, probably in Italy or Southern France, but much depends on the political and educational work of the next ten years. |
3. Sẽ có một trường cho các quốc gia La-tinh, có thể ở Ý hay miền Nam nước Pháp, nhưng điều này tùy thuộc rất nhiều vào công cuộc giáo dục và chính trị ở đó trong vòng mười năm tới. |
|
4. Great Britain. At one of the magnetised spots in either Scotland or Wales, a branch for occult training will be begun before so very long, which will lay the foundation and embrace the curriculum for the earlier grades. After it has been in existence for a few years and has proved the effectiveness of its training, and after troubled Ireland has adjusted her internal problems, a school for the more advanced grades, and for definite preparation for the mysteries will be started in Ireland at one of the magnetised spots there to be found. This school will be very definitely a school where preparation for a major initiation may be taken, and will be under the eye of the Bodhisattva, preparing the pupil for initiation upon the second ray. The first school in Egypt will be for those who take initiation on the first ray in the Occident. [308] |
4. Anh Quốc. Tại một địa điểm từ lực mạnh hoặc ở Scotland hay xứ Wales, không bao lâu nữa một chi nhánh huấn luyện huyền môn sẽ được phát khởi, để đặt nền móng và bao gồm chương trình huấn luyện các cấp đầu. Sau khi trường này được thành lập trong vài năm và đã tỏ ra hữu hiệu trong công tác huấn luyện, và sau khi Ireland đang bị lộn xộn đã điều chỉnh các khó khăn nội bộ của xứ này, thì một trường cao cấp hơn sẽ được mở ra để dạy các bí nhiệm, ở một địa điểm từ lực mạnh thuộc Ireland. Đây nhất định sẽ là trường chuẩn bị cho môn sinh được nhận một trong các cuộc điểm đạo chính yếu, và ở dưới sự trông nom của Đức Di Lạc Bồ-tát, chuẩn bị cho các môn sinh thuộc cung hai được điểm đạo. Trường đầu tiên ở Ai Cập sẽ dành cho các ứng viên điểm đạo thuộc cung một ở Tây phương. [308] |
|
Those who take initiation on the line of the Mahachohan, or on the third ray, will take it at the advanced occult school in Italy. In this way the Occident will have its centre where active instruction may be given according to the three lines of approach, and which will give preparation in the inner mysteries. |
Các ứng viên điểm đạo theo con đường của Đức Văn minh Đại đế, hay thuộc cung ba, sẽ được điểm đạo tại trường huyền môn cao cấp ở Ý. Theo lối này, phương Tây sẽ có một trung tâm, nơi có thể truyền dạy các giáo huấn tích cực theo ba con đường tiếp cận và cũng sẽ là nơi chuẩn bị cho các môn sinh được thọ truyền các bí nhiệm nội môn. |
|
5. A preparatory occult school will be found, too, in Sweden, for those of the northern and German races who seek the Path, and when it has been extant for some time Russia may then be in a position to house the headquarters for the more advanced school affiliated to the preparatory one in Sweden. In connection with the Egyptian advanced school will be a preparatory one in Greece or in Syria. |
Một trường huyền môn cấp dự bị cũng sẽ được thành lập ở Thụy Điển, cho những người tìm đạo ở Bắc Âu và thuộc các chủng tộc Đức. Khi nó đã tồn tại được một thời gian thì lúc đó nước Nga có thể được chọn để đặt trụ sở chính cho một trường cấp cao, liên kết với trường dự bị ở Thụy Điển. Liên kết với trường cấp cao ở Ai Cập thì có trường dự bị ở Hy Lạp hay Syria. |
|
You have, therefore, the following schools as planned, and must bear in mind that the schools wherein the preparatory work and earlier grades are found will be first in order of time, and are in process of founding now, or will be founded during the period immediately preceding the Coming of the Great Lord. The founding of others will be definitely the outcome of His work, and that of His Masters, and will depend upon Their decision as to the success of the earlier endeavour. |
Vì thế, các bạn sẽ có các trường tham thiền như sau đây và phải nhớ rằng trường dự bị dành cho các cấp sơ đẳng thì được thiết lập trước và hiện đang được thiết lập, hay sẽ được thiết lập trong thời gian ngay trước khi Đức Chưởng giáo lâm phàm. Việc thiết lập các thiền viện khác, chắc chắn là do thành quả công trình của Ngài và của các Chân sư phụ tá Ngài, và cũng tùy sự quyết định của các Ngài đối với sự thành công của cố gắng trước đó. |
|
Preparatory Grades |
Advanced School |
|
1. Greece or Syria leading to |
Egypt |
|
2. Middle West, U.S.A. |
California |
|
3. Southern France |
Italy |
|
4. Scotland or Wales |
Ireland |
|
5. Sweden |
Russia |
|
6. New Zealand |
Australia |
|
[309]There is also planned a preparatory school for the advanced egos of the fourth root-race. This will be under the Manu of that race and will be situated in Japan, with its most esoteric branch in western China. This makes the seventh in the group of schools outlined. |
[309] Cũng có một trường dự bị được trù định cho các Chân nhân tiến hóa của căn chủng thứ tư. Trường sẽ ở dưới sự trông nom của Đức Bàn cổ của giống dân này và được đặt ở Nhật Bản, với chi nhánh nội môn của nó ở miền tây Trung Quốc. Đây là trường thứ bảy trong nhóm trường được dự trù. |
|
It is not purposed as yet to have branches in Southern Africa or Southern America. Their day is not yet, but comes in the next cycle. |
Chưa có dự định lập các chi nhánh ở miền Nam châu Phi và Nam Mỹ. Chưa đến lúc thành lập các chi nhánh này mà phải đợi đến chu kỳ sau. |
|
Now, I would earnestly call to your attention that the schools will make but small beginnings and will be launched in a way that will appear at first as too unimportant to be noticeable. A beginning will be made with members of the different occult schools, such as the esoteric sections of the Theosophical movement, and others. The work in Britain, America and Australia is already in process of inception, whilst that in Sweden will shortly be on foot. The others will follow at slightly later dates. |
Cần đặc biệt lưu ý rằng các trường này chỉ là những khởi điểm nhỏ bé, và lúc đầu sẽ không có vẻ gì là hệ trọng, đáng lưu ý. Bước đầu sẽ bao gồm những thành viên của các trường nội môn khác, như các phân bộ bí giáo của phong trào Thần triết và các nhóm khác nữa. Công việc ở Anh, Mỹ và Úc đã được khởi sự, còn ở Thụy Điển thì sắp sửa tiến hành. Những nơi khác cũng sẽ tiếp theo trong những ngày rất gần đây. |
|
This much of the plan has been permitted publication as an incentive to all of you to study with greater aspiration and to work with more strenuous application. Each and all has his place in the plan would he but qualify by doing the necessary work. That work should be:— |
Phần kế hoạch được công bố đến mức này là nhằm để khích lệ tất cả các bạn nghiên cứu với nguồn hứng khởi lớn hơn và làm việc với sự áp dụng cần mẫn hơn. Mỗi người và tất cả mọi người đều có vị trí trong kế hoạch này nếu họ tỏ ra xứng đáng bằng cách làm công việc cần thiết. Công việc cần phải là: – |
|
An endeavour to recognise the Divine within each one. In this manner the true occult obedience, which is an essential in all occult training, will be fostered and developed, being not based, as is so oft seen, on personality, but on that instinctive realisation of a Master, and the willing following that comes from the recognition of His powers, the purity of His life and aims, and the profundity of His knowledge. |
Cố gắng nhận ra sự sống Thiêng liêng trong chính mình. Bằng cách này mà sự vâng lời (đúng nghĩa huyền môn) là điều thiết yếu trong toàn cuộc huấn luyện huyền môn sẽ được bồi dưỡng và phát triển. Sự tuân hành này không như thường thấy là dựa vào phàm nhân, mà dựa vào sự nhận thức trong bản năng về một vị Chân sư. Người đạo sinh sẵn sàng tuân hành do thừa nhận những quyền năng của Ngài, sự thanh khiết trong đời sống, trong các mục tiêu của Ngài, và kiến thức uyên thâm của Ngài. |
|
An endeavour to think in group terms and clearly for oneself, not depending upon the word of others for clarification. [310] |
Cố gắng suy tư trong phạm vi của nhóm và tự nhận định một cách độc lập và minh bạch, không dựa vào lời lẽ của kẻ khác để biện minh. [310] |
|
An endeavour to purify and refine all the bodies and make them more reliable servants. |
Cố gắng tinh luyện và lọc sạch tất cả các thể, khiến chúng trở thành những tôi tớ đáng tin cậy hơn. |
|
An endeavour to equip throughout the mental vehicle and to store within it the facts upon which extended knowledge may be based. |
Cố gắng trang bị thể trí thật toàn diện và tích lũy trong đó các sự kiện cần thiết để đặt căn bản cho sự phát triển tri thức sâu rộng hơn. |
|
If these things are done great will be the day of opportunity. |
Nếu hành giả thực hiện được các điều này thì ngày cơ hội trọng đại sẽ đến. |
|
OCTOBER 2ND, 1920. |
Ngày 2-10-1920. |
|
In the rigid disciplining of yourself comes eventual perfection. To the disciple nought is too small to undertake, for in the rigid adjustment of the details of the lower world life comes, at the end, attainment of the goal. The life of the disciple becomes not easier as the Gate is neared, but ever the watch must be more thorough, ever right action must be taken with no regard to result, and ever each body in all its aggregate of detail must be wrestled with and subjugated. Only in the thorough comprehension of the axiom “Know thyself” will come that understanding that enables man to wield the law and know the inner working of the system from the centre to the periphery. Struggle, strive, discipline, and rejoicingly serve with no reward save the misunderstanding and the abuse of those who follow after—this is the role of the disciple. |
Nếu vẫn nghiêm trì giới luật thì cuối cùng các bạn sẽ đến mức hoàn thiện. Đối với người đệ tử thì không có gì là nhỏ nhặt không cần lưu ý thực hiện, bởi vì khi nghiêm nhặt điều chỉnh các chi tiết trong đời sống phàm nhân cuối cùng hành giả sẽ đạt được mục đích. Khi đến gần Cửa Đạo, cuộc sống của người đệ tử không trở nên dễ dàng hơn, mà luôn luôn phải đề cao cảnh giác. Luôn luôn phải hành động đúng đắn mà không bận tâm đến kết quả và bao giờ cũng phải vật lộn với từng hạ thể và chế ngự nó trong tất cả các chi tiết liên hệ. Chỉ khi hoàn toàn hiểu rõ câu châm ngôn “Hãy tự biết mình” hành giả mới có đủ hiểu biết để vận dụng định luật và thấu đáo sự vận hành nội tại trong trọn cả bản thể của mình, từ trung tâm đến ngoại biên. Phấn đấu, nỗ lực, trì giới, và hân hoan phụng sự mà không nhận phần thưởng nào khác hơn là sự hiểu lầm và bôi nhọ của những kẻ đi sau – đó là vai trò của người đệ tử. |
|
Today we will deal with our third point. |
Hôm nay chúng ta bàn đến điểm thứ ba. |
|
3 – The Location, personnel, and building of the occult school. |
3. Vị trí, nhân sự và cơ sở của thiền viện huyền môn. |
|
Here at the outset I would remind you that much which might be said by me on this matter must remain unsaid for lack of the ability to comprehend. I might lay down certain approximate rules, and make certain fundamental suggestions that may find their place in the [311] final working out. I can lay down no rule that must be kept. Such is not the occult law. In the establishment of these occult schools in their two divisions, preparatory and advanced, in the different designated centres under one of the four branches of the one fundamental School of Occultism, the work will begin in an inconspicuous manner, and those pupils and advanced egos whose work it is to make the necessary beginning must find out for themselves the method, place and manner. All must be wrought out in the furnace of endeavour and experiment, and the price paid will be high, but only that which is thus wrought out provides the residue or nucleus upon which the further work may be based. Mistakes matter not; nought but the fleeting personalities suffer. What does matter is lack of aspiration, inability to attempt, and incapacity to learn the lesson that failure teaches. When failures are regarded as valuable lessons, when a mistake is deemed but a warning signal that averts from disaster, and when no time is ever lost by a disciple in vain despair and useless self depreciation, then the watching Teachers of the race know that the work the Ego seeks to do through each expression on the lower plane goes forward as desired, and that success must inevitably eventuate. We will here take each detail of our subject, as enumerated above, by itself. |
Ở đây, xin lưu ý các bạn rằng về vấn đề này có nhiều điều tôi có thể nói được nhưng vẫn còn chưa nói, vì các bạn thiếu khả năng lãnh hội. Tôi có thể đưa ra một số qui tắc gần đúng và gợi ý một số điểm căn bản cần thiết cho sự thực [311] hiện sau cùng. Tôi không đặt ra qui tắc nào để buộc các bạn phải tuân thủ. Đó không phải là định luật huyền môn. Trong việc thành lập các trường huyền môn này ở hai trình độ dự bị và cao cấp tại những trung tâm khác nhau đã chọn, dưới sự kiểm soát của một trong bốn chi nhánh Trường Huyền môn căn bản duy nhất, công việc sẽ bắt đầu một cách kín đáo. Vì thế, những môn sinh và Chân nhân tiến hóa cao nhận công tác thực hiện các bước đầu cần thiết phải tự họ tìm ra phương pháp, địa điểm và thể thức. Tất cả đều phải thực hiện trong lò luyện của cố gắng và thí nghiệm mà người ta phải trả giá rất cao. Nhưng chỉ bằng cách đó mới có mức thặng dư hay hạt nhân để làm nền tảng cho công cuộc lớn lao hơn. Nếu có lỗi lầm thì cũng không thành vấn đề vì chỉ có phàm nhân vô thường là phải chịu đau khổ. Điều đáng nói là thiếu nguyện vọng tinh thần, không có khả năng rán thử, và không chịu học bài học qua thất bại. Khi thất bại được xem là những bài học đáng giá, khi một lỗi lầm được xem chỉ là tín hiệu cảnh báo giúp tránh khỏi tai ương, và khi người đệ tử không phí thời gian vô ích trong tâm trạng thất vọng hay mặc cảm tự ti, thì bấy giờ các Huấn sư hằng trông nom nhân loại biết rằng công việc mà Chân nhân tìm cách thực hiện qua mỗi sự phát biểu trong các cõi thấp đang tiến triển như ý, và chắc chắn sẽ đạt được thành công. Chúng ta hãy đi vào vấn đề kể trên, trong từng chi tiết. |
|
The Location. This is a matter of very real importance but differs according to the need of finding a situation whereon to found a preparatory or an advanced school. Generally speaking (for national requirements vary much), the school for the preparatory work will be situated within reasonable distance of some big centre or city, whilst the school for the advanced grades will be more isolated, and not so easily accessible. |
Vị trí. Đây là một vấn đề thật rất quan trọng, nhưng thay đổi tùy theo nhu cầu tìm vị trí để xây dựng một thiền viện dự bị hay cấp cao. Nói chung (vì các yêu cầu của mỗi quốc gia khác nhau rất nhiều) thiền viện dự bị sẽ ở không xa lắm những trung tâm hay thành phố lớn, còn thiền viện cấp cao sẽ có địa điểm biệt lập hơn và không dễ tìm đến được. |
|
Let us look into this for a moment. One of the fundamental things that the novitiate has to learn is to find his [312] centre within himself, independent of surrounding circumstances, and preferably in spite of surrounding circumstances. The centre must be found to a considerable degree before he can pass on to the more advanced grades and work in the second school. The preparatory school above all things concentrates on the development of the threefold lower man, and his training in service. The advanced school definitely prepares for Initiation, and is concerned with occult lore, with the impartation of cosmic truth, with the abstract development of the pupil, and with work on causal levels. One can be best accomplished in the world of men and through contact with the world; the other demands necessarily an environment of comparative seclusion and freedom from interruption. We might express it thus:—the preparatory grades deal with the kingdom of God within, whilst the advanced school expands that training into one which includes the kingdom of God without. Therefore the first will be situated amongst the working sons of men, so that by his reactions and interactions in association with them, in service and struggle, the pupil may learn to know himself. The other will be for those who have somewhat mastered these things, and are ready to learn more of other evolutions and of the cosmos. Until a man is master of himself to a considerable degree he may not safely work, for instance, with the deva or angel evolution. In the preparatory school he learns this mastery; in the more advanced school he can thus be trusted to make other contacts than the human. In both these schools, the basic instruction is meditation in all its grades. Why? Because in occult schools information, clear instructions, or a conglomerate of facts are never given, nor are the exoteric textbook methods ever employed. The whole aim is only to put the student in the way of finding out for himself the needed knowledge. [313] How? By developing the intuition through meditation, and by the attainment of that measure of mental control that will permit the wisdom of the Triad to pour down into the physical brain, via the causal. Therefore, in the preparatory school emphasis will he laid on the meditation that concerns the mind, and the teaching embodied in this book will be applied. This necessitates an environment wherein many and varied human contacts will he made, and where the concrete knowledge of the world of men will be easily available (music, libraries, and lectures), for in the preparation of true occult training the astral and mental equipping of the student will be one of the first considerations. When this has been somewhat accomplished, and when the clairvoyant head of the school sees that the rounding out of the lower auric egg approaches the desired point, then the pupil will pass into the more advanced school, and will be taught how from his stable centre to contact the cosmic centre, and from the point within himself to expand his consciousness till it touches the periphery of the system macrocosmic, and embraces all that lives—lives in an occult sense. This necessitates, during the period of training, comparative seclusion, and this the advanced school will provide. Therefore the preparatory school will be located near some large city, preferably near the sea or some large expanse of water, but never within the city; it will be on the confines of the centres of learning within the city and will be readily accessible. The advanced school will be far from the crowded places of the earth and preferably in a mountainous region, for the mountains have a direct effect on the occultist and impart to him that quality of strength and steadfastness that is their predominant characteristic and must be that too of the occultist. The sea or expanse of water close to a preparatory school will convey to his [314] mind a constant reminder of the purification which is his paramount work, whilst the mountains will imbue the advanced student with cosmic strength and will hold steadily before him the thought of the Mount of Initiation which he aims soon to tread. |
Chúng ta hãy xem xét vấn đề này trong vài phút. Một trong những điều cơ bản là kẻ sơ cơ phải học cách tìm được [312] tâm điểm bên trong chính mình, độc lập đối với hoàn cảnh chung quanh, và đáng cho y mến thích dù hoàn cảnh chung quanh có thế nào. Y phải tìm được tâm điểm đó đến mức khả quan trước khi có thể tiến lên những cấp cao hơn và làm việc trong thiền viện thứ hai. Trên hết mọi sự, thiền viện dự bị chú trọng vào việc phát triển phàm nhân với ba hạ thể và huấn luyện y trong phụng sự. Thiền viện cấp cao chuẩn bị rõ rệt cho Điểm đạo, và quan tâm đến kiến thức huyền môn, đến việc truyền đạt chân lý cấp vũ trụ, đến sự phát triển về mặt trừu tượng của môn sinh, và đến công việc phải làm ở các tầm mức thể nguyên nhân. Một giai đoạn thì có thành tựu tốt đẹp trong thế giới loài người và qua sự tiếp xúc với thế gian. Giai đoạn kia đòi hỏi cần có một môi trường sống tương đối ẩn dật và không bị quấy rầy. Có thể nói: – Các cấp dự bị lo mở mang Thiên giới ở trong tâm, còn thiền viện cao cấp thì mở rộng cuộc huấn luyện đó đến mức bao gồm cả Thiên giới ở bên ngoài. Vì thế mà thiền viện dự bị sẽ ở trong sinh hoạt bình thường của nhân loại, để nhờ các phản ứng, các tương tác trong quan hệ với họ, trong phụng sự và phấn đấu, mà người môn sinh có thể học cách tự biết mình. Thiền viện kia sẽ dành cho những người đã phần nào thực hiện được các điều này, và sẵn sàng để học thêm về các giới tiến hóa khác và về vũ trụ. Nếu hành giả chưa tự chủ đến mức khả quan thì y không thể làm việc an toàn, chẳng hạn như đối với giới tiến hóa của các đẳng cấp thiên thần. Ở thiền viện dự bị, y học cách chế ngự này. Ở thiền viện cấp cao y có thể được tín nhiệm để tiếp xúc với các giới tiến hóa ngoài nhân loại. Trong cả hai trường, giáo huấn căn bản là tham thiền ở tất cả mọi cấp độ. Tại sao? Bởi vì ở các thiền viện huyền môn người ta không bao giờ đưa ra những kiến thức, những hướng dẫn rõ ràng, hay một khối toàn thể các sự kiện, hoặc sử dụng các phương pháp trong sách giáo khoa công truyền. Trọn cả mục tiêu là chỉ nhằm đặt người môn sinh trong đường lối tự [313] tìm ra cho mình những kiến thức cần thiết. Bằng cách nào? Bằng cách phát triển trực giác qua tham thiền, và bằng cách đạt được sự kiểm soát trí tuệ khiến cho minh triết của Tam nguyên có thể tuôn xuống não bộ hồng trần, qua thể nguyên nhân. Vì thế, trong trường dự bị người ta chú trọng vào tham thiền liên quan đến thể trí, và các giáo huấn trong sách này có thể được áp dụng. Trường cần ở trong khu vực có thể tiếp xúc với nhiều hạng người khác nhau, và nơi dễ dàng thu thập kiến thức cụ thể của thế giới loài người (như âm nhạc, thư viện, các cuộc hội thảo, diễn thuyết). Lý do là vì khi chuẩn bị cho cuộc huấn luyện huyền môn đích thực thì sự trang bị thể tình cảm và thể trí của môn sinh là một trong những điều phải xem xét đầu tiên. Khi việc này đã hoàn tất được phần nào, và khi vị hiệu trưởng có nhãn thông của trường thấy rằng sự nở nang của noãn hào quang thấp đã đến mức như ý, bấy giờ người môn sinh sẽ được chuyển vào thiền viện cấp cao. Y sẽ được dạy cách tiến từ trung tâm vững vàng của mình đến tiếp xúc với trung tâm vũ trụ, và từ khởi điểm trong y mở rộng tâm thức cho đến ngoại biên của hệ thống đại vũ trụ, và bao trùm tất cả mọi loài đang sống – sống hiểu theo nghĩa huyền môn. Điều này cần cuộc sống tương đối ẩn dật ở các thiền viện cấp cao trong suốt thời gian huấn luyện. Cho nên thiền viện dự bị sẽ ở gần một thành phố lớn, tốt hơn là gần biển hay một vùng trời nước mênh mông, nhưng không bao giờ ở bên trong thành phố. Thiền viện này sẽ ở gần phạm vi các trung tâm học tập của thành phố, để mọi người có thể đến dễ dàng. Thiền viện cấp cao sẽ ở xa nơi đông dân cư và tốt hơn là ở vùng rừng núi. Bởi vì núi non có ảnh hưởng trực tiếp đến người môn sinh huyền bí, và truyền cho y phẩm tính mạnh mẽ và bền bỉ vốn là đặc trưng rõ rệt của chúng mà huyền bí gia cũng phải có. Biển cả hay vùng trời nước mênh [314] mông ở gần thiền viện dự bị sẽ luôn luôn nhắc nhở người môn sinh sự tinh luyện, vốn là việc hệ trọng nhất của y. Trong khi núi non giúp người đạo sinh cấp cao thấm nhuần nguồn sức mạnh vũ trụ và liên tục nêu cao trước mắt y cái ý tưởng về Đỉnh núi Điểm đạo mà y nhằm sớm được đặt chân. |
|
Tomorrow we will take the important factor of the personnel and faculty of the school and the types of building. |
Đến mai chúng ta sẽ bàn về yếu tố quan trọng nói về nhân sự, ban giảng huấn của thiền viện và các loại trường sở. |
|
OCTOBER 7TH, 1920. |
Ngày 7-10-1920. |
|
We deal today with that portion of our third point in the letter on “Future Schools of Meditation,” which deals with the Personnel of the School. |
Hôm nay, chúng ta bàn đến phần thứ ba của bức thư nói về “Các Trường Tham thiền Tương lai,” tức là vấn đề Nhân sự của Nhà trường. |
|
This term includes both those who supervise and those who are under supervision, and the subject is necessarily large. As said in the earlier parts of this letter, the schools will be in two divisions wherever situated:— |
Từ ngữ này bao gồm cả những người giám sát và những người chịu sự giám sát, và vấn đề này tất nhiên là rộng rãi. Như tôi đã nói ở phần đầu của bức thư này, dù ở bất cứ đâu, các thiền viện cũng có hai phân bộ: – |
|
a. A preparatory school for the earlier grades in occult instruction, and situated preferably near some large expanse of water and near some central city. |
a. Trường dự bị dành cho các cấp đầu trong giáo huấn huyền môn và tốt hơn là nên toạ lạc ở gần một vùng trời nước mênh mông và gần một thành phố lớn. |
|
b. An advanced school for the later grades, which will definitely prepare the way for initiation, and train pupils in occult lore. |
b. Trường cấp cao, dành cho những trình độ sau, có mục đích rõ rệt là chuẩn bị cho các môn sinh được điểm đạo và huấn luyện họ về các kiến thức huyền môn. |
|
As you will consequently see, the personnel of both schools will necessarily differ, as will the curriculum. We will deal with each type of school separately, and lay down certain fundamentals which must be looked for in instructors and instructed. |
Do đó các bạn sẽ thấy rằng phần nhân sự của cả hai trường nhất thiết phải khác nhau, và chương trình học cũng vậy. Chúng ta sẽ bàn riêng từng loại thiền viện, và nêu ra một số điểm căn bản mà các giảng viên và các khóa sinh phải có. |
|
The Preparatory Occult School. This—to the outer world—may appear not so different from an ordinary college. The differences will not be recognisable at first to the man of the world, though the differences will be there, and will demonstrate themselves in the school work, to the pupils, and on the inner planes. The fundamentals as regards the instructors are as follows:— [315] |
Trường Huyền môn Dự bị. Đối với người đời bên ngoài, thiền viện này không có vẻ gì khác hơn là một trường cao đẳng thông thường. Ban đầu mới đến, một người thường sẽ không nhận thấy được những gì khác lạ, dù các dị biệt vẫn có và sẽ tự biểu lộ trong công việc học tập đối với các môn sinh, và trên các cảnh giới nội tại. Về phần giảng viên cần có những điều căn bản sau đây: – [315] |
|
The Head of the school will be an accepted disciple; it is essential that the Master, Who is back of the work of any particular school, should be able at all times to tap the consciousness of that school as focussed through the disciple. This Head will be able to act as a medium of communication between the students and the Master and as a focal point for His force to flow through to them. He must be consciously able to function on the astral plane at night and to bring the knowledge through to the physical brain, for part of his work will be with students on the astral plane, guiding them to the Master’s ashram at certain intervals for specialized work. He will have to train them too in this conscious functioning. |
Vị Hiệu trưởng phải là một đệ tử nhập môn. Điều này là thiết yếu để vị Chân sư ẩn sau sinh hoạt của trường luôn luôn có thể tiếp xúc với tâm thức của cả trường hội tụ thông qua đệ tử của Ngài. Vị Hiệu trưởng này sẽ có khả năng đóng vai trò trung gian trong việc truyền thông giữa các môn sinh và Chân sư, và là tụ điểm để thần lực của Ngài qua đó tuôn xuống cho họ. Vị Hiệu trưởng phải có khả năng hoạt động hữu thức trên cõi tình cảm vào ban đêm, và đem tri thức này đến não bộ hồng trần. Vì vị này có một phần công việc phải làm với các môn sinh ở cõi tình cảm, có những lúc phải hướng dẫn họ đến đạo viện của Chân sư vì những công việc chuyên biệt. Người cũng phải huấn luyện họ trong hoạt động hữu thức này. |
|
Under him will work six instructors, of whom one at least must be a conscious clairvoyant, and able to assist the Head with his information as to the auric development of the students; he must be able to gauge the colors and expansion of the students’ vehicles, and co-operate with the Head in the work of expanding and attuning those vehicles. These instructors must be on the Probationary Path and earnestly devoted to the work of assisting evolution and devoted to the service of some one Master. They must and will be carefully chosen so as to supplement and complement each other, and in the school will form a miniature hierarchy, showing on the physical plane a tiny replica of the occult prototype. As their work will be largely to develop the lower mind of the pupil and to link it up with the higher consciousness, and as the focal point of their endeavour will be the rapid building-in the causal body, they will be men of erudition, and of knowledge, grounded in the knowledge of the Hall of Learning, and able to teach and to compete with the trained teachers of the world universities. [316] |
Dưới vị Hiệu trưởng là sáu giảng viên, trong đó ít nhất một vị phải có nhãn thông hữu thức, có thể giúp đỡ vị Hiệu trưởng bằng cách báo cáo cho người biết sự phát triển hào quang của các môn sinh. Vị này phải có khả năng thẩm định các màu sắc và sự tăng trưởng các thể của môn sinh, và hợp tác với vị Hiệu trưởng để giúp mở mang và hoà hợp những thể đó. Các giảng viên này phải đang đi trên Đường Dự bị, nhất quyết dấn thân vào việc trợ giúp cơ tiến hóa và hiến mình cho công cuộc phụng sự của một vị Chân sư. Các vị này phải được chọn lựa cẩn thận để họ có thể bổ sung và bổ túc lẫn nhau. Trong trường họ hợp thành một huyền giai thu hẹp, cho thấy một phản ánh bé nhỏ ở cõi trần của kiểu mẫu huyền môn. Vì phần lớn công việc của họ là giúp phát triển hạ trí của môn sinh và liên kết nó với tâm thức cao siêu, và cũng vì trọng tâm nỗ lực của họ là mau chóng kiến tạo thể nguyên nhân nên họ sẽ là những người có kiến thức uyên bác, bắt nguồn từ những hiểu biết trong Phòng Học tập, có khả năng giảng huấn và đủ tư cách ngang với các giảng viên chuyên môn của các trường đại học trên thế giới. [316] |
|
In every college the work of these trained seven men will be aided by that of three women chosen for their capacity to teach, for their intuitive development and for the spiritual and devotional touch they will bring to the lives of the students. To these ten teachers will be entrusted the work of grounding the students in the important essentials, in superintending the acquirement of the rudiments of occult lore and science, and their development in the higher psychism. These ten must be profound students of meditation, and able to superintend and teach the pupils the rudiment of occult meditation, as taught, for instance, in this book. Occult facts will be imparted to these pupils by them and the basic laws that—in the advanced school—will be the subject of definite practice by the would-be initiate. Exercises in telepathy, causal communication, reminiscence of work undertaken during the hours of sleep, and the recovering of the memory of past lives, through certain mental processes, will be taught by them,—themselves proficient in these arts. |
Ở mỗi trường công việc của bảy nhân viên thành thạo này sẽ được sự trợ giúp của ba nữ nhân viên. Họ được chọn vì có khả năng giảng huấn, vì có trực giác phát triển và vì ảnh hưởng tinh thần và lòng sùng tín mà họ mang lại cho cuộc sống của các môn sinh. Mười vị huấn sư này được ủy thác công việc giúp môn sinh nắm vững những điều chính yếu quan trọng, trông nom sự thu hoạch các nguyên lý cơ bản của kiến thức khoa học huyền bí và giúp môn sinh phát triển thần thông cấp cao. Mười vị này phải là những vị đã hành thiền sâu sắc, có khả năng trông nom và chỉ dạy môn sinh về các cương yếu của thiền huyền môn ví dụ như những điều đã dạy trong sách này. Họ sẽ truyền đạt cho môn sinh những sự kiện huyền bí và các định luật căn bản mà ở trường cấp cao sẽ là chủ đề thực tập xác định của các điểm đạo đồ tương lai. Những bài tập thần giao cách cảm, việc truyền thông bằng thể nguyên nhân, sự nhớ lại những công việc đã thực hiện trong giấc ngủ và hồi ức các tiền kiếp qua một số tiến trình trí tuệ, tất cả sẽ được họ giảng dạy, – vì chính họ đã thành thạo các kỹ thuật này. |
|
As you will see here, all these teachers will be devoted to the definite training and inner development of the threefold man. |
Như được trình bày ở đây, các giảng viên nói trên sẽ chăm lo cuộc huấn luyện xác định và sự phát triển nội tại của phàm nhân tam phân. |
|
Under these will work various other teachers, who will superintend other departments of the pupils’ lives. Exoteric science will be taught and practised by proficient teachers, and the lower mind will be developed as much as possible, and kept in check by the other ten teachers who watch over the proportional development, and the aptitude for correct meditation of the student. |
Dưới họ còn có những huấn sư khác, trông nom những phần việc khác trong cuộc sống của môn sinh. Những huấn sư đầy đủ năng lực sẽ giảng dạy và thực tập khoa học ngoại môn và giúp phát triển hạ trí càng nhiều càng tốt, với sự kiểm soát của mười vị giảng viên kia sao cho sự phát triển được cân đối và các môn sinh có khả năng hành thiền đúng đắn. |
|
Along with all this will be the life of world-service, rigidly demanded of each and every pupil. This life of service will be carefully watched and recorded. One thing to be noted here is that in this there will be no compulsion. The pupil will know what is expected of him and what he [317] must do if he is to pass on to the more advanced schools, and the school’s charts (recording the condition of his vehicles, and his progress and his capacity to serve) will all be available for his personal inspection, though to no one else. He will know clearly where he stands, what he must do and what remains to be done, and it rests then with him to aid the work by the closest co-operation. A certain amount of care will be taken in the admittance of pupils to the school, and this will obviate the necessity of later removal for inability or lack of interest, but this I will deal with later, when taking up the grades and classes. |
Song hành với sinh hoạt này là cuộc sống phụng sự thế gian, mà mỗi môn sinh và tất cả các môn sinh đều phải có. Cuộc sống phụng sự này sẽ được trông nom cẩn thận và ghi chép đầy đủ. Một điểm cần lưu ý ở đây là không có sự bắt buộc nào cả. Mỗi môn sinh đều biết người ta trông cậy nơi y [317] những gì và y phải làm gì nếu y muốn tiến lên những trường cao cấp hơn. Các đồ biểu ở trường (ghi nhận tình trạng các thể, sự tiến bộ và khả năng phụng sự của y) cũng sẽ sẵn sàng cho chính y xem xét, chứ không cho ai khác. Y sẽ biết rõ chỗ đứng của mình, y phải làm gì và những gì còn phải làm. Lúc đó y sẽ quyết định xem có nên hợp tác với công việc một cách hết sức chặt chẽ hay không. Có một số điểm phải thận trọng khi thu nhận các môn sinh nhập học, để sau họ khỏi bị loại vì thiếu khả năng hay thiếu hứng thú, nhưng điều này tôi sẽ bàn sau, khi đề cập đến trình độ và khóa học. |
|
You have, therefore, ten superintending teachers, composed of seven men and three women, including a Head who is an accepted disciple. Under them will work a set of instructors who will deal largely with the lower mind and in the emotional, physical and mental equipping of the pupil, and his passing into the advanced school in a condition to profit by the instructions there to be imparted. Here I would point out that I have planned out the ideal, and pictured for you the school as it is hoped it will eventually be. But as in all occult development, the beginning will be small and of little apparent importance. Tomorrow we will take up the rules governing the admission of students and the personnel of the more advanced school. |
Thế là, nhà trường có mười vị giảng viên giám sát, gồm bảy nam và ba nữ, gồm cả vị Hiệu trưởng là một đệ tử nhập môn. Dưới họ là một số huấn sư mà phần lớn công việc là lo mở mang hạ trí, lo trang bị thể tình cảm, thể xác và thể trí của môn sinh, để giúp y tiến lên trường cấp cao trong điều kiện ích dụng được các giáo huấn ở đó. Ở đây, xin các bạn lưu ý là tôi đặt kế hoạch cho một trường lý tưởng và phác họa thiền viện mà người ta hy vọng sẽ có sau này. Nhưng trong mọi cuộc phát triển huyền môn, lúc khởi đầu đều nhỏ bé và bề ngoài không có vẻ gì quan trọng. Ngày mai chúng ta sẽ nói về các qui luật thu nhận môn sinh và nhân sự của thiền viện cấp cao. |
|
OCTOBER 16TH, 1920. |
Ngày 16-10-1920. |
|
……Today we will take up:— |
. . . . . . Hôm nay chúng ta bàn về: – |
|
The personnel of the advanced school, and the rules of admission to both the preparatory and advanced. This latter part will be largely technical. |
Nhân sự của thiền viện cao cấp, và những qui luật thu nhận môn sinh cả ở hai thiền viện dự bị và cao cấp. Phần sau này sẽ hầu như thuộc về kỹ thuật. |
|
The first point I seek to make here is that these advanced schools will be numerically small, and this for a very long time to come, and the personnel will be correspondingly [318] small….At the head of the school will always be found an Initiate of the first or second degree, the aim of the school being to prepare pupils for the first initiation. This necessarily requires an Initiate head. This Initiate head will be definitely appointed by the Master Who has the school in charge, and he will be—within the confines of the school—sole judge and autocrat. The risks of occult training are too great to permit of trifling, and what the Head demands must be obeyed. But this obedience will not be compulsory but voluntary, for each pupil will realise the necessity and will render obedience from spiritual recognition. As aforesaid, these different occult schools will be practically ray schools, and will have for their personnel teachers on some one ray or its complementary ray, with pupils on the same ray or complementary ray. For instance, if the school is a second ray school—such as the one in Ireland is purposed to be—teachers and pupils on the second, fourth and sixth rays will be found in it. At least one fifth ray teacher will be found in every school of occultism. If a first ray school, the personnel and pupils will be first, third and seventh ray, with again a fifth ray teacher among the others. |
Điểm đầu tiên tôi muốn nói là số thiền viện cấp cao sẽ rất ít, rất lâu sau này mới có, và số nhân sự trong viện này cũng [318] sẽ tương đối ít . . . . Vị Hiệu trưởng luôn luôn là một Điểm đạo đồ được một hay hai lần điểm đạo, và mục tiêu của trường là chuẩn bị cho các đạo sinh được điểm đạo lần thứ nhất. Vì thế mà vị Hiệu trưởng cần phải là người đã được điểm đạo. Vị này được vị Chân sư trông nom trường chính thức bổ nhiệm, và trong phạm vi của trường vị này sẽ là phán quan duy nhất, có toàn quyền quyết định. Những nguy cơ của cuộc huấn luyện huyền môn thật quá to lớn nên không thể xem thường, và tất cả những gì vị Hiệu trưởng đòi hỏi phải được nhất nhất tuân theo. Thế nhưng, sự vâng lời này vẫn không bắt buộc mà là tự nguyện. Vì mỗi đạo sinh sẽ nhận thức được sự cần thiết này, và tuân hành do sự thừa nhận từ trong tinh thần của họ. Như đã nói trước đây, các trường huyền môn này thực tế là những trường của các cung khác nhau, thế nên các nhân viên giảng huấn phải ở cùng cung đó hay cung bổ túc, và các môn sinh cũng vậy. Ví dụ như nếu một trường thuộc cung hai – như thiền viện định lập ở Ireland – thì giảng viên và các khóa sinh sẽ thuộc cung hai, bốn và sáu. Ở mỗi thiền viện huyền môn ít nhất cũng có một giảng viên thuộc cung năm. Nếu đó là thiền viện thuộc cung một, thì các giảng viên và đạo sinh sẽ thuộc cung một, ba, và bảy và trong các giảng viên cũng có một vị thuộc cung năm. |
|
Under the initiate Head will be two other teachers who will be accepted disciples, and every pupil under them must have passed through the preparatory school, and graduated from all the lower grades. Probably these three will comprise the entire teaching staff, for the pupils under them will he relatively few in number and the work of the teachers is supervisory more than didactic, for the occultist is always esoterically self-taught. |
Dưới vị Hiệu trưởng đã được điểm đạo có hai giảng viên là đệ tử nhập môn. Và mọi môn sinh dưới quyền họ đều phải đã học qua trường dự bị, và đã tốt nghiệp mọi cấp dưới. Rất có thể toàn ban giảng huấn chỉ gồm ba vị này, vì số khóa sinh dưới quyền họ cũng tương đối ít, và công việc của giảng viên thiên về giám sát hơn là giảng dạy, vì huyền bí gia luôn luôn tự huấn luyện về mặt nội môn. |
|
Much of the work done by these three will he on the inner planes, and they will work more in the seclusion of their own rooms than in class room with the students [319] themselves. The pupils are—it will be presumed—ready to work for themselves and to find the way to the portal of initiation alone. The work of the teachers will be advisory, and they will be available to answer questions and to superintend work initiated by the pupil himself, and not compelled by the teacher. Stimulating vibration, aligning the bodies, superintending the work on inner planes, and the pouring in of force with the shielding from danger by occult methods, will be the work, in part, of the Teachers, added to the supervision of definite and strenuous meditation. At intervals they will conduct the pupils to the Master, advise as to their passing into the different grades of discipleship, report at intervals on the quality of their life service and assist them in building their buddhic vehicle, which has to be in an embryonic condition when the First initiation is taken. The teachers likewise superintend the working out in practice of the theories anent the other evolution, the deva evolution, laid down in the preparatory schools; they watch over the manipulation of matter by the pupil and his demonstration of the laws of construction; they safeguard him as far as may be in his contact with sub-human and super-human evolutions, and teach him to wield the law and to transcend karma. They enable him, through their instructions, to recover the knowledge of past lives and to read the akashic records, but as you will see, the pupil is the one in this school who initiates and does the work, superintended and guarded by the teachers, and his progress and the length of his residence within the school depend upon his own effort and initiatory powers. |
Phần nhiều công việc của ba vị này được làm trên các cõi cao và họ thường làm việc âm thầm trong các phòng riêng của họ hơn là giảng ở lớp với các môn sinh. Các môn [319] sinh đều được xem như là đã sẵn sàng tự mình làm việc và tự tìm đường đi đến cửa điểm đạo. Công việc của giảng viên sẽ có tính cách cố vấn, và họ sẵn sàng trả lời các câu hỏi hay giám sát công việc do chính môn sinh tự đề ra, chứ không do giảng viên bắt buộc. Kích thích sự rung động, chỉnh hợp các thể, trông nom công việc thực hiện ở các nội giới, ban rải thần lực cho môn sinh, che chở cho họ khỏi bị nguy hiểm bằng những phương pháp huyền môn, cũng như giám sát việc hành thiền chính xác và cần mẫn của họ, đó là một phần công việc của các giảng viên. Có những lúc, các vị dắt các môn sinh đến gặp Chân sư, báo cáo với Ngài về việc họ đang tiến sang các cấp khác trên đường đệ tử. Đôi khi các vị cũng phúc trình cho Ngài về phẩm chất cuộc sống phụng sự của họ và giúp họ kiến tạo thể bồ-đề, là thể phải bắt đầu được phát triển khi họ được điểm đạo lần thứ nhất. Các giảng viên cũng giám sát việc thực hành những phần lý thuyết về giới tiến hóa thiên thần, đã được đưa ra trong các trường dự bị. Các vị trông nom việc môn sinh vận dụng vật chất và chứng minh những định luật kiến tạo. Các vị cũng bảo vệ môn sinh đúng mức khi y tiếp xúc với các giới tiến hóa hạ đẳng và siêu nhân loại, dạy y cách vận dụng định luật và cách vượt khỏi nghiệp quả. Nhờ các vị chỉ dạy mà y có thể phục hồi sự hiểu biết các tiền kiếp và xem được các tiên thiên ký ảnh. Nhưng về sau các bạn sẽ thấy, trong trường này chính môn sinh là người duy nhất khởi xướng và thực hiện công việc (được các giảng viên trông nom và bảo vệ). Sự tiến bộ và thời gian y lưu học trong trường tùy theo nỗ lực và khả năng khởi xướng của chính y. |
|
The rules of admission into the preparatory school will be somewhat as follows, but I only indicate probabilities and not ascertained and fixed facts:— [320] |
Những qui luật thu nhận đạo sinh vào trường dự bị thì đại khái như sau, nhưng tôi chỉ nói đến những điều có thể xảy ra chứ không phải những sự kiện chắc chắn và nhất định: – |
|
1. The pupil must be free from obligatory karma and able to take the course without neglecting his other duties and family ties. |
1. Người môn sinh phải trả sạch các định nghiệp và có thể thụ huấn mà không bỏ bê các bổn phận khác và những mối quan hệ của gia đình. |
|
2. There will be no fees or money charged, and no money transaction. The pupil must be somewhat self-supporting and able to earn the means of livelihood whilst in the school. The schools in both their divisions will be supported through the voluntary contributions of people, and through a knowledge of the laws of supply and demand occultly interpreted. |
2. Sẽ không có học phí hoặc đòi hỏi hay thương lượng về tiền bạc. Người môn sinh phải phần nào tự túc, và phải có phương tiện sinh sống trong khi lưu học. Các trường ở cả hai cấp sẽ được tài trợ nhờ sự tự nguyện đóng góp của mọi người, và nhờ sự hiểu biết các định luật cung và cầu diễn giải theo ý nghĩa huyền môn. |
|
3. The pupil must be able to measure up to the average educational standards of his day and generation and must show aptitude for some line of thought. |
3. Người môn sinh phải đạt tiêu chuẩn học vấn trung bình của thế hệ và thời đại y và phải tỏ ra có năng lực suy tư theo một đường lối nào đó. |
|
4. He must be seen clairvoyantly to have a certain amount of co-ordination and alignment and the causal body must be of a certain grade or quality before he is admitted. Teachers of occultism waste not time on those not ready. Only when the inner light shines forth, only when the causal body is of a certain capacity can the pupil profit by the curriculum. Therefore, with the Head of the school will the final verdict lie as to whether a pupil may enter or not. That word will be final, and will be passed after due inspection of the pupil by the Head of the school through clairvoyant and causal vision, and after reference to the man’s own Master. |
4. Y phải được xem xét qua nhãn thông, nếu người ta thấy rằng y đã điều hợp và chỉnh hợp đúng mức và thể nguyên nhân đã đạt được một cấp độ hay phẩm tính nhất định thì y mới được thu nhận. Các huấn sư huyền môn không mất thì giờ cho những người chưa chuẩn bị sẵn sàng. Chỉ khi ánh sáng nội tâm chói rạng, khi thể nguyên nhân của môn sinh đã có dung lượng nhất định, bấy giờ y mới có thể hưởng được lợi ích của chương trình học. Vì thế vị Hiệu trưởng có quyết định tối hậu để thu nhận người môn sinh hay không. Quyết định đó là tối hậu và sẽ được thông qua sau khi người môn sinh được vị Hiệu trưởng dùng nhãn thông và linh thị của thể nguyên nhân để xem xét đúng mức cũng như tham khảo ý kiến vị Chân sư của chính y. |
|
5. He must have demonstrated, by a previous period of service, his ability to work in group formation and to think in terms of others. [321] |
Người môn sinh phải tỏ ra rằng trong thời gian phụng sự đã qua y có khả năng làm việc trong hình thức tập thể và suy tư trong phạm vi của những người khác. [321] |
|
6. His past incarnations must he somewhat looked up, and the indications given through their study will guide the Head in his final decision. |
5. Một số tiền kiếp của môn sinh cũng cần được nghiên cứu và những chi tiết trong đó sẽ hướng dẫn vị Hiệu trưởng khi đưa ra quyết định sau cùng. |
|
7. The pupil must he over twenty-one and under forty-two years of age. |
6. Môn sinh phải trên hai mươi mốt và dưới bốn mươi hai tuổi. |
|
8. His etheric body must be in good condition and be a good transmitter of prana, and there must be no physical disease or handicapping physical deformity. |
7. Thể dĩ thái của y phải ở trong tình trạng tốt và truyền dẫn sinh lực dễ dàng. Thể xác y phải vô bệnh và không bị dị dạng hay khuyết tật. |
|
These are the fundamental rules which it is at present possible to give. There will be others and the problem of selection may pass through some vicissitudes in solving. |
Đây là những qui luật cơ bản có thể đưa ra hiện nay. Còn có những qui luật khác nữa, và vấn đề chọn lựa cũng có thể phần nào khó khăn hơn. |
|
The rules for admission into the advanced school are far more esoteric and fewer in number. The pupils will be chosen from out of the preparatory school, after having passed through the graded courses. But selection will depend not on the mental development and the assimilation of concrete knowledge, but upon the inner comprehension and the occult understanding of the student, upon the quality of the tone of his life as it sounds forth in the inner world, upon the brilliance of the indwelling light, and upon his power in service. |
Các qui luật thu nhận đạo sinh vào thiền viện cấp cao thì ít hơn và có tính huyền bí hơn nhiều. Các khóa sinh ở đây được chọn từ trường dự bị, sau khi đã vượt qua các trình độ. Nhưng sự chọn lựa này không tùy theo sự phát triển trí tuệ và đồng hóa kiến thức cụ thể, mà tùy khả năng thấu hiểu ở nội tâm và sự thông hiểu về mặt huyền bí của môn sinh, tùy theo phẩm tính âm điệu của cuộc sống y khi nó ngân vang ở nội giới, tùy mức chói rạng của ánh sáng nội tàng, và tùy năng lực của y trong phụng sự. |
|
This suffices for today; tomorrow we will deal with the final division of this third point, the buildings of the school. |
Hôm nay như thế là đủ. Ngày mai chúng ta sẽ bàn phần cuối của điểm thứ ba là các cơ sở của trường. |
|
OCTOBER 17TH, 1920. |
Ngày 17-10-1920. |
|
In dealing today with the subject of the buildings of the two types of occult schools, little can be said and only a general outline can be given. Climatic conditions and the desired size of the schools will greatly vary and the consequent plant will vary likewise…… |
Hôm nay, bàn về cơ sở của hai loại trường huyền môn, tôi không thể nói nhiều mà chỉ phác họa tổng quát thôi. Những điều kiện khí hậu và kích cỡ của các trường này sẽ khác nhau rất nhiều và tất nhiên cây cối ở đó cũng khác nhau . . . . . . |
|
The buildings for the preparatory school will differ not so much from those of an ordinary college in the exoteric [322] world. One rule only will be laid down—each student must of necessity have his own separated chamber. The type of building matters not, provided these conditions are fulfilled. Each room must be non-communicating, save with the central corridor, and must be in three divisions, necessarily small yet distinct. One division will be given up to the student’s life and study; another to the bath and the third will be the place for meditation containing the pictures of the Great Ones duly curtained. This third division is kept for the sole purpose of meditation and will contain little save the mat on which the student sits, a couch on which he will repose his physical vehicle during certain stated exercises and a small stool in front of the Master’s pictures, on which will be found the incensor and a vase for floral tributes. |
Cơ sở của trường dự bị sẽ không khác bao nhiêu với các cơ sở của một trường cao đẳng thường thấy ngoài đời. Chỉ có [322] qui luật là mỗi môn sinh đều cần phải có phòng riêng biệt của mình. Trường sở theo kiểu nào cũng được, miễn là hội đủ những điều kiện trên. Các phòng không thông nhau, mà chỉ thông với hành lang ở trung tâm. Mỗi phòng phải có ba phần, tất nhiên là nhỏ nhưng phân biệt. Một phần để đạo sinh sinh hoạt và học tập, một phần để tắm rửa, và phần thứ ba là nơi y tham thiền, có những bức ảnh của các Đấng Cao cả và phủ rèm thích hợp. Phần thứ ba chỉ có mục đích là để tham thiền, không chứa gì nhiều ngoài tấm thảm để y ngồi, một chiếc trường kỷ để y ngơi nghỉ xác thân trong những bài tập nhất định, và một ghế đẩu nhỏ đặt trước các bức ảnh của Chân sư, trên có để lư hương và một lọ cắm hoa dâng cúng. |
|
The resident teachers will reside with the students, the women taking charge of the women students, and the men residing with the male students. The Head of the school will reside alone in a detached house which will contain—besides the rooms in which he will live his private life—a reception room of small proportions for his work with individuals, and a larger room for joint concourses, besides a shrine room for the meeting of the united body of pupils. |
Các giảng viên nội trú sẽ cùng cư ngụ với các đạo sinh. Các nữ giảng viên thì chịu trách nhiệm trông nom các nữ đạo sinh, còn các nam giảng viên thì cư ngụ cùng với các đạo sinh nam. Vị Hiệu trưởng sẽ ở một mình trong một ngôi nhà riêng biệt. Ngoài các phòng để sinh hoạt bình thường còn có một phòng khách nhỏ để người tiếp xúc với các cá nhân, và một phòng lớn hơn để làm việc với đông người hơn. Ngoài ra còn có một phòng thánh đường để nhóm họp toàn thể các đạo sinh. |
|
The buildings for the advanced schools, even though they concern us not intimately as yet, provide in their construction much of occult significance for those who have eyes to see. The main feature in the occult advanced school will be the central temple of circular shape providing for each of the pupils (and you must remember that numerically they will not be large), a private shrine entered from the rear by a closed door and having a curtain between it and the large central shrine where the group meetings will be held. [323] |
Các cơ sở của trường cấp cao dù chưa liên quan mật thiết với chúng ta nhưng trong cách kiến trúc có nhiều ý nghĩa huyền bí đối với những người có mắt thấy được. Đặc điểm chính của trường huyền môn cấp cao sẽ là một ngôi đền trung ương hình tròn, trong đó mỗi khóa sinh (xin nhớ là số khóa sinh ở đây không nhiều) được cấp một liêu phòng riêng, đi vào từ phía sau qua một khung cửa khép kín. Có một bức màn che giữa phòng này và thánh điện lớn ở trung tâm, nơi tổ chức những cuộc nhóm họp tập thể. [323] |
|
This large central shrine will have a pavement whereon will be traced the triangle, and within the triangle the group will sit, the three spaces outside the triangle having tables whereon will be found various symbols and a few of the fundamental books on symbols and some large parchments whereon the cosmic symbols will be portrayed. |
Thánh điện trung tâm rộng lớn này có một sân lát gạch, trên có vẽ hình tam giác. Toàn nhóm sẽ ngồi trong hình tam giác này. Ba khoảng ở ngoài có đặt những chiếc bàn, trên có các biểu tượng khác nhau và một số sách căn bản về biểu tượng và những bảng lớn vẽ các biểu tượng vũ trụ. |

|
The colour of this shrine will be dependent on the ray which it represents. The curtains which separate will be in the ray colour also and each individual shrine curtain will carry the sign of the pupil’s nativity—his sign, rising sign, and controlling planets. These curtains will be the [324] property of the pupil, as will the mat within the shrine which will carry the symbol of his ray, egoic and personality. |
Màu sắc của thánh điện này sẽ tùy theo cung mà nó tiêu biểu. Các màn ngăn cách cũng nhuộm màu của cung đó, còn bức màn ở mỗi liêu phòng cá nhân thì có mang thiên tượng lúc y sinh ra đời – chòm sao bổn mạng của y, cung nhật xuất và các hành tinh chi phối. Các bức màn này là của riêng [324] người đạo sinh, cũng như tấm thảm trong phòng sẽ mang biểu tượng cung chân ngã và cung phàm ngã của y. |
|
On the wall of the great circular passage will be found the signs of the zodiac, the four entrances standing for the four Maharajas. |
Trên bức tường lớn bao quanh hành lang tròn có vẽ các chòm sao trong vòng Hoàng đạo, bốn ngõ vào tượng trưng cho tứ Đại Thiên vương. |
|
A square wall will surround the whole, enclosing a garden which will be the care of the pupils themselves. There will be but one entrance through this wall on the north side. Outside will lie small building’s to house not more than three pupils, and a house wherein will reside the three instructors. The Initiate Head will likewise have his private residence distinguished by a domed tower at one side. This domed tower serves two purposes:—It is the place for astronomical and astrological instruction and will have the latest appliances of science for the study of the planets and of microcosmic life, and will also serve as a secure shelter for those pupils who can consciously leave their physical bodies and function elsewhere on the physical plane. |
Một bức tường vuông bao bọc toàn thể, trong có khu vườn để các đạo sinh tự chăm sóc. Tường này chỉ có một cổng vào ở phía Bắc. Bên ngoài là những ngôi nhà nhỏ, chứa không quá ba đạo sinh, và một ngôi nhà dành cho ba giảng viên cư ngụ. Vị Hiệu trưởng điểm đạo đồ cũng có nơi cư ngụ riêng, được phân biệt nhờ một chiếc tháp mái tròn ở một bên. Tháp mái tròn này có hai mục đích: – Đó là nơi dạy về thiên văn và chiêm tinh học, có các thiết bị khoa học mới nhất để học về các hành tinh và đời sống tiểu vũ trụ. Đây cũng là nơi trú ngụ an toàn cho những đạo sinh có thể hữu thức rời thân xác và hoạt động ở một nơi khác trên cõi hồng trần. |
|
This is all I can give as yet. Record, watch and await the hour when the ideal will materialize. |
Trên đây là tất cả những gì hiện nay tôi có thể nói. Hãy ghi nhận, trông chừng và chờ đợi đến ngày giờ lý tưởng trở thành hiện thực. |
|
OCTOBER 29TH, 1920. |
Ngày 29-10-1920. |
|
Our fourth point comes up for consideration today, and in its discussion I will give you somewhat concerning the preparatory occult school but little concerning the advanced. This fourth point is one anent the grades and classes. |
Hôm nay chúng ta xét đến điểm thứ tư. Trong khi bàn tôi sẽ nói phần nào đến thiền viện dự bị và ít nói đến thiền viện cấp cao. Điểm này đề cập đến các cấp bậc và các khóa học. |
|
4. Các cấp bậc và khóa học. |
|
|
We have, in an earlier letter, touched upon the curriculum of the preparatory schools and have seen that that curriculum deals much with the development of lower [325] mind, with the laying of the foundations upon which to build the later work, and with the formulation, the study, and the memorising of the theories and occult laws upon which the true occultist will later base his practical work. We saw also that much that was taught was necessarily closely allied with the exoteric teaching of the world, and necessitated the school being in close touch with the centres of modern thought. Today I seek to point out certain things that will be seen in the scheme of the student’s work and to show the method whereby he is gradually led on until he is fit to pass on into the more advanced college. We will as usual divide our subject into three heads:— |
Trong một bức thư trước chúng ta đã đề cập đến chương trình học của các trường dự bị. Chương trình kể trên chú trọng nhiều đến sự phát triển hạ trí, đến việc đặt nền móng [325] cho công việc sau này, và việc minh định, nghiên cứu và ghi nhớ các lý thuyết và các định luật huyền môn mà về sau nhà huyền bí chân chính sẽ lấy đó làm căn bản để thực hành. Chúng ta cũng đã thấy rằng nhiều điểm được truyền dạy nhất thiết phải kết hợp chặt chẽ với giáo huấn công truyền của thế gian. Thế nên thiền viện phải rất gần gũi các trung tâm tư tưởng hiện đại. Hôm nay tôi sẽ nêu lên một số điều trong chương trình học tập của môn sinh, và trình bày phương pháp từ từ hướng dẫn y tiến tới, cho đến mức đủ điều kiện chuyển sang thiền viện cấp cao. Như thường lệ, chúng ta sẽ chia vấn đề thành ba mục: – |
|
a. The times of study. |
a. Thời gian học tập. |
|
b. The types of work. |
b. Các loại công việc. |
|
c. The transformation of potential faculty into active powers through practice. |
c. Biến đổi khả năng tiềm ẩn thành các quyền năng tích cực, qua thực hành. |
|
a. The times of study. |
a. Thời gian học tập. |
|
All the work of the school will be based upon an occult knowledge of times and seasons, and two things will be carefully adhered to:— |
Toàn bộ công việc của nhà trường đều dựa vào kiến thức huyền môn về thời cơ và mùa tiết và có hai điều phải được thận trọng tuân thủ: – |
|
l. The school year will be divided into two halves, one half wherein the pupils are strenuously acquiring knowledge, that period being that in which the sun moves northward or the earlier half of the year, and a second half—separated from the earlier by an interval of six weeks—wherein he assimilates and puts into practice that which earlier was imparted. During the earlier months of the year he goes through a drastic system of reception, of learning, of hard study, of accumulation of facts and of concrete knowledge. He attends lectures, he wades through many books, he studies in the laboratory, and with the aid of the microscope and of the [326] telescope he widens the range of his vision, and builds into his mental body a vast store of scientific data. |
1. Năm học sẽ được chia làm hai phần, một phần là thời gian để môn sinh chuyên cần hoạch đắc tri thức, đó là thời khoảng mặt trời tiến về phía bắc hay là nửa năm đầu. Phần sau – cách phần đầu một khoảng sáu tuần – để y đồng hóa và thực hành những điều đã được truyền dạy trước đó. Trong các tháng đầu năm, y trải qua một chương trình tiếp thu khó khăn, nghiên cứu và học tập gian khổ, tích lũy các sự kiện và kiến thức cụ thể. Y dự nghe các buổi giảng, đọc các sách khó, nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, dùng kính [326] hiển vi và viễn vọng để nới rộng tầm mắt và tích trữ trong thể trí y một kho tàng dồi dào các dữ liệu khoa học. |
|
During the six weeks’ vacation he is recommended to rest entirely from all mental effort save that associated with the practice of the imparted occult meditation. He mentally follows the cycle and goes into pralaya temporarily. At the end of six weeks he returns to his work with the object in view of systematising the mass of information, of perfecting his comprehension of the facts earlier studied, of practicing that part of the occult lore permissible, with the object in view of becoming proficient and to discover his weak points. He writes during the “dark period” of the year the themes and essays, the books and pamphlets that will embody the product of the assimilated information. The best of these books will be published yearly by the college, for the use of the public. In this way he serves his time and generation and educates the race in the higher knowledge. |
Trong thời gian nghỉ hè sáu tuần, y nên để cho trí tuệ nghỉ ngơi hoàn toàn, trừ những gì liên quan đến việc hành thiền huyền môn mà y đã được truyền thụ. Về mặt trí tuệ, y theo chu kỳ và tạm thời đi vào trạng thái ngơi nghỉ. Khi thời gian sáu tuần chấm dứt, y trở lại làm việc với mục tiêu trước mắt là hệ thống hóa khối lượng thông tin đã thu thập, và hoàn chỉnh sự hiểu biết của y về các sự kiện đã học, là thực tập phần kiến thức huyền môn được cho phép, để trở nên thành thạo và khám phá ra những nhược điểm của mình. Trong “thời kỳ tối” của năm, y viết về các chủ đề và các bài khảo luận, viết sách hay các tập kỷ yếu để thể hiện sản phẩm của kiến thức đã được đồng hóa. Những cuốn sách hay nhất sẽ được trường ấn hành mỗi năm để cho công chúng sử dụng. Bằng cách này y phụng sự thời đại và thế hệ của y và giúp nhân loại có được tri thức cao hơn. |
|
2. In exactly the same way his studies each month will be so arranged that the harder part (dealing with the higher mind) will be undertaken during the part of the month which is called the bright half, whilst the work of the dark half will be more given over to the things concerning lower mind and to an effort to hold the gain of the earlier weeks. Each day will be likewise divided into set times, the earlier hours being those in which the more abstract and occult data will be given, the latter part of the day being given over to a more practical type of work. |
2. Theo cùng cách này, việc học tập của người đạo sinh mỗi tháng cũng được sắp xếp sao cho phần khó hơn (liên quan đến thượng trí) sẽ được học trong thời gian gọi là nửa tháng sáng. Còn công việc trong nửa tối sẽ thiên về những điều liên quan đến hạ trí và cố gắng giữ lại những gì đã đạt được trong các tuần trước. Mỗi ngày cũng được chia thành những thời khoảng nhất định, những giờ trong nửa ngày đầu được dành để học các dữ liệu trừu tượng và huyền bí. Thời gian còn lại trong ngày được dùng cho loại công tác có tính thực hành nhiều hơn. |
|
The basis of all occult growth is meditation, or those periods of silent gestation in which the soul grows in the silence. Therefore, during the day there will be for every pupil in the school three periods of meditation—at sunrise, at midday, and at sunset. During the earlier part of the pupil’s attendance at the school these periods will be for [327] thirty minutes each. Later he will give one hour to the practice of occult meditation three times a day and during his final year he will be expected to give five hours a day to meditation. When he can do this and get results he will be able to pass on into the advanced school. It is the great test and mark of readiness. |
Căn bản của toàn bộ cuộc tăng trưởng huyền bí là tham thiền, hay là những thời gian phát triển âm thầm, trong đó linh hồn tăng trưởng trong im lặng. Vì thế, trong trường hằng ngày mỗi đạo sinh có ba thời gian hành thiền – lúc mặt trời mọc, giữa trưa và lúc mặt trời lặn. Trong giai đoạn đầu theo học ở thiền viện người môn sinh tham thiền mỗi [327] lần ba mươi phút. Về sau y sẽ hành thiền huyền môn mỗi lần một giờ, ngày ba lần, và trong năm cuối người ta hy vọng y sẽ hành thiền mỗi ngày năm giờ. Khi đã đến mức đó và đạt kết quả, y có thể tiến lên học ở thiền viện cấp cao. Đó là một sự thử thách lớn lao, là dấu hiệu cho thấy rằng người đạo sinh đã sẵn sàng. |
|
The hours of the school will begin with sunrise and end with sunset. After the sun sets, and for one hour after each of the other two periods of meditation, the pupil is permitted to relax, take his meals and recreate himself. All pupils will be required to retire to rest at night by ten o ‘clock, after thirty minutes of careful revision of the day’s work and the filling in of certain charts that go to the completion of his record. |
Giờ làm việc của thiền viện bắt đầu từ lúc mặt trời mọc và chấm dứt lúc mặt trời lặn. Sau khi mặt trời lặn và trong một giờ sau mỗi buổi thiền kia, người đạo sinh được phép nghỉ ngơi, dùng bữa và giải trí. Tất cả các đạo sinh đều được yêu cầu đi ngủ vào lúc mười giờ đêm, sau ba mươi phút cẩn thận kiểm điểm những việc làm trong ngày, và điền vào một số đồ biểu để bổ túc hồ sơ của y ở trường. |
|
The length of a pupil’s stay in the school depends entirely upon the progress made, the inner powers of assimilation and the outer life of service. It depends therefore upon the point in evolution at which he enters the school. Those just entering the Path of Probation will be there for five to seven years and on occasion even longer; those who are old disciples and those who have taken initiation in earlier lives will be there but a brief time, pushing rapidly through the curriculum and simply learning to produce for use the knowledge earlier stored. The period of their stay will be anywhere from one to five years, usually about three. Their innate knowledge will be developed by encouraging them to teach the younger brethren. A pupil passes out of the school, not as a result of an exoteric examination but simply on the notification of the Head of the School, who bases his decision upon esoteric results in the bodies of the pupil, upon the clarity of his auric colours and upon the tone of his life and the key of his vibration. [328] |
Thời gian người đạo sinh lưu học trong thiền viện hoàn toàn tùy theo sự tiến bộ mà y đạt được, tùy năng lực đồng hóa kiến thức ở nội tâm, và cuộc sống phụng sự bên ngoài. Vì thế, thời gian này tùy theo trình độ tiến hóa của y khi vào trường. Những người mới vào Con đường Dự bị sẽ học ở đó từ năm đến bảy năm, và có khi còn lâu hơn. Những đệ tử lâu năm và những người đã được điểm đạo trong các kiếp trước chỉ lưu học ở đó một thời gian ngắn, mau chóng vượt qua học trình, và chỉ học cách đưa ra sử dụng những kiến thức trước đã tích lũy. Thời gian họ lưu học trong khoảng từ một đến năm năm, thường thì khoảng ba năm. Tri thức bẩm sinh của họ sẽ được phát triển nhờ khuyến khích họ giáo huấn các đạo sinh đàn em. Đạo sinh tốt nghiệp ra trường không phải do kết quả một cuộc thi như bên ngoài, mà chỉ do lời phê của vị Hiệu trưởng. Người quyết định căn cứ vào những kết quả trong các thể của đạo sinh về mặt nội môn, vào độ trong sáng của màu sắc trong hào quang, âm điệu của cuộc sống, và âm khóa rung động của y. [328] |
|
b. Types of Work. |
b. Các loại công việc. |
|
First and foremost, the practice of meditation as laid down in these letters and as may be apportioned by the Head of the school. Once or twice a year the initiate Head of the school to which the preparatory school is allied will pass the pupils in review and in conference with the Head of the school will apportion specific meditation adjusted to the pupil’s need. Once a year the Master responsible for both schools will likewise pass them in review and communicate to the Head any necessary adjustments. (I would here remind you that the relationship of a Master to a disciple is a private one and though He may be in constant touch with His pupil privately, this affects not His official review of the united auras of the school group.) |
Đầu tiên và quan trọng nhất là công phu hành thiền như đã đề ra trong các bức thư này, và có thể do vị Hiệu trưởng chỉ dạy. Mỗi năm một hay hai lần vị Hiệu trưởng điểm đạo đồ của trường cao cấp mà trường dự bị liên hệ sẽ duyệt xét các đạo sinh, và sau khi bàn thảo với vị Hiệu trưởng trường dự bị, người sẽ ấn định phương pháp thiền cụ thể điều chỉnh theo nhu cầu của mỗi đạo sinh. Mỗi năm một lần, vị Chân sư trông nom cả hai trường cũng sẽ duyệt xét các đạo sinh và thông báo cho vị Hiệu trưởng những sự điều chỉnh cần thiết. (Tôi cũng xin nhắc các bạn rằng mối quan hệ của Chân sư với đệ tử có tính cách riêng tư, và dù Ngài có thể thường xuyên tiếp xúc riêng với đệ tử của Ngài, điều này vẫn không ảnh hưởng gì đến việc Ngài chính thức duyệt xét các hào quang kết hợp của cả trường.) |
|
Secondly, a graded scientific study of the microcosm, including the following subjects, using the microscope when needed:— |
Thứ hai là việc tuần tự nghiên cứu tiểu vũ trụ, gồm những chủ đề sau đây, đạo sinh dùng kính hiển vi khi cần: – |
|
The Microcosm. |
Tiểu vũ trụ. |
|
a. Elementary anatomy, physiology, biology. |
a. Giải phẫu học, sinh lý học, sinh học sơ cấp. |
|
b. Ethnology. |
b. Dân tộc học. |
|
c. Study of the etheric body and its allied subjects of vitality and magnetism. |
c. Nghiên cứu thể dĩ thái và các vấn đề liên hệ là sinh lực và từ lực. |
|
d. Study of geology; of the vegetable kingdom, or botany; and of the animal kingdom. |
d. Nghiên cứu địa chất; thảo mộc hay thực vật; và động vật. |
|
e. Study of the history of man and the development of science. |
e. Nghiên cứu lịch sử con người và sự phát triển của khoa học. |
|
f. Study of the laws of the microcosmic body. |
f. Nghiên cứu các định luật của cơ thể tiểu vũ trụ. |
|
The Macrocosm. |
Đại vũ trụ. |
|
a. Study of the laws of electricity, of fohat, of prana, and of the astral light. [329] |
a. Nghiên cứu những định luật về điện, vũ trụ lực (fohat), sinh lực (prana), và ánh sáng tinh giới. [329] |
|
b. Study of astronomy and of astrology. |
b. Nghiên cứu thiên văn học và chiêm tinh học. |
|
c. Study of occult cosmogony. |
c. Nghiên cứu vũ trụ khởi nguyên học nội môn. |
|
d. Study of the human hierarchy. |
d. Nghiên cứu các đẳng cấp nhân loại. |
|
e. Study of the deva evolution. |
e. Nghiên cứu trường tiến hóa thiên thần. |
|
f. Study of the laws of the solar system. |
f. Nghiên cứu các định luật của thái dương hệ. |
|
g. Study of telepathy, mental creation, psychometry. |
g. Nghiên cứu thần giao cách cảm, sự sáng tạo của trí tuệ và khoa trắc lượng tâm lý. |
|
The Mind. |
Trí tuệ. |
|
a. The study of the mental plane. |
a. Nghiên cứu cõi trí. |
|
b. The study of the laws of fire. |
b. Nghiên cứu các định luật về lửa. |
|
c. The study of the causal body. |
c. Nghiên cứu thể nguyên nhân. |
|
d. The study of the fifth principle. |
d. Nghiên cứu nguyên khí thứ năm. |
|
e. The study of colour and of sound. |
e. Nghiên cứu màu sắc và âm thanh. |
|
Synthesis. |
Tổng hợp. |
|
a. The study of spirit-matter-mind. |
a. Nghiên cứu tinh thần-vật chất-trí tuệ. |
|
b. Study of numbers and of symbology. |
b. Nghiên cứu số học và biểu tượng học. |
|
c. Study of higher mathematics. |
c. Nghiên cứu toán học cao cấp. |
|
d. Study of the laws of union. |
d. Nghiên cứu các luật hợp nhất. |
|
e. Study of the laws of sex. |
e. Nghiên cứu các luật giới tính. |
|
Psychic Development. |
Phát triển thần thông. |
|
a. Study of practical occultism. |
a. Nghiên cứu huyền bí học thực hành. |
|
b. Study of psychism. |
b. Nghiên cứu các quan năng thần thông. |
|
c. Study of the astral light and the akashic records. |
c. Nghiên cứu ánh sáng tinh giới và tiên thiên ký ảnh. |
|
d. Study of mediumship and inspiration. |
d. Nghiên cứu khoa đồng cốt và nguồn cảm hứng. |
|
e. Study of past lives. |
e. Nghiên cứu các tiền kiếp. |
|
f. Study of the macrocosmic and microcosmic centres. |
f. Nghiên cứu các trung tâm lực của đại vũ trụ và tiểu vũ trụ. |
|
Practical Work. |
Công tác thực hành. |
|
a. Service to the race. |
a. Phụng sự nhân loại. |
|
b. Study of group work. |
b. Nghiên cứu công tác tập thể. |
|
c. Review work. [330] |
c. Tự kiểm điểm. [330] |
|
d. Work on the subtler bodies with the view to producing continuity of consciousness. |
d. Những việc làm cho các thể thanh, nhằm tạo tâm thức liên tục. |
|
e. Study of magic. |
e. Nghiên cứu về chánh thuật. |
|
f. Study of the seventh ray. |
f. Nghiên cứu về cung bảy. |
|
You will see for yourself that when the pupil has completed the above curriculum he will be a potential magician, and will be a member of the Brotherhood of Light in embryo. He will be equipped and ready to pass into the advanced school, where he will be trained in using the knowledge already acquired, where his centres will be scientifically developed so that he will become a conscious psychic of the mental type, where he will be trained to contact and control the lesser evolutions and to co-operate with the other evolutions such as the deva, and where all his bodies will be so aligned and adjusted that he can at the end of a period—varying from two to three years—be ready to stand before the Initiator. |
Các bạn sẽ thấy rằng khi người môn sinh đã hoàn tất chương trình học kể trên tức là y đã có đủ tiềm năng của một nhà chánh thuật, và tương lai sẽ là một nhân viên của Huyền môn Chánh đạo. Y sẽ được trang bị đầy đủ và sẵn sàng tiến lên học trường cao cấp. Ở đó y sẽ được huấn luyện để sử dụng kiến thức đã thu đạt. Ở đó các luân xa của y sẽ được phát triển một cách khoa học để y trở thành một nhà thần thông hữu thức với trí năng cao. Ở đó y sẽ được huấn luyện để tiếp xúc và kiểm soát các giới tiến hóa hạ đẳng và hợp tác với các trường tiến hóa khác như giới thiên thần. Và ở đó tất cả các thể của y được điều chỉnh và chỉnh hợp sao cho đến cuối giai đoạn thụ huấn – trong khoảng từ hai đến ba năm – y sẽ sẵn sàng để đứng trước Đấng Điểm đạo. |
|
c. Potencies becoming powers. |
c. Tiềm năng trở thành quyền năng. |
|
This third type of work is based on the preceding curriculum and deals directly with individual development. It covers the following matters:— |
Loại công tác thứ ba này dựa vào chương trình học kể trên và hoàn toàn dành cho sự phát triển cá nhân, bao gồm các vấn đề sau: – |
|
a. The aligning of the bodies with a view to egoic contact. |
a. Chỉnh hợp các thể để giao tiếp với Chân nhân. |
|
b. The building of the antahkarana, and the development of the higher mind. |
b. Lập cầu antahkarana và phát triển thượng trí. |
|
c. The development of the intuition, and the definite spiritual awakening of the pupil. |
c. Phát triển trực giác, và sự thức tỉnh tinh thần rõ rệt trong môn sinh. |
|
d. The study of the pupil’s vibration, ray, color and tone. |
d. Nghiên cứu sự rung động, cung, màu sắc và âm điệu của môn sinh. |
|
e. The conscious refining of all the bodies beginning with the physical. [331] |
e. Tinh luyện tất cả các thể một cách ý thức, bắt đầu từ thể xác. [331] |
|
When these matters are duly studied and all acquired knowledge put into practice, the inherent powers of the soul will become conscious powers. Above all, will the emphasis be laid upon the fact that the white magician is he who utilises all power and knowledge in the service of the race. His inner development must be expressed in terms of service before he is permitted to pass on into the advanced school. |
Khi tất cả các vấn đề này được nghiên cứu một cách thích đáng và tất cả các kiến thức đã thu hoạch đều được đem ra thực hành, thì các quyền năng cố hữu của linh hồn sẽ trở thành những quyền năng hữu thức. Trên hết mọi sự, cần nhấn mạnh sự kiện rằng nhà chánh thuật là người sử dụng tất cả quyền năng và hiểu biết của mình để phụng sự nhân loại. Sự phát triển của nội tâm y phải được phát biểu trong phụng sự, trước khi y được phép chuyển vào học ở trường cấp cao. |
|
I have indicated enough to provide much room for interested speculation. |
Tôi đã trao cho các bạn nhiều điều đáng quan tâm suy ngẫm. |