Thư về Tham thiền Huyền môn – Lá Thư 1-3

Cover

EXTRACT FROM A STATEMENT BY THE TIBETAN

Suffice it to say, that I am a Tibetan disciple of a certain degree, and this tells you but little, for all are disciples from the humblest aspirant up to, and beyond, the Christ Himself. I live in a physical body like other men, on the borders of Tibet, and at times (from the exoteric standpoint) preside over a large group of Tibetan lamas, when my other duties permit. It is this fact that has caused it to be reported that I am an abbot of this particular lamasery. Those associated with me in the work of the Hierarchy (and all true disciples are associated in this work) know me by still another name and office. A.A.B. knows who I am and recognises me by two of my names.

Nói rằng tôi là một đệ tử người Tây Tạng đến một trình độ nào đó thì cũng đúng. Tuy nhiên, nói như thế thì các bạn cũng chẳng hiểu được bao nhiêu, bởi vì tất cả đều là đệ tử, từ người tìm đạo khiêm tốn nhất trở lên, cho đến chính Đức Christ và các Đấng cao cả hơn Ngài. Tôi có thể xác như mọi người, và sống trên vùng biên giới Tây Tạng. Nói theo quan điểm ngoại môn thì thỉnh thoảng tôi có dìu dắt một nhóm nhiều vị lạt-ma Tây Tạng khi các bổn phận khác của tôi rảnh rang. Chính vì thế mà người ta cho rằng tôi là vị trụ trì của tu viện Lạt-ma giáo ấy. Tất cả những người đệ tử chân chính đều kết hợp trong công tác của Đại đoàn Chưởng giáo. Những người kết hợp với tôi trong công tác này đều biết tôi theo một danh xưng và chức vụ khác. A.A.B. biết tôi là ai và biết hai danh xưng của tôi.

I am a brother of yours, who has travelled a little longer upon the Path than has the average student, and has therefore incurred greater responsibilities. I am one who has wrestled and fought his way into a greater measure of light than has the aspirant who will read this article, and I must therefore act as a transmitter of the light, no matter what the cost. I am not an old man, as age counts among the teachers, yet I am not young or inexperienced. My work is to teach and spread the knowledge of the Ageless Wisdom wherever I can find a response, and I have been doing this for many years. I seek also to help the Master M. and the Master K.H. whenever opportunity offers, for I have been long connected with Them and with Their work. In all the above, I have told you much; yet at the same time I have told you nothing which would lead you to offer me that blind obedience and the foolish devotion which the emotional aspirant offers to the Guru and Master Whom he is as yet unable to contact. Nor will he make that desired contact until he has transmuted emotional devotion into unselfish service to humanity-not to the Master.

Tôi là huynh trưởng của các bạn, là người đã đi hơi xa trên Đường Đạo hơn người môn sinh trung bình và do đó phải gánh vác trách nhiệm nhiều hơn. Tôi là kẻ đã chiến đấu và phấn đấu để vươn lên một mức độ giác ngộ cao hơn tầm mức của người tìm đạo đang đọc tác phẩm này. Do đó, tôi phải làm người truyền đạt ánh sáng, với bất cứ giá nào. Tôi không phải là người luống tuổi như số tuổi người ta cho là phải có trong các huấn sư, tuy nhiên tôi không non nớt hay thiếu kinh nghiệm. Công tác của tôi là giảng dạy và truyền bá những hiểu biết về Minh triết Ngàn đời ở bất cứ nơi nào có sự đáp ứng, và tôi làm việc này trong nhiều năm qua. Khi nào có dịp, tôi cũng tìm cách giúp Chân sư M. và Chân sư K.H., vì từ lâu tôi đã thân cận với các Ngài và liên kết với công việc của các Ngài. Nói tất cả những điều trên đây là tôi đã nói nhiều với các bạn rồi. Dù vậy tôi không có ý gì khiến bạn phải tuân theo tôi một cách mù quáng và có sự tôn sùng dại dột mà kẻ tìm đạo nhiều xúc cảm bày tỏ với vị Đạo sư và Chân sư mà y chưa có thể tiếp xúc được. Ngày nào y chưa biến đổi được sự tôn sùng bằng tình cảm, thành việc phụng sự vô kỷ cho nhân loại – chứ không phải cho Chân sư – thì ngày đó, y chưa có được sự giao tiếp tốt đẹp nói trên.

The books that I have written are sent out with no claim for their acceptance. They may, or may not, be correct, true and useful. It is for you to ascertain their truth by right practice and by the exercise of the intuition. Neither I nor A.A.B. is the least interested in having them acclaimed as inspired writings, or in having anyone speak of them (with bated breath) as being the work of one of the Masters. If they present truth in such a way that it follows sequentially upon that already offered in the world teachings, if the information given raises the aspiration and the will-to-serve from the plane of the emotions to that of the mind (the plane whereon the Masters can be found) then they will have served their purpose. If the teaching conveyed calls forth a response from the illumined mind of the worker in the world, and brings a flashing forth of his intuition, then let that teaching be accepted. But not otherwise. If the statements meet with eventual corroboration, or are deemed true under the test of the Law of Correspondences, then that is well and good. But should this not be so, let not the student accept what is said.

Các sách tôi đã viết và đưa ra nhưng không đòi hỏi phải được mọi người chấp nhận. Bởi vì chúng có thể đúng hay không đúng, thực hay không thực và hữu ích hay vô ích. Tôi để cho các bạn xác nhận chân lý của chúng bằng cách thực hành đúng đắn và bằng cách sử dụng trực giác. Cả tôi và A.A.B. đều không hề quan tâm xem chúng là tác phẩm được truyền cảm hứng, hoặc lời ai đó cho rằng đây là tác phẩm của một vị Chân sư. Nếu các sách này trình bày chân lý đúng trình tự, kế tiếp theo những chân lý đã được đưa ra trong việc giáo huấn thế gian; nếu những điều trong đó có thể nâng cao đạo tâm và ý-chí-phụng-sự từ cõi tình cảm đến cõi trí (nơi chúng ta có thể tìm thấy các Chân sư) thì loạt sách này đã đạt được mục đích. Nếu giáo huấn trao truyền có thể tạo được sự đáp ứng nơi trí tuệ đã khai ngộ của người phụng sự ở thế gian và giúp cho trực giác y bừng sáng, thì bấy giờ mới nên chấp nhận giáo huấn đó. Bằng không thì đừng nên. Nếu các phát biểu này vẫn đúng khi được chứng minh đến mức rốt ráo, hay tỏ ra là đúng qua trắc nghiệm bằng Luật Tương ứng, thì bấy giờ chúng mới quả là tốt đẹp. Nếu không được như thế, người môn sinh đừng nên chấp nhận những điều đã nói.

AUGUST 1934

THE GREAT INVOCATION

From the point of Light within the Mind of God

Từ nguồn Ánh sáng trong Trí Thượng Đế

Let light stream forth into the minds of men.

Cầu xin Ánh sáng tuôn rải vào trí con người.

Let Light descend on Earth.

Cầu xin Ánh sáng giáng xuống Trần gian.

From the point of Love within the Heart of God

Từ nguồn Tình thương trong Tâm Thượng Đế

Let love stream forth into the hearts of men.

Cầu xin Tình thương tuôn rải vào tâm con người.

May Christ return to Earth.

Cầu mong Đức Chưởng Giáo trở lại Trần gian.

From the centre where the Will of God is known

Từ trung tâm biết được Ý chí Thượng Đế

Let purpose guide the little wills of men—

Cầu xin Thiên ý hướng dẫn ý chí nhỏ bé của con người —

The purpose which the Masters know and serve.

Thiên ý mà các Chân sư đều biết và phụng sự.

From the centre which we call the race of men

Từ trung tâm chúng ta gọi là nhân loại

Let the Plan of Love and Light work out.

Cầu xin Thiên cơ Tình thương và Ánh sáng thực thi

And may it seal the door where evil dwells.

Và cầu mong Thiên cơ đóng kín cửa vào nẻo ác.

Let Light and Love and Power

Cầu xin Ánh sáng và Tình thương và Quyền năng

restore the Plan on Earth.

phục hồi Thiên cơ trên Trần gian.

“The above Invocation or Prayer does not belong to any person or group but to all Humanity. The beauty and the strength of this Invocation lies in its simplicity, and in its expression of certain central truths which all men, innately and normally, accept—the truth of the existence of a basic Intelligence to Whom we vaguely give the name of God; the truth that behind all outer seeming, the motivating power of the universe is Love; the truth that a great Individuality came to earth, called by Christians, the Christ, and embodied that love so that we could understand; the truth that both love and intelligence are effects of what is called the Will of God; and finally the self-evident truth that only through humanity itself can the Divine Plan work out.”

“Lời Thỉnh nguyện hay Cầu nguyện trên đây không thuộc về bất cứ người nào hay đoàn nhóm nào, mà thuộc về toàn nhân loại. Vẻ đẹp và sức mạnh của Đại Thỉnh nguyện nằm trong tính đơn giản, và do nó phát biểu một số chân lý trọng tâm mà tất cả mọi người bình thường đều chấp nhận một cách hồn nhiên: Chân lý nói rằng vốn có một Đức Thông tuệ nền tảng mà chúng ta gọi với danh xưng mơ hồ là Thượng Đế;  Chân lý nói rằng ẩn trong toàn cuộc biểu hiện có quyền năng hát động vũ trụ, là Tình thương; Chân lý nói rằng có một Đấng Cao cả đã đến thế gian, mà người Thiên Chúa giáo gọi là Đức Christ, Ngài đã thể hiện tình thương đó để chúng ta có thể hiểu được; Chân lý nói rằng cả Tình thương và Thông tuệ đều là những hiệu quả của Ý chí Thượng Đế; và cuối cùng là Chân lý hiển nhiên rằng chỉ thông qua chính nhân loại Thiên cơ mới có thể thực thi.”

ALICE A. BAILEY

Alice A. BAiley

FOREWORD

The following letters were received during the period included within the dates, May 16th, 1920, and October 20th, 1920, with the exception of the two letters which were received in 1919. With the consent of their author they have been gathered together for publication.

Chúng tôi nhận những bức thư sau đây trong thời gian từ 16-5-1920 đến 20-10-1920, chỉ trừ hai bức nhận trong năm 1919. Tác giả các bức thư đã đồng ý cho kết tập và xuất bản.

They are published in full as received, with the exception of certain parts which have a purely personal application, those having reference to a certain occult school, and those of a prophetic or esoteric nature, which may not now be communicated.

Các bức thư được xuất bản y như đã nhận, chỉ trừ những phần hoàn toàn áp dụng cho cá nhân, những phần đề cập đến trường bí giáo và những phần có tính nội môn hay tiên đoán mà hiện nay chưa có thể truyền đạt được.

It is hoped that those who read these letters will endeavour to do two things:

Hy vọng rằng độc giả các bức thư này sẽ cố gắng làm hai điều:

1. Read always with an open mind, remembering that the truth is a many-sided diamond, and that its different aspects will appear at different times, as those who guide the race see a need which must be met. Many books on meditation have been written, some too abstruse and some too superficial to satisfy the average educated man. The writer of these letters has apparently attempted to supply the need of a brief yet scientific exposition of a rationale of meditation, emphasising the goal immediately ahead and the intermediate stages.

1. Luôn luôn đọc với trí tuệ cởi mở. Xin nhớ rằng chânlý là viên kim cương nhiều mặt, và khi những vị Hướng đạo Nhân loại thấy cần đáp ứng một nhu cầu nào đó thì các phương diện khác nhau của chân lý sẽ xuất lộ vào những thời điểm khác nhau. Có nhiều sách thiền đã được viết ra, một số thì quá sâu xa, một số lại quá hời hợt, nên khó làm hài lòng người có học vấn trung bình. Rõ ràng tác giả các bức thư đã cố gắng đáp ứng nhu cầu khi trình bày một cách vắn tắt nhưng khoa học các yếu lý của thiền, nhấn mạnh đến mục tiêu trước mắt và những giai đoạn trung gian.

2. Judge of the letters on their merits and not upon claims put forth on behalf of the writer. For this reason he has chosen to preserve his anonymity and has requested the recipient of the letters to publish them under his pseudonym.

2. Đánh giá các bức thư theo lợi ích của chúng, và đừngdựa vào những lời tuyên bố về người viết. Vì thế mà Người đã ẩn danh và yêu cầu người nhận thư hãy xuất bản chúng dưới cái tên khác.

If the subject matter of the letters is of value it will call forth a response from the readers and serve to help some onward towards the goal, and prove to many the inspiration and aid it already has to a few.

Nếu chủ đề các bức thư này quả có giá trị, thì nó sẽ gợi được sự đáp ứng của độc giả và giúp một số người tiếp tục tiến đến mục tiêu, cùng chứng tỏ cho nhiều người thấy sự giúp đỡ và nguồn cảm hứng mà nó đã đem lại cho một số ít người.

ALICE A. BAILEY. NEW YORK, 1922.

ALICE A. BAILEY. New York, 1922.

image_175.jpg

The constitution of man (see diagram above), as considered in the following pages, is basically threefold, as follows:—

Sự cấu tạo của con người, xét trong những trang sau đây, cơ bản gồm có ba phần, như sau: –

I. The Monad, or pure Spirit, the Father in Heaven.

I. Chân thần, hay Tinh thần thuần khiết, là Cha ở trên Trời.

This aspect reflects the three aspects of the Godhead:

Trạng thái này phản ánh ba trạng thái của Thượng Đế: –

1. Will or Power. . . . . . . . .The Father

1. Ý Chí hay Quyền Năng…. Cha

2. Love-Wisdom . . . . . . . .The Son

2. Bác Ái – Minh Triết … Con

3. Active Intelligence . . . . The Holy Spirit

3. Thông Tuệ Hoạt Động … Chúa Thánh Thần

and is only contacted at the final initiations, when man is nearing the end of his journey and is perfected.

và chỉ có thể tiếp xúc với trạng thái này vào những lần điểm đạo cuối cùng, khi hành giả gần đến mức cuối cuộc hành trình và trở nên hoàn thiện.

The Monad reflects itself again in

Chân thần lại tự phản ánh trong

II. The Ego, Higher Self, or Individuality.

II. Chân nhân, Chân ngã, hay là Cái Ta cao siêu.

This aspect is potentially :—

Trạng thái này có tiềm năng là: –

1. Spiritual Will . . . Atma

1. Ý Chí Tinh thần … Atma

2. Intuition. . . .Buddhi, Love-Wisdom, the Christ principle.

2. Trực Giác … Bồ đề, Bác Ái – Minh Triết, Nguyên Khí Christ

3. Higher or abstract Mind . ..Higher Manas.

3. Thượng trí hay Trí Trừu Tượng.. Higher Manas

The Ego begins to make its power felt in advanced men, and increasingly on the Probationary Path until by the third initiation the control of the lower self by the higher is perfected, and the highest aspect begins to make its energy felt.

Trong những người tiến hóa cao, Chân nhân bắt đầu phát lộ quyền lực của mình, và ngày càng tăng trên Đường Dự bị cho đến lần điểm đạo thứ ba thì Chân ngã hoàn toàn chế ngự phàm ngã, và trạng thái cao nhất bắt đầu phát lộ năng lượng.

The Ego reflects itself in

Chân nhân tự phản ánh trong

III. The Personality, or lower self, physical plane man.

III. Phàm nhân hay phàm ngã, con người hồng trần.

This aspect is also threefold:—

Trạng thái này cũng tam phân: –

1. A mental body . . .lower manas.

1. Thể trí … lower manas

2. An emotional body . . . astral body.

2. Thể Cảm dục …

3. A physical body . . .the dense physical and the etheric body.

3. Thể hồng trần … thể xác và thể dĩ thái

The aim of meditation is therefore to bring man to the realisation of the Egoic aspect and to bring the lower nature under its control. This is the immediate goal for the average man.

Do đó, mục đích của tham thiền là giúp hành giả ý thức được Chân nhân để Chân nhân chế ngự phàm tính. Đây là mục tiêu ngay trước mắt của người sơ cơ.

LETTER I – THE ALIGNMENT OF THE EGO WITH THE PERSONALITY.

SUNDAY, MAY 16, 1920.

Chủ nhật, 16-5-1920.

The Aligning of the Three Lower Bodies

Sự chỉnh hợp của ba thể thấp

[1] It is in the aligning of the three vehicles, the physical, the emotional, and the lower mind body, within the causal periphery, and their stabilising there by an effort of the will, that the real work of the Ego or Higher Self in any particular incarnation can be accomplished. The great thinkers of the race, the true exponents of lower mind, are fundamentally those whose three lower bodies are aligned; that is to say those whose mental body holds the other two in circumspect alignment. The mental body, then, is in direct communication, unobstructed and free from interference, straight through to the physical brain.

Công việc thực sự của Chân nhân hay Chân ngã trong một kiếp sống là làm chỉnh hợp ba thể, thể xác, thể tình cảm và hạ trí trong phạm vi của thể nguyên nhân, và trụ vững ba thể ở đó bằng nỗ lực của ý chí. Những nhà tư tưởng lớn của Nhân loại, những người tiêu biểu thực sự cho hạ trí, đều cơ bản là những người đã có ba thể này chỉnh hợp, tức là những người có thể trí đã kềm giữ được hai thể kia trong sự chỉnh hợp thận trọng. Lúc đó, thể trí thông đạt trực tiếp với não bộ trong thân xác mà không có gì xen vào, ngăn trở.

When the alignment is fourfold and when the three above-mentioned bodies are aligned with the body of the Higher Self, the causal or egoic body, and held steady within its circumference, then the great leaders of the race,—those who emotionally and intellectually sway mankind, can be seen working; then the inspirational writers and dreamers can bring down their inspirations and dreams; and then the synthetic and abstract thinkers [2] can transfer their conceptions to the world of form. It is, right through, a question of an unimpeded channel. Study, therefore, in this connection and when time permits, physical co-ordination; then to physical co-ordination add emotional stability, and you have the two vehicles functioning as one. When the co-ordination extends to the mental body, the threefold lower man is reaching his apotheosis, and has rung most of the changes in the world of form.

Khi sự chỉnh hợp này đủ bốn, tức là khi ba thể nói trên điều hợp được với thể của Chân ngã, của Chân nhân hay thể nguyên nhân và trụ vững trong đó, thì ta có điều kiện làm việc của những vị lãnh tụ lớn của Nhân loại, những người có ảnh hưởng tình cảm và trí tuệ lan rộng khắp năm châu. Bấy giờ các văn sĩ có thiên hứng và các nhà viễn tưởng mới có thể mang lại nguồn cảm hứng và những ước mơ của họ cho đời. Bấy giờ các nhà tư tưởng tổng hợp và trừu tượng mới có [2] thể chuyển những quan niệm của họ đến thế giới của hình thể. Đây chính là vấn đề làm sao có được đường dẫn truyền lưu thông. Vì thế, các bạn hãy nghiên cứu vấn đề này, và khi có thời gian hãy nghiên cứu sự điều hợp của thể xác, có thêm sự ổn định tình cảm, lúc đó hai thể sẽ tác động như một. Khi sự điều hợp bao gồm thể trí thì phàm nhân tam phân đã đạt đến tột đỉnh của nó, khiến có biết bao thay đổi trong cõi sắc tướng.

Later comes co-ordination perfected with the Higher Self, the channel of communication reaching in line direct,—via an unimpeded funnel, if so I might express it,—to the physical brain consciousness. Heretofore it has only been direct at rare intervals. The four lesser brain centres are functioning at high vibration in the man of a highly co-ordinated personality; when the Ego is nearing alignment with the lower bodies, the pineal gland and the pituitary body are in process of development; and when they are functioning with correlation (which eventuates by the time the third Initiation is taken), then the third, or alta major centre, intensifies its hitherto gentle vibration. When the fifth Initiation is taken, the interplay between the three centres is perfected, and the alignment of the bodies is geometrically rectified; you have then the perfected fivefold superman.

Về sau sẽ đến sự điều hợp hoàn toàn với Chân ngã, đường dẫn truyền thông suốt đến ý thức não bộ trong thân xác như (có thể nói là) đi qua một cái phễu trơn láng vậy. Trước khi có tình trạng này, sự trực tiếp chỉ rất hiếm hoi. Bốn trung tâm nhỏ của bộ não hoạt động với sức rung động cao ở người đã có phàm nhân điều hợp cao độ. Khi Chân nhân gần chỉnh hợp với các hạ thể, thì tuyến tùng và tuyến yên dần dần khai mở. Khi hai tuyến này hoạt động kết hợp (vào thời gian điểm đạo lần thứ ba) thì trung tâm thứ ba là trung tâm hành tủy sẽ rung động mạnh hơn trước. Khi hành giả được điểm đạo lần thứ năm, sự tương tác của ba trung tâm này đã hoàn hảo và sự chỉnh hợp của các thể đã theo đúng các dạng hình học. Bấy giờ ta có một siêu nhân vẹn toàn, với năm trạng thái.

For the average man, then, this alignment occurs only at intervals, in moments of stress, in hours of needed humanitarian effort and in times of intensest aspiration. Abstraction of a more or less degree has to enter in before the Ego takes continued notice of the personality or lower self. When that abstraction involves the emotions, is based in the mentality and contacts the physical brain, then alignment is commencing. [3]

Đối với người thường, sự chỉnh hợp này chỉ xảy ra trong một đôi khi – như trong những lúc khẩn thiết, trong những giờ phút cần có nỗ lực nhân đạo, hay trong những lần ước nguyện chí thành. Ít nhiều gì hành giả cũng phải đi vào cấp trừu tượng trước khi Chân nhân liên tục chú ý đến phàm nhân hay phàm ngã. Khi sự trừu tượng hóa này bao gồm các tình cảm, đặt căn bản trên trí năng và tiếp xúc với não bộ của xác thân thì lúc đó mới bắt đầu có chỉnh hợp.

Hence the work of meditation, for it tends to abstraction and seeks to awaken to abstract consciousness both the emotions and the mentality.

[3] Bởi vậy phải thực hành tham thiền, vì thiền có khuynh hướng nâng lên cấp trừu tượng và khơi dậy ý thức trừu tượng cả trong tình cảm và trí tuệ.

Alignment and Vibration.

Chỉnh hợp và sự Rung động.

Forget not either that it is largely a question of matter and vibration. The abstract levels of the mental plane consist of the three higher levels, the first being that termed the third subplane. As I have explained to you before, each subplane has its correlations on the major planes. When, therefore, you have built into your bodies,—physical, emotional and mental,—matter of the third subplane of each of those planes, then the Higher self commences consciously and ever more continuously to function through the aligning Personality. Perhaps we might reverse the idea and state that it is only when third subplane matter of a certain percentage (which percentage is one of the secrets of Initiation) is contained in the vehicles, that the Personality as a conscious whole recognises and obeys that Higher self. After such a percentage is attained, it is then necessary to build in matter of the two higher subplanes on the physical and emotional planes; hence the struggle for the aspirant to purify and discipline the physical body and to subdue the emotional. Purification and subjugation describe the work to be done on the two planes. This involves the use of lower mind, and the three lower vehicles thus become aligned.

Cũng đừng nên quên rằng đây phần lớn là vấn đề vật chất và rung động. Các cấp trừu tượng của cõi trí gồm có ba cõi phụ cao, và cấp chúng ta tiếp xúc đầu tiên được gọi là cõi phụ thứ ba. Như trước đây tôi đã giải thích, mỗi cõi phụ đều có những phần liên quan trên các cảnh giới chính. Vì vậy, khi chúng ta đã dùng vật chất cõi phụ thứ ba của các cảnh giới liên hệ để kiến tạo các thể xác, thể tình cảm và thể trí thì bấy giờ Chân ngã mới bắt đầu tác động một cách hữu thức và ngày càng liên tục, thông qua Phàm nhân đang chỉnh hợp. Có thể phát biểu ý tưởng trên theo lối ngược lại rằng chỉ khi nào vật chất của cõi phụ thứ ba đạt đến số phần trăm nhất định trong các thể (con số này là một bí mật Điểm đạo) thì Phàm nhân với tư cách một toàn thể hữu thức mới nhận ra được Chân ngã và vâng lời. Sau khi đạt được số phần trăm đó, lại cần phải dùng vật chất của hai cõi phụ cao hơn của cõi trần và cõi tình cảm để kiến tạo (thể xác và thể tình cảm). Vì thế, người chí nguyện phải phấn đấu để giữ giới luật và tinh luyện thể xác, chế ngự thể tình cảm. Tinh luyện và chế ngự là việc phải làm ở hai cảnh giới nói trên. Công tác này cũng gồm việc sử dụng hạ trí, nhờ thế ba hạ thể trở nên chỉnh hợp.

The vibrations of the abstract levels can then begin to be felt. You need to remember that they come via the causal body, the vehicle of the Higher Self, and the average causal body is on the third subplane of the mental plane. This is a point not sufficiently recognised. Ponder on it. Real abstract thought becomes possible only when the Personality has, by vibration reciprocal to that of the [4] Ego, aligned itself sufficiently to form a fairly unimpeded channel. Then at intervals, rare at first but of increasing frequency, will abstract ideas begin to filter down, to be followed in due time by flashes of real illumination or intuition from the spiritual Triad or the true threefold Ego itself.

Chừng ấy, chúng ta mới có thể bắt đầu cảm được những rung động ở các cấp trừu tượng. Các bạn cần nên nhớ rằng những rung động này đến thông qua thể nguyên nhân, là vận cụ của Chân ngã, và thể này loại trung bình thì ở trên cõi phụ thứ ba của cõi trí. Đây là điểm mà các bạn chưa nhận thức được đầy đủ. Hãy suy ngẫm kỹ. Tư tưởng thực sự trừu tượng khả dĩ có chỉ khi nào (bằng rung động hỗ tương với rung động [4] của Chân nhân) Phàm nhân đã tự chỉnh hợp đúng mức, đủ để tạo thành đường dẫn truyền khá lưu thông. Bấy giờ những ý tưởng trừu tượng mới bắt đầu từ từ tuôn xuống (tuy thưa thớt lúc đầu, nhưng về sau càng thường xuyên hơn), mang lại đúng lúc những tia chớp khai ngộ hoặc trực giác từ Tam nguyên Tinh thần hay chính là Chân nhân với ba trạng thái.

The Chord of the Ego.

Hòa âm của Chân ngã.

When I use the term “reciprocal vibration,” what do I mean? I mean the adaptation of the Personality or Lower Self, to the Ego, or Higher Self, the dominating of the Personality ray by the ray of the Ego and the combining of their tones. I mean the blending of the primary colour of the Higher Self with the secondary hue of the Lower Self until beauty is achieved. At first, there is dissonance and discord, a clashing of the colours, and a fight between the Higher and the Lower. But as time progresses, and later with the aid of the Master, harmony of colour and tone is produced (a synonymous matter), until eventually you will have the basic note of matter, the major third of the aligned Personality, the dominant fifth of the Ego, followed by the full chord of the Monad or Spirit.

Khi tôi dùng từ “rung động hỗ tương”, ý tôi muốn nói gì? Tôi muốn nói đến sự thích ứng của Phàm nhân hay Phàm ngã đối với Chân nhân hay Chân ngã, nói đến sự chế ngự của cung Chân ngã trên Cung Phàm ngã và sự kết hợp hai âm điệu. Tôi muốn nói đến sự pha trộn màu sắc chính yếu của Chân ngã với màu sắc thứ yếu của Phàm ngã cho đến khi đạt được mỹ lệ. Lúc đầu, chỉ có sự chói tai và bất hòa, chỉ có sự tương khắc giữa các màu sắc và cuộc chiến đấu giữa Chân ngã và Phàm ngã. Nhưng rồi theo thời gian, cùng sự giúp đỡ về sau của Chân sư, sự hòa hợp giữa các màu sắc và các âm điệu phát sinh (hai sự hòa hợp này đồng nghĩa), cho đến cuối cùng chúng ta mới có được nốt căn bản của sự hoà hợp. Đó là nốt chính thứ ba của phàm nhân đã chỉnh hợp, là nốt nổi bật thứ năm của Chân nhân, tiếp theo là hòa âm đầy đủ của Chân thần hay Tinh thần.

It is the dominant we seek at adeptship, and earlier the perfected third of the Personality. During our various incarnations we strike and ring the changes on all the intervening notes, and sometimes our lives are major and sometimes minor, but always they tend to flexibility and greater beauty. In due time, each note fits into its chord, the chord of the Spirit; each chord forms part of a phrase, the phrase or group to which the chord belongs; and the phrase goes to the completion of one seventh of the whole. The entire seven sections, then, complete the sonata of this solar system,—a part of the threefold masterpiece of the Logos or God, the Master-Musician. [5]

Trên đường trở thành Chân sư, chúng ta tìm kiếm nốt nổi bật của Chân nhân, còn trước đó thì ta tìm nốt hoàn hảo thứ ba của Phàm nhân. Trong nhiều kiếp khác nhau, chúng ta làm ngân lên và thay đổi tất cả những âm điệu trong khoảng đó, dù đôi khi có kiếp sống chính yếu, có kiếp thứ yếu, nhưng các kiếp sống đều mãi tiến đến sự linh hoạt và mỹ lệ lớn lao hơn. Đến đúng thời điểm, mỗi nốt sẽ phù hợp với hòa âm của nó là hòa âm của Chân thần. Mỗi hòa âm là thành phần của một câu nhạc, tức là một đoạn có nhiều hòa âm. Mỗi câu hoàn thành một phần bảy của toàn bản nhạc. Bấy giờ cả bảy câu hoàn thành nhạc khúc của thái dương hệ này – là một phần trong tuyệt tác (tam phân) của Thượng Đế, Đấng Đại Nhạc sư của chúng ta.

JUNE 2, 1920.

                                                                                                                                     [5] Ngày 2-6-1920.

Microcosmic and Macrocosmic Alignment.

Sự Chỉnh hợp của Đại vũ trụ và Tiểu vũ trụ.

This morning, I would touch on the matter of egoic alignment again, showing you, under the Law of Correspondences, the universal application. It lies based in geometry, or in figures and numbers.

Sáng hôm nay, tôi lại đề cập đến vấn đề chỉnh hợp với Chân nhân, để chỉ cho các bạn thấy sự áp dụng phổ quát theo Luật Tương ứng. Điều này căn cứ vào khoa hình học, hay các hình và các con số.

The aim of the evolution of man in the three worlds—the physical, emotional and mental planes—is the alignment of his threefold Personality with the body egoic, till the one straight line is achieved and the man becomes the One.

Mục đích tiến hóa của con người trong ba cõi – hồng trần, tình cảm và trí tuệ – là sự chỉnh hợp của Phàm ngã tam phân với thể chân nhân cho đến khi thật chỉnh hợp và con người trở thành Duy nhất.

Each life that the Personality leads is, at the close, represented by some geometrical figure, some utilisation of the lines of the cube, and their demonstration in a form of some kind. Intricate and uncertain in outline and crude in design are the forms of the earlier lives; definite and clear in outline are the forms built by the average advanced man of this generation. But when he steps upon the Path of Discipleship, the purpose consists in merging all these many lines into one line, and gradually this consummation is achieved. The Master is He Who has blended all the lines of fivefold development first into the three, and then into the one. The six-pointed star becomes the five-pointed star, the cube becomes the triangle, and the triangle becomes the one; whilst the one (at the end of the greater cycle) becomes the point in the circle of manifestation.

Vào cuối mỗi kiếp sống, Phàm nhân được tượng trưng bằng một dạng hình học, sử dụng các đường nét của khối vuông và minh họa chúng thành một loại hình thể nào đó. Trong những kiếp đầu, dạng phác họa hay mô hình có vẻ rắc rối, thô sơ, không rõ ràng. Khi hành giả đạt mức tiến hóa trung bình thì hình phác họa đã rõ rệt và xác định. Nhưng khi tiến lên Con đường Đệ tử thì mục tiêu của y là liên kết các đường nét này thành một và lần hồi mục tiêu này sẽ đạt được trọn vẹn. Chân sư là người đã hòa hợp được tất cả các đường nét phát triển (gồm năm phương diện) của Ngài, trước thành ba, rồi sau đó thành một. Ngôi sao sáu cánh trở thành ngôi sao năm cánh, khối vuông thành hình tam giác, và hình tam giác trở thành một. Đến cuối đại chu kỳ, cái duy nhất này sẽ thành một điểm trong vòng tròn biểu hiện.

Hence the effort made to teach all devotees simplicity, based on a trinity of foundation truths, and the inculcation of one-pointedness.

Vì thế, mọi cố gắng đều nhằm dạy cho người chí nguyện tính đơn giản, dựa trên ba phương diện của các chân lý nền tảng, và sự ghi khắc, chú tâm vào mục đích duy nhất.

Each life tends to greater stability but seldom is the three-fold Personality yet to be found lined up, if so I [6] may put it, with the causal consciousness. Temporary moments occur when this is the case and when (in moments of highest aspiration and for purposes of unselfish endeavor) the higher and the lower form a line direct. Usually the emotional body, through violent emotion and vibration, or a fluctuating restlessness, is continuously out of alignment. Where the emotional body may be momentarily aligned, then the mental body acts as an obstruction, preventing the percolation down from the higher to the lower, and so to the physical brain. It takes many lives of strenuous endeavor before the emotional body can be stilled and a mental body built that will act as a filter and not as an impediment. Even when this has been somewhat accomplished and the emotional body is stabilised and a pure reflector, and the mental body serves the purpose of a sensitive plate and discriminator, and the intelligent explainer of the higher imparted truth,—even then, I say, it takes much discipline and many lives of effort to align the two at the same time. When that is done, the control of the physical brain and its final alignment remain to be effected, so that it may act as a direct receiver and transmitter of the imparted teaching, and may reflect with accuracy the higher consciousness.

Mỗi kiếp sống đều hướng đến sự ổn định hơn, nhưng ít [6] khi Phàm nhân tam phân chỉnh hợp được với ý thức Chân ngã. Điều này có thể tạm thời xảy ra trong những khi đạo tâm dâng cao nhất, hay trong những mục đích cố gắng bất vị kỷ, lúc đó Chân ngã và Phàm ngã hình thành một đường liên giao trực tiếp. Lắm khi, thể tình cảm vì những tình cảm và rung động dữ dội hay do sự bất an thất thường mà liên tục bị lệch, không chỉnh hợp. Khi thể tình cảm tạm thời chỉnh hợp, thì thể trí lại gây chướng ngại, ngăn cản sự xuyên thấu từ trên xuống dưới để đến não bộ của xác thân. Phải cần nhiều kiếp cố gắng nhọc nhằn, thể tình cảm mới trở nên yên tĩnh và thể trí mới tác động như một bộ lọc chứ không còn trở ngại. Ngay cả khi đã phần nào đạt được điều này, thể tình cảm đã ổn định và là tấm gương phản chiếu trong trẻo, thể trí đã đạt mục đích làm tác nhân nhạy bén và phân biện, làm kẻ diễn giải thông suốt những chân lý cao siêu được truyền đạt, – có thể nói là trong điều kiện này cũng còn phải tuân thủ nhiều giới luật và trải qua nhiều kiếp cố gắng mới chỉnh hợp được cả hai thể cùng một lúc. Khi điều này được thực hiện, cũng còn phải kiểm soát não bộ của thân xác và tạo được sự chỉnh hợp cuối cùng với nó. Bấy giờ não bộ mới có thể giữ vai trò trực tiếp thu và phát ra giáo huấn được truyền đạt, và có thể phản ánh tâm thức cao siêu một cách chính xác.

Wherein, therefore, lies the macrocosmic correspondence? Where is the analogy in the Solar System? An indication I give here. In the direct alignment of certain planets in the process of systemic evolution, with each other and with the Sun comes Logoic or divine alignment. Think this out, but one word of warning I give. Seek not to work out hypotheses of alignment based on the physical planets. The truth lies not there. Only three of the physical planets (and those three in etheric matter) enter into the final alignment that marks the attainment [7] by the Logos of the cosmic egoic consciousness, which is His goal of attainment. Of these three, the earth is not one, but Venus has her place corresponding to the emotional permanent atom.

Vậy thì đâu là sự tương ứng trong đại vũ trụ? Đâu là sự tương đồng trong Thái dương hệ? Tôi xin nêu rõ ra đây. Trong cuộc tiến hóa của Thái dương hệ, sự chỉnh hợp trực tiếp của một số hành tinh với nhau và với Mặt trời cũng đưa đến sự chỉnh hợp thiêng liêng hay là sự chỉnh hợp của Đức Thái Dương Thượng Đế. Hãy suy ngẫm kỹ điều này, nhưng tôi xin có lời khuyến cáo. Đừng tìm cách đặt giả thuyết về sự chỉnh hợp dựa vào những hành tinh vật chất. Chân lý không phải ở đó. Chỉ có ba hành tinh vật chất hồng trần (ba hành tinh này bằng chất dĩ thái) là được chỉnh hợp sau cùng, đánh dấu [7] việc đạt được tâm thức chân ngã vũ trụ của Đức Thượng Đế, là mục tiêu thành đạt của Ngài. Địa cầu không thuộc ba hành tinh này, mà Kim tinh lại giữ vị trí tương ứng với nguyên tử trường tồn thể tình cảm.

Further still the alignment may be progressed:—in the alignment of our entire solar system with the system of Sirius lies a still more remote goal. It is a point far ahead in time, but holds hid the secret of the greater cycle.

Sự chỉnh hợp hãy còn có thể tiến xa hơn nữa: – mục tiêu đó là sự chỉnh hợp của toàn thái dương hệ chúng ta với hệ Sirius. Thời điểm này còn rất xa xăm, nhưng lại ẩn tàng bí mật của đại chu kỳ. [8]

LETTER II – THE IMPORTANCE OF MEDITATION

JUNE 3, 1920.

Ngày 3-6-1920.

[9] Let me this morning give you some more thoughts on the subject of meditation; they will bear somewhat on the matter given yesterday, and on the 16th ultimo.

Sáng nay, tôi xin trao thêm cho các bạn vài tư tưởng về tham thiền. Những tư tưởng này cũng dính dáng ít nhiều đến vấn đề bàn hôm qua và trong bức thư ngày 16 tháng trước.

Fundamentally, meditation is to assist alignment and so permit of contact with the Higher Self; hence its institution. I would, in order duly to elucidate, take up the study of this topic under the following heads:

Mục đích căn bản của tham thiền là giúp sự chỉnh hợp, để phàm ngã giao tiếp với Chân ngã, và do thế mà ngày càng quen thuộc với Chân nhân. Để sáng tỏ hơn, tôi sẽ bàn đề tài này dưới các mục sau:

The Importance of Meditation.

• Sự Quan trọng của Tham thiền.

Points considered when assigning a Meditation.

• Những điểm cần cứu xét khi dạy Tham thiền.

The use of the Sacred Word in Meditation.

• Việc dùng Thánh ngữ trong Tham thiền.

Dangers to be avoided in Meditation.

• Những nguy hiểm cần tránh trong Tham thiền.

The use of Form in Meditation.

• Việc dùng hình thức trong Tham thiền.

The use of Colour and Sound in Meditation.

• Việc dùng màu sắc và âm thanh trong Tham thiền.

Access to the Masters through Meditation.

• Tiến đến Chân sư nhờ Tham thiền.

Future Schools of Meditation.

• Các trường Tham thiền trong Tương lai.

Purification of the Vehicles.

• Sự Tinh luyện các Thể.

The Exoteric Life of Service.

• Cuộc Sống Phụng sự Ngoại môn.

Let us today take up the consideration of the first point:—What makes Meditation of importance?

Hôm nay, chúng ta hãy xem xét điểm đầu tiên: – Điều gì khiến Tham thiền trở nên quan trọng?

The emphasis upon the importance of meditation follows naturally upon the realisation by the student of the absolute necessity for the domination of the Personality by the Ego.

Đương nhiên, người môn sinh sẽ chú ý đến tầm quan trọng của tham thiền khi nhận thức được sự tuyệt đối cần thiết là Chân nhân phải thống ngự Phàm nhân.

Man at this time is engaged in many pursuits and through the force of circumstances he is polarised entirely in the lower self, that polarisation being in either the emotional or mental body. One point of interest I would indicate:—as long as the polarisation is purely [10] physical or purely emotional, no need for meditation is ever felt. Even when the mental body is active, no urge arises until the man has run through many changes and many lives, has tasted the cup of pleasure and of pain through many incarnations, has sounded the depths of the life lived entirely for the lower self and found it unsatisfying. Then he begins to turn his thought to other things, to aspire to that which is unknown, to realize and sense within himself the pairs of opposites, and to contact within his consciousness possibilities and ideals undreamt of hitherto. He has come to a point where success, popularity and diverse gifts are his, and yet from their use he derives no content; always the urge within persists until the pain is so severe that the desire to reach out and up, to ascertain something and someone beyond, overcomes all obstacles. The man begins to turn within and to seek the source from whence he came. Then he begins to meditate, to ponder, to intensify vibration until in process of time he garners the fruits of meditation.

Con người trong thời đại này đang theo đuổi nhiều mục đích và vì sự bó buộc của hoàn cảnh nên y hoàn toàn trụ vào Phàm ngã, và sự phân cực ấy hoặc là ở trong thể tình cảm hay thể trí. Một điều thú vị là: – nếu sự phân cực chỉ [10] thuần xảy ra ở thể xác hay thể tình cảm thì người ta không cảm thấy sự cần thiết của tham thiền. Ngay cả khi thể trí đã năng động, người ta cũng không thấy nhu cầu bức thiết này. Mãi đến khi con người chịu nhiều thăng trầm, biến đổi, đã nếm cạn chén rượu lạc thú và khổ đau qua nhiều kiếp luân hồi, đã xuống tận những vực sâu của cuộc sống toàn cho phàm ngã mà thấy lòng không thỏa mãn, thì bấy giờ nhu cầu này mới nổi lên. Y bắt đầu nghĩ đến những điều khác, ước vọng những gì chưa biết được, ý thức và cảm thấy các cặp đối cực trong y, và nơi tâm y chạm đến những khả năng, những lý tưởng mà từ trước đến nay y chưa hề mơ tưởng. Y đã đến mức sự thành công, mến chuộng và nhiều món quà khác nhau được mang đến cho y, vậy mà sau khi sử dụng chúng y vẫn không hài lòng. Trong tâm luôn có điều gì thôi thúc mãi, cho đến khi sự ray rứt đau khổ này trở nên quá trầm trọng, đến đỗi các ước muốn vươn ra ngoài và hướng lên trên, muốn xác định có điều gì hay có Đấng nào ở ngoài tầm hiểu biết chăng, đã giúp y vượt qua tất cả chướng ngại. Lúc đó, con người mới bắt đầu quay vào nội tâm và tìm cội nguồn của mình. Bấy giờ y mới bắt đầu tham thiền, suy ngẫm, tăng cường sự rung động, cho đến khi theo thời gian y gặt hái được các thành quả của tham thiền.

Four things meditation does:

Tham thiền thực hiện được bốn việc:

l—It enables a man to contact the Ego and to align the three lower bodies.

1. Tham thiền giúp hành giả có thể giao tiếp với Chân nhân và chỉnh hợp ba hạ thể.

2—It puts a man into an attitude of equilibrium, neither utterly receptive and negative, nor utterly positive, but at the point of balance. Thus is afforded opportunity to the Ego, and later to the Master, to disturb that equilibrium and tune the quiescent vibration to a higher note than heretofore; to cause the consciousness to vibrate to a newer and higher measure, and to swing (if so I may express it) into the periphery of the threefold Spirit. By the constant practice of this, the whole point of equilibrium is gradually shifted higher and higher, until the time comes when the lower point of [11] attraction in the swinging and adjustment, is not the physical, touches not the emotional, contacts not the mental (the causal body even escaping) and the man is polarised in the spiritual consciousness from thenceforth.

2. Tham thiền đưa hành giả vào trạng thái quân bình, không hoàn toàn thụ cảm và tiêu cực, cũng không hoàn toàn tích cực mà ở điểm thăng bằng. Điều này tạo cơ hội cho Chân nhân (về sau là Chân sư) khuấy động thế quân bình và nâng sự rung động trầm lặng này lên một âm điệu cao hơn trước, khiến tâm thức rung động theo nhịp điệu thanh cao hơn, mới mẻ hơn và (xin tạm gọi là) xoay chuyển y vào phạm vi Tinh thần tam phân. Nhờ hành thiền liên tục, trọn cả điểm quân bình này được từ từ nâng lên ngày càng cao, [11] cho đến khi điểm hấp dẫn thấp nhất trong sự dao động và điều chỉnh không ở thể xác, không chạm đến thể tình cảm và thể trí (ngay cả thể nguyên nhân cũng thế), mà kể từ đó hành giả phân cực trong tâm thức Tinh thần.

This marks the fourth Initiation; after that Initiation, the Adept makes for Himself a body of manifestation, a free creation,—there is nothing in Him to call into objectivity a body for use in the three worlds and evolved under the Law of Causes.

Đây là mức Điểm đạo lần thứ tư. Sau cuộc Điểm đạo này, vị Chân sư tự tạo lấy một thể để biểu hiện – hoàn toàn tự do theo ý Ngài. Trong Ngài không có gì khiến phải dùng một thể trong tam giới (cõi trần, cõi tình cảm, cõi trí) và phát triển theo Luật Nhân quả.

3—It stabilises the lower vibrations on the subplanes of the emotional and mental planes. It commences the work of attuning the self to the vibration of the third subplane on each of the three lower planes, until that subplane is dominated. The second subplane is then the next to be synchronised.

3. Tham thiền làm ổn định các rung động thấp trên các cõi phụ của cõi tình cảm và cõi trí. Thiền bắt đầu giúp phàm ngã hòa hợp với sự rung động của cõi phụ thứ ba trên mỗi cõi trong tam giới, cho đến khi chế ngự được cõi phụ này. Sau đó là rung động đồng bộ với cõi phụ thứ hai.

A man reaches the point of personality attainment in this cycle when he has the capacity to vibrate and move consciously on the fourth subplane. We might term the fourth subplane on the physical, emotional and mental planes (when dominated, aligned and functioning simultaneously in the same incarnation) the plane of perfected personality in the concrete sense of the word, and from the lower vision. That particular incarnation will be one in which the man achieves the fullest expression of his lower self,—physically perfect, emotionally vibrant, and mentally colossal. Then succeeding that, begins the transference to a higher vibration, the keying up to the Higher Self, and the attuning of the Personality, or the major third, to the dominant fifth of the Ego.

Trong chu kỳ này, người nào có khả năng rung động và di chuyển hữu thức trên cõi phụ thứ tư (của tam giới) là đã đạt mức thành tựu của phàm nhân. Có thể gọi các cõi phụ thứ tư này (khi được chế ngự, chỉnh hợp và hoạt động đồng thời trong cùng một kiếp sống) là cõi của phàm nhân hoàn hảo, nếu hiểu theo nghĩa cụ thể của từ này và nhìn theo quan điểm thấp. Một kiếp sống như vậy là kiếp mà con người biểu lộ phàm ngã đầy đủ nhất – thể xác hoàn hảo, thể tình cảm sinh động, và thể trí uyên bác. Kế đó là bắt đầu việc chuyển lên một sự rung động cao hơn cho đến mức rung động của Chân ngã, và Phàm nhân (hay là nốt chánh thứ ba) điều hợp với nốt nổi bật thứ năm của Chân nhân.

4—It assists in the transference of the polarisation from one of the permanent atoms of the Personality into the corresponding atom in the spiritual Triad. Later I will elucidate this further. [12]

4. Tham thiền giúp chuyển hóa sự phân cực từ một nguyên tử trường tồn của Phàm nhân lên nguyên tử tương ứng với nó trong Tam nguyên tinh thần. Tôi sẽ giải rõ vấn đề này sau. [12]

Hence may easily be seen the essential nature of Meditation and its wise, diligent and serious following.

Như thế, các bạn mới dễ dàng thấy được tính chất thiết yếu của Tham thiền và việc hành thiền một cách khôn ngoan, chuyên cần và nghiêm túc.

Early in experience, after the attainment of the highest the lower nature has to offer, man begins to meditate. Disorderly at first are his attempts, and sometimes several incarnations may go by in which the Higher self only forces the man to think and seriously to meditate at rare and separated intervals. More frequently come the occasions of withdrawing within, until there arises for the man several lives given to mystic meditation and aspiration, culminating usually in a life given entirely to it. It marks the point of the highest emotional aspiration, apart from the scientific application of the law, via the mental body. These laws are those governing the true occult meditation.

Trong những bước đầu kinh nghiệm, sau khi đạt thành quả cao nhất của phàm tính, con người bắt đầu hành thiền. Lúc đầu, công phu chưa thứ tự được, và có khi trong nhiều kiếp Chân ngã chỉ làm công việc buộc phàm nhân suy nghĩ và tham thiền một cách nghiêm cẩn, thỉnh thoảng trong những thời khoảng hiếm hoi. Hành giả ngày càng thường rút lui vào nội tâm, đến mức nhiều kiếp sống được dùng cho tham thiền và nguyện vọng thần bí. Thường thì cố gắng này đạt tột đỉnh trong một kiếp dành hoàn toàn cho nó, đánh dấu mức nguyện vọng cao nhất của tình cảm, khác hẳn việc áp dụng định luật một cách khoa học, qua thể trí. Những định luật này chi phối khoa tham thiền huyền môn đích thực.

Behind each of you who are working definitely under one of the Masters, lie two lives of culmination:—the life of worldly apotheosis and the life of intensest meditation along the mystic or emotional-intuitional line. This meditative life was taken either in a monastery or nunnery in middle Europe by those linked with the Master Jesus and His disciples, or in India, Tibet or China by the pupils of the Master M. or the Master K. H.

Trong mỗi cá nhân các bạn, những người đang làm việc dưới ảnh hưởng rõ rệt của một vị Chân sư, đều có hai cuộc sống cần thành đạt: – cuộc sống vẻ vang ở cõi trần và cuộc sống chuyên tâm thiền định theo lối thần bí hay là con đường từ tình cảm đến trực giác. Cuộc sống thiền này đã diễn ra trong các tu viện nam hoặc nữ ở Trung Âu với những người có liên hệ với Chân sư Jesus và các đệ tử Ngài, hoặc ở Ấn Độ, Tây Tạng hay Trung Quốc với những môn đệ của Chân sư M. hay Chân sư K.H.

Now comes to all of you the most important series of lives to which the previous points of culmination were but stepping stones. In the lives immediately ahead of those upon the Path will come final achievement through the instrumentality of the ordered occult meditation, based on law. For some few may come attainment in this life or the next; for others, shortly in other lives. For a few there lies ahead the attainment of the mystic method, to be the basis later on of the occult or mental method.

Nay đã đến lúc các bạn bắt đầu một loạt kiếp sống mới, quan trọng nhất, mà so ra các cao điểm trước đây đã đạt được chỉ là những bước đầu. Trong những kiếp tới đây, các đạo sinh sẽ đạt được mức thành tựu cuối cùng nhờ vận dụng tham thiền huyền môn đúng trình tự, dựa vào định luật. Một số người có thể thành đạt ngay trong kiếp này hoặc kiếp tới. Một số người khác thì phải vài ba kiếp nữa. Một số ít cần phải thành tựu phương pháp thiền thần bí để đặt căn bản cho phương pháp thiền huyền môn (dùng trí) về sau.

[13]

LETTER III – POINTS CONSIDERED WHEN ASSIGNING MEDITATION.

JUNE 4, 1920

Ngày 4-6-1920.

[14] We have dealt with the importance of meditation, and I have suggested for your consideration four reasons out of the many why the practice should he followed. At this period when meditation is followed by many of you without the guidance of a teacher who is personally acquainted with you on the physical plane, it has been impossible to do more than formulate a plan for practice that carries in it the elements of safety and of universality.

Chúng ta đã bàn về tầm quan trọng của tham thiền, và tôi đã đề nghị các bạn xem xét bốn lý do (trong rất nhiều lý do) tại sao chúng ta phải hành thiền. Trong giai đoạn này, khi đa số các bạn đang hành thiền mà không có sự hướng dẫn của một vị huấn sư đích thân giao tiếp với các bạn ở cõi trần, thì không thể làm gì hơn là phác họa ra một kế hoạch tham thiền chỉ gồm những yếu tố an toàn và phổ quát thôi.

When a teacher is on the spot, differentiated practice may be carried on suited to the temperament of the pupil, and having certain attributes that make that particular meditation the line of least resistance from the physical brain of the personality to the causal body.

Khi đã có vị huấn sư rồi, việc hành thiền sẽ khác nhau tùy theo tính khí của môn sinh và sẽ có những đặc điểm khiến cho lối tham thiền này là con đường ít trở ngại nhất, từ bộ não thể chất của phàm ngã đến thể nguyên nhân.

In formulating methods of meditation certain factors must be taken into consideration. These factors I will now enumerate. I seek not to give you outlines and methods to be followed. I but indicate the underlying principles that guide the teacher in the choice of method suitable for the pupil. Later, when the teacher comes and the scientific application of the method to the individual is being demonstrated, you can then see if the rules laid down here are fundamentals or not. These fundamentals and principles are all I seek to give. Method and detail must be worked out through the use of discrimination, experience, courage and perseverance.

Để ấn định phương pháp tham thiền, phải xem xét một số yếu tố mà tôi sẽ kể ra đây. Tôi không có ý trao cho bạn những bản phác thảo và phương pháp thực hành. Tôi chỉ nêu các nguyên tắc cơ bản để vị huấn sư theo đó mà chọn phương pháp thích hợp cho người học viên. Về sau, khi được vị huấn sư chỉ cách áp dụng phương pháp thiền một cách khoa học cho từng cá nhân, bấy giờ bạn sẽ thấy rằng những qui luật ấn định ở đây có căn bản hay không. Tôi chỉ tìm cách đưa ra các nguyên tắc và những điều cơ bản. Còn phương pháp và chi tiết thực hành thì bạn phải tự tìm ra bằng cách dùng trí phân biện, kinh nghiệm, can đảm, và bền chí.

The factors that must be considered by a teacher when assigning a meditation are six in number, if we deal only with the principal ones. They are as follows: [15]

Nếu chỉ kể những phần chính thì có sáu yếu tố mà vị huấn sư phải xem xét khi ấn định phương pháp thiền. Đó là: [15]

l—The Ray of the pupil’s Ego, or Higher Self.

1. Cung Chân nhân hay Chân ngã của môn sinh.

2—The Ray of his Personality or Lower Self.

2. Cung Phàm nhân hay Phàm ngã của môn sinh.

3—The Karmic condition of his threefold lower nature.

3. Điều kiện Nghiệp quả trong ba hạ thể của y.

4—The condition of his Causal Body.

4. Điều kiện Thể nguyên nhân của y.

5—The immediate need of the period and his availability.

5. Nhu cầu cấp thiết của thời đại và khả năng hữu   dụng của y.

6—The groups, inner and outer, with which he may be affiliated.

6. Những nhóm (nội môn hay ngoại môn) mà môn sinh đang gia nhập.

We will now take them up and consider them one by one.

Giờ đây, chúng ta xem xét tuần tự từng yếu tố.

1 – The Ray of Higher Self

1. Cung của Chân ngã.

The ray on which a man’s causal body is found, the egoic ray, should determine the type of meditation. Each ray necessitates a different method of approach, for the aim of all meditation is union with the divine. At this stage, it is union with the spiritual Triad, that has its lowest reflection on the mental plane. Let me illustrate briefly:

Cung của thể nguyên nhân (tức là cung của Chân ngã) sẽ qui định lối tham thiền của môn sinh. Mỗi cung đều cần một phương pháp riêng để tiến hành, vì mục đích của mọi lối thiền đều là hợp nhất với Bản tính thiêng liêng. Trong giai đoạn này, đó là sự hợp nhất với Tam nguyên tinh thần, có phản ảnh thấp nhất trên cõi trí. Tôi xin minh giải vắn tắt:

When the egoic ray is what is termed the Power Ray, the method of approach has to be by the application of the will in a dynamic form to the lower vehicles; it is largely what we term achievement by an intense focusing, a terrific one-pointedness, that inhibits all hindrances and literally forces a channel, thus driving itself into the Triad.

Khi cung Chân nhân là Cung Quyền lực thì phương pháp hành thiền phải là áp dụng ý chí vào các hạ thể một cách mạnh mẽ. Đó chính yếu là sự thành tựu cần tập trung cao độ, cực kỳ chuyên nhất, ngăn ngừa được mọi trở ngại và thực sự là dùng cường lực mở ra một đường dẫn để tự tiến lên tận Tam nguyên.

When the egoic ray is the second or the Love-Wisdom Ray, the path of least resistance lies along the line of expansion, of a gradual inclusion. It is not so much a driving forward as it is a gradual expanding from an inner centre to include the entourage, the environment, the allied souls, and the affiliated groups of pupils under [16] some one Master, until all are included in the consciousness. Carried to the point of achievement, this expansion results in the final shattering of the causal body at the fourth Initiation. In the first instance—achievement via the Power Ray—the driving forward and the forcing upward had a like result; the opened channel admitted the downflow of force or fire from the spirit and the causal body in time is equally destroyed.

Khi cung Chân ngã là Cung hai hay Cung Bác ái-Minh triết, thì con đường ít trở ngại nhất là sự mở rộng ra để từ từ bao gồm mọi người, mọi vật. Đó không phải là sự thôi thúc tiến tới, mà là mở rộng dần dần từ nội tâm, bao gồm những người thân tín, bao gồm cuộc sống chung quanh, những linh [16] hồn cộng sự, và những nhóm đệ tử Chân sư, cho đến khi tất cả đều được bao gồm trong tâm thức (của hành giả). Đến mức thành tựu ở cuộc Điểm đạo thứ tư, sự mở mang tâm thức này gây nên sự tan rã chung cuộc của thể nguyên nhân. Trong trường hợp đầu – sự thành đạt qua Cung Quyền lực – việc thúc đẩy tới trước và lên trên cũng có kết quả tương tự. Đường dẫn mở rộng đã để cho dòng thần lực hay lửa từ Tinh thần tuôn xuống và thể nguyên nhân cũng bị tiêu hủy đúng lúc.

When the egoic ray is the third or Activity-adaptability Ray, the method is somewhat different. Not so much the driving forward, not so much the gradual expansion as the systematic adaptation of all knowledge and of all means to the end in view. It is in fact the process of the utilisation of the many for the use of the one; it is more the accumulation of needed material and quality for the helping of the world, and the amassing of information through love and discrimination that eventually causes the shattering of the causal body. In these “Rays of Aspect” or of divine expression, if so I may call them, the shattering is brought about by the widening of the channel, due to the driving power of will in the first case; by the expansion of the lower auric egg, the causal body, in the second case, due to the inclusiveness of the synthetic Ray of Love and Wisdom; and by the breaking of the periphery of the causal body in the third case, due to the accumulative faculty and systematic absorption of the Adaptability Ray.

Khi cung Chân nhân là Cung ba hay Cung Hoạt động Thích nghi, thì phương pháp có hơi khác. Không có sự thúc đẩy tới trước hay mở rộng dần dần, mà là sự áp dụng có hệ thống mọi kiến thức và mọi phương tiện vào mục tiêu hành giả nhắm đến. Đó thực sự là đem nhiều điều để dùng cho mục đích duy nhất. Nói đúng hơn là sự thu góp những chất liệu và phẩm tính cần thiết để giúp đỡ thế gian, và sự tích lũy kiến thức qua bác ái và phân biện rốt cuộc cũng làm tan vỡ thể nguyên nhân. Trong “các Cung Trạng thái” này, tạm gọi là các Cung biểu lộ thiêng liêng, việc làm tan vỡ thể nguyên nhân là sự mở rộng đường dẫn truyền do quyền năng thúc đẩy của ý chí ở trường hợp Cung một. Hoặc bởi sự mở rộng noãn hào quang thấp (tức là thể nguyên nhân) do tính chất bao gồm của Cung hai, Cung tổng hợp Bác ái và Minh triết. Hoặc cũng làm nứt vỡ ngoại biên của thể nguyên nhân, do sự tích lũy tài năng và hấp thu có hệ thống của Cung ba là Cung Thích nghi.

All these three different methods have the same result, and are fundamentally all forms of the one great method employed in the evolution of love or wisdom,—the goal of endeavour in this present solar system.

Cả ba phương pháp khác biệt này đều mang lại cùng một kết quả, và cơ bản đều là những hình thức của phương pháp chính đại duy nhất được sử dụng trong cuộc tiến hoá của bác ái và minh triết, là mục tiêu cố gắng của chúng ta trong thái dương hệ hiện nay.

You have the will driving a man on to perfection, through realisation of the Higher, and resulting in the service of power through love in activity. [17]

Chúng ta thấy ý chí thôi thúc hành giả tiến đến sự hoàn thiện qua nhận thức về Chân ngã và kết quả là phụng sự bằng quyền lực thông qua hoạt động bác ái. [17]

You have the wisdom or love aspect driving a man on to perfection through the utilisation of his oneness with all that breathes, resulting in the service of love through love in activity.

Trạng thái minh triết hay bác ái đưa hành giả đến sự hoàn thiện nhờ nhận thức rằng mình là một với cả chúng sinh, kết quả là phụng sự bằng tình thương qua hoạt động bác ái.

You have the activity aspect driving a man on to perfection through the utilisation of all in the service of man; first by the utilisation of all for himself, then by the graded steps of the utilisation of all for the family, of all for those he personally loves, of all for his environing associates, and thus on and up till all is utilised in the service of humanity.

Trạng thái hoạt động đưa hành giả đến sự hoàn thiện bằng cách sử dụng tất cả để phụng sự con người. Trước hết là sử dụng tất cả cho cá nhân hành giả. Những bước tuần tự là cho gia đình y, sau đó cho những người mà y thương mến, rồi đến những người liên hệ ở chung quanh. Cứ thế mà tiếp tục mở rộng, nâng cao cho đến khi tất cả được dùng để phụng sự nhân loại.

When the egoic ray is the attributive Ray of Harmony, the fourth ray, the method will be along the line of the inner realisation of beauty and harmony; it causes the shattering of the causal body by the knowledge of Sound and Colour and the shattering effect of Sound. It is the process that leads to the realisation of the notes and tones of the solar system, the note and tone of individuals, and the endeavor to harmonise the egoic note with that of others. When the egoic note is sounded in harmony with other egos, the result is the shattering of the causal body, dissociation from the lower and the attainment of perfection. Its exponents develop along the line of music, rhythm and painting. They withdraw within in order to comprehend the life side of the form. The outer manifestation of that life side in the world is through that which we call art. The great painters and the superlative musicians are in many cases reaching their goal that way.

Nếu cung Chân nhân là một cung phụ, như Cung Điều hòa (cung bốn) thì phương pháp được dùng sẽ là sự nhận thức ở nội tâm về mỹ lệ và điều hòa. Sự hiểu biết về Âm thanh và Màu sắc và hiệu quả phá hủy của Âm thanh khiến cho thể nguyên nhân bị tan vỡ. Đó là tiến trình đưa đến sự nhận thức được các nốt và âm điệu của Thái dương hệ, nốt và âm điệu của từng cá nhân và cố gắng hòa hợp nốt Chân ngã của mình với nốt của các Chân ngã khác. Khi nốt Chân ngã của môn sinh vang lên hòa điệu với các Chân ngã khác thì kết quả sẽ làm tan vỡ thể nguyên nhân, tách rời khỏi các hạ thể và đạt được sự hoàn thiện. Những người tiêu biểu cho cung này phát triển theo con đường của âm nhạc, tiết điệu và hội họa. Họ thu vào trong để hiểu sự sống ẩn trong hình thể. Việc phát biểu của sự sống này trên thế giới phải thông qua những gì được gọi là nghệ thuật. Những họa sĩ tài danh và nhạc sĩ thượng thặng phần nhiều đã đạt được mục đích theo con đường này.

When the fifth ray, the Ray of Concrete Science or Knowledge is a man’s ray, the method is very interesting. It takes the form of the intense application of the concrete mind to some problem for the helping of the race; it is the bending of every mental quality and the [18] controlling of the lower nature so that one supreme endeavor is made to pierce through that which hinders the downflow of the higher knowledge. It involves also the will element (as might be expected) and results in the wresting of the desired information from the source of all knowledge.

Khi hành giả có cung Chân ngã là cung năm, Cung Khoa học hay Kiến thức Cụ thể, thì phương pháp của y rất thú vị. Đó là hình thức tích cực áp dụng hạ trí (trí cụ thể) vào một vấn đề đã chọn để phụng sự nhân loại. Đó là cố gắng tập trung [18] mọi tính năng của trí tuệ và kiểm soát phàm tính, sao cho nỗ lực rốt ráo chuyên nhất xuyên thủng được lớp màn che án tri thức cao siêu từ trên tuôn xuống. Nó cũng bao gồm yếu tố ý chí (khả dĩ có) và kết quả là hoạch đắc những thông tin cần thiết từ nguồn cội của mọi tri thức.

As the process is continued, the piercing of the periphery of the causal body becomes so frequent that in the end disintegration is produced and a man is set free. It is mentality driving a man on to perfection and forcing him to utilise all knowledge in the loving service of his race.

Nếu cứ tiếp tục như thế thì chu vi của thể nguyên nhân quá thường bị xuyên thủng, rốt cuộc nó bị tan rã và hành giả được giải thoát. Đây là trí năng thúc đẩy y tiếp tục đi đến mức hoàn thiện và buộc y phải sử dụng mọi hiểu biết để phụng sự nhân loại trong tình thương.

The Ray of Devotion is pre-eminently the ray of sacrifice. When it is the egoic ray the method of approach through meditation takes the form of one-pointed application, through love of some individual or ideal. A man learns to include through love of person or ideal; he bends every faculty and every effort to the contemplation of what is required, and in sacrifice for that person or ideal lays even his causal body on the flames of the altar. It is the method of divine fanaticism that counts all lost apart from the vision, and that eventually sacrifices joyously the entire personality. The causal body is destroyed through fire, and the liberated life streams upward to the spirit in divine beatification.

Cung Sùng tín là cung nổi bật nhất về sự hy sinh. Phương pháp thiền của cung này là áp dụng sự nhất tâm sùng kính qua tình thương đối với một cá nhân hay lý tưởng nào đó. Hành giả học cách bao gồm đối tượng hay lý tưởng của mình bằng tình thương. Y dùng hết mọi khả năng và nỗ lực để chiêm nghiệm những gì cần phải làm. Khi hy sinh cho vị hoặc lý tưởng kể trên, y cũng đi đến mức đặt ngay thể nguyên nhân của mình trong ngọn lửa hy sinh. Đó là phương pháp cuồng tín thiêng liêng, thà mất tất cả để được đối tượng, và cuối cùng hoan hỉ hy sinh trọn cả phàm nhân. Thể nguyên nhân sẽ bị đốt tan trong lửa, và sự sống được giải thoát (của hành giả) dâng lên đến Chân thần trong niềm chí phúc thiêng liêng.

When the egoic ray is the seventh or Ray of Ceremony Law or Magic, the method is that of the glorification and comprehension of form in approach. As said earlier, the goal of all the meditation practices is approach to the divine within each one, and, through that, approach to the Deity Himself.

Khi cung Chân ngã là cung bảy, Cung Định luật Nghi lễ hay Huyền thuật, thì phương pháp là tôn vinh và thấu hiểu các nghi thức trên đường tiến tới mục đích. Như trước đã có đề cập, mục tiêu của mọi lối hành thiền đều là sự tiến gần đến Bản thể thiêng liêng trong ta, để nhờ đó mà đến gần Thượng Đế.

The method, therefore, is the bringing under law, order and rule, of every act of the life in all the three bodies, and the building within the causal body of an [19] expanding form that results in the shattering of that body. It is the building of the Shrine under certain rules into a dwelling place for the Shekinah, and when the spiritual light flames forth, the Temple of Solomon rocks, reels and disintegrates. It is the study of the law and the consequent comprehension by the man of how that law is wielded and why; it is then the definite application of that law to the body of causes so as to render it needless and thus effect its shattering. Emancipation is the result, and the man frees himself from the three worlds. Many occultists are coming in on this ray at this time to continue the liberating process. It is the method that leads a man to liberation through the understanding and the intelligent application of the law to his own life, and to the ameliorating of conditions in the body of humanity, thus making the man a server of his race.

Thế nên, phương pháp này đưa mọi hành vi trong cuộc sống của ba hạ thể về với định luật, trật tự và qui củ, và tạo thành bên trong thể nguyên nhân một hình thức cứ nở lớn [19] mãi cho đến mức làm nó vỡ tan. Đó là việc xây dựng Thánh điện nội tâm, dựa theo một số qui luật nhất định, để cho Bản thể Thiêng liêng (Shekinah) trú ngụ, và khi ngọn lửa tinh thần bừng cháy thì Ngôi Đền Solomon (là thể nguyên nhân) rung rinh, quay cuồng và tan vỡ. Đây là vấn đề nghiên cứu định luật, để hành giả hiểu được tại sao và bằng cách nào vận dụng định luật. Kế đến là áp dụng định luật ấy một cách chính xác vào thể của các nguyên nhân cho đến mức nó không còn cần thiết nữa và vì thế phải tan vỡ. Kết quả là sự giải thoát, và hành giả không còn bị ràng buộc trong tam giới. Hiện nay có nhiều huyền bí gia thuộc cung này đang nhập thế để tiếp tục tiến trình giải thoát. Đó là phương pháp giúp con người giải thoát nhờ sự thấu hiểu và áp dụng định luật một cách khôn ngoan vào cuộc sống chính mình và cải thiện tình trạng sinh sống của nhân loại. Làm thế, hành giả tự trở thành kẻ phụng sự nòi giống mình.

This suffices for today.

Hôm nay, chúng ta bàn bấy nhiêu là đủ.

JUNE 5, 1930.

Ngày 5-6-1920.

2 – The Ray of the Personality

2. Cung Phàm nhân.

We have somewhat dealt with the first factor, the egoic ray, in determining the method of meditation. Today we might take up the function of the personality ray in determining this method. As you know, the personality ray is ever a sub-ray of the spiritual ray and varies with greater frequency than the egoic ray. With evolved egos such as may be contacted among the thinkers of the race and among the prominent workers in all departments of world work everywhere, the personality ray may vary from life to life, each life being based on a different note and demonstrating a different colour. In this way the causal body is more rapidly equipped. When the reincarnating unit has reached a point where he can consciously choose his mode of expression, he [20] will first review his past lives, and from the knowledge gained thereby, he will guide his choice for the next. Prior to incarnation he will sound his egoic note and will note the lack of fullness or the discord it may contain; he will then decide upon which note he will base his coming personality vibration.

Chúng ta đã đề cập ít nhiều đến yếu tố thứ nhất là cung của Chân nhân để xác định phương pháp thiền cho hành giả. Hôm nay, chúng ta có thể bàn đến vai trò của cung phàm ngã trong việc ấn định phương pháp này. Như chúng ta biết, cung phàm nhân bao giờ cũng là một cung phụ của cung tinh thần và thường thay đổi hơn cung của Chân nhân rất nhiều. Với những Chân nhân đã tiến hóa, như những người mà chúng ta có thể thấy trong số các nhà tư tưởng của nhân loại và những người phụng sự giỏi giang trong đủ mọi ngành hoạt động trên thế giới, thì cung phàm ngã của họ có thể thay đổi hết kiếp này sang kiếp khác. Mỗi kiếp sống mang một âm điệu khác nhau và biểu lộ một màu sắc khác nhau. Theo cách này thể nguyên nhân càng mau phong phú. Khi con người đang luân hồi đã đạt trình độ có thể hữu ý chọn lựa cách biểu lộ của mình, thì trước nhất y ôn [20] lại các kiếp trước, và nhờ sự hiểu biết này y chọn (phương cách cho) kiếp tới. Trước khi đầu thai, y sẽ gióng lên âm điệu của Chân ngã để thấy còn sự khiếm khuyết và bất hòa nào trong âm điệu đó hay không. Bấy giờ y mới quyết định đặt rung động căn bản của phàm ngã sắp tới của mình vào nốt nào.

The whole life, therefore, may be given over to the sounding of a particular note and to the stabilising of one particular vibration. This note must be sounded and this vibration stabilised in diversity of circumstances. Hence the necessity in the life of the aspirant or disciple for frequent change, and the explanation of the obvious condition of variety and apparent chaos in which these lives are spent.

Vì thế, trọn kiếp sống có thể được dùng vào việc gióng lên một âm điệu đặc biệt và ổn cố một rung động. Trong nhiều trường hợp khác nhau, nốt này phải được gióng lên và sự rung động này phải được giữ vững. Vì thế, cuộc đời của người đệ tử cần phải thường thay đổi, và đó là lý do tại sao những kiếp sống này lại có tính biến thiên rõ rệt và thường thấy xáo trộn luôn.

When the discord has been corrected and when the vibration becomes steady and is not subject to change, then the needed work is done. The Ego can call in again his forces, prior to continuing the work of perfecting the causal body and carrying to perfect accuracy and clarity of tone the desired chord. See then the necessity of adapting the method of meditation to the need of the personality, and of synchronising it at the same time with the first factor, involving the ray of the Ego.

Khi sự sai điệu đã được điều chỉnh, khi sự rung động đã được vững bền, không còn bị các đổi thay chi phối nữa, bấy giờ việc cần làm đã xong. Chân nhân có thể thu lại các mãnh lực, trước khi tiếp tục công việc làm hoàn hảo thể nguyên nhân và làm cho hòa điệu cần có được chính xác, rõ ràng. Vì thế, chúng ta thấy sự cần thiết phải chọn phương pháp thiền thích hợp với nhu cầu của phàm nhân, và đồng thời hòa nhịp với yếu tố thứ nhất, là cung của Chân nhân.

A practical illustration.

Một Ví dụ thực tế.

Let me illustrate, if in any way I can elucidate the matter; accuracy of comprehension is desired.

Để sáng tỏ hơn, tôi cho một ví dụ vì cần phải hiểu cho chính xác.

We will assume that the egoic ray of A is that of the Love or Wisdom Ray, whilst the ray of his lower self is that of the fifth or the Ray of Concrete Knowledge. A in past lives has demonstrated love and has made real progress in the method of the synthetic ray, that of expansion. He loves much and expands with fair facility his consciousness to include a just part of his environing [21] circumstances. But, though of average intelligence, he lacks the stabilising vibration that attaches to the fifth ray. He has not that concentration that forces results, and he needs the basic foundation of facts before he can wisely and safely proceed much further. The wise teacher, in apprehending this necessity, uses the method of expansion inherent in the egoic ray and applies it to the expansion of the mental body. By a wisely adjudicated method, he will apply the faculty of expansion (hitherto used only to include others through love) to the one-pointed effort likewise to expand for the purpose of apprehending knowledge. When this is done, every effort of the personal life may apparently (in one particular incarnation) be given to the acquirement of scientific position and to the development of mind. Intellectual progress may seem of too paramount importance to the uninstructed onlooker; yet, after all, the work proceeds as desired by the inner guide, and only the life succeeding will demonstrate the wisdom of the egoic choice.

Giả sử A có Chân ngã thuộc Cung Bác ái hay Minh triết, trong khi cung phàm ngã của y là Cung năm, Tri thức Cụ thể. Trong các tiền kiếp, A đã tỏ ra có lòng bác ái và đã tiến bộ thực sự theo phương pháp của cung tổng hợp này, là sự mở rộng. A có nhiều tình thương và dễ dàng mở rộng tâm thức của mình để bao gồm một phần nào cuộc sống chung quanh. [21] Nhưng vì chỉ có trí thông minh trung bình, y thiếu sự rung động vững vàng để gắn bó với cung năm. Y không có sự chú tâm nhất định để đạt được kết quả, và y cần nền tảng cơ bản về sự kiện (kiến thức khoa học) nhờ đó y có thể tiến tới một cách khôn ngoan và an toàn hơn. Vị huấn sư minh triết thấy rõ nhu cầu này sẽ dùng phương pháp mở rộng sẵn có trong cung Chân ngã của môn sinh để mở mang thể trí của y. Bằng một phương pháp đúng đắn, khôn ngoan, y sẽ áp dụng khả năng mở rộng (mà từ trước đến giờ y chỉ dùng để bao gồm những người khác qua tình thương) vào nỗ lực chuyên nhất tương tự để mở mang, nhằm đạt sự hiểu biết thấu đáo. Khi thực hiện điều này thì mọi nỗ lực của cuộc sống cá nhân (trong một kiếp nhất định) có thể dường như được dùng để đạt một địa vị trong khoa học và để mở mang trí tuệ. Với cái nhìn bàng quan thiếu kinh nghiệm thì chừng như sự tiến bộ trí tuệ là tối quan trọng. Tuy nhiên, rốt cuộc công việc cũng tiến triển như ý muốn nhờ sự hướng dẫn của Chân ngã nội tâm, và chỉ những kiếp sống kế tiếp mới chứng tỏ rằng sự lựa chọn ấy của Chân nhân là khôn ngoan.

Intellectual expansion by the combination of second ray methods with fifth ray application will be achieved. Have I made this matter clear? I write for clarity for this question of meditation is of much vital importance to many.

Sự mở mang trí tuệ bằng cách phối hợp các phương pháp của cung hai và ứng dụng của cung năm sẽ thành tựu. Tôi có giúp bạn hiểu rõ được vấn đề chăng? Tôi phải làm sáng tỏ, vì vấn đề tham thiền thật rất quan trọng cho nhiều người.

It will, therefore, be clear to you on careful perusal, that as one knows more, one judges less. A person may be well-developed on the love side, yet in some particular incarnation that side may lie in abeyance, and the line of development most apparent may be the purely intellectual. Reservation of opinion is the best line for the wise onlooker to take, for he has not yet the inner vision that sees the colour, nor the occult hearing that recognises the note. [22]

Thế nên nếu đọc và suy ngẫm cặn kẽ bạn sẽ thấy rõ rằng kẻ càng hiểu nhiều càng ít xét đoán người khác. Một người có thể khá phát triển về mặt bác ái, vậy mà trong một kiếp nào đó phương diện này lại có thể bị trì trệ và đường hướng phát triển hầu như chỉ thuần trí tuệ mà thôi. Hãy dè dặt trong ý kiến của mình, đó là thái độ của kẻ bàng quan khôn ngoan nhất, khi y chưa có được nội nhãn thông để thấy được màu sắc và nội nhĩ thông để nghe được âm điệu của muôn loài.

JUNE 7, 1920.

[22] Ngày 7-6-1920.

3 – The Karmic Condition of the Threefold Man

3. Điều kiện Nghiệp quả của Môn sinh.

Today the karmic condition of the threefold man and his place in evolution comes up for consideration under our discussion of “Methods of Meditation.” It is our third point and of real moment in deciding wisely upon a method suitable for the individual. We have up till now considered first the importance of meditation; then we touched briefly upon the part the egoic ray plays in deciding upon that method, incidentally bringing out a point not much emphasized hitherto that the real goal of meditation is the gradual fracturing, breaking and shattering of the egoic body. Each ray necessitated, we saw, a different process. Then we took up the function of the personality ray in combination with the egoic ray, and saw how in wise consideration of the two factors a method could wisely be apportioned.

Hôm nay, trong cuộc thảo luận về “Các Phương pháp Thiền,” chúng ta xét đến điều kiện nghiệp quả và vị trí của phàm nhân tam phân trên thang tiến hóa. Đây là điểm thứ ba cần xem xét và thật quan trọng khi quyết định một cách khôn ngoan để chọn phương pháp thích hợp cho mỗi cá nhân. Cho đến nay, chúng ta đã xem xét điểm đầu tiên là sự quan trọng của tham thiền. Sau đó chúng ta đề cập vắn tắt đến vai trò của cung Chân ngã trong sự chọn lựa phương pháp thiền. Từ đó đưa ra một điểm chưa hề được chú trọng nhiều là tham thiền có mục đích thực sự làm thể của Chân nhân dần dần nứt vỡ và tan rã. Chúng ta đã thấy mỗi cung đều cần một tiến trình riêng. Sau đó, chúng ta cũng bàn đến chức năng của cung phàm nhân khi phối hợp với cung Chân nhân, và thấy bằng cách nào khi sáng suốt xem xét cả hai yếu tố này, chúng ta có thể đưa ra một phương pháp thiền khôn ngoan.

Now we take up more specifically the factor of time. Karma and time are more synonymous terms than is oft realised. Occult meditation and the definite commencement of the work of liberating the individual from the periphery of the causal body can only be begun when a certain point in evolution has been attained, and when (through its content) the causal body is of a certain specific gravity, and when the circumference of that body measures up to certain requirements. The whole process is one of law and not, as is so oft considered, one purely of aspiration and lofty desire. Consider wisely this sentence I have just written upon the karmic condition of the threefold man and his place on the ladder of evolution. What have I specified? Three factors for your consideration: [23]

Giờ đây, chúng ta hãy xem xét yếu tố thời gian một cách cụ thể hơn. Nghiệp quả và thời gian là hai từ có nhiều đồng nghĩa hơn chúng ta thường hiểu. Việc hành thiền huyền môn và dứt khoát giải phóng Chân nhân ra khỏi ngoại vi của thể nguyên nhân chỉ có thể bắt đầu ở một mức tiến hóa nhất định. Đó là lúc (nhờ sự tích lũy lâu dài) thể nguyên nhân đã đạt được trọng lượng riêng nhất định và khi chu vi thể nguyên nhân đã hội đủ một số điều kiện cần thiết. Toàn bộ tiến trình này tùy theo Định luật, chứ không phải chỉ toàn do đạo tâm và ước vọng cao thượng (như người ta thường nghĩ). Hãy xét kỹ câu tôi vừa viết về điều kiện nghiệp quả của phàm nhân tam phân và vị trí của y trên thang tiến hóa. Tôi đã đề cập đến những điều gì? Đó là ba yếu tố các bạn nên xem xét: [23]

a—The point in evolution.

a. Trình độ tiến hóa của môn sinh.

b—The specific gravity of the causal body.

b. Trọng lượng riêng của thể nguyên nhân.

c—The size and circumference of the causal body.

c. Kích thước và chu vi của thể nguyên nhân.

Later I intend definitely taking up with you the question of the mental plane and its three higher subplanes, which are the planes of the Ego. We will deal with the position of the causal body on these planes and with the relationship of the causal body to other bodies on the same plane. In this letter I deal only with the three above-mentioned points. I deal, therefore, with the causal body itself, with the egoic consciousness and its relationship to the lower self. Later I will deal with the same consciousness on its own plane and its relationship to other egos and to the Hierarchy. Keep this clearly in mind:—the development of the egoic consciousness within the Personality is my main theme at this time. Do not confuse the two. We might word it otherwise:—I will deal with the relationship of the Higher Self to the threefold lower man, and the gradually increasing strength of that relationship through meditation. This increase is coincident with the three factors above named. Let us take them in order.

Sau này, tôi sẽ nêu rõ vấn đề cõi trí và ba cõi phụ cao của nó, là cõi của Chân nhân. Chúng ta sẽ đề cập đến vị trí của thể nguyên nhân trên những cõi phụ này và sự liên hệ của thể nguyên nhân với các thể khác trên cùng một cõi. Trong thư này, tôi chỉ đề cập đến ba điểm vừa kể. Vì thế, tôi đề cập đến thể nguyên nhân, với tâm thức Chân ngã và sự liên quan của tâm thức ấy với phàm ngã. Về sau tôi sẽ bàn đến cũng chính tâm thức đó trên cõi của nó, mối liên hệ của nó với những Chân nhân khác, và với Đại đoàn Chưởng giáo (Đ.Đ.C.G.). Hãy nhớ kỹ điều này: – ở đây, chủ đề chính của tôi là sự phát triển của tâm thức Chân ngã trong Phàm nhân. Đừng lẫn lộn hai điều này. Có thể nói cách khác: – Tôi sẽ bàn đến mối liên hệ của Chân nhân và Phàm nhân (có ba thể), và việc dùng tham thiền để dần dần tăng cường mối liên hệ này. Sự tăng cường này trùng hợp với ba yếu tố kể trên. Vậy chúng ta hãy xem xét theo thứ tự.

The Point in Evolution.

Trình độ Tiến hóa của Môn sinh.

The life of the evolving personality might be divided into five divisions. Ours is, after all, a fivefold evolution, and the life of the man (as a human being and prior to taking the fifth Initiation) may be considered as a series of five gradual steps, each step being gauged by the condition of the indwelling Flame of Spirit. From the standpoint of our occult planetary Hierarchy, as before I have told you, we are measured by our light.

Cuộc sống của phàm nhân đang tiến hóa có thể được chia làm năm phần. Xét cho cùng, chúng ta đang ở trong cuộc tiến hóa có năm giai đoạn, và cuộc sống của con người (trong nhân loại trước khi được điểm đạo lần thứ năm) có thể được xem là một loạt năm bậc tiến hóa từ thấp lên cao. Mỗi bậc được đo lường bằng tình trạng của Ngọn lửa Tinh thần ẩn bên trong. Như tôi đã nói cùng các bạn, theo quan điểm của Đ.Đ.C.G. địa cầu thì chúng ta được đo lường bằng ánh sáng của chính mình.

The first division of progress might be measured from the moment when animal-man became a thinking entity, [24] a human being, to that of the conscious functioning of the emotional body or to the point where the emotions are very largely paramount. It corresponds to the period covered by the Lemurian and early Atlantean days. During this period, the man is polarised in his physical body and is learning to be controlled by his desire body, the body of feeling or of emotion. He has no aspirations save such as pander to the pleasures of the body; he lives for his physical nature, and has no thought for aught that may be higher. This period parallels that of the child from one to seven years. At this time the watching Teachers of the race see the indwelling Flame as a tiny pin-point, and the permanent atom of the physical plane holds the polarisation. No attention is called for from the Teachers, for the instinctive force inherent in the Higher Self does the work, and the driving force of evolution carries all on to perfection.

Giai đoạn tiến hóa đầu tiên có thể kể từ lúc con người vừa thoát kiếp thú trở thành một sinh linh biết suy nghĩ, [24] tức là trở thành một con người, cho đến khi tâm thức hoạt động được trong thể tình cảm, hay là mức mà những tình cảm hầu như thống ngự. Nó tương ứng với thời kỳ của người Lemuria và thời gian đầu của dân Atlantis. Trong giai đoạn này, con người phân cực trong thân xác và học cách chế ngự thể xác bằng thể dục vọng, tức là thể tình cảm hay xúc cảm. Con người lúc đó không có chí nguyện gì cả, mà chỉ đi tìm lạc thú cho xác thân. Y chỉ sống cho thú tính của thân xác, chứ không nghĩ đến điều gì cao hơn. Giai đoạn này tương đương với thời kỳ của đứa trẻ từ một đến bảy tuổi. Ở giai đoạn này, các Huấn sư trông nom nhân loại thấy trong tâm y Ngọn lửa nhỏ như đầu mũi kim, và nguyên tử trường tồn hồng trần giữ công việc phân cực. Các Huấn sư không chú ý đến giai đoạn này bao nhiêu, vì sức mạnh bản năng sẵn có nơi Chân ngã y đảm trách công việc, và sức mạnh tiến hóa luôn luôn thôi thúc tất cả tiếp tục tiến lên hướng về sự hoàn thiện.

The second period covers a point in development when the polarisation is largely in the emotional body and when lower mind desire is being developed. Later Atlantean days hold the analogy hid. The desires are not so purely physical, for mind is beginning to permeate, much as yeast causes a movement and a rising in a mass of dough. The man is conscious of vague pleasures not associated with his physical body; he is capable of a deep love for teachers and guides wiser than himself, of a wild unreasoning devotion for his environing associates, and of an equally wild and unreasoning hatred, for the equilibrium that mind achieves, and the balance that is the result of mental action, is wanting in his make-up. He suffers from extremes.

Giai đoạn phát triển thứ hai kể từ mức phần lớn sự phân cực nằm trong thể tình cảm, và dục vọng của hạ trí đang phát triển. Trình độ này tương đồng với giai đoạn sau của thời kỳ Atlantis. Các ham muốn không hoàn toàn cho thể xác nữa, vì trí năng bắt đầu xen vào, như chất men gây ra sự chuyển động làm cho bột nổi. Con người bắt đầu nhận thức được những sự ham muốn mơ hồ không liên hệ gì đến thể xác. Y có thể thương yêu sâu đậm các vị thầy, hay những người hướng dẫn khôn ngoan hơn mình. Hoặc y có sự mến thích vội vàng, thiếu suy xét đối với những người cộng sự và thân hữu ở chung quanh. Đồng thời y cũng có sự oán ghét vô lý và không cân nhắc. Bởi vì trong tâm tính của y còn thiếu sự quân bình (là thành quả của trí năng) và sự thăng bằng (là hậu quả của tác động trí tuệ). Y dễ có thái độ cực đoan.

The polarisation lies now in the emotional permanent atom but, (when this point of development is reached) a light plays between the two atoms that have [25] known polarisation—the emotional and the physical. What I am seeking to bring out at this stage is that the mental unit has not known the force of polarisation, the emotional is holding it, and the result is an integral difference within the periphery of the atom itself. The electronic combinations that compose the atom which has suffered polarisation are grouped in a different geometrical form to those which have not yet experienced the process. It is the effect of the life of the Ego, playing on the matter of the atom and causing various approximations and differentiations unseen in a non-polarised atom. The matter is abstruse and complex.

Nay sự phân cực ở trong nguyên tử trường tồn thể tình cảm, nhưng (khi đạt mức phát triển này) có một đường ánh [25] sáng nối liền hai nguyên tử đã phân cực của thể xác và thể tình cảm. Điều tôi muốn nêu ra trong giai đoạn này là nguyên tử trường tồn hạ trí chưa biết đến sức mạnh phân cực. Nguyên tử trường tồn thể tình cảm đang còn giữ sức mạnh ấy với hậu quả gây nên sự khác biệt hoàn toàn bên trong chu vi của nó. Trong nguyên tử này, những kết hợp điện tử nào đã được phân cực thì hợp thành dạng hình học khác với những điện tử chưa được phân cực. Đây là hiệu quả của sự sống Chân nhân tác động vào vật chất của nguyên tử gây nên nhiều sự đồng hóa và biệt hóa không thấy có trong một nguyên tử chưa phân cực. Vấn đề này thật phức tạp và khó hiểu.

This period is an analogous one to that in the life of a child from seven to fourteen years, or that period when adolescence is traversed and the child is maturing. This maturity is the product of emotional and physical polarisation in alignment. Alignment is now easily achieved between the physical and emotional bodies. The problem is to bring both under alignment with the mental and later with the egoic bodies.

Giai đoạn này tương đương với khoảng đời của đứa trẻ từ bảy đến mười bốn tuổi, hay là thời gian đi qua tuổi thiếu niên và đứa trẻ đang trưởng thành. Sự trưởng thành này là kết quả sự phân cực của thể xác và thể tình cảm trong chỉnh hợp. Giờ đây hai thể này rất dễ chỉnh hợp với nhau. Vấn đề là làm sao đem cả hai thể này chỉnh hợp với thể trí, rồi sau đó chỉnh hợp với thể Chân nhân.

To the watching Guides of the race, the indwelling Flame or Light can be seen slightly more enlarged, but still so small as to be inappreciable. But, if I can in any way make clear without misleading by the use of words—whereas in the first period the physical atom could be seen illuminated, now in the second period the emotional atom is similarly lit up, a signal to the Teachers that the work progresses. All this covers a vast period of time, for progress at this period is inexpressibly slow. My allusion to the Atlantean and Lemurian races was but to trace analogy in object, and not analogy in time.

Các Đấng hướng dẫn trông nom nhân loại có thể thấy Ngọn Lửa trong tâm con người hơi nở lớn hơn, nhưng hãy còn quá nhỏ nên chưa đáng kể. Tuy nhiên, có thể nói ở giai đoạn đầu nguyên tử trường tồn hồng trần được chiếu sáng, và bây giờ ở giai đoạn hai nguyên tử tình cảm cũng được chiếu sáng tương tự. Đây là dấu hiệu cho các Huấn sư thấy rằng sự tiến hóa của y đang tiếp diễn. Những phát triển vừa kể xảy ra trong một thời gian dài, vì sự tiến bộ trong giai đoạn này chậm chạp không thể tả. Lời ám chỉ của tôi về các giống dân Atlantis và Lemuria chỉ để nói lên sự tương đồng trong mục tiêu chứ không phải tương đồng về thời gian.

Now, on entering the third period, comes the most vital point in the development of the man, that in which [26] mind is developing and the polarising life shifts to the mental unit. Speaking in terms of the solar system and viewing humanity as a unit, all of whose permanent atoms form the molecules in a corresponding cosmic atom, the work has progressed from physical to emotional polarisation and remains there. Not till the seventh cycle of the greater cycle, not till the calling of the system into obscuration and out of manifestation will the cosmic mental atom in the body of the Logos achieve polarisation. Here and there individuals are, as units, accomplishing the work and demonstrating therefore the hope for all.

Nay đến giai đoạn thứ ba, là mức phát triển quan trọng nhất của con người, là giai đoạn thể trí phát triển và sức [26] sống phân cực chuyển vào nguyên tử trường tồn hạ trí. Xét trong phạm vi thái dương hệ và nhìn nhân loại như một đơn vị thì những nguyên tử trường tồn của nhân loại hợp thành các phần tử trong một nguyên tử tương ứng cấp vũ trụ, việc phân cực đã tiến triển từ xác thân đến thể tình cảm và vẫn còn ở đó. Chỉ đến chu kỳ thứ bảy của đại chu kỳ, khi toàn thái dương hệ không còn biểu hiện nữa mà đi vào trạng thái tiềm sinh, thì nguyên tử trường tồn thể trí vũ trụ của Đức Thượng Đế mới được phân cực. Đó đây, cũng có những cá nhân với tư cách các đơn vị đã hoàn tất được công trình và do đó mà mang lại niềm hy vọng cho tất cả.

This period corresponds to that between the ages fourteen and twenty-eight. The period here is longer for there is much to be done. Two atoms have felt polarisation, and one is receiving the shifting. It is the middle point. At this time the light plays between the three atoms (outlining the personality triangle). But the focal point is gradually shifting more and more into the mental unit, and the egoic body is becoming gradually more rounded out, and assuming its proportions.

Giai đoạn này tương ứng với khoảng từ mười bốn đến hai mươi tám tuổi. Giai đoạn này dài hơn vì có nhiều việc phải làm. Hai nguyên tử đã được phân cực và một đang dịch chuyển. Đây là mức giữa. Vào lúc này, ánh sáng nối liền ba nguyên tử (hình thành tam giác của phàm nhân). Nhưng tiêu điểm đang dần dần chuyển vào nguyên tử trường tồn hạ trí, thể nguyên nhân ngày càng tròn đầy và cân đối.

The man has control of the physical body and each life he builds a better; he has a desire body of more refined requirements (note the occult significance of that word); he realizes the joys of intellect and strives ever for a mental body of greater adequacy; his desires turn upward instead of downward, and become transmuted into aspiration,—at first aspiration towards the things of mind, and later towards that which is more abstract and synthetic. The indwelling egoic Flame or Light now radiates from an inner centre to the periphery, lighting the causal body and giving indication of burning. To the on-looking Hierarchy it is apparent that the divine fire is permeating and warming and radiating throughout [27] the causal body., and that the Ego is becoming ever more conscious on his own plane, and ever more interested—via the permanent atoms,—in the life of the Personality. The physical brain of the Personality is not yet aware of the difference between inherent mental capacity and the directed impress of the indwelling Ego, but the time is becoming ripe for a change of some kind, and evolution is moving with rapidity. The fourth period approaches. I would here sound a warning. All this proceeds not in ordered sections, if so I may term it. It proceeds as proceeds the greater system, with constant overlapping. and with parallelism, due to the inherent ray of the spirit or Monad, to cyclic changes, to diversity of forces playing astrologically and oft from unknown cosmic centres upon the palpitating life within the atoms….

Con người đã chế ngự được thể xác và mỗi kiếp y lại tạo một thể xác tốt hơn. Y có thể tình cảm ngày càng đạt yêu cầu tinh luyện nhiều hơn (hãy chú ý đến nghĩa huyền bí của từ này). Y nhận thức được những niềm vui trí tuệ và luôn cố gắng để có một thể trí kiện toàn hơn. Sự ham muốn của y hướng lên cao chứ không xuống thấp, và dần dần được chuyển hóa thành chí nguyện. Lúc đầu chí nguyện ấy hướng về những vấn đề của trí tuệ, và về sau hướng đến những gì trừu tượng và tổng hợp hơn. Ngọn Lửa hay Ánh sáng của Chân ngã nội tâm giờ đây chiếu từ trung tâm đến ngoại vi, thắp sáng thể nguyên nhân và có dấu hiệu bừng cháy. Đối với Đ.Đ.C.G. đang trông nom thì rõ ràng là ngọn lửa thiêng đang xuyên khắp, sưởi ấm và làm [27] chói rạng trọn cả thể nguyên nhân. Chân nhân ngày càng tỉnh thức trên cảnh giới của mình và ngày càng quan tâm đến cuộc sống của Phàm nhân – qua các nguyên tử trường tồn. Bộ não hồng trần của Phàm nhân vẫn chưa phân biệt được khả năng trí tuệ sẵn có và các ấn tượng đến từ Chân nhân bên trong, nhưng đã đến lúc có một sự thay đổi nào đó, và cuộc tiến hóa ngày càng nhanh hơn. Sắp đến giai đoạn thứ tư và tôi cũng xin khuyến cáo đôi lời. Tất cả những điều vừa kể không tiến hành theo những phần có thứ tự (xin tạm gọi như thế) mà tiến hành giống như hệ thống vĩ đại hơn (là thái dương hệ). Trong đó luôn luôn có những sự trùng hợp, những diễn tiến song hành, do cung cố hữu của Chân thần (hay Tinh thần), do những thay đổi định kỳ, do những tác động khác nhau của mãnh lực các thiên thể và thường là tác động từ những trung tâm vũ trụ (chưa được biết) vào nhịp sống trong các nguyên tử. . .

The fourth period is that within which co-ordination of the Personality is completed, and that wherein the man comes to himself (as did the prodigal in the far country) and says: “I will arise and go to my Father.” This is the result of the first meditation. The three permanent atoms are functioning and the man is an active, feeling, thinking entity. He reaches the consummation of the personality life and he begins to shift consciously his polarisation from the personality life to the egoic. He stands upon the Path of Discipleship or Probation, or is close to it. He commences the work of transmutation; he laboriously, painfully and carefully, forces his consciousness higher and to expand at will; at any cost he determines to dominate and function in full liberation on the three lower planes; he realises that the Ego must have perfect expression,—physical, emotional and mental,—and he makes, therefore, at infinite cost, the necessary channel. He attracts the attention of the Teachers. [28] In what way does he do this? The causal body begins to radiate the indwelling Light. It has been constructed to a point where it is fine enough to act as a transparency and, where the contact of the Ego is made with the Triad, a point of Flame appears….The light is no longer under the bushel, but suddenly flames forth, and catches the eager eye of the Master.

Giai đoạn thứ tư là khoảng thời gian Phàm nhân đã hoàn toàn điều hợp, lúc mà con người trực nhận chính mình (như đứa con đi hoang ở chốn tha phương) và nói rằng: “Tôi sẽ vươn lên và về với Cha tôi.” Đây là hậu quả của lần tham thiền thứ nhất. Cả ba nguyên tử trường tồn đều hoạt động và con người giờ đây là một sinh linh có tình cảm, biết suy nghĩ và chủ động. Y đạt mức sung mãn trong đời sống Phàm nhân, và đang hữu thức chuyển sự phân cực từ cuộc sống Phàm ngã sang Chân ngã. Y đang ở trên Con đường Đệ tử hay Con đường Dự bị, hoặc tiến gần đến mức đó. Y bắt đầu làm công việc siêu hóa. Một cách khó nhọc, đau khổ và thận trọng, y buộc tâm thức mình dâng cao hơn và mở rộng như ý muốn. Bằng mọi giá y quyết ngự trị và hoạt động hoàn toàn tự do trong tam giới. Y biết rằng Chân nhân phải biểu lộ hoàn toàn trên các cõi hồng trần, tình cảm, và trí tuệ, và do đó mà phải trả giá rất đắt để kiến tạo đường dẫn truyền cần thiết. Y thu hút sự chú ý của các Huấn sư. Bằng cách nào? Ánh sáng nội [28] tâm bắt đầu chói rạng ra ngoài thể nguyên nhân. Nó được cấu tạo tinh anh đến mức trở thành một thể trong suốt, và ở điểm Chân nhân tiếp xúc với Tam nguyên hiện ra một Ngọn Lửa. …Ánh sáng không còn bị che án mà bỗng nhiên bừng lên thành ngọn lửa, ở trong tầm nhìn của Chân sư đang thiết tha tìm kiếm.

This marks the period between twenty-eight and thirty-five in the life of the adult. It is the period wherein a man finds himself, discovers what his line of activity may be, what he can accomplish, and from the worldly standpoint, comes into his own.

Đây là giai đoạn từ hai mươi tám đến ba mươi lăm tuổi trong cuộc sống của người trưởng thành. Đây là giai đoạn mà mỗi người tìm thấy chính mình, tìm ra được lối hoạt động cho mình, biết được những gì y có thể thành tựu, và từ quan điểm của trần thế y trở về với con người thật của y.

During the fifth period, the Flame gradually breaks through the periphery of the causal body, and the “path of the just shineth ever more and more unto the perfect day.” It is in the fourth period that meditation commences,—the mystic meditation that leads, in the fifth period, to that occult meditation that brings about results, being under the law and hence following the line of the ray. It is by meditation that the man—as a Personality—feels out the vibration of the Ego, and seeks to reach up to the Ego and bring the egoic consciousness ever more and more down, so as to include consciously the physical plane. It is by meditation or by retreating within that the man learns the significance of Fire, and applies that fire to all the bodies, till naught is left save the fire itself. It is by meditation, or the reaching from the concrete to the abstract, that the causal consciousness is entered, and man—during this final period—becomes the Higher self and not the Personality.

Trong giai đoạn thứ năm Ngọn Lửa từ từ xuyên qua ngoại vi của thể nguyên nhân, và “con đường của người công chính cứ mãi chói rạng hơn cho đến ngày toàn hảo.” Trong giai đoạn thứ tư tham thiền đã bắt đầu. Và chính tham thiền thần bí đã đưa hành giả đến tham thiền huyền môn trong giai đoạn thứ năm, mang lại những kết quả đúng định luật và theo đúng đường hướng cung của mình. Nhờ tham thiền mà con người (là Phàm nhân) cảm được sự rung động của Chân nhân, tìm cách đạt đến Chân nhân để đưa tâm thức Chân nhân xuống ngày càng nhiều, cho đến mức tâm thức đó bao gồm cả cõi trần một cách ý thức. Chính nhờ tham thiền hay là quay vào nội tâm mà hành giả học được thực nghĩa của Lửa và áp dụng lửa này vào tất cả các thể, cho đến khi tất cả đều bị thiêu hủy, chỉ còn ngọn lửa mà thôi. Chính nhờ tham thiền, hay là từ cụ thể đạt đến trừu tượng, mà hành giả nhập vào tâm thức của Chân ngã, và trong giai đoạn cuối này trở thành Chân ngã chứ không còn là Phàm nhân nữa.

The polarisation shifts during the fifth period (the period of the Path of Initiation) entirely from the Personality to the Ego, until, at the close of that period, liberation is complete, and the man is set free. Even the [29] causal body is known as a limitation and the emancipation is completed. The polarisation then shifts higher into the Triad—the shifting beginning at the third Initiation. The physical permanent atom goes and the polarisation becomes higher mental; the emotional permanent atom goes and the polarisation becomes intuitional; the mental unit goes and the polarisation becomes spiritual. The man then becomes a Master of the Wisdom and is of the symbolic age of forty-two, the point of perfected maturity in the solar system.

Trong giai đoạn thứ năm (giai đoạn Con đường Điểm đạo) sự phân cực hoàn toàn chuyển từ Phàm nhân đến Chân nhân. Đến cuối giai đoạn này hành giả được hoàn toàn tự do và giải [29] thoát. Ngay đến thể nguyên nhân cũng bị xem là một sự hạn chế và việc giải phóng đã xong. Bấy giờ sự phân cực lại chuyển lên cao hơn, nhập vào Tam nguyên – sự dịch chuyển này bắt đầu vào kỳ Điểm đạo thứ ba. Nguyên tử trường tồn hồng trần bị bỏ đi, và sự phân cực trở thành của thượng trí. Nguyên tử trường tồn thể tình cảm bị bỏ đi và sự phân cực lên đến thể bồ-đề (trực giác). Nguyên tử trường tồn hạ trí bị bỏ đi và sự phân cực lên đến atma (thể tinh thần). Bấy giờ, con người trở thành một Chân sư Minh triết, được tượng trưng ở tuổi bốn mươi hai, mức trưởng thành hoàn hảo trong Thái dương hệ.

A still later period comes, corresponding to the ages forty-two to forty-nine, wherein the sixth and seventh Initiations may be taken, but this period concerns not the readers of these letters….

Hãy còn một giai đoạn sau nữa, tương ứng với độ tuổi từ bốn mươi hai đến bốn mươi chín là giai đoạn mà hành giả có thể được điểm đạo lần thứ sáu và thứ bảy, nhưng giai đoạn đó chưa liên quan đến các độc giả của những bức thư này. . . .

JUNE 9, 1920.

Ngày 9-6-1920.

The Specific Gravity and Content of the Causal Body.

Trọng lượng riêng và Dung tích của Thể nguyên nhân.

This subject, anent the causal body, opens up for the thinker much food for speculation. The literal figures and the dimensional lines cannot be given. They form one of the secrets of initiation but certain ideas may be suggested and submitted to the consideration of all interested.

Vấn đề thể nguyên nhân bao gồm nhiều điều để các nhà tư tưởng suy ngẫm. Không thể nêu rõ hình dạng và kích thước của nó được, vì đó là một bí mật điểm đạo, nhưng tôi có thể gợi lên vài ý tưởng để cho những ai quan tâm có thể xem xét.

Just what do you mean when you speak of the causal body? Say not glibly, the body of causes, for words thus spoken are oft but nebulous and vague. Let us nowconsider the causal body and find out its component parts.

Vậy thể nguyên nhân là gì? Đừng nói ngay rằng đó là thể của những nguyên nhân, vì nói như thế có vẻ mơ hồ, không rõ ràng. Giờ đây, chúng ta hãy xem xét thể này và tìm ra những thành phần cấu tạo nó.

On the involutionary path you have what is termed the Group Soul, aptly described (as far as earth words permit) as a collection of triads, enclosed in a triple envelop of monadic essence. On the evolutionary path, groups of causal bodies correspond and are similarly composed, three factors entering in. [30]

Trên con đường tiến hóa giáng hạ chúng ta có cái gọi là Hồn khóm, thường được mô tả (theo ngôn từ thế gian) là một tập hợp các tam nguyên ở trong một bọc có ba lớp làm bằng chất tinh hoa của Chân thần. Trên con đường tiến hóa thăng thượng, có những nhóm thể nguyên nhân tương ứng cũng được cấu tạo tương tự, với ba yếu tố xen vào. [30]

The causal body is a collection of permanent atoms, three in all, enclosed in an envelop of mental essence…. What happens at the moment when animal-man becomes a thinking entity, a human being? The approximation of the self and the not-self by means of mind, for man is “that being in whom highest spirit and lowest matter are linked together by intelligence.” What do I mean by this phrase? Just this: that when animal-man had reached a point of adequacy; when his physical body was sufficiently co-ordinated, when he had an emotional or desire nature sufficiently strong to form a basis for existence, and to guide it by means of instinct, and when the germ of mentality was sufficiently implanted to have donated the instinctive memory and correlation of ideas that can be seen in the average domesticated animal, then the descending spirit (which had taken to itself an atom on the mental plane) judged the time ripe for taking possession of the lower vehicles. The Lords of the Flame were called in and they effected the transfer of polarisation from the lower atom of the Triad to the lowest atom of the Personality. Even then, the indwelling Flame could come no lower than the third subplane of the mental plane. The life of the first Logos must be blended with that of the second Logos and based on the activity of the third Logos.

Thể nguyên nhân là tập hợp của ba hạt nguyên tử trường tồn, ở trong một bọc làm bằng tinh chất của cõi trí…. Điều gì xảy ra khi người thú trở thành một con người thực sự, một sinh linh biết suy nghĩ? Đó là cái ngã tiến đến gần cái phi ngã nhờ phương tiện trí tuệ, vì con người là “sinh linh mà trong đó tinh thần cao nhất và vật chất thấp nhất được liên kết bằng trí thông tuệ.” Câu này có ý nghĩa gì? Tức là: khi người thú tiến đến trình độ thích hợp, khi xác thân y đã điều hợp đúng mức, khi tình cảm hay dục tính đã đủ mạnh để tạo cơ bản cho sự sinh tồn và hướng dẫn cuộc sống bản năng, và khi mầm trí năng đã ăn sâu đến mức giúp y có được ký ức của bản năng và sự liên hợp các ý tưởng, là điều có thể thấy ở một con thú nhà mức trung bình, thì bấy giờ Tinh thần đang giáng thế (đã thu nạp một nguyên tử trên cõi trí) xét rằng đã đến lúc chiếm hữu các hạ thể. Các Hỏa Chân quân được vời đến, các Ngài giúp chuyển sự phân cực từ nguyên tử thấp nhất của Tam nguyên đến nguyên tử thấp nhất của Phàm nhân. Ngay cả lúc này, Ngọn Lửa nội tại cũng không thể xuống thấp hơn cõi phụ thứ ba của cõi trí. Ở đó hai bên gặp nhau, nhập một và tạo thành thể nguyên nhân. Trong thiên nhiên tất cả đều tùy thuộc lẫn nhau, và Chủ thể tư tưởng ở nội tâm không thể chế ngự được tam giới nếu không có sự giúp đỡ của phàm ngã. Sự sống của Thượng Đế Ngôi một phải hòa hợp với sự sống của Ngôi hai và phải dựa vào hoạt động của Ngôi ba.

Therefore, you have at the moment of individualisation, which is the term used to express this hour of contact, on the third subplane of the mental plane a point of light, enclosing three atoms, and itself enclosed in a [31] sheath of mental matter. The work then to be done consists of:

Vì thế, vào thời điểm biệt lập ngã tính (từ dùng để diễn tả giờ phút tiếp xúc này) ở cõi phụ thứ ba của cõi trí chúng ta thấy một điểm sáng bao bọc ba hạt nguyên tử và tất cả đều [31] được bọc trong một lớp vật chất cõi trí. Sau đó, những việc phải làm gồm có:

1. Causing that point of light to become a flame, by steadily fanning the spark and feeding the fire.

1. Khiến cho điểm sáng ấy bùng lên thành ngọn lửa bằng cách quạt đều và cho thêm chất đốt.

2. Causing the causal body to grow and expand from being a colourless ovoid, holding the Ego like a yolk within the egg-shell, to a thing of rare beauty, containing within itself all the colour of the rainbow. This is an occult fact. The causal body will palpitate in due course of time with an inner irradiation, and an inner glowing flame that will gradually work its way from the centre to the periphery. It will then pierce through that periphery, using the body (that product of millennia of lives of pain and endeavour) as fuel for its flames. It will burn all up, it will mount upward to the Triad, and (becoming one with that Triad) will be re-absorbed into the spiritual consciousness,—will carry with it—using heat as the symbol—an intensity of heat or quality of colour or vibration that before were lacking.

2. Làm cho thể nguyên nhân tăng trưởng và mở rộng từ một khối bầu dục không màu (giữ Chân nhân trong đó như lòng đỏ ở trong vỏ trứng) thành một khối đẹp đẽ hiếm có, gồm trong đó tất cả những màu sắc của cầu vồng. Đây là một sự kiện huyền môn. Đến đúng lúc thể nguyên nhân sẽ rung chuyển với sự chói sáng bên trong và ngọn lửa nội tại đang tỏa sáng sẽ dần dần chiếu từ trung tâm ra ngoại vi. Sau đó, ngọn lửa sẽ xuyên thủng chu vi, dùng thể này (là sản phẩm của vô số kiếp đau khổ và cố gắng) làm mồi cho nó. Nó đốt tan tất cả, và cháy leo lên tận Tam nguyên. Khi đã hợp nhất với Tam nguyên, nó sẽ được tái hấp thu vào tâm thức tinh thần, mang về cho Chân thần (hãy dùng sức nóng làm biểu tượng) một nhiệt lượng cường liệt, hay phẩm tính của màu sắc hoặc rung động mà trước đó còn thiếu.

Therefore the work of the Personality—for we have to view all from that angle until egoic vision may be ours,—is first to beautify, build and expand the causal body; secondly to withdraw within it the life of the Personality, sucking the good out of the personal life and storing it in the body of the Ego. We might term this the Divine Vampirism, for always evil is but the other side of good. Then, having accomplished this, comes the application of the flame to the causal body itself and the joyous standing by whilst the work of destruction goes on, and the Flame—the live inner man and the spirit of divine life—is set free and mounts to its source.

Vì chúng ta phải nhìn mọi việc theo quan điểm của Phàm ngã cho đến khi đạt được tầm nhìn của Chân ngã, nên công việc của Phàm nhân trước hết là tô điểm, xây dựng và mở rộng thể nguyên nhân. Kế đến là thu sự sống của phàm ngã vào trong đó, rút hết những gì tốt đẹp của cuộc sống phàm ngã đem chứa vào thể của Chân nhân. Chúng ta có thể gọi việc thu hút sự sống này là Ma cà rồng Thiêng liêng, vì luôn luôn ác là mặt trái của thiện. Khi đã hoàn tất việc này rồi, ngọn lửa bèn đốt ngay thể nguyên nhân, lặng nhìn một cách hoan hỉ trong khi việc thiêu hủy tiếp diễn. Rồi Ngọn Lửa – là con người đang sống ở nội tâm, là tinh thần của sự sống thiêng liêng – được cháy tự do và leo lên đến tận nguồn của nó.

The specific gravity of the causal body fixes the moment of emancipation and marks the time when the work of beautifying and building is completed, when the [32] Temple of Solomon is erected, and when the weight (occultly understood) of the causal body measures up to the standard looked for by the Hierarchy. Then the work of destruction supervenes and liberation approaches. Spring has been experienced, the full verdure of summer has succeeded, now must be felt the disintegrating force of autumn,—only this time it is felt and applied on mental levels and not on physical. The axe is laid to the root of the tree, but the life essence is garnered into the divine storehouse.

Trọng lượng riêng của thể nguyên nhân ấn định thời điểm giải thoát và đánh dấu mức hoàn tất công việc xây dựng và tô [32] điểm, khi Ngôi đền Solomon đã xây xong và trọng lượng (hiểu theo nghĩa huyền bí) của thể nguyên nhân đã đạt được tiêu chuẩn mà Đ.Đ.C.G. mong muốn. Bấy giờ việc tiêu hủy xảy ra và sự giải thoát gần kề. Khi mùa xuân đã qua, cuối mùa hạ cây cối đã xanh tốt rườm rà, thì giờ đây phải cảm được sức tan rã của mùa thu, – chỉ có điều lần này sức mạnh ấy được cảm thấy và áp dụng ở các cấp trí tuệ chứ không ở cấp hồng trần. Lưỡi rìu đã đặt vào gốc cây (sắp đốn nó), nhưng tinh hoa của sự sống đã được chứa vào kho thiêng liêng.

The content of the causal body is the accumulation by slow and gradual process of the good in each life. The building proceeds slowly at first, but towards the end of incarnation—on the Probationary Path and on the Path of Initiation—the work proceeds rapidly. The structure has been reared, and each stone quarried in the personal life. On the Path, in each of its two divisions, the work of completing and beautifying the Temple proceeds with greater rapidity….

Dung tích của thể nguyên nhân là sự tích lũy những gì tốt đẹp của mỗi kiếp sống qua tiến trình tuần tự và chậm chạp. Việc xây dựng lúc đầu tiến hành rất chậm, nhưng gần cuối cuộc luân hồi, – trên Con đường Dự bị và trên Con đường Điểm đạo – thì diễn tiến nhanh hơn. Công trình đã được dựng lên và mỗi viên đá đều được thu góp từ cuộc sống cá nhân. Trong mỗi giai đoạn này trên Đường Đạo, việc tô điểm và hoàn thành Ngôi Đền được tiến hành nhanh chóng hơn nữa…

Briefly and in conclusion of this matter, I would seek to point out that the circumference of the causal body varies according to type and ray. Some egoic bodies are of a form more circular than others; some are more ovoid, and others more elongated in shape. It is the content and the pliability that matter, and above all the occult permeability of the lower auric egg that permits of contact with other egos, yet retains identity; that merges itself with its fellows, yet preserves individuality; and that absorbs all that is desirable, yet keeps ever its own shape.

Nói chung, chu vi của thể nguyên nhân thay đổi tùy theo loại và tùy theo cung. Một vài thể Chân nhân có hình dáng tròn hơn các thể khác. Một số thể giống hình bầu dục, còn những thể khác lại dài hơn. Nhưng dung tích và khả năng thích ứng mới là vấn đề quan trọng, và quan trọng nhất là khả năng thẩm thấu huyền bí của noãn hào quang thấp khiến nó có thể tiếp xúc được với các Chân nhân khác mà đặc tính vẫn giữ nguyên; có thể hòa hợp với các thể nguyên nhân khác mà vẫn giữ được cá tính; và có thể hấp thu những gì cần thiết mà vẫn giữ được nguyên hình.

JUNE 16, 1920.

Ngày 16-6-1920.

4 – Condition of the Causal Body

4. Điều kiện của Thể nguyên nhân.

The fourth factor underlying the choice of a method [33] of meditation is our subject today and consists of the condition of the causal body.

Hôm nay chúng ta đề cập đến yếu tố thứ tư trong việc [33] chọn lựa phương pháp thiền, tức là điều kiện của thể nguyên nhân.

We have dealt with the causal body in its relationship to the Personality or lower self, showing the interplay between the two and their interdependence. Through steady application to occult meditation, and through the gradual stilling of the lower mind, through concentration and the wise following of the egoic ray meditation, balanced by the personality ray mediation, we found that the relationship of the causal body to the Personality became ever closer and the channel connecting the two became ever more clear and adequate. This resulted eventually, we saw, in a shifting of polarisation from the lower to the higher and later to complete emancipation from both,—centralisation ensuing then in the spiritual consciousness. We dealt with the matter from the lower point of view, seeing it from the standpoint of a man in the three worlds.

Chúng ta đã bàn đến sự liên hệ của thể nguyên nhân với Phàm nhân hay phàm ngã, cho thấy sự tương tác và tùy thuộc lẫn nhau của cả hai. Nhờ hành thiền huyền môn một cách đều đặn, liên tục, nhờ dần dần định tĩnh hạ trí bằng cách tập trung và khôn ngoan theo lối thiền của cung Chân ngã, cũng như tham thiền theo cung của phàm ngã để lập thế thăng bằng, mối liên hệ kết hợp thể nguyên nhân và phàm ngã ngày càng trở nên trong sáng và đầy đủ hơn. Sự liên hệ đó rốt cuộc đã chuyển sự phân cực từ phàm ngã đến Chân ngã và về sau sự phân cực còn cao hơn cả hai để tập trung vào tâm thức của Chân thần. Chúng ta đã bàn về vấn đề này theo quan điểm thấp, nhìn từ lập trường của một người trong tam giới.

Today we will deal with the matter from the standpoint of the Higher Self, from the egoic level, and consider the relationship of that Self to the Hierarchy, to surrounding egos, and to the Spirit. It will be difficult to do more than give some few hints, for much that I could say would be little comprehended, and much be too occult and dangerous for general communication.

Hôm nay chúng ta bàn đến vấn đề theo quan điểm của Chân ngã, ở tầm mức của Chân nhân, và xem xét sự liên hệ của Chân nhân với Đ.Đ.C.G., với các Chân nhân ở chung quanh, và với Chân thần. Thật khó làm gì hơn là đưa ra vài nét khái quát, vì tôi có thể nói nhiều nhưng các bạn chỉ hiểu được chút ít, và nhiều điều còn quá huyền bí, chưa thích hợp để phổ biến cho đại chúng.

Three things may be imparted, which—when wisely meditated upon—may lead to illumination:

Tôi có thể truyền đạt ba điều, nếu lấy đó mà tham thiền một cách chín chắn, khôn ngoan bạn có thể được soi sáng:

The Ego on its own plane, realises consciously its relationship to the Master, and seeks to transmit that consciousness to the Personality.

Chân nhân ở trên cảnh giới của mình hữu thức nhận ra được sự liên hệ với Chân sư, và tìm cách chuyển tâm thức đó cho Phàm nhân.

The Higher self on its own plane, is not trammeled by time and space, and (knowing the future as well as that which is past) seeks to bring the desired end nearer and make it more rapidly a fact. [34]

Chân nhân ở trên cõi của mình, không vướng bận với không gian và thời gian và (vì biết cả tương lai cũng như quá khứ) nên tìm cách làm cho cứu cánh mong muốn ấy mau chóng trở thành hiện thực.

The Higher Self or Ego on its own plane has direct relationship with other egos on the same ray, and on a corresponding concrete or abstract ray, and—realising that progress is made in group formation—works on that plane at the helping of his kind. These facts are already half apprehended among students but by a slight elaboration I may make it clearer.

[34] Chân nhân ở trên cõi của mình liên hệ trực tiếp với các Chân nhân khác có cùng một cung, cùng một cung cụ thể hay cung trừu tượng tương ứng. Vì các Chân nhân đều biết rằng sự tiến bộ càng nhanh khi cùng hoạt động trong nhóm, nên tìm cách trợ giúp nhau trên cảnh giới đó. Những sự kiện này, các môn sinh đã hiểu được phân nửa. Tôi sẽ trình bày thêm vài điều để làm sáng tỏ hơn.

Relationship of the Ego to the Hierarchy.

Sự liên hệ của Chân nhân với Đ.Đ.C.G.

The relationship of the Ego to some one Master is at this stage consciously realised, but is nevertheless, itself of evolutionary development. As we have been told, there are sixty thousand million units of consciousness or spirits in the evolving human hierarchy. These are found on causal levels, though the numbers are slightly less now, owing to the attainment of the fourth Initiation by individuals from time to time. These egos at different stages of development are all linked with their Monad, Spirit or Father in Heaven, in much the same way (only in finer matter) as the Ego is linked with the Personality.

Sự liên hệ của Chân nhân với một vị Chân sư được hữu thức nhận ra trong giai đoạn này, tuy nhiên đây chính là sự phát triển trên đường tiến hóa. Như chúng ta đã biết, có sáu mươi tỷ đơn vị tâm thức (hay tinh thần) trong các đẳng cấp tiến hóa của nhân loại. Họ đang ở cấp Chân nhân, dù hiện nay con số này hơi ít đi vì thỉnh thoảng lại có những người đạt mức điểm đạo thứ tư. Các Chân nhân này ở trong những giai đoạn phát triển khác nhau, đều liên kết với Chân thần (Tinh thần hay là Cha ở trên Trời) của mình, theo cách cũng giống như Chân nhân liên kết với Phàm nhân (chỉ khác là trong vật chất tinh vi hơn).

All the Monads are, as you know, under the control, or rather form part, of the consciousness of one of the Planetary Spirits. On egoic levels, the egos are in a similar condition. An Adept of their ray supervises their general evolution, dealing with them in groups. These groups are formed under three conditions:

Như các bạn biết, mọi Chân thần đều ở dưới sự kiểm soát của một trong những Đức Hành Tinh Thượng Đế, hay đúng ra là một thành phần của tâm thức Ngài. Trên cảnh giới của mình, các Chân nhân cũng ở trong tình trạng tương tự. Một Đấng Cao cả thuộc cung của các Chân nhân này giám sát sự tiến hóa tổng quát của họ, trông nom họ theo từng nhóm. Những nhóm này được hình thành theo ba điều kiện:

a—As to sub-ray of the egoic ray.

a. Tùy theo cung phụ của cung Chân nhân.

b—As to period of individualisation or of entrance into the human kingdom.

b. Tùy theo giai đoạn biệt lập ngã tính hay là lúc nhập vào hàng nhân loại.

c—As to point of attainment.

c. Tùy theo trình độ tiến hóa.

The Adept of their ray handles the general supervision but under Him work the Masters each on His own ray, and with Their own individual groups, who are affiliated with Them through period, through karma and [35] through point of vibration. Under the Masters work the disciples who have the consciousness of the Higher Self, and are therefore able to work on causal levels and aid in the development of those egos whose causal bodies are less developed than their own.

Đấng Cao cả nói trên sẽ giám sát tổng quát, nhưng dưới Ngài còn có nhiều vị Chân sư, mỗi vị có cung riêng và nhóm riêng, gồm những người liên kết với các Ngài theo từng giai [35] đoạn, do nghiệp quả và do mức độ rung động. Dưới các Chân sư là những đệ tử đã có tâm thức Chân ngã, nhờ đó họ có thể làm việc trên cõi của Chân nhân và trợ giúp những Chân nhân có thể nguyên nhân kém phát triển hơn họ.

All is beautifully subject to law, and as the work of developing the egoic body is dependent upon the progress made in the threefold personality, the Ego is consequently aided on lower levels by two different disciples, one working on emotional levels and reporting to another disciple who works upon the mental vehicle. He in his turn reports to the disciple with causal consciousness, who reports again to the Master. All this is done with the co-operation of the indwelling consciousness in the causal body. This, as you see, entails five factors concerning themselves with the aiding of the Ego in his evolutionary development:

Tất cả đều theo đúng định luật một cách tốt đẹp. Vì việc phát triển thể nguyên nhân tùy thuộc vào sự tiến bộ đạt được ở ba thể phàm nhân, do đó Chân nhân được hai vị đệ tử trợ giúp ở cấp thấp hơn. Một vị làm việc trên các cấp tình cảm và báo cáo cho vị trợ giúp thể trí. Vị này mới báo cáo cho vị trợ giúp thể nguyên nhân để vị ấy trình lại cho Chân sư biết. Toàn bộ công việc này được thực hiện có sự cộng tác của tâm thức Chân ngã ở trong thể nguyên nhân. Như vậy chúng ta thấy rằng có năm yếu tố liên quan đến việc trợ giúp sự phát triển của Chân nhân trên đường tiến hóa:

l—The Adept of his Ray.

1. Đấng Cao cả chăm sóc cung Chân nhân.

2—The Master of his group.

2. Vị Chân sư của nhóm y.

3—A disciple with causal consciousness.

3. Một vị đệ tử trợ giúp tâm thức thể nguyên nhân.

4—A disciple on the mental plane.

4. Một vị đệ tử giúp thể trí.

5—A helper on the emotional plane.

5. Một vị phù trợ ở cõi tình cảm.

For a long period of lives the Ego remains practically unconscious of the Personality. The magnetic link exists. but that is all until the time comes when the personal life reaches a point where it has somewhat to add to the content of the causal body—a body at first small, colourless and insignificant. But the hour comes when the stones are first brought perfected from the quarry of the personal life, and the first colours are painted in by the man, the builder and the artist. Then the Ego begins to give attention, rarely at first, but with increasing frequency, until lives come around in which the Ego [36] definitely works at the subjugation of the lower self, at the enlargement of the communicating channel, and at the transmission to the physical brain consciousness of the fact of its existence and the goal of its being. Once that is accomplished, and the inner fire is freer in its passage, lives are then given to the stabilising of that impression, and to the making of that inner consciousness a part of the conscious life. The flame radiates downward more and more until gradually the different vehicles come into line, and the man stands on the Probationary Path. He is ignorant yet of what lies ahead, and is conscious only of wild and earnest aspiration and of innate divine longings. He is eager to make good, longing to know, and dreaming always of someone or something higher than himself. All this is backed by the profound conviction that in service to humanity will the dreamed-of goal be reached, will the vision become reality, the longing fructify into satisfaction, and aspiration be merged in sight.

Qua một thời gian lâu dài gồm nhiều kiếp sống, Chân nhân vẫn chưa thực sự ý thức được Phàm nhân. Sự liên kết từ lực vẫn hiện hữu, nhưng chỉ bắt đầu phát triển khi cuộc sống Phàm nhân đạt mức có điều gì để thêm vào dung tích của thể nguyên nhân – lúc đầu là một thể bé nhỏ, không màu sắc và không đáng kể. Tuy nhiên, đã đến lúc những viên đá hoàn hảo lần đầu tiên được mang từ cuộc sống Phàm nhân đến thể nguyên nhân. Con người là kẻ xây dựng, là nhà nghệ sĩ, tô điểm lên thể này các màu sắc đầu tiên. Bấy giờ Chân nhân mới bắt đầu chú ý đến Phàm ngã. Ban đầu rất ít khi, nhưng ngày một nhiều hơn, cho đến những kiếp mà Chân nhân cố [36] gắng rõ rệt để chế ngự Phàm ngã, mở rộng đường liên thông và chuyển đến cho ý thức não bộ hồng trần biết sự hiện hữu và mục đích của cuộc sống Chân nhân. Khi việc này đã hoàn tất, ngọn lửa nội tại đã lưu thông tự do hơn, thì một số kiếp được dùng để củng cố ấn tượng đó, làm cho tâm thức nội tại của Chân nhân trở thành một phần của cuộc sống tỉnh thức trong thân xác. Ngọn lửa ngày càng chiếu xuống cho đến khi các thể dần dần chỉnh hợp và hành giả bước lên Con đường Dự bị. Y vẫn chưa biết được đoạn đường phía trước mà chỉ ý thức được chí nguyện tuy thô sơ nhưng nồng nhiệt và niềm khao khát thiêng liêng bẩm sinh. Y hăng hái làm lành, khao khát muốn hiểu biết và luôn luôn mơ tưởng đến một người nào hay một điều gì cao cả hơn y. Tất cả đều dựa vào niềm tin sâu sắc rằng trong cố gắng phụng sự nhân loại y sẽ đạt được mục tiêu mơ ước, viễn ảnh sẽ thành sự thực, niềm khao khát sẽ được hài mãn và chí nguyện sẽ hoàn thành.

The Hierarchy begins to take action and his instruction is carried out as aforesaid…. Until now the Teachers have only watched and guided without definitely dealing with the man himself; all has been left to the Ego and the life divine to carry out the plan, the attention of the Masters being directed to the Ego on his own plane. The Ego bends every effort to quicken vibration, and to force the oft-rebelling lower vehicles to respond and measure up to the rapidly increasing force. It is largely a matter of increased fire or heat, and consequent intensification of vibratory capacity. The egoic fire waxes ever greater until the work is done, and the purificatory fire becomes the Light of Illumination. Ponder on this sentence. As above, so below; on each rung of the ladder the process is repeated; the [37] Monad, at the third Initiation, begins itself to be conscious of the Ego. The work, then, is more rapid owing to the rarity of the material and to the fact that resistance is a factor in the three worlds but not elsewhere.

Đ.Đ.C.G. bắt đầu hành động và y được giáo huấn như đã nói trước đây. . . . Từ trước đến giờ, các Huấn sư chỉ trông nom và hướng dẫn, chứ không trực tiếp làm việc với chính phàm nhân. Mọi sự đều để cho Chân nhân và sự sống thiêng liêng (bên trong) thực hiện kế hoạch. Sự chú ý của Chân sư chỉ được hướng đến Chân nhân trên cõi thượng thiên. Chân nhân dồn mọi nỗ lực để tăng cường nhịp rung động, buộc các hạ thể ngoan ngạnh phải đáp ứng và tuân phục sức mạnh chế ngự ngày càng tăng. Đây phần lớn là việc gia tăng sức nóng hay là lửa, và do đó mà tăng cường khả năng rung động. Ngọn lửa của Chân nhân ngày càng chói rạng cho đến khi việc tăng cường đã hoàn tất, và lửa tinh luyện trở thành Ánh sáng Khai ngộ. Hãy suy ngẫm kỹ câu này. Ở trên sao, ở dưới vậy. Trên mỗi nấc thang tiến hóa, quá trình này vẫn tái diễn. Vào cuộc [37] Điểm đạo thứ ba, Chân thần bắt đầu biết đến Chân nhân. Công việc càng tiến hành nhanh chóng vì chất liệu tinh vi hơn và cũng vì sự cản trở chỉ có trong tam giới (ba hạ thể) chứ không ở đâu khác.

Hence, pain ceases for a Master. That is, pain as we know it on earth, which is largely pain in matter. The pain that lies hid in comprehension, not resistance, is felt to the highest circles, yea, it reaches to the Logos Himself. But this is beside the point and well-nigh incomprehensible to you who are yet trammelled by matter.

Giờ đây, sự đau khổ chấm dứt đối với vị Chân sư. Đó là sự đau khổ mà chúng ta biết trên địa cầu, phần lớn là sự đau khổ trong vật chất. Còn sự đau khổ trong nhận thức (chứ không do chống kháng) thì chỉ những cấp tiến hóa cao nhất mới cảm được, vâng, nó lên tận Đức Thượng Đế. Nhưng tôi đã nói ngoài đề rồi và các bạn là những người còn bị vật chất chi phối, hầu như không thể hiểu.

Relationship of the Ego to its own development.

Chân Nhân trong việc tự phát triển.

The Ego seeks to bring about the desired end in three ways:—

Chân nhân cố gắng đạt mục tiêu mong muốn bằng ba cách: –

1—By definite work on abstract levels. It aspires to contact and enclose the permanent atom, its first direct approach to the Triad.

1. Bằng cố gắng rõ rệt trên các cấp độ trừu tượng. Chân nhân muốn tiếp xúc và bao bọc hạt nguyên tử trường tồn thượng trí, là bước đầu nó tiến đến Tam nguyên.

2—By definite work on colour and sound with the aim in view of stimulation and vivification, working thus in groups and under the guidance of a Master.

2. Bằng cách dùng màu sắc và âm thanh phù hợp để kích thích và làm sinh động. Vì thế phải làm việc từng nhóm, dưới sự hướng dẫn của Chân sư.

3—By frequent attempts to definitely control the lower self, a thing distasteful to the Ego, whose tendency is to rest content with consciousness and aspiration on its own plane. Forget not that the Ego itself has somewhat to wrestle with. The refusal to incarnate is not found only on spiritual levels, but is found also on that of the Higher Self. Certain developments also, incidental to the factors of time and space (as understood in the three worlds) are aimed at by the Ego, such as the increase of the causal periphery through the study of divine telepathy, systemic psychology and the knowledge of the law of fire. [38]

3. Bằng cố gắng thường xuyên để hoàn toàn chế ngự phàm ngã là điều mà Chân nhân không mấy thích. Bởi vì Chân nhân có khuynh hướng hài lòng với tâm thức và chí nguyện trên cảnh giới của mình. Nên nhớ rằng chính Chân nhân cũng có một vài điểm cần phải phấn đấu để tự chế ngự. Sự từ chối luân hồi không những có ở cấp Chân thần mà còn có cả ở trên cõi của Chân ngã. Chân nhân cũng nhắm đến một số phát triển phụ thuộc vào các yếu tố thời gian và không gian (hiểu theo ý nghĩa trong tam giới), như mở rộng chu vi thể nguyên nhân bằng cách nghiên cứu khoa thần giao cách cảm thiêng liêng, khoa tâm lý thái dương hệ và kiến thức về các định luật của lửa. [38]

Relationship of the Ego to other egos.

Liên hệ giữa các Chân nhân.

Certain things need to be remembered:—

Trong mối liên hệ này có mấy điều cần nhớ: –

The factor of periodicity. Egos that are in incarnation, and egos that are out of incarnation are differentiated and capable of different work. Egos whose reflections are in incarnation are more limited than those who are not. It is almost as if the Higher Self were directed downwards, or willingly circumscribing itself to three-dimensioned existence, whereas the egos out of incarnation are not so limited but work in another direction or dimension. The difference lies in the focusing of attention, during physical plane life. The matter is hard for you to grasp, is it not so? I scarcely know how to express the difference more clearly. It is perhaps as if the incarnating egos were more positive, and the non-incarnating egos more negative.

Yếu tố giai đoạn. Những Chân nhân đang luân hồi và các Chân nhân ở ngoài vòng luân hồi thì khác biệt nhau và có thể làm những công việc khác nhau. Chân nhân nào có phản ảnh (các hạ thể) đang trong vòng luân hồi thì bị giới hạn nhiều hơn các Chân nhân không có. Hầu như Chân ngã hướng xuống dưới, hoặc tự ý giới hạn mình trong cuộc hiện tồn chỉ có ba chiều. Trong khi những Chân nhân ở ngoài vòng luân hồi thì không bị giới hạn đó, và làm việc theo hướng khác hay bề đo khác. Sự khác biệt ở chỗ tập trung chú ý, trong thời gian sống ở cõi trần. Vấn đề hơi khó cho các bạn nắm vững, phải không? Tôi cũng thấy khó diễn tả sự khác biệt này thế nào cho rõ rệt hơn. Có lẽ dường như các Chân nhân đang luân hồi thì tích cực hơn, còn Chân nhân không luân hồi thì tiêu cực hơn.

The factor of activity. This is largely a matter of ray, and affects closely the relationship between egos. Those on similar rays coalesce and vibrate more readily to each other than those on different rays, and it is only as the second or wisdom aspect is developed that synthesis becomes possible.

Yếu tố hoạt động. Đây phần lớn là vấn đề các cung và ảnh hưởng rất chặt chẽ đến mối quan hệ giữa các Chân nhân. Những Chân nhân có cùng một cung thì sẵn sàng liên hợp và hòa nhịp với nhau hơn là những Chân nhân khác cung. Và chỉ khi nào trạng thái thứ hai hay trạng thái minh triết phát triển thì sự tổng hợp mới có được.

On the third subplane of the mental plane egos are separated into groups—individual separation exists not, but group separation can be felt, incidental to ray and point in evolution.

Ở cõi phụ thứ ba của cõi trí, các Chân nhân được phân thành nhiều nhóm – không có sự phân chia từng cá nhân mà chỉ có sự phân nhóm tùy theo cung và trình độ tiến hóa.

On the second subplane the groups become merged and blend, and from their forty-nine groups are formed (by merging) forty-two. The process of synthesis might be tabulated as above:

Ở cõi phụ thứ hai, các nhóm hòa hợp lẫn nhau và từ 49 nhóm trở thành 42 nhóm (bằng cách sáp nhập). Tiến trình tổng hợp có thể tóm lược như sau:

 Mental plane:

1st subplane

2nd subplane

3rd subplane

 Buddhic plane:

3rd subplane.

1st subplane

 Atmic plane:

Atomic subplane .

 Monadic plane:

[39] I have given a few hints here. It is so little, compared with what will later be known when those of you now studying expand the consciousness still further, but it is all I can as yet impart, and only this has been given with the intent of showing how much has to be considered, when meditation forms are duly set by a Master. He has to take into wise consideration the egoic ray, and the condition of the causal body in its relationship to the lower self and to the Hierarchy. The state of the body must be known, and its content; its relationship to other egos must be duly considered, for all is in group formation. Meditation must therefore be given which is in line with the group to which the Ego is assigned, for as each man meditates he contacts not only his own Ego but also his egoic group, and through that group the Master to Whom he is consequently linked, though the efficacy of a meditation depends upon the work being done in an occult manner and under law. The group significance of meditation is little understood, but the above thoughts are commended to you for your wise study.

Tôi đã đưa ra đây vài nét khái quát. Tuy quá ít so với những gì biết được sau này khi các học viên đã mở mang tâm thức nhiều hơn, nhưng đó là tất cả những điều hiện nay có thể truyền đạt. Mục đích là nhằm nêu rõ rằng có biết bao nhiêu điều cần phải xem xét, khi Chân sư ấn định những thể thức tham thiền thích hợp cho môn sinh. Ngài phải thận trọng cứu xét cung của Chân nhân và tình trạng của thể nguyên nhân trong liên hệ với Phàm ngã và với Đ.Đ.C.G… Ngài cần biết tình trạng và dung tích của thể nguyên nhân. Mối liên hệ với các Chân nhân khác cũng phải được xem xét đúng đắn, vì tất cả các Chân nhân đều sinh hoạt trong nhóm. Vì thế, phương pháp thiền phải được đưa ra phù hợp với nhóm mà Chân nhân đang liên hệ. Bởi vì, khi một người tham thiền, không những y giao tiếp với Chân ngã của y, mà còn tiếp xúc với nhóm Chân nhân của y. Qua nhóm đó, tất nhiên y sẽ tiếp xúc với vị Chân sư của nhóm, dù hiệu quả của tham thiền tùy việc thực hành theo phương pháp huyền môn và đúng định luật. Ý nghĩa tập thể của tham thiền chưa được hiểu bao nhiêu, nhưng những tư tưởng trên đáng cho các bạn nghiên cứu kỹ.

JUNE 17, 1920

Ngày 17-6-1920.

5 – Immediate Need of Period and Man’s Availability

5. Nhu cầu cấp thiết của Thời đại và Khả năng Hữu dụng của Môn sinh.

Today we will consider factor five in deciding methods of Meditation, and will deal with the need of the particular period and the suitability of the man to meet the need.

Hôm nay, chúng ta xét đến yếu tố thứ năm trong việc ấn định phương pháp thiền, bàn về nhu cầu của giai đoạn hiện tại và khả năng thích ứng của hành giả đáp lại nhu cầu đó.

Let us first of all briefly recapitulate, for the value of reiteration is profound. We have taken up briefly the [40] factor of the egoic ray, as it is considered by a teacher in assigning a meditation, and we have seen how each ray aimed at the same goal along a different route, and that each ray necessitated a different type of meditation. We have touched on the modification of the meditation through consideration of the personality ray. Then we took up the factor of time as shown in the causal body, its point of development, and the relationship of that body to its three lower expressions, finishing yesterday with a few brief hints anent the causal body on its own level and its scope of consciousness. All this will have indicated to you how wise must be the teacher who presumes to indicate meditation. One point I would here interpolate:—No meditation that is truly and occultly suitable can be assigned by a teacher who has not the capacity of causal consciousness and contact. When the teacher knows the note, the rate of vibration and the colour, then he can wisely assign, but not before. Before that time, generalisation only is possible, and a meditation given that may approximate the need and also be safe.

Trước hết, chúng ta hãy tóm lược lại, vì việc nhắc đi nhắc lại có giá trị rất sâu xa. Chúng ta đã vắn tắt đề cập đến yếu tố [40] của cung Chân nhân, như vị huấn sư phải cứu xét khi hướng dẫn hành thiền. Chúng ta đã thấy bằng cách nào mỗi cung đi theo một con đường riêng, mà lại cùng nhắm đến mục tiêu giống nhau, và mỗi cung cần một lối thiền riêng. Chúng ta đã đề cập đến việc sửa đổi phương pháp hành thiền khi cứu xét cung phàm ngã. Rồi đề cập đến yếu tố thời gian biểu lộ trong thể nguyên nhân, mức phát triển và liên hệ của thể này với ba hạ thể. Chúng ta đã kết thúc câu chuyện hôm qua bằng vài nét khái quát về thể nguyên nhân ở trên cõi của nó và phạm vi nó ý thức được. Tất cả những điều này cho thấy rằng vị huấn sư phải sáng suốt đến mức nào để hướng dẫn phương pháp thiền cho môn sinh. Ở đây còn một điểm cần thêm vào: – Một vị huấn sư chưa mở tâm thức thể nguyên nhân và chưa tiếp xúc được với Chân ngã thì không thể nào dạy được phương pháp thiền huyền môn thực sự thích hợp. Chỉ đến khi biết được âm điệu, nhịp rung động và màu sắc, vị huấn sư mới có thể hướng dẫn một cách sáng suốt. Nếu không, chỉ nên dạy tổng quát, và một lối thiền tổng quát như thế cũng gần đáp ứng được nhu cầu và cũng an toàn.

Another factor enters now,—a factor that varies somewhat according to the need of the period. All cycles are not as fundamentally important. The periods in a cycle that are of real moment are the termini, and those where overlapping and merging occur. They demonstrate on the physical plane in great revolutions, gigantic cataclysms, and fundamental upheavals in all three departments of the Hierarchy,—the department of the World Teacher, that of the Head of a root-race and that of the Ruler of civilisation or of force. At the points of merging in a cycle, cross-currents are found, and all the system seems to be in a chaotic condition. The middle part of a cycle where the incoming vibration is stabilised and the [41] old has passed away, manifests in a period of calm and apparent equilibrium.

Cũng cần xét một yếu tố khác nữa, – yếu tố này thay đổi phần nào tùy theo nhu cầu của thời đại. Không phải mọi chu kỳ đều có tầm quan trọng cơ bản như nhau. Những giai đoạn thực sự quan trọng trong một chu kỳ là các giai đoạn cuối và những giai đoạn có sự trùng hợp và hòa lẫn các biến cố xảy ra. Những lúc như thế, ở cõi trần nổi lên nhiều cuộc cách mạng vĩ đại, những biến cố lớn lao, những thay đổi cơ bản trong ba Ngành của Đ.Đ.C.G. – Ngành của Đức Chưởng giáo Thế gian, Ngành của Đức Bàn cổ (vị Nguyên thủ của một căn chủng) và Ngành của Đức Văn minh Đại đế (vị Chúa của văn minh và thiên lực). Vào những lúc giao thời trong một chu kỳ, có nhiều trào lưu xung đột và toàn thể hệ thống (địa cầu) chừng như ở [41] trong tình trạng xáo trộn. Ở giai đoạn giữa chu kỳ, khi nguồn rung động mới đã được ổn cố và cái cũ đã qua rồi, thì đó là thời kỳ yên tĩnh và có sự quân bình.

At no time in the history of the race has this been better shown than in the present half century. The sixth Ray of Devotion passes away and the Ray of Ceremonial Law enters and with that entering comes a swinging into prominence of the outstanding features and faculties of the department of force and activity, the synthesis, forget not, of the four minor rays. Therefore you have the fighting for ideals and the devoted adherence to a cause, as demonstrated under the ray of the Master Jesus; therefore the clashing in every field of endeavor of the idealists (right or wrong) and their bitter warfare. What was the world war but the culmination of two opposing ideals, fighting it out on the physical plane?—it was an instance of the force of the sixth ray. Now will come, as the sixth ray passes out, a gradual cessation of the clashing, and the gradual domination of organisation, rule and order under the sway of the incoming force, that of the ray of the Master R—. Out of the present turbulence will arise the ordered and organised form of the new world. Gradually the new rhythm will impose itself on the disorganised communities of men, and instead of social chaos as now you will have social order and rule; instead of the religious differences and the differentiated sects of the many so-called religions, you will have religious expression itself regulated into form and all ordered by law; instead of economic and political strain and stress will be seen the harmonious working of the system under certain fundamental forms; all will be dominated by ceremonial with the inner results aimed at by the Hierarchy gradually taking shape. Forget not that in the apotheosis of law and order and their resultant forms and limitations lies, towards the close (I choose my words with deliberation), a [42] fresh period of chaos, and the escape of the imprisoned life from even those limitations, bearing with it the imparted faculty and the essence of the development aimed at by the Logos of the seventh ray.

Không thời kỳ nào trong lịch sử nhân loại chứng tỏ điều đó rõ hơn khoảng thời gian nửa đầu thế kỷ 20 này. Cung sáu là Cung Sùng tín ra đi và Cung bảy là Cung Định luật Nghi thức mới đến. Theo đó là sự nổi bật các nét đặc trưng và những khả năng của ngành mãnh lực và hoạt động, đừng quên rằng ngành này là tổng hợp của bốn cung phụ. Vì thế, các bạn đã thấy sự tranh đấu cho các lý tưởng, sự hiến mình cho một chủ nghĩa, như đã xảy ra dưới ảnh hưởng cung của Chân sư Jesus. Cho nên có nhiều xung đột trong mọi phạm vi hoạt động của các lý tưởng gia (dù đúng hay sai), họ chiến đấu với nhau thật là gay gắt. Thế chiến là gì nếu không phải là cao điểm của hai lý tưởng đối nghịch, đưa đến sự tương tranh ở cõi trần? Đó là một ví dụ điển hình cho mãnh lực của cung sáu. Giờ đây, khi cung sáu đã ra đi, sự xung đột sẽ giảm dần và sự tổ chức, luật lệ và trật tự từ từ chi phối cuộc sống, dưới ảnh hưởng mãnh lực của cung mới đến, cung của Chân sư R–. Từ trong cuộc xáo trộn hiện thời sẽ phát sinh thể thức sinh hoạt có tổ chức và trật tự của thế giới mới. Nhịp điệu mới sẽ từ từ phổ vào các cộng đồng thiếu tổ chức của nhân loại. Thay vì các xáo trộn như hiện nay, chúng ta sẽ có luật lệ và trật tự xã hội. Thay vì có sự bất đồng giữa các tôn giáo và nhiều phe phái bị phân hóa của cái gọi là tôn giáo, chúng ta sẽ thấy tôn giáo tự biểu lộ điều hòa trong hình thức và trật tự theo pháp luật. Thay vì có khủng hoảng, khó khăn về kinh tế, và chính trị, chúng ta sẽ thấy hệ thống vận hành hài hòa theo một số thể thức cơ bản. Tất cả đều được nghi thức chế ngự với những kết quả bên trong mà Đ.Đ.C.G. nhắm đến để từ từ làm cho thành tựu. Đừng quên rằng, trong sự thượng tôn luật pháp và trật tự, cùng các hình thức và giới hạn mà vốn là hệ quả của chúng, khi đến mức kết thúc (tôi [42] thận trọng chọn dùng những từ này) có ẩn sẵn một giai đoạn xáo trộn mới. Và sự sống bị giam nhốt ngay cả trong các giới hạn đó, sẽ thoát ly ra ngoài, mang theo cái khả năng và tinh hoa của sự phát triển được trao truyền mà Đấng Chủ tể của cung bảy đang nhắm tới.

Such is the situation from time to time down through the ages. Each ray sweeps into power, bearing its own incarnating spirits to whom the period marks a point of least resistance comparatively. They contact six other types of force in the worlds and six other groups of beings who must be impressed by that force and be carried forward in its sweep towards the universal goal. Such is also the specific situation in the period in which you live, a period wherein the seventh Logos of Ceremonial Law and Order seeks to straighten out the temporary chaos, and aims at the reduction within limits of the life escaping from the old and worn-out forms. The new forms are needed now and will be adequate. It is only after the middle period in a new cycle that limitation will again be felt and the attempt to escape be started anew.

Đó là tình huống thỉnh thoảng xảy ra, qua các thời đại. Mỗi cung khi nắm quyền, sẽ mang theo các Chân thần của cung mình xuống cõi trần, vì đó là giai đoạn mà các vị ấy thấy tương đối ít trở ngại nhất. Họ tiếp xúc với sáu loại mãnh lực kia trên các cảnh giới và sáu nhóm Chân thần khác cần được mãnh lực mới này ảnh hưởng, để đưa nhau tiến tới mục đích tiến hoá đại đồng. Đây cũng là tình huống đặc biệt của giai đoạn chúng ta đang sống. Trong giai đoạn này Đấng Chủ tể cung bảy (Cung Định luật Nghi thức và Trật tự) đang tìm cách chỉnh đốn những sự xáo trộn nhất thời, với mục đích đưa sự sống đang thoát ly ra khỏi các hình thể cũ kỹ và hư mòn đi vào trật tự ổn định. Giờ đây, nhân loại đang cần những hình thức sinh hoạt mới, và những hình thức này sẽ đầy đủ, thích hợp. Chỉ đến sau khoảng giữa chu kỳ mới, người ta mới lại cảm thấy bị giới hạn, và bắt đầu một số cố gắng mới để vượt qua.

Therefore the wise teacher at this time considers the situation and weighs the effect of the incoming ray on the spirits in incarnation. Here, therefore, you have a third ray and its bearing to be considered in the assigning of meditation. Complex you feel the task to be? Fortunately the Hall of Wisdom equips its graduates for the task.

Vì thế mà hiện nay vị huấn sư sáng suốt sẽ xem xét tình hình và cân nhắc ảnh hưởng của cung mới đến với các Chân thần đang đầu thai. Cho nên, ở đây khi hướng dẫn hành thiền, chúng ta phải xét đến một cung thứ ba và ảnh hưởng nó mang lại. Các bạn có cảm thấy sự phức tạp của công việc đó chưa? May mắn là Phòng Minh triết đã đào tạo được các nhân viên thành thạo, đủ khả năng đảm trách công việc.

At this particular period the aspect of the Form in meditation (whether meditation based principally on the egoic ray or on the personality ray) will be much developed. You can look to see very definite forms built up and assigned, both to individuals and to groups, resulting in an increase of white magic, and the consequent resultant, on the physical plane, of law and order. The coming period of reconstruction goes forward in line with the ray, and its ultimate success and achievement is more nearly [43] possible than perhaps is looked for. The Great Lord comes in under the law and naught can stop His approach.

Trong thời kỳ đặc biệt này, phương diện Hình thức của tham thiền (dù chính yếu là dựa vào cung Chân ngã hay cung Phàm ngã) sẽ được phát triển nhiều. Các bạn có thể nhìn quanh và thấy nhiều hình thức thiền rất rõ rệt được tạo ra và đem dạy cho cá nhân lẫn cho nhóm, kết quả là tăng cường chánh thuật và do đó mang lại hiệu quả của luật lệ và trật tự cho thế gian. Thời kỳ tái thiết sắp đến, tiến hành theo đường lối của cung hiện hữu (cung bảy) mà sự thành công và thành [43] quả tối hậu gần như khả dĩ đạt được, có lẽ khá hơn mức mong đợi. Đức Chưởng Giáo sẽ đến đúng theo định luật, và không điều gì có thể ngăn được bước cận tiến của Ngài.

Just now the great need of the time is for those who understand the law and can work with it. Now is the opportunity, too, for the development of that principle and the training of people in the helping of the world.

Ngay trước mắt, nhu cầu lớn lao của thời đại là cần có những người hiểu biết định luật và có thể làm việc đúng luật. Đây là một dịp tốt để phát triển nguyên tắc làm việc đó và để rèn luyện những người phụng sự thế gian.

The minor Rays of Harmony and Science respond quickly to this seventh influence; by that statement I mean that their monads are easily influenced in this direction. The monads of the sixth Ray of Devotion find conformity more difficult, until nearing the point of synthesis. The monads of the first and second rays find in this ray a field of expression. First ray monads have a direct link with this ray and seek to wield the law through power, whilst second ray monads, being the synthetic type, guide and rule through love.

Những Cung phụ là Cung Điều hòa (cung bốn) và Cung Khoa học (cung năm) sẽ đáp ứng nhanh chóng với ảnh hưởng của Cung bảy. Nói thế có nghĩa là các Chân thần thuộc hai cung này dễ chịu ảnh hưởng theo chiều hướng mới. Các Chân thần của Cung sáu (Sùng tín) thấy khó thích nghi hơn với hướng này, cho đến mức tổng hợp mới thôi. Các Chân thần Cung một và hai thì thấy đó là môi trường để phát biểu. Các Chân thần của Cung một có liên hệ trực tiếp với Cung bảy và dùng quyền lực để vận dụng định luật. Trong khi đó các Chân thần của Cung hai là cung tổng hợp nên hướng dẫn và chế ngự bằng tình thương.

I think I have today given you enough to engender thought on this fifth factor. This is all I seek to do. To the guiding light of the intuition is the rest left and what that inner guide reveals is of more value to the individual than aught exoterically imparted. Therefore, ponder and consider.

Hôm nay, tôi đã trao cho các bạn nhiều điều đủ để suy ngẫm về yếu tố thứ năm này. Đó là cố gắng của tôi. Còn ánh sáng hướng dẫn của trực giác là phần các bạn phải cố gắng. Vì những gì mà ánh sáng nội tâm tiết lộ thật có giá trị cho mỗi người hơn bất cứ điều gì được trao truyền từ bên ngoài. Bởi vậy, các bạn hãy suy ngẫm và xem xét kỹ.

JUNE 18, 1920

Ngày 18-6-1920.

Some Words of Cheer.

Vài lời Khích lệ.

……It is only as the disciple is willing to relinquish all in the service of the Great One, and to hold naught back, that liberation is achieved, and the body of desire becomes transmuted into the body of the higher intuition. It is the serving perfectly each day—with no thought or calculation about the future—that brings a man to the position of the perfect Server. And, may I suggest one thing? All care and anxiety is based primarily on selfish motive. You fear further pain, you shrink from further [44] sad experience. It is not thus that the goal is reached; it is reached by the path of renunciation. Perhaps it may mean the renunciation of joy, or the renunciation of good reputation, or the renunciation of friends, and the renunciation of all that the heart clings to. I say perhaps; I say not, it is so. I but seek to point out to you that if that is the way you are to reach your goal, then for you it is the perfect way. Aught that brings you rapidly to Their Presence and to Their Lotus Feet, is by you to be desired and eagerly welcomed.

. . . . . . Chỉ khi người đệ tử sẵn sàng từ bỏ tất cả để dấn thân vào công việc phụng sự các Đấng Cao cả và không giữ lại điều gì cho riêng mình thì mới đạt được sự giải thoát, và thể dục vọng (thể tình cảm) mới được chuyển hóa lên thể trực giác cao siêu (thể bồ-đề). Chính việc phụng sự hoàn hảo mỗi ngày – phụng sự mà không nghĩ đến hay tính toán gì về tương lai – mới đưa hành giả đến vị thế của Người phụng sự toàn bích. Và, tôi có thể gợi ý một điều chứ? Tất cả những sự phiền muộn, âu lo đều chính yếu là do động cơ vị kỷ. Bạn sợ phải đau khổ nhiều hơn. Bạn co rút lại vì ngại phải trải thêm những kinh [44] nghiệm đau buồn. Không phải đạt mục tiêu bằng cách đó đâu. Mục tiêu chỉ đạt được bằng con đường từ bỏ. Có lẽ, từ bỏ có nghĩa là từ bỏ niềm hoan hỉ, từ bỏ thanh danh, từ bỏ bằng hữu, hay từ bỏ mọi thứ mà lòng ta bám chặt vào. Tôi chỉ nói có lẽ thôi, chứ tôi không khẳng định là phải vậy. Tôi chỉ muốn nêu rõ cho bạn thấy rằng nếu đó là con đường mà bạn cần phải đi để tiến đến mục đích, thì đó chính là con đường hoàn hảo cho bạn. Điều gì giúp bạn mau đến trước các Đấng Cao cả, đến với Bước chân Sen vàng của các Ngài, thì bạn nên mong muốn và hoan nghênh hết lòng.

Cultivate daily, therefore, that supreme desire that seeks solely the commendation of the inner Guide and Teacher, and the egoic response to good action dispassionately performed.

Vì thế, hằng ngày hãy vun trồng ước muốn cao thượng đó, là chỉ tìm sự tán thưởng của Đấng Hướng dẫn và Huấn sư ở nội giới, và sự đáp ứng của Chân nhân đối với những điều hay, được thực hiện một cách bình thản và vô tư.

Should bereavement come your way, smile through it all; it will end in a rich reward and the return of all that has been lost. Should scorn and despisings be your lot, smile still, for only the look of commendation that comes from the Master is the one to seek. Should lying tongues take action, fear not, but forge ahead. A lie is a thing of earth and can be left behind as a thing too vile to be touched. The single eye, the unalloyed desire, the consecrated purpose, and the ear that turns in deafness to all earth’s noise—such is the aim for the disciple. I say no more. I but desire that you do not dissipate needless force in vain imaginings, feverish speculations and troubled expectations.

Nếu trên đường đi, bạn có bị thiệt thòi, mất mát, hãy mỉm cười với tất cả. Rốt cuộc sẽ có phần thưởng phong phú và sự đền bù mọi thứ đã mất. Nếu số phận các bạn bị chê bai và khinh bỉ, hãy vẫn cứ mỉm cười, vì chỉ có cái nhìn tán thưởng của Chân sư là đáng tìm kiếm. Nếu bạn bị những lời dối trá bịa đặt, chớ sợ hãi mà hãy thẳng đường đi tới. Mỗi lời dối gạt đều là chuyện của thế gian, chỉ nên bỏ lại ở phía sau như một việc quá tầm thường, không buồn đụng đến. Mắt cứ nhìn thẳng một đường, chỉ mong muốn chăm chăm một việc, mục đích là hiến dâng, tai không còn lắng nghe những náo động của trần thế – đó là mục tiêu của người đệ tử. Tôi chỉ nói bấy nhiêu. Tôi chỉ muốn các bạn đừng hao tốn năng lực không cần thiết vào những tưởng tượng vô ích, vào những suy nghĩ nóng nảy, bôn ba, hay những mong chờ phiền phức.

6 – The Groups, Inner and Outer, with which the Pupil is Affiliated

6. Những Nhóm, Nội và Ngoại môn, mà người Môn sinh đang Liên hệ.

The point for consideration today is of practical interest. It deals with the factor of a man’s groups. The relationship to a Master we have somewhat considered, [45] and I will therefore proceed with the instruction on the group connection.

Điểm cứu xét hôm nay thật là thú vị, nó đề cập đến các nhóm mà người môn sinh đang liên hệ. Chúng ta đã xem xét [45] ít nhiều về sự liên hệ của người môn sinh với Chân sư và vì thế tôi sẽ bàn tiếp về các liên hệ trong nhóm.

We showed yesterday the importance of meditation in connection with the group to which a man is allied on egoic levels. Today we deal with the group to which he may be called on earth. This group is not exactly a reflection of the group on egoic levels as might be anticipated, for only certain units of an egoic group will be in incarnation at any one time. We deal with the Law of Cause and Effect, as demonstrated in the groups national, religious or family.

Hôm qua, tôi đã nói về sự quan trọng của tham thiền đối với nhóm mà người đệ tử đang liên hệ, trên cảnh giới Chân nhân. Hôm nay, tôi nói đến nhóm mà y liên hệ trong cõi trần này. Đây không hẳn là phản ảnh của nhóm ở cảnh giới Chân nhân, như bạn có thể dự kiến, vì chỉ có một số Chân nhân của nhóm là có thể đầu thai trong cùng một thời gian. Chúng ta sẽ đề cập đến Luật Nhân quả, biểu lộ trong những nhóm của người môn sinh, thuộc quốc gia, tôn giáo hay gia đình.

Four groups connected with the pupils.

Bốn nhóm liên hệ với người môn sinh.

A man, when in incarnation, has four sets of people to consider as his group:—

Trong mỗi kiếp giáng trần, một người có liên hệ với bốn nhóm: –

1. The big national group to which he belongs, the karma of which (through aggregation of numbers) is so strong that he cannot break away from it even if he will. Certain racial characteristics, certain temperamental tendencies are his because they are hidden in the racial physical body, and he must carry that constitution, and the tendencies inherent in that particular type of body, throughout his life on earth. That body provides the needed lesson, or (as evolution proceeds) it provides the best body for the type of work that has to be accomplished. An oriental type of body has one set of qualifications, and an occidental body has another set, and equally good, if I might so express it. I seek here to make this point clear, for the tendency of the westerner is to ape the oriental and to endeavor to force his vibrations to the same key as that of the oriental. At times, this causes concern to the inner Teachers, and occasionally leads to trouble in the vehicles. [46]

1. Nhóm lớn là quốc gia của y, là dây nhân quả (qua cộng nghiệp) bền chắc cho đến đỗi y không thể bứt rời được, dù y mong muốn. Y có sẵn những đặc trưng chủng tộc, những khuynh hướng trong tính tình, vì chúng tiềm ẩn trong thể xác của chủng tộc y và suốt kiếp sống ở cõi trần y phải mang sự cấu tạo đó cùng những khuynh hướng cố hữu trong loại thể xác riêng biệt này. Thể xác này cho y bài học cần thiết, hoặc là (trong giai đoạn tiến hóa hiện tại) nó là thể xác tốt nhất cho loại công việc mà y phải hoàn thành. Loại thể xác Đông phương có một số tính năng riêng, và loại thể xác Tây phương lại có những tính năng khác. Có thể nói rằng tất cả những tính năng đó đều tốt như nhau. Tôi muốn nói rõ điểm này, bởi vì khuynh hướng của người tìm đạo Tây phương là bắt chước y như những người phương Đông, và cố gắng ép những rung động của y theo cùng âm điệu với người phương Đông. Đôi khi, điều này gây quan ngại cho các Huấn sư nội môn, và cũng đưa đến những khó khăn trong các hạ thể của người môn sinh.

There has been too much tendency to believe that to be an oriental holds the goal for all. Forget not that even the Great Ones Themselves are not all orientals, and the Masters in European bodies are of equal accomplishment to the better known Eastern Adepts. Ponder on this. It needs much wise consideration, hence my emphasis of the fact. When more is known along these lines, and when schools of meditation are founded and conducted on truly occult lines by graduated Teachers, forms of meditation will he planned, suited to nationality and to the temperamental differences existing among nations. Each nation has its virtues and each has its defects; it will therefore be the work of the superintending Teacher to apportion meditations that will intensify the virtues and remedy the defects. The field opened up by these ideas is so vast that I cannot deal with it here. Specialists will later take up the problem, and the time comes when the orient and the occident will each have their own schools, subject to the same basic rules and under the superintendence of the same inner Teachers, but wisely differing on certain points, and (though aiming at the same goal) following different routes. You will later see these schools founded in each nation; admission into them will not be easy of attainment, but each applicant for instruction will be subjected to a drastic entrance examination. You will find each school will differ somewhat, not in fundamentals but in methods of application, due to the wise discrimination of the Head of the school. This Head, being of the same nationality as the pupils, and having the faculties of the causal body fully developed, will apply the method to the immediate need.

[46] Đã có nhiều khuynh hướng tin tưởng rằng được làm một người Đông phương là mục tiêu của mọi người tìm đạo. Đừng quên rằng ngay đến các Đấng Cao cả cũng không phải toàn là người phương Đông, và các Chân sư có thể xác người Âu đều thành tựu ngang với các Chân sư nổi tiếng ở phương Đông. Hãy suy ngẫm kỹ điều này. Cần phải xem xét vấn đề một cách sáng suốt hơn, vì thế, tôi mới nhấn mạnh đến sự kiện này. Khi những đường hướng nói trên được thấu hiểu nhiều hơn và khi các trường tham thiền được các Huấn sư đắc truyền thành lập và điều hành theo các đường lối huyền môn thực sự, thì những phương thức hành thiền sẽ được trù liệu sao cho phù hợp với từng dân tộc và những tính khí dị biệt trong nhiều nước. Mỗi quốc gia đều có những ưu điểm và những khuyết điểm. Vì thế, công việc của vị Huấn sư giám đốc là áp dụng những phương cách hành thiền thế nào để tăng cường các tính tốt và sửa đổi các tật xấu. Tầm khai triển các ý tưởng này quá rộng đến đỗi tôi không thể bàn đến ở đây. Về sau, các chuyên gia sẽ nghiên cứu vấn đề này, và sẽ đến lúc người phương Đông và phương Tây đều có trường riêng cho họ, cùng tuân thủ những qui luật căn bản như nhau và cùng ở dưới sự giám sát của những vị Huấn sư nội môn như nhau. Thế nhưng (với sự sáng suốt của các Ngài) các trường ấy có một số điểm khác nhau, và (dù nhắm đến cùng mục đích) họ sẽ theo nhiều con đường khác biệt. Sau này, các bạn sẽ thấy những trường như vậy được thành lập ở mỗi quốc gia. Được nhập học không phải là việc dễ dàng, và mỗi ứng viên đều phải qua một kỳ thi tuyển gắt gao. Các bạn sẽ thấy mỗi trường đều khác nhau đôi chút, không phải ở những điều cơ bản, mà khác trong các phương pháp hành thiền, nhờ sự phân biện khôn ngoan của vị Hiệu trưởng. Vị này có cùng quốc tịch với các môn sinh và có các khả năng của thể nguyên nhân hoàn toàn phát triển. Chính vị này sẽ áp dụng phương pháp cho từng nhu cầu trực tiếp.

Later I may further expand the future of the meditation schools for your edification, but I seek now principally to generalise. [47]

Ở phần sau tôi sẽ bàn rộng thêm về tương lai của các trường tham thiền này, nhưng hôm nay tôi chỉ nói tổng quát thôi. [47]

2—The second group, which is of importance in the life of the pupil, is his family group, involving its special family heredity and characteristics. Every man, who has reached a point in evolution where occult meditation is desirable and possible, has entered some particular family from deliberate choice:—

2. Nhóm thứ hai rất quan trọng trong đời của người môn sinh là nhóm gia đình, gồm cả những đặc tính di truyền và những đặc trưng của dòng họ. Mỗi người khi đến mức tiến hóa thích hợp với việc hành thiền huyền môn, thì sẽ thận trọng chọn sống trong một gia đình nào đó: –

a—To work off karma as rapidly as may be.

a. Để trả nghiệp quả càng nhanh càng tốt.

b—Because of the physical vehicle it provides.

b. Vì thể xác mà gia đình ấy cung cấp, cần cho y.

You will easily see, therefore, that in the assigning of occult meditation to be carried out on the physical plane and in a physical vehicle, it will be the concern of the Teacher to know somewhat of the physical pedigree and the inherent characteristics of the pupil, both from the point of view of finding the line of least resistance and of demonstrating what must be overcome. (Some of you who meditate are apt to be so engrossed straining after intuitional consciousness that you overlook the very necessary physical vehicles.) The physical brain and the conformity of the head play a large part in the process and must not be overlooked in the future as they are at present. This is necessarily so, for the dearth of trained teachers in the physical bodies is so insuperable at present.

Thế là bạn sẽ dễ dàng thấy rằng khi hướng dẫn hành thiền huyền môn ở cõi trần, trong thể xác, vị Huấn sư phải biết ít nhiều về gia hệ và các đặc tính bẩm sinh của người môn đệ, để tìm con đường ít trở ngại nhất cho y và để chỉ ra những gì cần khắc phục. (Có vài bạn khi tham thiền, thường quá chú ý mở tâm thức trực giác mà bỏ quên thể rất cần thiết là xác thân). Bộ não của thể xác và sự tuân phục của não bộ rất quan trọng trong tiến trình tham thiền, và trong tương lai chúng ta không được xem thường nó như hiện tại. Tất nhiên là có tình trạng này, vì hiện nay các huấn sư lão luyện trong việc tập rèn thân xác hãy còn quá ít, không đủ đáp ứng nhu cầu.

Therefore the family group is the second thing of moment that enters into consideration, and the matter is of more vital importance than perhaps you think.

Do đó, gia đình là nhóm thứ hai cần phải cứu xét, vấn đề này có lẽ còn quan trọng hơn chúng ta tưởng.

In the coming schools of meditation there will be records kept as to the pupil’s forbears, his family history, the progress of his youth and life and his medical history. This record will be minutely accurate, and much will be learnt this way. The life will be regulated and the scientific purification of the physical body will be one of the [48] first things attempted. Incidentally (in speaking of these schools) I would like to urge that you picture not some isolated spot for their location. In the world, yet not of the world is the ideal, and only in the advanced stages or just prior to taking Initiation will the pupil be permitted to retire for periods of any length. It is the inner detachment that counts, and the ability to dissociate the self from the environment that matters, and not so much the physical plane isolation.

Trong những trường tham thiền tương lai, sẽ có giữ hồ sơ về dòng dõi của môn sinh, về lai lịch gia đình, về sự tiến bộ lúc trẻ tuổi và trong cuộc sống, cùng là hồ sơ bệnh án của y. Các hồ sơ này sẽ thật chính xác từng chi tiết nhỏ, nhờ đó mà nhà trường biết người môn sinh rất rõ. Việc điều chỉnh cuộc sống của người môn sinh và sự tinh luyện thể xác một cách [48] khoa học là một trong những cố gắng đầu tiên. Khi nói về các trường loại này, tự nhiên tôi muốn các bạn đừng nghĩ đến một vài địa điểm xa vắng nào đó để làm vị trí của trường. Điều lý tưởng là sống ở thế gian nhưng không thuộc về thế gian, cho nên chỉ có người đệ tử ở mức tiến hóa cao hay ngay trước khi được Điểm đạo mới được phép ẩn dật trong một thời gian. Chỉ có sự từ bỏ ở nội tâm là đáng kể, và thái độ vô kỷ đối với hoàn cảnh mới quan trọng, chứ không phải việc ẩn thân ở một nơi riêng biệt nào.

3—The third group that a man has to consider is the particular band of servers to which he may be affiliated. Any man who is ready for occult meditation must have demonstrated first for many lives his intelligent willingness to serve and to work among the sons of men. Unselfish service is the bed-rock of the life of the occultist, and danger lurks when it exists not, and occult meditation carries a menace. Hence, the man must be an active worker in some part of the field of the world, and on the inner planes he must likewise be playing his part. Certain things will then have to be considered by the Teacher:

3. Nhóm thứ ba cần xét đến là đoàn thể phụng sự mà có thể người môn sinh đang gia nhập. Người nào sẵn sàng để hành thiền huyền môn thì trước hết phải chứng tỏ rằng nhiều kiếp qua y đã tha thiết muốn phụng sự và làm việc hòa đồng với những người khác. Phụng sự vô kỷ là lớp đá cứng nền tảng, nằm sâu trong đời sống của huyền bí gia. Nếu không có nền tảng ấy, mối nguy hiểm sẽ ẩn núp vào chỗ bỏ trống, và việc hành thiền huyền môn sẽ trở thành một mối đe dọa. Vì thế, y phải là một phụng sự viên tích cực trong một lĩnh vực nào đó của thế gian và ở những cõi giới nội tại y cũng phải thi hành phận sự của mình. Bây giờ vị Huấn sư lại phải xét đến:

a—The group work a man is doing and how best he may be qualified to serve better in that group.

a. Công tác tập thể mà người môn sinh đang thi hành, y đang có khả năng phụng sự như thế nào để được hữu hiệu hơn trong nhóm.

b—The type of a man’s work, and his relationship in that work to his associates—a very important occult factor—will be carefully weighed before a meditation is assigned, and certain types of meditation (perhaps desired by the man himself) may be withheld on account of their being unsuited to the work in hand, and because of their tendency to develop certain qualities which might handicap the server in his work. Those meditations which [49] will increase ability to serve will ever be the aim. The greater aim includes, after all, the lesser.

b. Loại công việc mà người môn sinh đang làm và mối liên hệ của y với các cộng sự viên khác – đây là một yếu tố huyền môn rất quan trọng – tất cả đều được cân nhắc cẩn thận trước khi hướng dẫn phương pháp thiền. Có thể người môn sinh phải ngưng tập một vài lối thiền (dù y đang ưa thích cũng vậy) vì không thích hợp với công việc y đang làm, và vì chúng có khuynh hướng phát triển vài đặc tính có thể gây trở ngại cho công tác phụng sự của y. Bao giờ người ta cũng nhắm [49] tới những loại thiền nào làm tăng khả năng phụng sự của môn sinh. Mục đích lớn ấy rốt cuộc sẽ bao gồm những mục đích nhỏ hơn.

4—The fourth group that has a place in the calculations of the Teacher is that to which a man belongs on the inner plane, the band of helpers to which he is assigned, or—if he is a disciple,—the group of pupils of which he forms a part. Their particular type of group work will be considered, the capacity of the pupil to progress with his fellows will be fostered, and his ability to fill his appointed post will be increased.

4. Nhóm thứ tư mà vị Huấn sư cần cứu xét là nhóm ở nội giới mà người môn sinh liên kết, là nhóm những người cứu trợ mà y được xếp vào; hoặc nếu y là một đệ tử thì đó là nhóm đệ tử mà y tham dự. Công việc đặc biệt của nhóm sẽ được xem xét, khả năng tiến tới của môn sinh cùng các bạn đồng môn sẽ được khuyến khích, và y sẽ được tăng cường khả năng làm tròn nhiệm vụ được giao.

I have but hinted in these last few communications at the many things that arise for consideration in the assignment of a meditation. You have three rays to consider, the point in evolution of the causal body and its interrelation on its own plane with its group, with the Hierarchy and with its reflection, the Personality. You have also the factor of karma, the need of the time and of the man himself, and his relationship with four different groups.

Trong những lần truyền đạt vừa qua, tôi chỉ nói sơ lược về nhiều yếu tố phải cứu xét khi ấn định một phương pháp thiền. Nào là bạn phải xét ba cung, xét mức tiến hóa của thể nguyên nhân và sự tương liên của Chân nhân trên cảnh giới của nó với nhóm Chân nhân của nó, với Đ.Đ.C.G., và với phàm ngã là phản ảnh của Chân nhân. Bạn cũng phải xét yếu tố nghiệp quả, xét nhu cầu của thời đại và của người môn sinh, cùng sự liên hệ của y với bốn nhóm khác nhau.

All this is possible and will some day be recognized, but the period of laying a foundation is not yet over, and for long will remain with you. The control of the mind is the present aim of meditation, and must always be the elementary step.

Tất cả những điểm này đều có thể xét đến, và trong tương lai sẽ được thừa nhận, nhưng thời kỳ đặt nền móng vẫn chưa xong, và hãy còn lâu đối với các bạn. Mục tiêu hiện tại của tham thiền là sự kiểm soát thể trí, và luôn luôn phải là bước khởi đầu.

[50]

Scroll to Top