Ánh Sáng Của Linh Hồn – Quyển II

BOOK II – THE STEPS TO UNION— NHỮNG BƯỚC TIẾN ĐẾN HỢP NHẤT

a. The five hindrances and their removal.

a. Năm chướng ngại và cách giải trừ.

b. The eight means defined.

b. Định nghĩa tám phương tiện.

Topic: The means of attainment. [115]

Chủ đề: Phương tiện thành đạt.

1. The Yoga of action, leading to union with the soul is fiery aspiration, spiritual reading and devotion to Ishvara.

1. Yoga hành động, đưa đến sự hợp nhất với linh hồn là nhiệt vọng bừng cháy, thấu hiểu tinh thần và sùng kính Ishvara.

2. The aim of these three is to bring about soul vision and to eliminate obstructions.

2. mục tiêu của ba điều nói trên là mang lại tầm nhìn của linh hồn và giải trừ chướng ngại.

3. These are the difficulty producing hindrances: avidya (ignorance) the sense of personality, desire, hate and the sense of attachment.

3. Sở dĩ có chướng ngại là do những nỗi khó khăn sau đây: vô minh (thiếu minh triết), ý thức phàm ngã, ham muốn, thù ghét và mê chấp.

4. Avidya (ignorance) is the cause of all the other obstructions whether they be latent, in process of elimination, overcome, or in full operation.

4. Vô minh (thiếu minh triết) là nguyên nhân của tất cả các chướng ngại khác, dù chúng tiềm ẩn, đang được giải trừ, khắc phục, hay hoàn toàn chi phối.

5. Avidya is the condition of confusing the permanent, pure, blissful and the Self with that which is impermanent, impure, painful and the not-self.

5. Vô minh là nhầm lẫn cái thường tồn, thanh tịnh, chân phúc và Chân ngã, với những gì vô thường, bất tịnh, đau khổ và phi-ngã.

6. The sense of personality is due to the identification of the knower with the instruments of knowledge.

6. Sở dĩ có ý thức của phàm nhân là do người tri thức tự đồng hóa với cái khí cụ dùng để hiểu biết.

7. Desire is attachment to objects of pleasure.

7. Ham muốn là bám chấp vào các đối tượng của lạc thú.

8. Hate is aversion for any object of the senses.

8. Thù ghét là đố kỵ bất cứ đối tượng nào của giác quan.

9. Intense desire for sentient existence is attachment. This is inherent in every form, is self-perpetuating, and known even to the very wise.

9. Mạnh mẽ ham muốn đời sống hữu tình là bám chấp. Điều này cố hữu trong mọi hình thể, có tính tự tồn, và ngay cả người rất khôn ngoan vẫn còn cảm biết nó.

10. These five hindrances, when subtly known, can be overcome by an opposing mental attitude.

10. Đây là năm chướng ngại mà, khi hiểu biết thấu đáo, hành giả có thể thắng phục với thái độ ngược lại trong trí tuệ. [116]

11. Their activities are to be done away with, through the meditation process.

11. Hoạt động của chúng được loại trừ qua tiến trình tham thiền.

12. Karma itself has its root in these five hindrances and must come to fruition in this life or in some later life. [116]

12. Chính nghiệp quả bắt rễ trong năm chướng ngại nói trên, và phải đơm hoa kết trái trong kiếp sống này hay một kiếp sau.

13. So long as the roots (or samskaras) exist, their fruition will be birth, life, and experiences resulting in pleasure or pain.

13. Ngày nào các căn (hay là samskara) vẫn còn tồn tại, thì quả của chúng sẽ là sự sinh ra, đời sống và các kinh nghiệm mang lại vui sướng hay đau khổ.

14. These seeds (or samskaras) produce pleasure or pain according as their originating cause was good or evil.

14. Các chủng tử (hoặc samskara) này tạo ra sự vui sướng hay đau khổ tùy theo nguyên nhân phát khởi của chúng là thiện hay ác.

15. To the illuminated man all existence (in the three worlds) is considered pain owing to the activities of the gunas. These activities are threefold, producing consequences, anxieties and subliminal impressions.

15. Đối với người đã khai ngộ, toàn bộ cuộc sống (trong tam giới) bị xem là đau khổ do tác động của các guna. Những tác động này có ba loại, tạo nên hậu quả, sự âu lo và những ấn tượng trong tiềm thức.

16. Pain which is yet to come may be warded off.

16. Có thể tránh được sự đau khổ chưa đến.

17. The illusion that the Perceiver and that which is perceived are one and the same is the cause (of the pain- producing effects) which must be warded off.

17. Phải phòng tránh ảo tưởng cho rằng Người nhận thức và điều được nhận thức là một và như nhau. Đó vốn là nguyên nhân (của những hậu quả gây đau khổ).

18. That which is perceived has three qualities, sattva, rajas and tamas (rhythm, mobility and inertia); it consists of the elements and the sense organs. The use of these produces experience and eventual liberation.

18. Cái được nhận thức có ba đặc tính, sattva, rajas và tamas (tiết điệu, năng động và trì trệ). Nó bao gồm các nguyên tố và các giác quan. Việc sử dụng những thứ này mang lại kinh nghiệm và sự giải thoát chung cuộc.

19. The divisions of the gunas (or qualities of matter) are fourfold; the specific, the non-specific, the indicated and the untouchable.

19. Các guna (hay các đặc tính của vật chất) được chia làm bốn loại: cái cụ thể, cái không cụ thể, cái được chỉ thị và cái không thể tiếp xúc.

20. The seer is pure knowledge (gnosis). Though pure, he looks upon the presented idea through the medium of the mind.

20. Người tri kiến là cái biết thuần khiết (tri thức tinh thần). Dù thuần khiết, y vẫn dùng thể trí để quán xét các ý tưởng xuất lộ.

21. All that is exists for the sake of the soul.

21. Cả vạn hữu là để dành cho linh hồn.

22. In the case of the man who has achieved yoga (or union) the objective universe has ceased to be. Yet it existeth still for those who are not yet free.

22. Đối với người đã thành đạt khoa yoga (hay hợp nhất) vũ trụ khách quan không còn nữa. Thế nhưng nó vẫn còn hiện hữu đối với những người chưa được tự do.

23. The association of the soul with the mind and thus with that which the mind perceives, produces an understanding of the nature of that which is perceived and likewise of the Perceiver.

23. Kết hợp linh hồn với thể trí và từ đó kết hợp với những gì mà [117] thể trí nhận thức được, giúp hành giả thấu hiểu thực chất của điều được nhận thức cũng như bản tính của Người nhận thức.

24. The cause of this association is ignorance or avidya. This has to be overcome.

24. Nguyên nhân của sự kết hợp nói trên là vô minh hay thiếu minh triết. Tình trạng này cần được khắc phục.

25. When ignorance is brought to an end through non- association with the things perceived, this is the great liberation.

25. Khi hành giả xóa tan vô minh vì không còn gắn bó với những điều mà y nhận thức, thì đó là đại giải thoát.

26. The state of bondage is overcome through perfectly maintained discrimination. [117]

26. Hành giả thoát khỏi tình trạng bị giam cầm, ràng buộc nhờ phân biện một cách thường xuyên và sáng suốt.

27. The knowledge (or illumination) achieved is seven-fold and is attained progressively.

27. Sự hiểu biết (hay giác ngộ) đạt được gồm bảy phần, và tăng tiến dần.

28. When the means to yoga have been steadily practised, and when impurity has been overcome, enlightenment takes place, leading up to full illumination.

28. Khi hành giả chuyên cần thực tập các phương tiện của Yoga, và đã xóa sạch những gì bất tịnh, y được khai ngộ và tiến đến trình độ hoàn toàn giác ngộ.

29. The eight means of yoga are, the Commandments or Yama, the Rules or Nijama, posture or Asana, right control of life-force or Pranayama, abstraction or Pratyahara, attention or Dharana, Meditation or Dhyana, Contemplation or Samadhi.

29. Tám phương tiện của yoga là: các Điều răn hay Yama, các Qui luật hay Nijama, tư thế hay Asana, kiểm soát sinh lực đúng cách hay Pranayama, trừu tượng hóa hay Pratyahara, chú tâm hay Dharana, tham thiền hay Dhyana, và chiêm ngưỡng hay Samadhi.

30. Harmlessness, truth to all beings, abstention from theft, from incontinence and from avarice, constitute yama or the five commandments.

30. Không gây tổn hại, chân thật với cả chúng sinh, không trộm cắp, không buông lung tình dục và không tham vọng, là yama hay năm giới răn.

81. Yama (or the five commandments) constitutes the universal duty and is irrespective of race, place, time or emergency.

31. Yama (hay năm giới răn) là bổn phận chung của mọi người, dù họ thuộc giống dân nào, đang ở đâu, vào thời gian hay tình trạng khẩn trương thế nào.

32. Internal and external purification, contentment, fiery aspiration, spiritual reading and devotion to Ishvara constitutes nijama (or the five rules).

32. Tinh luyện bên trong và bên ngoài, an vui, nguyện vọng bừng cháy, thấu hiểu tinh thần và sùng kính Ishvara là nijama (hay là năm qui luật).

33. When thoughts which are contrary to yoga are present there should be the cultivation of their opposite.

33. Khi có những tư tưởng trái với việc thực hành yoga, thì cần vun bồi những tư tưởng ngược lại.

34. Thoughts contrary to yoga are harmfulness, falsehood, theft, incontinence, and avarice, whether committed personally, caused to be committed or approved of, whether arising from avarice, anger or delusion (ignorance); whether slight in the doing, middling or great. These result always in excessive pain and ignorance. For this reason, the contrary thoughts must be cultivated.

34. Những tư tưởng trái với yoga là ý muốn gây tổn hại, sự giả dối, trộm cắp, buông lung tình dục, và tham vọng. Dù là đích thân  [118] vi phạm, sai khiến hay thuận cho người khác vi phạm. Dù là phát sinh từ tính tham lam, giận dữ hay ảo tưởng (vô minh). Dù vi phạm nhẹ, vừa phải hay nặng. Các vi phạm này bao giờ cũng gây nên vô vàn đau khổ và sự vô minh. Vì thế, cần phải vun bồi những tư tưởng ngược lại.

35. In the presence of him who has perfected harmlessness, all enmity ceases.

35. Với sự hiện diện của người đã thực hiện vẹn toàn hạnh vô tổn hại, mọi sự thù ghét đều ngưng dứt.

36. When truth to all beings is perfected, the effectiveness of his words and acts is immediately to be seen.

36. Khi hành giả hoàn toàn chân thật với cả chúng sinh, thì hiệu quả lời nói và hành động của y lập tức được thấy rõ.

37. When abstention from theft is perfected, the yogi can have whatever he desires.

37. Khi đã hoàn toàn không trộm cắp, nhà yogi có thể có bất cứ điều gì y muốn.

38. By abstention from incontinence, energy is acquired.

38. Không buông lung tình dục, hành giả sẽ có được năng lượng.

39. When abstention from avarice is perfected, there comes an understanding of the law of rebirth. [118]

39. Khi hoàn toàn không tham vọng, hành giả thấu hiểu luật tái sinh.

40. Internal and external purification produces aversion for form, both one’s own and all forms.

40. Tinh luyện bên trong và bên ngoài khiến hành giả chán ghét hình hài, sắc tướng, cả hình thể của mình và mọi hình thể khác.

41. Through purification comes also a quiet spirit, concentration, conquest of the organs, and ability to see the Self.

41. Nhờ tinh luyện mà tinh thần an tịnh, tập trung, chế ngự các cơ quan, và có khả năng thấy được Chân ngã.

42. As a result of contentment bliss is achieved.

42. Tâm an vui, hài mãn tựu thành chân phúc.

43. Through fiery aspiration and through the removal of all impurity, comes the perfecting of the bodily powers and of the senses.

43. Với nhiệt vọng bừng cháy và qua việc loại trừ mọi điều bất tịnh, năng lực của cơ thể và các giác quan trở nên hoàn hảo.

44. Spiritual reading results in a contact with the soul (or divine One).

44. Khả năng thấu hiểu tinh thần mang lại sự giao tiếp với linh hồn (hay là Chân ngã thiêng liêng).

45. Through devotion to Ishvara the goal of meditation (or samadhi) is reached.

45. Với lòng sùng kính Ishvara, hành giả đạt được mục tiêu của tham thiền (hay samadhi).

46. The posture assumed must be steady and easy.

46. Tư thế phải vững vàng và thoải mái.

47. Steadiness and ease of posture is to be achieved through persistent slight effort and through the concentration of the mind upon the infinite.

47. Có tư thế vững vàng và thoải mái nhờ cố gắng nhẹ nhàng nhưng kiên trì, và qua việc tập trung tâm trí vào cái vô cùng.

48. When this is attained, the pairs of opposites no longer limit.

48. Khi hành giả đạt được điều này, các cặp đối cực không còn hạn chế.

49. When right posture (asana) has been attained there follows right control of prana and proper inspiration and expiration of the breath.

49. Khi đã có tư thế đúng (asana), thì tiếp theo là kiểm soát prana đúng cách và hơi thở vào và ra được điều hòa.

50. Right control of prana (or the life currents) is external, internal or motionless; it is subject to place, time and number and is also protracted or brief.

50. Việc kiểm soát đúng prana (hay các dòng sinh lực) được thực hiện bên ngoài, bên trong hay bất động. Cố gắng này tùy theo địa điểm, thời gian và con số, cũng như kéo dài hay ngắn ngủi.

51. There is a fourth stage which transcends those dealing with the internal and external phases.

51. Có giai đoạn thứ tư vượt cao hơn các giai đoạn kiểm soát bên trong và bên ngoài.

52. Through this, that which obscures the light is gradually removed.

52. Qua cố gắng này, những gì che án ánh sáng dần dần bị loại bỏ.

53. And the mind is prepared for concentrated meditation.

53. Và cái trí nay sẵn sàng cho cố gắng tham thiền chuyên chú.

54. Abstraction (or Pratyahara) is the subjugation of the senses by the thinking principle and their withdrawal from that which has hitherto been their object.

54. Trừu tượng hóa (hay Pratyahara) là việc sử dụng nguyên khí tư duy để chế ngự các giác quan, và rút các giác quan ra khỏi những gì mà từ trước đến nay đã là đối tượng của chúng.

55. As a result of these means there follows the complete subjugation of the sense organs. [119]

55. Kết quả của sự thực hành các phương tiện nói trên là các giác quan được hoàn toàn chế ngự.  [119] [120]

1. The yoga of action, leading to union with the soul is fiery aspiration, spiritual reading and devotion to Ishvara.

1. Yoga hành động, đưa đến sự hợp nhất với linh hồn là nhiệt vọng bừng cháy, thấu hiểu tinh thần và sùng kính Ishvara .

We must here bear in mind that we are beginning the book which outlines the practical part of the work, which gives the rules which must be followed if the aspirant hopes to achieve, and which indicates those methods which will bring about the realization of spiritual consciousness. The objective has been dealt with in Book I. The aspirant naturally says on concluding Book I, “how desirable and how right, but how shall this be? What must I do? Where shall I begin?”

Đến đây, chúng ta đang bắt đầu quyển kinh có phần phác thảo thực hành của Yoga Điển tắc. Phần này đưa ra những qui tắc cần được theo đúng nếu người chí nguyện muốn thành tựu, và chỉ ra một số phương pháp sẽ mang lại sự nhận biết tâm thức tinh thần. Quyển I đã bàn đến mục tiêu. Khi kết thúc Quyển I, đương nhiên người chí nguyện sẽ hỏi “thật là tốt đẹp và đúng đắn, nhưng làm thế nào thực hiện điều này? Tôi phải làm gì? Tôi sẽ bắt đầu từ đâu?”

Patanjali starts at the very beginning and in this second book he indicates:

Ngay từ đầu và trong quyển hai này, Patanjali nêu rõ:

1. The basic personality requirements,

1. Những yêu cầu cơ bản đối với phàm nhân,

2. The hindrances which can then be noted by the earnest disciple,

2. Những trở ngại mà sau đó người đệ tử nhiệt thành cần lưu ý,

3. The eight “means of yoga” or the eight kinds of activity which will bring about the needed results. [120]

3. Tám “phương tiện của yoga” hay là tám loại hoạt động sẽ mang lại các kết quả cần thiết.

The very simplicity of this outline makes its value exceedingly great; there is no confusion, no complex dissertations, but just a clear simple statement of the requirements.

Chính tính cách đơn giản của phần phác thảo này khiến nó trở nên hết sức giá trị. Không hề có sự nhầm lẫn, hay lý luận phức tạp, mà chỉ nói lên một cách minh bạch và giản dị những điều cần phải thực hành.

It might be of value here if we dealt with the various “yogas” so as to give to the student a clear concept as to their distinctions and thus cultivate his discrimination. The principal yogas are three in number, the various other so-called “yogas” finding their place in one of these three groups:

Ở đây, tưởng cũng nên bàn về các loại “yoga” khác nhau để cho người môn sinh cái khái niệm rõ ràng về những khác biệt và tăng thêm khả năng phân biện. Có ba loại yoga chính yếu, còn những loại khác được gọi là “yoga” thì thực ra là thuộc vào một trong ba nhóm đó:

1. Raja Yoga   the yoga of the mind or will,

1. Raja Yoga . . . yoga của trí tuệ hay ý chí,

2. Bhakti Yoga             the yoga of the heart or the devotee,

2. Bhakti Yoga . . . yoga của cái tâm hay của người sùng tín,

3. Karma Yoga             the yoga of action.

3. Karma Yoga . . . yoga hành động.

Raja Yoga stands by itself and is the king science of them all; it is the summation of all the others, it is the climax and that which completes the work of development in the human kingdom. It is the science of the mind and of the purposeful will, and brings the higher of man’s sheaths in the three worlds under the subjection of the Inner Ruler. This science coordinates the entire lower threefold man, forcing him into a position where he is nothing but the vehicle for the soul, or God within. It includes the other yogas and profits by their achievements. It synthesises the work of evolution and crowns man as king.

Raja Yoga có tính cách tự viên mãn và là khoa yoga ưu việt nhất trong ba nhóm vừa kể. Nó là tổng kết của tất cả các yoga kia, và là tột đỉnh hoàn tất công cuộc phát triển trong giới nhân loại. Nó là khoa học của trí tuệ và ý chí có chủ đích. Nó giúp Chân ngã Ngự trị ở Nội tâm chế phục được cái trí, là thể cao nhất trong ba hạ thể của con người. Khoa yoga này điều hợp trọn cả phàm nhân với ba hạ thể, khiến phàm nhân chỉ còn là vận cụ của linh hồn, hay Thượng Đế nội tâm. Nó bao gồm các yoga khác và thu thập những thành tựu của các yoga khác. Nó tổng hợp cuộc tiến hóa và giúp con người lên ngôi chúa tể.

Bhakti Yoga is the yoga of the heart; it is the bringing into submission of all the feelings, desires [121] and emotions, to the one beloved, seen and known in the heart. It is the sublimation of all the lower loves and the bringing captive of all longings and desire, to the one longing to know the God of love and the love of God.

Bhakti Yoga là yoga của cái tâm. Nó giúp cho toàn bộ xúc cảm, ham muốn [121] và tình cảm phục tùng đấng mà hành giả yêu thương, thấy và biết ở trong tâm. Đó là sự thăng hoa của tất cả các loại tình thương thấp kém, và gom toàn bộ các thèm khát và ham muốn vào niềm khao khát duy nhất là muốn biết được Đấng Thượng Đế bác ái và nguồn bác ái của Thượng Đế.

It was the “kingly” or crowning science of the last rootrace, the Atlantean, just as the science of Raja Yoga is the great science of our Aryan civilization. Bhakti Yoga made its exponent an arhat or led him to the fourth initiation. Raja Yoga makes him an adept and leads him to the portal of the fifth initiation. Both lead to liberation, for the arhat is released from the cycle of rebirth but Raja Yoga liberates him to complete service and freedom to work as a White Magician. Bhakti Yoga is the yoga of the heart, of the astral body.

Đó là khoa yoga “thù thắng” hay cao cả nhất của căn chủng trước, giống dân Atlantis. Cũng như Raja Yoga là khoa yoga ưu việt cho nền văn minh của giống dân Aryan hiện nay. Người thực hành Bhakti Yoga có thể đạt đến quả vị la- hán hay cuộc điểm đạo thứ tư. Trong khi đó, hành giả Raja Yoga có thể trở thành một bậc trọn lành và được điểm đạo lần thứ năm. Cả hai khoa yoga này đều đưa đến giải thoát. Vị la-hán thoát khỏi vòng luân hồi, sinh tử. Hành giả Raja Yoga được giải thoát để phụng sự trọn vẹn và hoạt động với tư cách Nhà huyền thuật Chánh đạo. Bhakti Yoga là yoga của cái tâm, hay thể cảm dục.

Karma Yoga has a specific relation to physical plane activity, and to the working out into objective manifestation of all the inner impulses. In its ancient and simplest form it was the yoga of the third or Lemurian root race and its two best known expressions are:

Karma Yoga trực tiếp liên quan đến hoạt động ở cõi trần, và sự biểu hiện của tất cả những thôi thúc ở bên trong. Dưới hình thức cổ xưa và đơn giản nhất, đó là yoga của căn chủng thứ ba, giống dân Lemuria, với hai dạng được biết đến nhiều nhất là:

a. Hatha Yoga,

a. Hatha Yoga, và

b. Laya Yoga.

b. Laya Yoga.

The former has specifically to do with the physical body, its conscious (not subconscious and automatic) functioning and all the various practices which give man control over the different organs and the entire mechanical apparatus of the physical body. The latter has to do with the etheric body, with the force centers or chakras [122] found in that body and with the distribution of force currents and the awakening of the serpent fire.

Hatha Yoga đặc biệt áp dụng cho thân xác, và hoạt động có ý thức (không thuộc tiềm thức và tự động) của thân xác. Những lối tập khác nhau của khoa này giúp hành giả kiểm soát được các cơ quan khác nhau và toàn cơ cấu của thân xác. Laya Yoga liên quan đến thể dĩ thái, đến các trung tâm lực hay luân xa [122] trong thể dĩ thái, sự phân bố các dòng sinh lực, và việc khơi dậy luồng hỏa xà.

It might be pointed out that if we divide the human torso into three departments it might be stated that:

Nếu chia thân người làm ba phần, thì có thể nói rằng:

1. Karma Yoga resulted in the awakening of the four centres below the diaphragm,

1. Karma Yoga giúp khơi hoạt bốn luân xa bên dưới cơ hoành,

2. Bhakti Yoga resulted in their transmutation and transference into the two centres above the diaphragm, yet in the torso, the heart and the throat.

2. Bhakti Yoga giúp siêu hóa và chuyển chúng vào luân xa tim và luân xa cổ họng, bên trên cơ hoành nhưng vẫn còn ở trong thân mình.

3. Raja Yoga synthesises all the forces of the body in the head and from there distributes and controls them.

3. Raja Yoga tổng hợp tất cả các mãnh lực của cơ thể bên trong luân xa đầu, và từ đó phân phối và kiểm soát chúng.

Raja Yoga, which Patanjali primarily deals with, includes the effects of all the others. It is only possible when the others have been worked with, but not in the sense of working with them in this life. Evolution has brought all the sons of men (who are ready to be chelas or disciples), through the various races, and whilst in the Lemurian race (or else on the preceding chain or greater cycle) they were all hatha and laya yogins. This resulted in the development and control of the dual physical body, dense and etheric.

Raja Yoga, chính yếu đã được Patanjali san định, vốn bao gồm hiệu quả của tất cả các loại yoga kia. Chỉ có thể thực hành Raja Yoga khi hành giả đã rèn luyện qua các loại yoga kia. Thế nhưng, không nhất thiết là phải thực tập chúng trong kiếp sống này. Dòng tiến hóa đã đưa tất cả những người con của nhân loại (những người sẵn sàng trở thành môn đồ hay đệ tử) đi qua những giống dân khác nhau. Và khi còn ở trong giống dân Lemuria (hay trong một giống dân khác trên dãy hành tinh trước hoặc một chu kỳ tiến hóa xa xưa) tất cả họ đều đã là hatha yogi và laya yogi. Kết quả là đã có sự phát triển và kiểm soát được thể hồng trần nhị phân, bao gồm thể xác và thể dĩ thái.

Whilst in the Atlantean race the desire or astral body was developed, and the flower of that race were true sons of bhakti yoga and true devotees. Now the highest of the three bodies must be brought to its fullest development and this Raja Yoga is intended to do and this is the object of Patanjali’s work. The Aryan race will [123] contribute this fuller development to the general economy, and the entire human family (with the exception of a percentage which entered the race too late to permit of the full flowering of the soul) will manifest as Sons of God with all the powers of the God unfolded and consciously used on the physical plane and in the physical body. Patanjali says that three things will bring this about, coupled with the following of certain methods and rules, and these three are:

Trong thời kỳ giống dân Atlantis, thể dục vọng hay cảm dục đã phát triển và tinh hoa của giống dân đó là các bhakti yogi thuần thành và những người sùng tín đích thực. Hiện nay, thể cao nhất trong ba hạ thể phải được phát triển đến mức viên mãn. [123] Đây là điều mà Raja Yoga nhằm thực hiện, và đây là mục tiêu được đề ra trong tác phẩm của Patanjali. Giống dân Aryan sẽ đóng góp sự phát triển viên mãn này cho cuộc tiến hóa chung. Bấy giờ, toàn gia đình nhân loại (trừ một số phần trăm những người gia nhập giới nhân loại quá trễ nên linh hồn không thể bừng nở trọn vẹn) sẽ trở thành những người Con của Thượng Đế. Các quyền năng của Thượng Đế trong họ được khai mở và sử dụng hữu thức ở cõi trần và trong thể xác. Patanjali cho biết hành giả sẽ đạt đến trình độ này khi theo đúng một số phương pháp, qui tắc và ba điều sau đây:

1. Fiery aspiration, the domination of the physical man so that every atom of his body is afire with zeal and endeavor,

1. Nhiệt vọng bừng cháy, tức là sự chế ngự con người ở cõi trần đến mức mọi nguyên tử trong cơ thể của y đều bừng cháy với lòng nhiệt thành và nỗ lực,

2. Spiritual reading, which has reference to the capacity of the mental body to see back of a symbol or to touch the subject lying back of the object,

2. Thấu hiểu tinh thần, là khả năng của thể trí thể nhìn xuyên qua một biểu tượng, hay thấu đến cái chủ thể ẩn trong đối tượng,

3. Devotion to Ishvara, which relates to the astral or emotional body, the whole heart poured out in love to God—God in his own heart, God in the heart of his brother, and God as seen in every form.

3. Sùng kính Ishvara, liên quan đến thể cảm dục hay thể tình cảm, có nghĩa là trọn cả tâm hồn trào dâng tình thương hướng về Thượng Đế − Thượng Đế trong tâm của hành giả, Thượng Đế trong tâm người huynh đệ của y, và Thượng Đế mà y thấy trong mọi hình hài, sắc tướng.

Fiery aspiration is the sublimation of karma yoga. Devotion to Ishvara is the sublimation of bhakti yoga, whilst spiritual reading is the first step to Raja Yoga.

Nhiệt vọng bừng cháy là sự thăng hoa của karma yoga. Sùng kính Ishvara là sự thăng hoa của bhakti yoga. Trong khi đó, thấu hiểu tinh thần là bước đầu trên con đường Raja Yoga.

“Devotion to Ishvara” is a large and general term covering the relation of the personal self to the higher self, the Ishvara or Christ principle in the heart. It covers also the relation of the individual Ishvara to the universal or cosmic Ishvara; it deals with the realization of the soul in man that it is an integral part of the Oversoul. This [124] results in group consciousness which is the objective of the kingly science.

“Sùng kính Ishvara” là thuật ngữ bao quát chỉ về mối liên hệ của phàm ngã với chân ngã, Ishvara hay nguyên khí Christ trong tâm. Thuật ngữ này cũng bao gồm mối liên hệ của Ishvara cá nhân với Ishvara đại đồng hay vũ trụ. [124] Đây là nhận thức của linh hồn trong mỗi người rằng mình là một thành phần của Đại hồn. Kết quả là tâm thức tập thể, vốn là mục tiêu của khoa yoga ưu việt này.

Devotion involves certain factors which it is valuable for the devotee to realize.

Lòng tôn sùng gồm có một số yếu tố mà người sùng tín cần nhận thức.

1. A capacity to decentralize oneself, to change one’s attitude from self-centredness and selfishness to one of outgoing to the loved one. All things are counted as loss provided the object of one’s devotion is attained.

1. Khả năng không còn tập trung vào chính mình, đổi thái độ xem mình là trung tâm và vị kỷ thành thái độ hướng đến Đấng mà hành giả yêu thương. Y không màng đến bất cứ điều gì khác ngoài đối tượng mà y sùng kính.

2. Obedience to the beloved object once that beloved is known. This has been called in some translations “complete obedience to the Master” and this is the true and accurate translation but in view of the fact that the word Master connotes (to the occult student) one of the adepts, we have chosen to translate the word as “Ishvara,” the one God in the heart of man, the divine Jiva or “point of divine life” at the centre of man’s being. This is the same in all men, whether savage or adept; the difference only lies in degree of manifestation and of control. Complete obedience to any guru or mahatma in the sense of complete subjugation of the will is never taught in the true science of yoga. Subjugation of the lower man to the will of the inner God is taught and all the methods and rules of yoga are to this specific end. This should be carefully borne in mind. “Spiritual reading” is the most significant and occult preliminary thereto.

2. Tuân phục Đấng yêu thương khi biết được Đấng ấy. một số bản dịch gọi điều này là “hoàn toàn tuân phục vị Chủ nhân (master).” Dịch như vậy là đúng và chính xác. Tuy nhiên, vì (đối với môn sinh huyền bí) từ master có hàm nghĩa là một trong những bậc trọn lành, nên chúng tôi chọn dịch từ này là “Ishvara,” Đấng Thượng Đế duy nhất trong tâm con người, vị Jiva thiêng liêng hay là “tâm điểm sự sống thiêng liêng” trong mỗi người. Sự sống thiêng liêng này như nhau dù ở trong người dã man hay một bậc trọn lành. Chỉ khác về mức độ biểu hiện và chế ngự. Khoa yoga đích thực không bao giờ dạy rằng chúng ta phải hoàn toàn phục tùng bất cứ vị tôn sư hay thánh sư nào, theo ý nghĩa tuân phục ý chí của vị đó. Nhưng khoa này lại giảng dạy rằng phàm nhân cần phải tuân phục ý chí của vị Thượng Đế nội tâm, và toàn bộ các phương pháp và qui tắc của yoga đều nhằm đạt mục đích đó. Đây là điều cần lưu ý. “Thấu hiểu tinh thần” là điều kiện sơ khởi và quan trọng nhất về mặt huyền môn để đạt mục đích kể trên.

Every form is the result of thought and of sound. Every form veils or conceals an idea or concept. Every form, therefore, is but the symbol or attempted representation of an idea and [125] this is true without exception on all the planes of our solar system, wherein forms are found whether created by God, man or deva.

Mọi hình thể đều là kết quả của tư tưởng và âm thanh. mọi hình thể đều chứa đựng hay che giấu một ý tưởng hay ý niệm. Vì thế, mọi hình thể đều chỉ là biểu tượng hay cố gắng trình bày một ý tưởng. [125] Điều này luôn luôn đúng trên mọi cảnh giới của thái dương hệ chúng ta, ở bất cứ nơi nào có hình tướng dù được tạo nên bởi Thượng Đế, con người hay một vị thần.

One object of a disciple’s training is to enable him to ascertain that which lies back of any form in any kingdom of nature and thus ascertain the nature of the spiritual energy which brought it into being. The vastness of this cosmic symbolism will be apparent to even the most superficial thinker and the beginner upon the path of chelaship has to learn to separate the many forms into certain specific groups standing for certain basic ideas. He has to interpret the ideas lying back of specific symbols, and he has to look for the specific impulse latent in every form. He can begin practically to do this in the environment and in the place where he is. He can look for the idea which his brother’s form veils; he can search for God behind the body of any and every man.

Một trong những mục tiêu của người đệ tử đang thụ huấn là nhằm có khả năng xác định được những gì ẩn trong bất cứ hình hài, sắc tướng nào thuộc bất cứ trường tiến hóa nào trong thiên nhiên. Nhờ đó, y xác định được năng lượng tinh thần đã sản sinh ra hình thể vừa kể. Tính biểu tượng vũ trụ này hiển nhiên là rộng lớn đến đỗi ngay cả một người có khả năng suy tư hời hợt nhất cho đến người bắt đầu đi trên đường đệ tử đều phải học cách phân chia những hình thể khác nhau thành những nhóm riêng biệt tiêu biểu cho những ý tưởng cơ bản nhất định. Y phải diễn giải các ý tưởng ẩn trong các biểu tượng đặc thù, và phải tìm kiếm cái xung lực cá biệt ẩn trong mọi hình thể. Y có thể bắt đầu thực hành điều này trong môi trường sống và ở nơi y đang sống. Y có thể tìm hiểu cái ý tưởng đang ẩn chứa trong hình thể của người huynh đệ. Y có thể tìm kiếm Thượng Đế ẩn trong hình thể của mọi người và bất cứ người nào.

Thus the sutra under consideration takes the aspirant into the most practical part of life; it brings him face to face with three basic enquiries and as he seeks to answer them aright, he will inevitably equip himself to tread the path. These three enquiries are:

Thế nên, câu kinh này giúp người chí nguyện đi vào phần thực tiễn nhất trong đời sống. Nó giúp y đối diện với ba câu hỏi cơ bản sau đây, và khi cố gắng tìm kiếm câu đáp đúng tất nhiên y tự trang bị để có thêm điều kiện tiến bước trên đường Đạo:

1. Towards what objective do all the longings and aspirations of my soul trend, towards God, or to things material?

1. Tất cả các khao khát và ước vọng trong tâm hồn tôi đang hướng đến mục tiêu nào, hướng đến Thượng Đế, hay những điều vật chất?

2. Am I bringing my entire lower nature under the control of Ishvara or the true spiritual man?

2. Có phải tôi đang đặt trọn cả phàm tính của mình dưới sự kiểm soát của Ishvara hay con người tinh thần đích thực?

3. Do I see God back of every form and circumstance in my daily contacts? [126]

3. Tôi có thấy Thượng Đế ẩn trong mọi hình thể và mọi trường hợp mà tôi tiếp xúc hằng ngày hay không? [126]

2. The aim of these three is to bring about soul vision and to eliminate obstructions.

2. Mục tiêu của ba điều nói trên là mang lại tầm nhìn của linh hồn và giải trừ chướng ngại.

It is interesting to note here that the words “soul vision” precede the thought of the eliminated hindrances or obstructions, showing that the vision is possible even to those who have not yet perfected themselves. The vision comes in those moments of exaltation and high aspiration to which most of the sons of men are susceptible and provides the incentive needed to produce that determination and perseverance which the elimination of the obstruction necessitates. The words “elimination of the obstructions” or the “alteration of the hindrances” (as it is sometimes translated), is a large and generic expression and Hindu commentators point out that it involves even the eradication of the seeds of those hindrances, and their total destruction as by fire; that just as a burnt, dried up seed is no longer capable of propagation and becomes unfertile, producing no growth, so the seeds of the obstructions to the life of the Spirit are similarly rendered unfertile. These seeds are found in three groups, each producing a large crop of hindrances or obstructions on the three planes of man’s evolution—the seeds latent in the physical body, those producing the obstructions of the astral body, and the seeds latent in the mental body. They are of three kinds in each case, making literally nine types or kinds of seeds:

Ở đây cần lưu ý là các từ “tầm nhìn của linh hồn” được nói đến trước việc giải trừ các trở ngại hay chướng ngại. Điều đó cho thấy rằng những người chưa tự hoàn thiện vẫn khả dĩ có được tầm nhìn tinh thần. Hầu hết mọi người đều dễ có được tầm nhìn này trong những phút giây tâm hồn họ trào dâng nguyện vọng cao thượng. Tầm nhìn này cho họ sự khích lệ cần thiết khiến họ quyết tâm và kiên trì trong cố gắng giải trừ chướng ngại. Nhóm từ “giải trừ chướng ngại” hoặc đôi khi được dịch là “loại trừ trở ngại” là một lối nói bao quát. Các nhà luận giải Ấn giáo nêu rõ rằng nhóm từ này thậm chí còn có nghĩa là loại bỏ những mầm mống của các trở ngại nói trên và tận diệt chúng bằng lửa. Họ nói rằng cũng như hạt giống bị khô, cháy thì không thể nẩy mầm, sinh sản hay tăng trưởng, những mầm mống gây chướng ngại cho sự sống Tinh thần cũng bị vô hiệu hóa theo cách tương tự. Những mầm mống này gồm ba nhóm, mỗi nhóm gây nhiều trở ngại hay chướng ngại trên ba cảnh giới tiến hóa của nhân loại − những mầm mống tiềm ẩn trong thể xác; những mầm mống gây chướng ngại trong thể cảm dục; và những mầm mống ẩn tàng trong thể trí. Mỗi nhóm có ba loại, tức là tất cả có chín loại chủng tử:

1. Seeds brought over from previous lives,

1. Những chủng tử từ các tiền kiếp chuyển sang kiếp này,

2. Seeds sown in this life, [127]

2. Những chủng tử được gieo trồng trong kiếp này, [127]

3. Seeds brought into the field of one’s life from the family or race with which one is allied.

3. Những chủng tử được đưa vào cuộc sống của một người từ gia đình hay chủng tộc mà y sinh ra trong đó.

It is these seeds which produce the obstructions or hindrances to soul vision and the free play of spiritual energy and Patanjali says they are of five kinds and proceeds to deal with them specifically. By some commentators the word is translated distractions, and all three terms are equally correct and any of them can be used. It may perhaps be pointed out that:

Chính các chủng tử nói trên gây chướng ngại hay trở ngại cho tầm nhìn của linh hồn và sự tác động tự do của năng lượng tinh thần. Patanjali còn nói thêm rằng có năm loại chủng tử như thế và bàn cụ thể về chúng ở phần sau. Một số nhà luận giải dịch từ này là nhiễu loạn và cả ba thuật ngữ này đều đúng và đều có thể dùng. Có lẽ nên nêu rõ rằng:

1. The word “obstruction” is more technically correct when applied to the physical plane,

1. Từ “trở ngại” đúng hơn về mặt kỹ thuật khi áp dụng cho cuộc sống ở cõi trần,

2. The word “hindrance” is more illuminating when applied to those things which, through the medium of the astral body, prevent soul vision,

2. Từ “chướng ngại” tỏ rõ hơn khi áp dụng cho những điều, qua trung gian của thể cảm dục, ngăn trở tầm nhìn của linh hồn,

3. The word “distraction” has more specific reference to the difficulties which assail the man who seeks to quiet the mind and so achieve soul vision.

3. Từ “nhiễu loạn” đề cập cụ thể hơn về những khó khăn đối với người cố gắng làm cho cái trí yên lặng để có được tầm nhìn của linh hồn.

3. These are the difficulty producing hindrances: + avidya (ignorance), and the sense of personality, desire, hate and the sense of attachment.

3. Sở dĩ có chướng ngại là do những nỗi khó khăn sau đây: vô minh (thiếu minh triết), ý thức phàm ngã, ham muốn, thù ghét và mê chấp.

These are the five wrong ideas or concepts which for aeons of time and throughout many lives, prevent the sons of men from realizing that they are sons of God. It is these concepts which lead men to identify themselves with that which is lower and material, and to forget the divine realities. It is these misconceptions which make a prodigal son of the divine Monad, and which send [128] him forth into the far country to eat of the husks of mortal existence. It is these which must be overcome and eliminated before a man can “lift up his eyes” and see again the vision of the Father and the Father’s Home and so be enabled to tread consciously the Path of return.

Đây là năm ý tưởng hay ý niệm sai lầm, qua biết bao thời đại và xuyên suốt nhiều kiếp sống, đã khiến mọi người không nhận thức được rằng họ là con của Thượng Đế. Chính những ý niệm này đã khiến họ tự đồng hóa với những gì thấp kém và vật chất, mà quên mất những điều thực tế thiêng liêng. Chính những nhận thức sai lầm này khiến Chân thần thiêng liêng [128] trở thành người cùng tử, khiến y phải tha phương cầu thực với những thứ cặn bã trong vòng sinh tử, luân hồi. Cần phải giải trừ các nhận thức sai lầm này trước khi hành giả có thể “nâng cao tầm mắt”, phục hồi tri kiến về Đấng Cha lành và Nhà của Đấng Cha lành. Nhờ thế, y có thể tiến bước trên Con Đường phản bổn hoàn nguyên.

It might be pointed out that two of the hindrances, avidya and sense of personality, relate to man, the synthesis upon the physical plane, that desire has relation to his astral body or vehicle of feeling, and that hate and a sense of attachment are products of the sense of egoism (the ahamkara principle) which animate the mental body. Thus the threefold personality is the field for the seeds and in the soil of the personal life in the three worlds do these seeds propagate and flourish and grow up to obstruct and hinder the real man. These seeds must be destroyed, and in their destruction three things eventuate:

Có thể nói hai chướng ngại đầu, vô minh và ý thức phàm ngã, liên quan đến toàn cuộc sống của con người ở cõi trần; ham muốn liên quan đến thể cảm dục hay thể cảm xúc; và thù ghét và mê chấp là sản phẩm của ý thức vị kỷ (nguyên khí ahamkara) làm linh hoạt thể trí. Vì thế, ba hạ thể phàm nhân là nơi tác động của các chủng tử này. Trên mảnh đất của cuộc sống phàm nhân trong tam giới, chúng sinh sôi, nẩy nở và tăng trưởng đến mức gây chướng ngại và trở ngại cho chân nhân. Do đó, cần phải loại trừ các chủng tử kể trên, và khi loại trừ được sẽ mang lại ba điều sau đây:

1. Karma is worked off,

1. Nghiệp quả được trả sạch,

2. Liberation is achieved,

2. Hành giả được giải thoát,

3. The vision of the soul is perfected.

3. Tri kiến của linh hồn trở nên hoàn hảo.

4. Avidya (ignorance) is the cause of all the other obstructions, whether they be latent, in process of elimination, overcome, or in full operation.

4. Vô minh (thiếu minh triết) là nguyên nhân của tất cả các chướng ngại khác, dù chúng tiềm ẩn, đang được giải trừ, khắc phục, hay hoàn toàn chi phối.

The comprehensiveness of this sutra is the first thing which attracts one’s attention. It carries one in thought to the root cause of all evil and in its reference to the obstructions covers all possible conditions of their being. This verse sums [129] up the condition of every man from the savage stage up through all intervening conditions to the state of arhatship, in which the final fetters of ignorance are cast off. It states that the reason evil exists, the reason selfishness and personal desires of any kind are evident, is found in the great basic condition which is the limitation of form itself, avidya or ignorance.

Điều đầu tiên cần lưu ý là tính cách toàn diện của câu kinh này. Nó cho thấy nguyên nhân cội rễ của mọi điều tà vạy, dẫn đến những chướng ngại bao gồm mọi tình trạng khả [129] dĩ xảy ra khi những chướng ngại đó còn tồn tại. Câu này tóm lược tình trạng của mọi người, từ giai đoạn dã man qua các điều kiện trung gian cho đến trình độ của vị la-hán, là khi những xiềng xích cuối cùng của vô minh được trút bỏ. Câu này nêu rõ rằng sở dĩ những điều tà vạy vẫn còn tồn tại, sở dĩ tính ích kỷ và dục vọng cá nhân vẫn còn nhan nhãn, vì chúng phát sinh từ điều kiện chung và cơ bản là sự hạn chế của chính hình thể, sự vô minh hay thiếu minh triết.

The aspirant is reminded right at the beginning of his investigations into the laws of spiritual unfoldment, that two factors must be taken into account which are based on the fact of manifestation itself:

Ngay từ bước đầu nghiên cứu các định luật khai mở tinh thần, người chí nguyện được nhắc nhở rằng y cần phải xem xét hai yếu tố vốn dựa vào chính cuộc biểu hiện:

1. The fact of the not-self towards which the divine points of spiritual life are attracted, and which in the period of evolution absorbs them,

1. Sự kiện thực tế về cái phi-ngã mà các điểm linh quang của sự sống tinh thần thiêng liêng được hấp dẫn đến, và thu hút các điểm linh quang ấy trong diễn trình tiến hóa,

2. The fact of the limitations which form-taking necessitates.

2. Sự kiện thực tế về những hạn chế tất phải có khi sự sống khoác lấy hình thể.

The above two factors must be recognized as true of the solar Logos, the planetary Logos, a man or an atom. Every form of divine life (the infinitesimally small and the infinitely great) veils or hides a fraction of spiritual energy. The result to the point of spiritual existence is necessarily a shutting in, a cutting off, and a circumscribing of itself, and only the contacts of existence itself and the struggle of the spiritual unit within the form can bring about, eventual release.

Cần nhận thức rằng hai yếu tố nói trên là đúng với vị thái dương Thượng Đế, hành tinh Thượng Đế, một con người hay một hạt nguyên tử. mọi hình thể của sự sống thiêng liêng (từ cái vô cùng nhỏ đến cái vô cùng lớn) đều hàm chứa hay có ẩn tàng một phần năng lượng tinh thần. Hậu quả tất yếu là điểm sống tinh thần ấy bị bưng bít, cô lập, và vây bọc. Vì thế, chỉ có những giao tiếp với chính đời sống và nỗ lực phấn đấu của đơn vị sống tinh thần bên trong hình thể mới mang lại sự giải thoát cuối cùng.

For the time being and during the process of incarnation, the veiled point of life remains in ignorance of that which lies outside of itself and progressively has to fight its way out to ever increasing freedom and liberty. [130]

Trong thời gian hiện nay và trong tiến trình nhập thế, điểm sống tinh thần vẫn chưa biết được những gì bên ngoài nó, và cứ mãi chiến đấu để ngày càng được khai phóng, tự do. [130]

First the sphere of its own form is the sole thing it is aware of and it remains in ignorance of all outside of itself. The contacts, brought about by desire, are the factors whereby ignorance works out into knowledge, and the man (for we will only consider the human unit in this connection, though the basic laws hold good for all forms of divine life) gradually becomes aware of himself as he is and conscious of his environment. As this environment is triple (physical, astral and mental) and as he has three vehicles whereby he can contact the three worlds, the period covered in this awakening is immense. The old commentary says in this connection:

Trước hết, nó chỉ biết có phạm vi hình thể của mình, và vẫn chưa biết đến tất cả những gì bên ngoài nó. Do ham muốn mà có sự tiếp xúc, nhờ đó mà vô minh biến thành hiểu biết. (Dù các định luật cơ bản vẫn đúng cho mọi hình thể, ở đây chúng ta sẽ chỉ xem xét về con người). Bấy giờ, con người dần dần hiểu được chính mình, và ý thức về môi trường chung quanh. Vì môi trường này có ba phần (cõi trần, cõi cảm dục và cõi trí) và vì y có ba hạ thể để nhờ đó mà tiếp xúc với tam giới vừa kể, nên giai đoạn khai mở ý thức này rất lâu dài. Cổ luận nói về giai đoạn này như sau:

“In the Hall of Ignorance the triple sheaths are known. The solar life at its densest point is contacted and man emerges fully human.”

“Trong Phòng Vô minh, con người biết đến ba hạ thể của mình. Sự sống thái dương tiếp xúc với mức độ thô trược nhất, và con người phát triển đủ đầy nhân tính.”

Then the man becomes aware of something else, the group to which he belongs, and he does this through a finding of his own inner reality as latent in his personality. He learns that he, the human atom is a part of a group or centre in the body of a heavenly Man, a planetary Logos and that he must develop awareness of:

Sau đó y trở nên ý thức được một điều khác, là tập thể mà y thuộc vào đó. Y ý thức được nhờ tìm thấy thực tại tinh thần nội tâm ẩn tàng trong phàm nhân của mình. Y biết mình, nguyên tử con người, là thành phần của một tập thể hay trung tâm trong cơ thể của một vị Thiên nhân, một vị hành tinh Thượng Đế, và y phải phát triển ý thức về:

a. His group vibration,

a. Sự rung động của tập thể của mình,

b. His group purpose,

b. mục đích của tập thể của mình,

c. His group centre.

c. Trung tâm tập thể của mình.

This is the stage of the probationary path or the Path of Discipleship up to the third initiation, and the old commentary proceeds:

Đây là giai đoạn của con đường dự bị hay Con đường Đệ tử cho đến cuộc điểm đạo thứ ba. Cổ luận nói tiếp:

“Within the Hall of Learning, the central mystery is contacted. The method of release is seen, the law is well fulfilled, and man emerges well-nigh adept.” [131]

“Trong Phòng Học tập, hành giả tiếp xúc với bí nhiệm trung tâm. Y thấy phương pháp giải thoát, hoàn toàn tuân thủ định luật, và đến gần trình độ toàn thông.” [131]

Finally, the man enters the Hall of Wisdom to which he was admitted occasionally (and with increasing frequency) after the first great initiation, and learns of the place his group holds in the planetary plan, catching a glimpse also of the cosmic scheme. Ignorance (as we understand the term) is, of course, negated, but it cannot be too frequently emphasized that there remains much unknown even to the adept, and that the Christ Himself, the great World Teacher, knows not all that is the content of the awareness of the King of the World. The Yoga Sutras of Patanjali only deal, however, with the overcoming of the ignorance which holds a man upon the wheel of rebirth and which prevents him unfolding the true powers of the soul. The old commentary says in connection with this final stage:

Cuối cùng, hành giả đi vào Phòng minh triết. Thỉnh thoảng y được phép vào đó (và ngày càng thường xuyên hơn) sau khi nhận cuộc điểm đạo lớn thứ nhất. Y biết vị trí của tập thể của mình trong kế hoạch hành tinh, và thoáng nhìn thấy  một phần thiên cơ của vũ trụ. Vô minh (hiểu theo thuật ngữ thông thường) nay được giải tán. Thế nhưng, cần lưu ý rằng ngay đến một bậc gọi là toàn thông vẫn còn nhiều điều chưa biết. Chính Đức Christ, vị Huấn sư vĩ đại của Thế giới, vẫn chưa biết hết được những gì có trong ý thức của Đức Chúa tể Hoàn cầu. Tuy nhiên, bộ Yoga Điển tắc của Patanjali chỉ bàn đến việc giải tán chướng ngại vô minh vốn đang giam nhốt con người trong vòng luân hồi, khiến họ không thể khai mở được những quyền năng đích thực của linh hồn. Cổ luận nói về giai đoạn cuối này như sau:

“Within the Hall of Wisdom, light fully shines upon the adept’s ways. He knows and sees the seventh part and visions all the rest. He is himself a septenate and from this Hall emerges God.”

“Bên trong Phòng minh triết, ánh sáng chói rạng trên đường của vị toàn thông. Người biết và thấy phần thứ bảy và tri kiến tất cả những gì còn lại. Người chính là sự sống thất phân, và từ Phòng này trở thành Thượng Đế.”

5. Avidya is the condition of confusing the permanent, pure, blissful and the Self, with that which is impermanent, impure, painful and the not-self.

5. Vô minh là nhầm lẫn cái thường tồn, thanh tịnh, chân phúc và chân ngã, với những gì vô thường, bất tịnh, đau khổ và phi-ngã.

This condition of ignorance, or the “state of avidya” is characteristic of all those who as yet do not discriminate between the real and unreal, between death and immortality, and between light and darkness. It governs, therefore, life in the three worlds, for the correspondence between [132] avidya on the physical plane as experienced by man in incarnation is to be found on all planes. It is a limitation of Spirit itself and a necessary corollary of form-taking. The spiritual unit is born blind and senseless. It comes into form at the beginning of the ages and cycles of rebirth in a state of total unawareness. It has to become aware of that which is around it; to do this it has first to develop the senses whereby contact and awareness become possible. The method and process through which the human being has evolved five senses or avenues of approach to the not-self are well known and any standard physiological text book can supply the needed information. Three factors must be borne in mind in connection with the spiritual unit:

Sự vô minh, hay “tình trạng thiếu minh triết này” là đặc trưng của tất cả những người chưa phân biệt được giữa sự thực và điều giả trá, giữa sự chết và tính bất tử, giữa ánh sáng và bóng tối. [132] Vì thế, nó chi phối đời sống trong tam giới, do tình trạng thiếu minh triết của con người đang đầu thai ở cõi trần cũng có phần tương ứng trên các cảnh giới kia. Đó là sự hạn chế đối với chính Tinh thần, và là hệ quả tất yếu khi Tinh thần khoác lấy hình thể. Đơn vị sống tinh thần khi sinh ra vốn mù lòa và không cảm nhận được gì. Trong những thời kỳ đầu nhập vào hình thể và trong các chu kỳ đầu tái sinh, nó hoàn toàn không ý thức được điều gì. Nhưng nó phải làm thế nào để biết được những gì ở chung quanh mình. Để thực hiện điều này, trước hết nó phải phát triển các giác quan để có thể tiếp xúc và hiểu biết. Người ta đã biết rõ về phương pháp và quá trình mà con người phát triển ngũ quan tức là năm con đường tiếp cận cái phi-ngã. Bất cứ giáo trình chuẩn nào về tâm lý học cũng đều có thể cung cấp kiến thức cần thiết này. Ở đây, cần lưu ý ba yếu tố liên quan đến đơn vị sống tinh thần:

1. The senses have to be evolved,

1. Các giác quan cần được phát triển,

2. Their recognition and use must follow,

2. Sau đó phải nhận biết và sử dụng chúng,

3. A period succeeds wherein the spiritual man utilizes the senses in the fulfillment of his desire, and in so doing identifies himself with his apparatus of manifestation.

3. Kế đến là một thời kỳ mà con người tinh thần sử dụng các giác quan để đạt được những điều mình muốn. Và khi làm thế, y tự đồng hóa với cái khí cụ biểu hiện của mình.

He is doubly blind, for he is not only born blind and senseless but he is mentally blinded also, and does not see himself or things as they are but makes the mistake of regarding himself as the material form, and this he does for many cycles. He has no sense of values or of proportion but looks upon the transient, suffering, unclean, material, lower man (his three sheaths in their totality) as himself, the reality, He cannot dissociate himself from his forms. The senses are part of the forms; they are not the spiritual man, the [133] dweller in the form. They are part of the not-self and the medium of its contact with the planetary not-self.

Y bị mù lòa về hai phương diện, vì không những bị mù lòa và vô cảm khi sinh ra y cũng bị mù lòa về mặt trí năng. Y không thấy được thực tính của chính mình, hoặc thấy được thực chất của các sự vật. Y nhầm lẫn khi cho rằng mình là hình hài vật chất này, và cứ mãi nghĩ như thế qua nhiều kiếp sống. Y không hề có ý thức về giá trị hay tỉ lệ đúng. Dù vốn là thực tại tinh thần, y chỉ xem mình là phàm nhân (cả ba hạ thể của y) thuộc về vật chất, bất tịnh, có cuộc sống phù du và đang đau khổ. Y không thể tự tách khỏi các thể của mình. Các giác quan là một phần của các thể. [133] Chúng không phải là con người tinh thần, đang ẩn ngự trong các thể. Chúng là thành phần của cái phi-ngã, và là phương tiện để y tiếp xúc với cái phi-ngã của hành tinh.

Through discrimination and dispassion the self, who is permanent, pure, and blissful, can eventually dissociate itself from the not-self which is impermanent, impure, and full of pain. When this is not realized, the man is in a condition of avidya. When it is in process of accomplishment, the man is a follower of vidya or knowledge, a fourfold path. When the soul is known as it is and the not-self is relegated to its rightful place as a sheath, vehicle or implement, then knowledge itself is transcended and the knower stands alone. This is liberation and the goal.

Qua trí phân biện và hạnh vô dục, chân ngã − vốn thường tồn, thanh tịnh, và phúc lạc − rốt cuộc có thể tách mình ra khỏi cái phi-ngã, vốn vô thường, bất tịnh, và đầy đau khổ. Những ai chưa nhận thức được điều này thì vẫn còn trong tình trạng vô minh. Khi nhận thức này ngày càng viên mãn, hành giả càng đạt đến minh triết hay sự hiểu biết, trên bốn tầng cửa Đạo. Khi biết được chân tính của linh hồn, và thấy cái phi-ngã đúng ra chỉ là một lớp áo, một thể hay khí cụ, hành giả vượt cao hơn sự hiểu biết đó và trở nên tự tại. Đây là mục tiêu và chính là sự giải thoát.

6. The sense of personality is due to the identification of the knower with the instruments of knowledge.

6. Sở dĩ có ý thức của phàm nhân là do người tri thức tự đồng hóa với cái khí cụ dùng để hiểu biết.

This verse is the commentary upon the previous one. The student should remember that the knower, the spiritual man, has various instruments for contacting his environment and thus becoming increasingly aware:

Câu kinh này bổ sung cho câu trước. Người môn sinh cần lưu ý rằng người tri thức, là con người tinh thần, có những khí cụ khác nhau để giao tiếp với môi trường sống và nhờ đó mà ngày càng ý thức được:

1. His three sheaths or bodies which are his medium of contact on three planes:

1. Ba lớp áo hay ba hạ thể được dùng làm phương tiện cho y giao tiếp trong tam giới:

a. The physical body,

a. Thể xác,

b. The emotional or astral body,

b. Thể tình cảm hay cảm dục,

c. The mental body.

c. Thể trí.

2. On the physical plane he has his five senses, hearing, touch, sight, taste and smell. [134]

2. Ở cõi trần y có năm giác quan, nghe, xúc chạm, thấy, nếm và ngửi. [134]

3. The mind, the great sixth sense which has a triple use. As yet for the majority of men it has but one use:

3. Thể trí, giác quan thứ sáu, rất quan trọng và có ba công dụng. Cho đến nay, đa số mọi người chỉ biết đến một công dụng của nó:

Its first and commonest use is a gathering of the realized contacts together and their transmission as information to the ego or knower, much in the same way as the nervous system telegraphs to the brain the external contacts it makes. It is this use of the mind which produces primarily the sense of personality which begins to fade out as the other uses become possible.

Công dụng đầu tiên và thông thường nhất của thể trí là gom chung các giao tiếp đã nhận thức được và chuyển các thông tin này đến chân nhân hay người tri kiến. Cách này tương tự như việc hệ thần kinh truyền đến não bộ những tiếp xúc của nó với bên ngoài. Chính công dụng này của cái trí chủ yếu mang lại ý thức của phàm nhân, sẽ bắt đầu phai mờ khi con người có thể sử dụng các công năng kia.

A second use of the mind is the one which the first five means of yoga bring about—the power to transmit to the brain the thoughts, wishes and will of the ego or soul. This brings into the personal self on the physical plane a recognition of the reality and the sense of identification with the not-self becomes steadily less.

Công dụng thứ hai của thể trí là công năng mà năm phương tiện đầu của yoga mang lại − năng lực truyền đến não bộ các ý tưởng, ý muốn và ý chí của chân nhân hay linh hồn. Năng lực này giúp phàm ngã ở cõi trần nhận thức được thực tại, và ý hướng đồng hóa với cái phi-ngã ngày một giảm dần.

The third use of the mind is its use by the soul as an organ of vision whereby the realm of the soul itself is contacted and known. The final three means of yoga bring this about.

Công dụng thứ ba của thể trí là nó được linh hồn dùng làm cơ quan tri kiến để giao tiếp và biết được lĩnh vực của chính linh hồn. Ba phương tiện cuối của yoga mang lại điều này.

It should be emphasized that this is a most important fact to note. If the aspirant will regard the development and full use of the sixth sense as his immediate objective, and will bear in mind the three purposes for which it is intended, he will make rapid progress, the sense of personality will fade away and identification with the soul will ensue. This is one of the greatest of the fetters which hold the sons of men captive. It is here that the axe must be laid to the root of the tree. [135]

Đây là sự kiện quan trọng nhất cần lưu ý. Nếu người chí nguyện xem việc phát triển và sử dụng trọn vẹn giác quan thứ sáu là mục tiêu ngay trước mắt của mình, và ghi nhớ ba mục đích dành cho nó, thì y sẽ tiến bộ nhanh chóng. Bấy giờ, ý thức của phàm nhân sẽ mờ nhạt dần để nhường chỗ cho sự đồng nhất với linh hồn. Đây là một trong những xiềng xích nặng nề nhất giam nhốt những người con nhân loại. Đây chính là điểm phải giáng chiếc rìu vào để đánh bật cả gốc rễ của ý thức phàm nhân. [135]

7. Desire is attachment to objects of pleasure.

7. Ham muốn là bám chấp vào các đối tượng của lạc thú.

This is not a literal translation by any means but gives the basic idea so clearly that it is best to translate the sutra as above.

Ở đây hoàn toàn không dịch theo nghĩa đen, mà lại nêu cái ý tưởng cơ bản một cách hết sức rõ rệt. Vì thế, tốt nhất là nên dịch câu kinh này như trên.

These objects of pleasure cover all the attachments which a man forms from the savage state of infant humanity up to advanced degrees of discipleship; they cover desire for gross objects on the physical plane as well as attachment to those things, occupations and reactions which the emotions or intellectual pursuits will offer; they cover the whole gamut or range of sensuous experience from the response of the savage to warmth and a good meal to the rapture of the mystic. Desire is a generic term covering the outgoing tendency of spirit towards form life. It may mean the delight of a cannibal for that which he eats, the love of a man for his family, the appreciation of the artist for a beautiful painting, or the adoration of the devotee for Christ or his guru. It is all attachment in some degree or another, and the progress of the soul seems to be in this dispensation from one object of sense to another until that time comes when he is thrown back alone upon himself. He has exhausted all objects of attachment, and even his guru seems to have left him alone. Only one reality is left, that spiritual reality which is himself, and his desire then turns inward. It is no longer outgoing but he finds the kingdom of God within. All desire then leaves him. He makes contacts, and continues to manifest [136] and work upon the planes of illusion but he works from the centre where dwells his divine self, the sum total of all desire, and there is nothing to lure him forth into the byways of pleasure or of pain.

Các đối tượng của lạc thú nói trên bao gồm tất cả những bám chấp của con người từ tình trạng dã man của nhân loại còn ấu trĩ cho đến những trình độ cao trên đường đạo. Chúng bao gồm sự ham muốn các đối tượng thô kệch nhất ở cõi trần, cũng như sự bám chấp vào những điều, những mối bận tâm và phản ứng mà các tình cảm hay những hoạt động trí tuệ mang lại. Chúng bao gồm toàn bộ các cung bậc hay phạm vi khác nhau của kinh nghiệm giác quan, từ sự đáp ứng của người dã man với hơi ấm và bữa ăn ngon đến trạng thái xuất thần ngây ngất của nhà thần bí. Ham muốn là thuật ngữ chung bao gồm khuynh hướng của tinh thần hướng ngoại đến với cuộc sống hình thể. Nó cũng có thể là niềm vui thích của dân bộ lạc ăn thịt người đối với những gì mà họ ăn, tình thương của một người đối với gia đình mình, sự thán phục của họa sĩ đối với bức tranh đẹp, hoặc lòng sùng kính của người tôn thờ Đức Christ hoặc tôn sư của y. Tất cả đều là bám chấp với mức độ nào đó. Và sự tiến bộ của linh hồn dường như tùy theo việc rời bỏ hết đối tượng này của giác quan đến đối tượng khác, cho đến thời điểm y bị buộc phải tự nương tựa vào chính mình. Y đã kinh qua mọi đối tượng của bám chấp, và ngay cả sư phụ của y chừng như cũng đã rời bỏ y. Chỉ còn lại một điều thực tế cho thấy rằng y chính là sự sống tinh thần, và sự ước muốn của y bấy giờ mới quay vào bên trong. Nó không còn hướng ngoại vì y tìm thấy Thiên giới ở nội tâm. Nay y đã gột sạch mọi điều ham muốn. Y vẫn có những giao tiếp, tiếp tục biểu hiện và hoạt động trên những cảnh giới của ảo tưởng. [136] Thế nhưng, y làm việc từ trung tâm nơi mà chân ngã thiêng liêng của y an trú. Chân ngã này là tất cả những gì mà y ước vọng. Thế nên, không điều gì có thể cám dỗ y đi vào những đường quanh, ngõ tắt của lạc thú hay đau khổ.

8. Hate is aversion for any object of the senses.

8. Thù ghét là đố kỵ bất cứ đối tượng nào của giác quan.

This sutra is the reverse of the preceding one. The true yogi neither feels aversion or desire. He is balanced between these pairs of opposites. Hate causes separation, whereas love reveals the unity underlying all forms. Hate is the result of concentration upon form and of a forgetfulness of that which every form (in more or less degree) reveals; hate is the feeling of repulsion and leads to a withdrawal of the man from the object hated; hate is the reverse of brotherhood and therefore is the breaking of one of the basic laws of the solar system. Hate negates unity, causes barriers to be built and produces those causes which lead to crystallization, destruction and death. It is energy used to repudiate instead of to synthesize and therefore runs counter to the law of evolution.

Câu kinh này ngược lại với câu trước. Nhà yogi thực sự thì không hề cảm thấy thù ghét hay ham muốn. Y thăng bằng giữa các cặp đối cực. Thù ghét gây chia rẽ, trong khi tình thương làm hiển lộ tính duy nhất ẩn trong mọi hình thể. Thù ghét là kết quả của việc tập trung vào hình thể, và hoàn toàn quên mất cái mà mọi hình thể làm hiển lộ (ở mức độ nhiều hay ít). Thù ghét là xúc cảm ghê tởm khiến người đó rút lui khỏi đối tượng bị thù ghét. Thù ghét là điều trái ngược với tình huynh đệ, và vì thế mà vi phạm một trong những định luật cơ bản của thái dương hệ. Thù ghét phủ nhận tính duy nhất, khiến dựng nên những rào cản và tạo ra các nguyên nhân dẫn đến sự đông cứng, hủy diệt và tử vong. Đó là năng lượng được dùng để bác bỏ thay vì tổng hợp, và vì thế chống lại luật tiến hóa.

Hate is really the result of the sense of personality and of ignorance plus misapplied desire. It is almost the culmination of the other three. It was the sense of personality and of extreme ignorance coupled with desire for personal gain which produced hatred of Abel in the heart of Cain and caused the first murder, or the destruction of a brother’s form. This should be carefully considered, [137] for hate in some degree, aversion to some extent, is present in every human heart. Only, however, when it is entirely overcome by love or the sense of unity will death, danger and fear pass out of the ken of the human family.

Thù ghét thực sự là kết quả của ý thức phàm nhân, của vô minh và ý muốn bị áp dụng sai. Nó hầu như là kết thúc của ba cái kia. Chính ý thức phàm nhân này và sự vô minh cực độ cùng với ý muốn thu đạt cá nhân đã tạo nên nỗi thù ghét Abel trong lòng Cain và gây ra vụ sát nhân đầu tiên, hay là sự hủy diệt hình hài của một người anh em. Cần xem xét kỹ điều này, vì một mức độ thù ghét nào đó, một mức độ đố kỵ nào đó, hiện đang có trong tâm mỗi người. [137] Tuy nhiên, khi nó được tình thương và ý thức hợp nhất hoàn toàn thắng phục thì bấy giờ gia đình nhân loại sẽ không còn biết đến sự chết, nguy hiểm và sợ hãi.

9. Intense desire for sentient existence is attachment. This is inherent in every form, is self-perpetuating, and known even to the very wise.

9. Mạnh mẽ ham muốn đời sống hữu tình là bám chấp. Điều này cố hữu trong mọi hình thể, có tính tự tồn, và ngay cả người rất khôn ngoan vẫn còn cảm biết nó.

This form of attachment is the basic cause of all manifestation. It is inherent in the relationship of the two great opposites, spirit and matter; it is the governing factor in logoic manifestation and this is the reason why even “the very wise” are subject to it. This form of attachment is an automatic self-reproducing, self-perpetuating faculty, and it should be remembered that the overcoming of this tendency, even when carried to its highest stage by the adept, is but a relative overcoming. As long as the Logos of our solar system, or the Absolute Spirit, incarnates through the medium of a solar system, this tendency will be present in the highest planetary Spirit and the most elevated spiritual existence. All that is possible in overcoming attachment, or killing out desire, is to develop the power to balance the pairs of opposites on any particular plane so that one is no longer held by the forms of that plane and withdrawal becomes possible. Very secondary meanings are given by the ordinary student to the words attachment, desire, and their killing out. They are interpreted in terms of the student’s [138] small advancement. They are but English words which most inadequately and only symbolically seek to express an occult work. They can only be truly understood in terms of the law of Attraction and Repulsion and through an understanding of the system of occult vibrations.

Dạng bám chấp này là nguyên nhân cơ bản của toàn cuộc biểu hiện. Nó vốn có trong mối quan hệ của hai đối cực chính đại, là tinh thần và vật chất. Nó là yếu tố chi phối trong cuộc biểu hiện của Thượng Đế. Và đây là lý do tại sao mà ngay cả “người rất khôn ngoan” vẫn còn bị nó ảnh hưởng. Dạng bám chấp này là một loại năng lực tự động, tự sinh, tự tồn. Vì thế, cần nên nhớ rằng việc thắng phục khuynh hướng này, dù khi được đưa đến giai đoạn cao nhất của bậc toàn thiện, vẫn chỉ là sự thắng phục tương đối mà thôi. Ngày nào Đức Thượng Đế của thái dương hệ chúng ta, hay là Tinh thần Tuyệt đối, còn lâm phàm qua trung gian của một thái dương hệ, thì khuynh hướng này vẫn có trong vị hành tinh Thượng Đế cao cả nhất và trạng thái hiện tồn tinh thần cao siêu nhất. Tất cả những gì có thể làm trong cố gắng thắng phục sự bám chấp, hay tiêu diệt sự ham muốn, là phát triển năng lực làm cân bằng các cặp đối cực trên bất cứ cảnh giới nào. Nhờ đó hành giả không còn bị các hình thể của cảnh giới ấy cầm giữ và có thể thoát ra khỏi chúng. Người môn sinh bình thường đưa ra những ý nghĩa rất thứ yếu cho các từ bám chấp, ham muốn, và việc trừ diệt chúng. Họ giải thích các thuật ngữ này theo mức tiến bộ nhỏ hẹp của mình. [138] Đây chỉ là những từ tiếng Anh còn rất thiếu sót, và chỉ tìm cách phát biểu một tác phẩm huyền môn theo lối biểu tượng. Người ta chỉ có thể thực sự hiểu được các thuật ngữ này theo Luật Hấp dẫn và Đối kháng, cũng như nhờ thấu đáo hệ thống các rung động huyền linh.

The will to live or to manifest is part of the divine Life impulse, and therefore is right. The will to be or to manifest upon any specific plane or through any specific group of forms is not right when that sphere of manifestation is out-grown, and when any peculiar set of forms have served their purpose of providing media for experience-contacts and can teach no further lessons, evil enters in, for a tendency to evil is but a tendency to revert to the use of forms and practices which the Indweller has outgrown. For this reason, the gross animal sins are universally regarded as evil because it is generally recognized that the dweller in the form of man has outgrown the third or animal kingdom.

Ý chí sinh tồn hay ý muốn biểu hiện là thành phần trong sức thôi thúc của Sự Sống thiêng liêng. Thế nên, nó có tính đúng đắn. Ý chí sinh tồn hay biểu hiện trên một cảnh giới hoặc qua một nhóm hình thể nào đó không còn đúng nữa, khi Sự Sống thiêng liêng đã phát triển nhiều hơn phạm vi biểu hiện ấy, khi một số hình thể đặc thù đã phục vụ xong mục đích của chúng là làm phương tiện để giao tiếp-trải nghiệm, và không thể mang lại thêm bài học nào nữa. Bấy giờ điều tà vạy phát sinh. Bởi vì khuynh hướng tà vạy chẳng qua chỉ là cái khuynh hướng trở lại sử dụng những thể thức và cách thực hành mà Con người nội tâm đã vượt cao hơn trình độ đó. Vì lý do này, mà những tội lỗi mang thú tính thô bạo thường bị xem là điều ác vì mọi người đều thừa nhận chung rằng sự sống ngự trong hình hài con người đã tiến hóa cao hơn trình độ của giới thứ ba hay loài thú cầm.

An adept, therefore, has transcended attachment to forms on three planes (physical, astral and mental) and has killed out all longing for the forms of those planes. When the life or Spirit withdraws itself, the form dies, occultly. When the thought of the ego or higher self is occupied with its own plane, there is no energy outgoing towards the matter of the three worlds and so no form-building and form-attachment is there possible. This is in line with the occult truism that “energy follows thought,” and in line too with the teaching that the body of the Christ principle, [139] (the buddhic vehicle) only begins to coordinate as the lower impulses fade out. It is consistent also with the fact that the causal vehicle, the body of the higher self on the abstract levels of the mental plane gains in beauty, size and activity with greater rapidity during the stages of discipleship than was previously possible in the entire cycle of previous incarnations. Egoic energy is not strictly outgoing, but is directed more literally to its own self-development. Attachment to form or the attraction of form for Spirit is the great involutionary impulse. Repulsion of form and consequent form disintegration is the great evolutionary urge.

Thế nên, bậc toàn thiện đã vượt khỏi sự bám chấp các hình hài, sắc tướng trong tam giới (cõi trần, cõi cảm dục và hạ trí) và đã hoàn toàn giải tán mọi sự khao khát các hình thể trên những cảnh giới đó. Hiểu theo nghĩa huyền môn, hình thể chết đi khi bị sự sống Tinh thần từ bỏ. Khi tư tưởng của chân nhân hay chân ngã tập trung vào cảnh giới của chính mình, thì không còn năng lượng phóng ngoại hướng đến vật chất của tam giới. Vì thế mà không khả dĩ có việc tạo nên hình thể hay bám chấp vào hình thể ở đó. Điều này phù hợp với chân lý hiển nhiên của huyền môn: “năng lượng đi theo tư tưởng.” Điều này cũng phù hợp với giáo huấn nói rằng thể của nguyên khí Christ (thể bồ-đề), [139] chỉ bắt đầu phối kết khi các xung lực thấp kém đã phai tàn. Điều này cũng nhất quán với sự kiện thực tế về thể nguyên nhân, thể của chân ngã trên các cấp trừu tượng của cõi trí. Thể này trở nên đẹp đẽ, nở lớn và linh hoạt một cách nhanh chóng trong các giai đoạn của con đường đệ tử, hơn là khả dĩ có được trong toàn cả chu kỳ của những kiếp sống trước đó. Năng lượng của chân nhân không hoàn toàn hướng ngoại, mà đúng ra là nhằm tự phát triển cho chính mình. Bám chấp vào hình thể hay là sự hấp dẫn của hình thể đối với Tinh thần là sức thôi thúc tiến hóa giáng hạ rất mạnh. Trong khi đó, sự từ bỏ hình thể khiến nó tan rã là lực tiến hóa thăng thượng vĩ đại.

10. These five hindrances, when subtly known, can be overcome by an opposing mental attitude.

10. Đây là năm chướng ngại mà, khi hiểu biết thấu đáo, hành giả có thể thắng phục với thái độ ngược lại trong trí tuệ.

The words “subtly known” could be paraphrased as “when realized by the inner man,” and the thought back of the words has been well explained by Dvivedi in his Comment as follows:

Từ “hiểu biết thấu đáo” có thể nói cách khác là “được con người nội tâm nhận thức.” Ý tưởng ẩn trong các từ này đã được Dvivedi lý giải trong phần Bình luận của ông như sau:

“Having described the nature of ‘distractions,’ the author points out the way to suppress them. They are divided into two kinds, subtle and gross. The first are those which exist in a dormant condition in the form of impressions, whereas the second are those that are concretely affecting the mind. The first can be completely suppressed only by gaining mastery over the whole of their support, viz. the thinking principle.” [140]

“Sau khi mô tả tính chất của ‘các nhiễu loạn’, tác giả chỉ cách chế phục chúng. Chúng được chia thành hai loại, tế vi và thô thiển. Loại thứ nhất hiện hữu trong tình trạng còn ngủ yên dưới dạng các ấn tượng. Trong khi loại thứ hai đang ảnh hưởng rõ rệt đến cái trí. Loại thứ nhất chỉ có thể được hoàn toàn chế ngự bằng cách chủ trị được trọn cả sức mạnh hỗ trợ cho chúng, tức là nguyên khí tư duy.” [140]

This is the first work of the aspirant to yoga. He must realize the nature of the obstacles and then set in to overcome them, doing the work from the mental plane. He has to gain control of the apparatus of thought; then he has to learn how to use that apparatus, and when this has been accomplished, he begins to offset the hindrances by counter currents. The hindrances themselves are the result of wrong habits of thought and the misuse of the thinking principle. When they are subtly known as the seeds which produce the “obstacle-producing forms,” then they can be exterminated in the latent stages by right habits of thought resulting in the setting up of the liberty-producing means.

Đây là việc đầu tiên mà người chí nguyện thực hành yoga cần phải làm. Y phải nhận thức được tính chất của các trở ngại, rồi bắt đầu khắc phục chúng, làm điều này từ trên cõi trí. Y phải kiểm soát được cái khí cụ của tư tưởng. Rồi y phải học cách sử dụng nó. Khi đã biết cách sử dụng nó, y mới bắt đầu hóa giải các chướng ngại bằng những dòng tư tưởng ngược lại. Các chướng ngại này vốn là kết quả của những thói quen tư tưởng sai lầm và việc dùng sai cái nguyên khí tư duy. Khi chúng được thấu hiểu như những chủng tử tạo nên “các hình thể gây trở ngại”, thì có thể được loại bỏ trong các giai đoạn tiềm ẩn bằng thói quen suy nghĩ đúng. Kết quả là tạo phương tiện mang lại sự tự do.

Ignorance (avidya) must be supplanted by the true vidya or knowledge, and as is well-known, in this fourth race on this fourth globe and in the fourth round, the four vidyas and the four noble truths and the four basic elements form the sum total of this knowledge.

Phải tẩy sạch vô minh (avidya) bằng minh triết hay sự hiểu biết đúng thực. Sự hiểu biết vừa kể được biết rõ trong giống dân thứ tư hiện nay trên bầu hành tinh thứ tư này, trong cuộc tuần hoàn thứ tư. Toàn bộ sự biểu biết nói trên gồm bốn điều minh triết, bốn chân lý vi diệu và bốn nguyên tố cơ bản.

The four vidyas of the Hindu philosophy might be enumerated as follows:

Triết lý Ấn giáo có bốn điều minh triết sau đây:

1. Yajna Vidya.—The performance of religious rites in order to produce certain results. Ceremonial magic. Is concerned with sound, therefore with the Akasa or the ether of space. The “Yajna” is the invisible deity who pervades space.

1. Yajna vidya.− Cử hành các nghi thức tôn giáo để tạo ra một số kết quả. Huyền thuật nghi lễ. Có liên quan đến âm thanh, vì thế mà liên quan đến Akasa hay là chất dĩ thái của không gian. “Yajna” là vị thần vô hình thống ngự cả không gian.

2. Mahavidya.—The great magic knowledge. It has degenerated into Tantrika worship. Deals with the feminine aspect, or the matter (mother) aspect. The basis of black magic. True maha-yoga [141] has to do with the form (2nd aspect) and its adaptation to Spirit and its needs.

2. Mahavidya.− Sự hiểu biết khoa huyền thuật chánh đại. Khoa này đã bị thoái hóa thành sự thờ phụng theo Vạn pháp kỳ môn. Làm việc với trạng thái nữ, hay là phương diện vật chất (mẹ). Vì thế mà trở thành cơ sở của hắc thuật. maha-yoga chân chính [141] làm việc với hình thể (phương diện thứ 2) và làm cho hình thể thích ứng với Tinh thần và các nhu cầu của Tinh thần.

3. Guhya vidya.—The science of mantrams. The secret knowledge of mystic mantrams. The occult potency of sound, of the Word.

3. Guhya vidya.− Khoa học về các chân ngôn. Kiến thức bí ẩn về những câu chú thần bí. mãnh lực huyền bí của âm thanh, của Linh từ.

4. Atman vidya.—True spiritual wisdom.

4. Atman vidya.− minh triết tinh thần đích thực.

The four noble truths have been stated for us in the words of the Buddha in the following terms:

Bốn chân lý vi diệu đã được Đức Phật giảng dạy như sau:

“Now the Exalted One thus addressed the brethren:

“Bấy giờ Đức Thế tôn mới thuyết giảng với các đạo hữu:

‘Through not understanding, through not penetrating the Four Aryan Truths, brethren, we have run on and wandered round this long, long journey (or rebirth), both you and I. What are those four?

‘Hỡi chư đạo hữu, vì không hiểu, vì không thấu đáo Bốn Chân lý của giống dân Aryan nên chúng ta, các ngươi và ta, đã giong ruổi và lang thang trong vòng luân hồi (tái sinh) dài dằng dặc này. Vậy bốn chân lý đó là gì?

The Aryan Truth of Ill: the Aryan Truth of the Arising of Ill: the Aryan Truth of the Ceasing of Ill: the Aryan Truth of the Way leading to the Ceasing of Ill.

Chân lý Aryan về Sự khổ: Chân lý Aryan về Phát sinh Sự khổ: Chân lý Aryan về Chấm dứt Sự khổ: Chân lý Aryan về Con Đường dẫn đến việc Chấm dứt Sự khổ.

But, brethren, when these Four Aryan Truths are understood and penetrated, then is uprooted the craving for existence, cut off is the thread that leadeth to rebirth, then is there no more coming to be.’

Thế nhưng, hỡi chư đạo hữu, khi hiểu và thấu đáo Bốn Chân lý Aryan này, các ngươi bèn nhổ sạch gốc rễ của nỗi khao khát hiện tồn, cắt đứt manh mối dẫn đến tái sinh, và không còn trở lại cõi đời này.’

Thus spake the Exalted One. When the Happy One had thus spoken, the Master added this further:

Đó là những điều Đức Thế tôn đã nói. Sau khi đã nói như thế, Đấng Phúc lạc, Đức Tôn sư lại nói thêm:

Blind to the Fourfold Aryan Truths of things,

Không thấy được Bốn Chân lý Aryan về sự vật,

And blind to see things as they really are,

Và không thấy được thực chất của chúng,

Long was our journeying thro’ divers births.

Người ấy tất phải qua bao kiếp luân hồi.

Gone is the cord of life when these are seen.

Thấy chân lý, manh mối sự sinh không còn nữa,

No more becoming when Ill’s root is cut.”

Thôi sinh thành khi nhổ sạch cội rễ Khổ đau.”

The four elements have been stated for us in the following extract from the Secret Doctrine (I. 95):

Bốn nguyên tố được kể ra trong trích đoạn sau đây từ Giáo lý Bí nhiệm (I. 95):

“The Golden Egg was surrounded by seven natural Elements, four ready (ether, fire, air, water), three secret.” [142]

“Quả trứng Vàng được bao bọc bởi bảy Nguyên tố thiên nhiên, bốn cái hiện hữu (dĩ thái, lửa, không khí, nước), ba cái kia còn bí mật.” [142]

11. Their activities are to be done away with through the meditation process.

11. Hoạt động của chúng được loại trừ qua tiến trình tham thiền.

The “opposing mental attitude” referred to in the previous sutra has distinct reference to the seeds or the latent tendencies as they subsist in the mental body and in the body of desire. This mental attitude has to become one of active mental meditation and one-pointed thought if the activities of the physical body are to be subjected to a like control. Much that we do is automatic and the result of long continued emotional and mental habits. Instinctively, from ancient practice and through subjection to a world of tangible forms, our physical plane activities are governed by the five hindrances. These have to be suppressed and the work of dealing with the latent seeds and with suppressing the external activities must proceed simultaneously. The steady opposition of the mental attitude deals with one; meditation which brings in the three factors of the thinker, the mind and the physical brain will take care of the other, and this must not be forgotten, otherwise theory will not become intelligent practice. This meditation process is dealt with in Book III and need not be enlarged upon here.

“Thái độ ngược lại của trí tuệ” đã nêu trong câu trước đặc biệt nói về các chủng tử hay những khuynh hướng tiềm ẩn, tồn tại trong thể trí và thể cảm dục. Thái độ này của trí tuệ phải trở thành một tâm thái thiền tích cực và tư tưởng chuyên chú. Nhờ đó mà các hoạt động của thể xác cũng được chế ngự tương tự. Hầu hết những gì chúng ta làm đều có tính tự động và là kết quả của những thói quen tiếp diễn lâu dài của tình cảm và thể trí. Về phương diện bản năng, từ những tập quán xa xưa và chịu ảnh hưởng trong thế giới của các thể hữu hình, hoạt động của chúng ta ở cõi trần bị chi phối bởi năm chướng ngại nói trên. Cần khắc phục chúng đồng thời với việc giải trừ các chủng tử tiềm ẩn và điều hòa các hoạt động bên ngoài. một mặt, cần thường xuyên có thái độ ngược lại trong trí tuệ. mặt khác, cần tham thiền để tạo sự phối hợp giữa ba yếu tố: người suy tưởng, thể trí và não bộ. Cần lưu ý điều này, nếu không thì lý thuyết sẽ không thể được thực hành một cách thông minh. Tiến trình tham thiền vừa kể sẽ được đề cập trong Quyển III, nên không cần bàn rộng ở đây.

12. Karma itself has its root in these five hindrances and must come to fruition in this life or in some later life.

12. Chính nghiệp quả bắt rễ trong năm chướng ngại nói trên, và phải đơm hoa kết trái trong kiếp sống này hay một kiếp sau.

Just as long as man on the physical plane is subject to, or governed by these hindrances, just [143] so long will he initiate those activities which will produce inevitable effects, and just so long will he be tied to the wheel of rebirth and be condemned to form-taking. The student should carefully note that these five hindrances are the cause of all the activities of the lower personality or the lower man. Everything he does is based on one or other of them and there is no action of the average man in the three worlds which is not the outcome of ignorance and its accompanying erroneous identifications and reactions.

Ngày nào con người ở cõi trần còn bị ảnh hưởng, hoặc chịu chi phối bởi các chướng ngại nói trên, ngày ấy y sẽ còn những hoạt động mang lại các hậu quả không thể tránh khỏi [143]. Và ngày ấy y vẫn bị trói buộc vào vòng tái sinh, và phải khoác lấy hình thể. Người môn sinh cần thận trọng lưu ý rằng năm chướng ngại nói trên là nguyên nhân của tất cả các hoạt động của phàm ngã hay phàm nhân. mọi điều người ấy làm đều dựa vào một trong các chướng ngại đó. Không hành động nào của một người bình thường trong tam giới này không là hậu quả của sự vô minh cùng với các đồng hóa và phản ứng sai lầm kèm theo.

As the hindrances are overcome and ignorance, the field of them all, is superseded by divine wisdom, there are fewer and fewer effects to work out on the physical plane, and the chains which link a man to the great wheel of physical manifestation are severed one by one. These chains are triple just as the field of ignorance is triple, being the three great planes of consciousness which are the field of human evolution. When the field of ignorance becomes the field of conscious experience and when the chains are felt to be fetters and limitations, the would be chela has made a tremendous step forward in the liberating process. When he can carry the struggle inward into what Ganganatha Jha calls “the unmanifested life” and which we frequently call “the subtler planes” he is entering the Hall of Learning and is severing those fetters which kama (or desire) and the wrong use of the mind have so subtly forged. Later he will enter the Hall of Wisdom and be taught certain esoteric and occult methods of hastening the liberating process. [144]

Khi các chướng ngại được thắng phục, và sự vô minh, là mảnh đất sản sinh tất cả các chướng ngại ấy, được thay thế bởi minh triết thiêng liêng, thì ngày càng ít hậu quả biểu lộ ở cõi trần. Bấy giờ, các xiềng xích trói buộc hành giả vào bánh xe luân hồi trở lại thế gian dần dần bị cắt đứt. Các xiềng xích này có ba loại, giống như vô minh cũng gồm ba phương diện, trên ba cảnh giới của tâm thức, nơi con người đang tiến hóa. Khi trường vô minh trở thành trường kinh nghiệm hữu thức, và khi cảm thấy các xiềng xích này gây trở ngại và hạn chế, thì bấy giờ người đệ tử tương lai đã tiến một bước dài hướng về tiến trình giải thoát. Khi y có thể tiến hành phấn đấu hướng nội, vào những gì mà Ganganatha Jha gọi là “sự sống không biểu hiện”, mà chúng ta thường gọi là “các cảnh giới tế vi”, tức là y đi vào Phòng Học tập. Bấy giờ y chặt đứt những xiềng xích mà kama (hay dục vọng) và việc sử dụng thể trí sai lạc đã tạo nên. Về sau, y sẽ đi vào Phòng minh triết và được truyền dạy một số phương pháp nội môn và huyền môn để đẩy nhanh tiến trình giải thoát. [144]

13. So long as the roots (or samkaras) exist, their fruition will be birth, life, and experiences resulting in pleasure or pain.

13. Ngày nào các căn (hay là samkara) vẫn còn tồn tại, thì quả của chúng sẽ là sự sinh ra, đời sống và các kinh nghiệm mang lại vui sướng hay đau khổ.

The predominant work of the occult student is the manipulation of force, and the entering of that world wherein forces are actively set in motion which result in phenomenal effects. He has to study and comprehend practically and intelligently the working of the law of Cause and Effect, and he leaves off dealing with effects and centres his attention on their producing causes. In relation to himself, he comes to realise that the primary cause of the phenomenon of his objective existence in the three worlds is the ego itself, and that the secondary causes are the aggregate of those fundamental egoic impulses which have led to the development of response to sense contacts on the three planes. These impulses have produced effects which (being under the law) must work out into objectivity on the physical plane. Therefore there is much importance attached to the necessity for establishing direct egoic contact, via the thread or sutratma, for only in this way can the aspirant ascertain the causes lying back of the present manifestations of his life, or begin to deal with the samkaras or seeds of his future activities. These seeds are kama-manasic (or partially emotional and partially mental) in nature, for desire is potent in its effects and produces the physical vehicle in its two aspects.

Công việc chính yếu của người môn sinh huyền bí là vận dụng các lực, và đi vào thế giới mà trong đó các lực được khơi động, tạo ra những hiệu ứng về mặt hiện tượng. Y phải nghiên cứu và thực tế thấu hiểu một cách thông minh sự vận hành của luật Nhân Quả. Y không còn lo xử lý các hậu quả mà tập trung chú ý vào những nguyên nhân đã tạo ra chúng. Về bản thân, y bắt đầu ý thức rằng nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng đời sống biểu hiện của y trong tam giới là chính chân ngã. Y cũng biết rằng nguyên nhân thứ yếu là toàn bộ các thôi thúc phát xuất từ chân ngã phát triển sự ứng đáp với các tiếp xúc của giác quan trong tam giới. Những sự thôi thúc vừa kể đã tạo ra các hiệu ứng (mà theo định luật) phải biểu hiện ở cõi trần. Vì thế, điều rất quan trọng là cần phải thiết lập sự liên giao trực tiếp với chân ngã, qua sinh mệnh tuyến hay sutratma. Vì chỉ bằng cách này, người chí nguyện mới có thể xác định được những nguyên nhân ẩn trong cuộc hiện tồn là kiếp sống của y hiện nay. Nhờ đó, y mới bắt đầu giải quyết các samkara hay những chủng tử mang lại các hoạt động của y trong tương lai. Những chủng tử này có tính chất kama-manas (hay là một phần thuộc về tình cảm và một phần của thể trí). Bởi dục vọng có những hiệu ứng rất mạnh mẽ và tạo ra thể hồng trần gồm hai phương diện.

a. Lower manas, or concrete mind is the basic factor in the production of the etheric body. [145]

a. Manas thấp, hạ trí, hay cái trí cụ thể là yếu tố căn bản tạo nên thể dĩ thái. [145]

b. Kama, or desire is the prime factor in calling the dense physical vehicle into being.

b. Kama, hay dục vọng là yếu tố chính khiến thể xác chào đời.

The two together are responsible for manifested existence.

Hai phương diện này mang lại cuộc sống biểu hiện.

It is well known that the tree of life is depicted with the roots above and the flowering leaves downwards. In the tiny tree of life of the ego the same symbolic presentation holds true. The roots are found on the mental plane. The flowering forth into objectivity and fruition is to be seen on the physical plane. Therefore it is necessary for the aspirant to lay the axe to the root of the tree, or to deal with the thoughts and desires which produce the physical body. He must enter the subjective realm if he wants to deal with that which will continue to keep him on the wheel of rebirth. When the seeds are eradicated, fruition is not possible. When the root is separated from its externalities on any of the three planes, then the life-energy no longer flows downwards. The three words birth, life and experience sum up human existence, its object, method and goal and with them we need not deal. The whole subject of karma (or the law of Cause and Effect) is dealt with in this sutra, and is of too vast a subject to be enlarged upon here. Suffice it to say that, from the standpoint of the Yoga Sutras, karma is of three kinds:

Người ta thường mô tả cội cây của đời sống có gốc rễ ở bên trên và lá cành hoa trái hướng xuống dưới. Cách trình bày biểu tượng này đúng với cội cây bé nhỏ của đời sống chân ngã. Gốc rễ của nó ở trên cõi trí. Nó đơm hoa, kết trái ra ngoại giới như được thấy ở cõi trần. Vì thế, người chí nguyện cần giáng lưỡi rìu vào gốc rễ của cây này. Nói cách khác, y cần giải quyết các tư tưởng và dục vọng vốn tạo ra thể hồng trần. Y phải đi vào lĩnh vực nội tại, nếu muốn giải quyết những gì sẽ tiếp tục giam nhốt mình trong vòng luân hồi. Khi chủng tử bị loại bỏ, thì quả không thể sinh. Khi gốc rễ bị tách rời khỏi các nhánh nhóc của nó ở bên ngoài trong tam giới, thì năng lượng sống không còn tuôn xuống dưới. Ba từ ‘sự sinh ra, đời sống và kinh nghiệm’ tóm lược về cuộc sống của con người, mục tiêu, phương pháp và chủ đích của nó, tất cả đều không cần phải bàn. Câu kinh này đề cập đến toàn bộ vấn đề nghiệp quả (hay luật Nhân Quả). Vấn đề này quá rộng lớn nên không thể bàn rộng ở đây. Nói chung, theo quan điểm của Yoga Điển tắc, có ba loại nghiệp quả:

1. Latent Karma. Those seeds and causes which are yet undeveloped and inactive and must work out to fruition in some part of the present or subsequent lives.

1. Nghiệp quả Tiềm ẩn. Các chủng tử và nguyên nhân còn chưa phát triển hay khởi hoạt và phải trở thành quả trong một giai đoạn của kiếp này hay kiếp sau.

2. Active Karma. Those seeds or causes [146] which are in process of fruition and for which the present life is intended to provide the needed soil for the flowering forth.

2. Nghiệp quả đang Tác động. Những chủng tử hoặc nguyên nhân đang trong tiến trình tạo quả. [146] Kiếp sống hiện tại là mảnh đất cần thiết cho chúng đơm hoa kết trái.

3. New Karma. Those seeds or causes which are being produced in this life, and which must inevitably govern the circumstances of some future life.

3. Nghiệp quả Mới. Những chủng tử hoặc nguyên nhân được tạo ra trong kiếp sống này. Chúng tất sẽ chi phối các hoàn cảnh trong một kiếp tương lai.

The beginner in this science of yoga can begin dealing with his active karma, interpreting each life-event and every circumstance as providing conditions wherein he can work off a certain specified series of effects. He can endeavor so to watch his thoughts that new seeds are not sown so that no future karma can be brought to fruition in some later life.

Người mới nhập môn khoa yoga này có thể bắt đầu giải quyết nghiệp quả đang tác động của mình. Y hiểu rằng mỗi tình huống trong đời và mọi hoàn cảnh đều có những điều kiện mà y có thể dùng để giải tỏa một số hậu quả nhất định. Y có thể cố gắng trông chừng tư tưởng của mình để không gieo thêm những chủng tử mới. Vì thế sẽ không có nghiệp quả tương lai hình thành trong một kiếp về sau.

The seeds of latent karma are more difficult for the neophyte to work with and it is here that his Master can help him—manipulating his circumstances and dealing with his surroundings in the three worlds in order that this type of karma may more quickly work out and be done with.

Các chủng tử của nghiệp quả tiềm ẩn thì khó giải quyết hơn đối với người tân môn sinh. Trong trường hợp này Chân sư có thể giúp y − vận dụng các hoàn cảnh của y và thu xếp cuộc sống chung quanh y trong tam giới. Nhờ thế mà loại nghiệp quả này có thể mau phát lộ và được giải trừ.

14. These seeds (or samskaras) produce pleasure or pain according as their originating cause was good or evil.

14. Các chủng tử (hoặc samskara) này tạo ra sự vui sướng hay đau khổ tùy theo nguyên nhân phát khởi của chúng là thiện hay ác.

It might be noted that good is that which relates to the one principle, to the reality indwelling all forms, to the Spirit of man as it reveals itself through the soul, and to the Father as He manifests through the Son. Evil relates to the form, to the vehicle, and to matter and really concerns the relation of the Son to his body of manifestation. If the Son of God (cosmic or human) is [147] limited, and imprisoned and blinded by his form, that is the power of evil over him. If he is aware of his own self, unfettered by forms, and free from the thralldom of matter that is the power of good. Complete freedom from matter causes bliss or pleasure—the joy of realisation. Evil causes pain, for just in so far as the Inner Ruler is limited by his body of manifestation just so far does he suffer.

Cần lưu ý rằng điều thiện liên quan đến cái nguyên khí duy nhất, là thực tại ẩn trong mọi hình thể. Nó liên quan đến Tinh thần của con người khi tinh thần ấy tự hiển lộ qua linh hồn. Tức là nó liên quan đến Đấng Cha lành khi Ngài biểu hiện qua Con của Ngài. [147] Trong khi đó điều ác liên quan đến hình thể, đến vận cụ và vật chất. Nó thực sự thuộc về mối liên hệ của Người Con với thể biểu hiện của mình. Nếu Người Con của Thượng Đế (ở cấp vũ trụ hay của con người) bị hình thể của mình giới hạn, giam nhốt và làm cho mù quáng, thì đó là quyền lực của điều ác đang chi phối y. Nếu y biết được chân ngã của chính mình, không hề bị các thể xiềng xích, và thoát khỏi ách nô lệ của vật chất, thì đó là quyền lực của điều thiện, hoàn toàn tự do đối với vật chất và mang lại chân phúc hay an lạc − niềm vui trong nhận thức. Điều ác gây đau khổ, vì chừng nào Đấng ngự trị ở Nội tâm còn bị hạn chế bởi thể biểu hiện của mình, thì chừng ấy y còn đau khổ.

15. To the illuminated man all existence (in the three worlds) is considered pain owing to the activities of the gunas. These activities are threefold, producing consequences, anxieties and subliminal impressions.

15. Đối với người đã khai ngộ, toàn bộ cuộc sống (trong tam giới) bị xem là đau khổ do tác động của các guna. Những tác động này có ba loại, tạo nên hậu quả, sự âu lo và những ấn tượng trong tiềm thức.

The three “gunas” are the three qualities of matter itself, sattva, raja and tamas, or rhythm, activity and inertia, and are inherent in all forms. The student needs to remember that every form on every plane is thus characterised, and this is true of the highest form as of the lowest, the manifestation of these qualities only differing in degree.

Ba “guna” chính là ba đặc tính của vật chất, sattva, rajas và tamas, hay là điều hòa, năng động và trì trệ. Chúng vốn có trong mọi hình hài sắc tướng. Cần lưu ý rằng mọi hình thể trên mọi cảnh giới đều có đặc trưng như thế. Điều này đúng với những hình thể cao cấp nhất cho đến loại thấp kém nhất. Sự biểu hiện của ba đặc tính nói trên chỉ khác biệt về mức độ.

To the man who is achieving perfection it becomes increasingly apparent how every form through which he, the divine spiritual man is manifesting, causes limitation and difficulty. The physical vehicle of the adept, though constructed of substance predominatingly sattvic in nature, equilibrised and rhythmic, yet serves to confine him to the world of physical endeavor and limits the powers of the true man. Speaking generally it might be said that: [148]

Đối với người đang tiến đến trình độ hoàn thiện, y ngày càng thấy rõ bằng cách nào mà mọi thể được y, với tư cách con người tinh thần, dùng để biểu hiện, lại gây hạn chế và khó khăn. Thể hồng trần của một bậc trọn lành vốn được cấu tạo bằng loại chất liệu chính yếu có tính điều hòa, thăng bằng và tiết điệu. Dù vậy, nó vẫn hạn chế vị này trong hoạt động ở cõi trần và giới hạn các quyền năng của chân nhân. Có thể nói chung là: [148]

1. The attribute of inertia (or tamas) characterises the lower personal self, the sheaths of the threefold lower man.

1. Thuộc tính trì trệ (hay tamas) là đặc trưng của phàm ngã thấp kém, và ba lớp áo của phàm nhân.

2. The attribute of activity is the prime characteristic of the soul, and it is this quality which causes the intense activity and constant labor of the man as he seeks experience and later, as he seeks to serve.

2. Thuộc tính năng động là đặc trưng chủ yếu của linh hồn. Chính đặc tính này giúp con người hoạt động tích cực và mãi mãi chịu khó nhọc trong khi tìm kiếm kinh nghiệm, và trong công cuộc phụng sự về sau.

3. The attribute of rhythm, or balance, is the quality of the spirit or monad and it is this tendency to perfection which is the cause of man’s evolution in time and space and the factor which carries all life through all forms to the consummation. Let us bear in mind here, however, that these three qualities are the qualities of the substance through which the triple spirit is manifesting in this solar system. The nature of spirit itself we know not as yet, for we cannot think except in terms of form, however, transcendental those forms may be. Only those souls who have attained the highest initiation and can pass beyond our solar ring-pass-not know somewhat of the essential nature of that which we call spirit.

3. Thuộc tính tiết điệu, hay thăng bằng, là đặc tính của tinh thần hay chân thần. Đó là khuynh hướng đạt sự hoàn thiện, vốn là nguyên nhân cuộc tiến hóa của con người trong thời gian và không gian. Đó cũng là yếu tố đưa sự sống đi qua tất cả các hình hài sắc tướng đến mức thành tựu viên mãn. Tuy nhiên, ở đây cần lưu ý rằng ba đặc tính kể trên là những đặc tính của vật chất, qua đó tinh thần tam phân biểu hiện trong thái dương hệ này. Thực tính của chính tinh thần chúng ta vẫn còn chưa biết, vì chúng ta không thể suy nghĩ điều gì khác hơn ngoài phạm vi của hình tướng. Tuy nhiên, chúng ta có thể vượt cao hơn những hình tướng đó. Chỉ những linh hồn đã đạt cuộc điểm đạo cao nhất, và có thể vượt ra ngoài vòng hạn định của thái dương hệ chúng ta, mới biết được phần nào chân tính cốt yếu của sự sống mà chúng ta gọi là tinh thần.

Coming to the practical manifestation of the gunas in the three worlds (in relation to man) it can be noted that:

Nói về sự biểu hiện thực tế của các guna trong tam giới (liên quan đến con người), có thể lưu ý rằng:

1. The attribute of balance or rhythm distinguishes the mental vehicle. When the mental body is organized and man is being directed by his mind, his life becomes stabilised and organized also and the direction of his affairs proceeds in a balanced manner.

1. Thuộc tính thăng bằng hay tiết điệu là đặc điểm của thể trí. Khi thể trí được tổ chức và con người được trí tuệ của mình điều khiển, thì cuộc sống của người đó trở nên ổn định và có nề nếp. Các công việc của y cũng được điều hành một cách thăng bằng.

2. The quality of activity or mobility is the [149] characteristic of the emotional or astral nature and, when this is dominant the life is chaotic, violent, emotional and subjected to every mood and feeling. It is primarily the quality of the desire life.

2. Đặc tính năng động hay cơ động là đặc trưng của thể tình cảm hay cảm dục. [149] Khi đặc tính này chế ngự, đời sống bị xáo trộn, náo loạn, đầy cảm tính và bị chi phối bởi những cơn bốc đồng và xúc cảm. Đây chủ yếu là đặc tính của cuộc sống theo dục vọng.

3. Inertia is the quality dominating the physical body and the whole objective of the ego is to break down that inertia and drive its lowest vehicle into an activity which will bring about the desired ends. Hence the use and necessity for the guna of mobility and the full play of the emotional or desire nature in the earlier stages of endeavor.

3. Trì trệ là đặc tính chế ngự thể xác. mục tiêu của chân nhân là phá vỡ tình trạng trì trệ đó và thúc đẩy thể thấp nhất của mình hoạt động để mang lại những gì mong muốn. Vì thế, trong các giai đoạn cố gắng ban đầu, cần có guna cơ động và tác động đầy đủ của tính xúc cảm hay ham muốn.

Pain is the product of these form activities, for pain is the result of the inherent difference between the pairs of opposites, spirit and matter. Both the factors are “at peace” essentially until brought into conjunction and both resist each other and produce friction and suffering when united in time and space.

Đau khổ sản sinh từ những hoạt động nói trên của hình thể. Vì đau khổ là kết quả của sự khác biệt cố hữu giữa các cặp đối cực, tinh thần và vật chất. Cả hai yếu tố này đều cốt yếu là “bình ổn” cho đến khi được phối hợp lại với nhau. Bấy giờ, cả hai bèn đối kháng lẫn nhau, tạo nên sự ma sát và đau khổ khi được kết hợp trong thời gian và không gian.

Patanjali points out that this pain is comprehensive, covering past, present and future.

Patanjali nói rằng sự đau khổ này có tính toàn diện, bao gồm cả quá khứ, hiện tại và tương lai.

1. Consequences. Pain is brought about through the activity of the past and the working out of karma as it is expressed in the adjusting of mistakes, the paying of the price of error. The settling of past obligations and debts is ever a sorrowful process. Certain past eventualities necesitate present conditions both of heredity, environment and type of body, and the form, both of vehicle and group relations, is painful to the soul, who is confined thereby.

1. Các hậu quả. Đau khổ là do những hoạt động trong quá khứ, và là tác động của nghiệp quả khi nó được phát biểu để điều chỉnh điều lầm lỗi, và trả giá cho những gì sai quấy. Việc thanh toán những món nợ và trách vụ trong quá khứ bao giờ cũng là quá trình đau khổ. một số sự kiện trong quá khứ khiến có những tình trạng hiện nay cả về mặt di truyền, môi trường sống và trong thân xác. Vì thế, linh hồn bị giam hãm trong thân xác cảm thấy đau khổ do hình dạng của hiện thể này và các quan hệ với những người chung quanh.

2. Anxieties. This concerns the present and [150] is sometimes translated—apprehensions. If the student will study this term he will note that it covers not only the fear of evil in suffering, but also the fear of failure in the spiritual body in service. These equally cause pain and distress and parallel the awakening of the real man to a realisation of his heritage.

2. Âu lo. Âu lo liên quan đến thời gian hiện tại và đôi khi được gọi là ưu phiền. Khi nghiên cứu thuật ngữ này, người môn sinh sẽ thấy rằng nó không chỉ bao gồm nỗi sợ hãi điều ác trong khi đau khổ, mà còn bao gồm nỗi sợ thất bại ở nội tâm trong khi phụng sự. [150] Những nỗi lo sợ này gây khó khăn và đau khổ, đồng thời cũng giúp chân nhân ý thức được và nhận thức được di sản của mình.

3. Subliminal impressions, has relation to the future and concerns those forebodings as to death, suffering and need which dominate so many of the sons of men. It is the unknown and its possibilities that we fear both for ourselves and others, and this in its turn produces pain.

3. Những ấn tượng trong tiềm thức, có liên quan đến tương lai và những nỗi lo sợ về sự chết, đau khổ và nhu cầu, vốn chi phối quá nhiều người. Đây là những gì còn chưa biết và có khả năng xảy ra mà chúng ta lo sợ cả cho mình và những người khác, và chính điều này cũng lại gây đau khổ.

16. Pain which is yet to come may be warded off.

16. Có thể tránh được sự đau khổ chưa đến.

The Sanskrit words here give a twofold idea. They infer first of all that certain types of coming “misery” (as some translations give it) may be avoided by a right adjustment of a man’s energies so that through his changed attitude of mind, painful reactions are no longer possible, and through the transmutation of his desires old “pains” are impossible. It infers secondly that life will be so lived in the present that no causes will be set in motion along the line of pain-producing effects. This dual inference will cause in the life of the yogi a dual discipline involving a set determination to practise non-attachment, and a steady discipline of the lower nature. This will bring about a mental activity of such a nature that old tendencies, longings and desires no longer [151] attract, and no activities are indulged in which can produce later karma, or results.

Những từ Bắc Phạn ở đây có hai ý nghĩa. Trước hết, chúng chỉ về một số loại “khốn khổ” sẽ đến (như một số bản đã dịch), có thể tránh được bằng cách điều chỉnh đúng các năng lượng của hành giả. Nhờ đó, khi y thay đổi thái độ trong trí, thì những phản ứng đau khổ không còn có thể xảy ra. Đồng thời, qua việc y siêu hóa dục vọng, “những nỗi đau khổ” xa xưa không thể tái diễn. Ý nghĩa thứ hai là trong kiếp sống hiện tại y sẽ sống thế nào để không phát động những nguyên nhân theo chiều hướng gây đau khổ. Hai ý nghĩa suy diễn nói trên sẽ khiến nhà yogi áp dụng hai loại giới luật, bao gồm quyết tâm thực hành hạnh buông xả, và liên tục chế ngự phàm tính. [151] Cố gắng này sẽ mang lại một hoạt động trong trí có tính cách sao cho những khuynh hướng, khao khát và ham muốn xưa cũ không còn hấp dẫn, và không hoạt động nào được dung dưỡng để tạo nghiệp, hay những kết quả về sau.

That which is past can only now be worked out, and that type of karma, bringing pain, sorrow and misery in its train must be allowed to follow out its course. Present karma, or that precipitation of effects which the ego plans to disperse in the present life-cycle must equally play its part in the emancipation of the soul. It is, however, possible for the spiritual man so to govern the lower man that the happenings of karma (or the effects as they work out into the physical objective world) may cause no pain or distress, as they will be seen and met by the non-attached yogi. Nor will further pain-producing causes be allowed to be set in motion.

Những gì thuộc về quá khứ chỉ có thể được biểu lộ trong hiện tại. Và loại nghiệp quả có mang những nỗi đau khổ, buồn rầu và khốn khổ phải được để cho đi theo đúng con đường của nó. Nghiệp quả hiện tại, hay sự tuôn đổ những hậu quả mà chân nhân dự định giải tán trong kiếp sống này cũng phải có vai trò khai phóng linh hồn. Tuy nhiên, con người tinh thần khả dĩ chế ngự phàm nhân đến mức sự xảy ra của nghiệp quả (hay là những hậu quả biểu hiện trong ngoại giới ở cõi trần) có thể không gây đau khổ hay ưu phiền. Lý do là vì nhà yogi nhìn ngắm và đón nhận chúng với thái độ không bám chấp. Và cũng không có những nguyên nhân nào khác gây đau khổ sẽ được phép phát động.

17. The illusion that the Perceiver and that which is perceived are one and the same, is the cause (of the pain-producing effects) which must be warded off.

17. Phải phòng tránh ảo tưởng cho rằng người nhận thức và điều được nhận thức là một và như nhau. Đó vốn là nguyên nhân (của những hậu quả gây đau khổ).

This sutra brings us right back to the great basic duality of manifestation, the union of spirit and matter. It is their interplay which produces all the form-producing modifications or activities on the various planes and which is the cause of the limitations which pure consciousness has imposed upon itself. In a small commentary such as this it is impossible to enter with any fullness into this subject. All that it is possible to do is to touch upon the subject as it affects man himself. It might be summed up as follows:—All pain and [152] sorrow is caused by the spiritual man identifying himself with his objective forms in the three worlds and with the realm of phenomena in which those forms have their activities. When he can detach himself from the kingdom of the senses and know himself as the “one who is not that which is seen and touched and heard” then he can free himself from all form-limitations and stand apart as the divine perceiver and actor. He will use forms as he desires in order to attain certain specific ends but is not deluded into regarding them as himself. Students would do well to learn to hold the consciousness that in the three worlds (which is all that concerns the aspirant at this stage) he is the highest factor in the well-known triplicities:

Câu này giúp chúng ta nhớ lại tính nhị nguyên cơ bản của cuộc biểu hiện, sự phối hợp của tinh thần và vật chất. Chính sự tương tác của hai yếu tố này mang lại toàn thể các biến thái hay hoạt động tạo nên hình thể trên những cảnh giới khác nhau. Và đó chính là nguyên nhân của những hạn chế mà tâm thức thuần khiết đã tự áp đặt cho chính mình. Trong một phần luận giải ngắn gọn như thế này, vấn đề vừa kể không thể được bàn đầy đủ hơn. Tất cả những gì có thể làm là nói về ảnh hưởng của vấn đề này đối với chính con người. Vì thế có thể tóm lược như sau: — Tất cả những nỗi đau thương và buồn khổ [152] là do con người tinh thần tự đồng hóa với các ngoại thể của mình trong tam giới, và đồng hóa với lĩnh vực hiện tượng mà các thể nói trên hoạt động trong đó. Khi y có thể tách mình ra khỏi lĩnh vực của các giác quan và tự biết mình là “người không phải là điều mình thấy, tiếp xúc và nghe thấy”, bấy giờ y có thể thoát khỏi tất cả các hạn chế của hình thể và đứng riêng biệt với tư cách người nhận thức và người hành động thiêng liêng. Y sẽ sử dụng các thể theo ý muốn để đạt những mục tiêu đã định, nhưng không hề bị lừa gạt để xem chúng là chính mình. Người môn sinh cần học biết cách giữ tâm thức thế nào để trong tam giới (là tất cả những gì liên quan đến y trong giai đoạn này) y là yếu tố cao nhất trong những bộ ba dưới đây:

The Perceiver

Perception

That which is perceived,

The Thinker

Thought

Thought forms,

The Knower

Knowledge

The field of knowledge,

The Seer

Sight

That which is seen,

The Observer

.Observation

That which is observed,

The Spectator

Vision

The Spectacle,

Người nhận thức ……… Sự nhận thức………… Điều được nhận thức,

Người suy tưởng………. Tư tưởng ………………. Hình tư tưởng,

Người tri thức………….. Sự hiểu biết ………….. Phạm vi hiểu biết,

Người tri kiến………….. Sự thấy ………………… Điều được thấy,

Người quan sát………… Sự quan sát ………….. Điều được quan sát,

Người quán xét………… Tầm nhìn ……………… Cảnh tượng,

and many others equally well known.

và nhiều bộ ba khác cũng thường được nói đến.

The great objective of Raja Yoga is to free the thinker from the modifications of the thinking principle so that he no longer merges himself in the great world of thought illusions nor identifies himself with that which is purely phenomenal. He stands free and detached and uses the world of the senses as the field of his intelligent activities and no longer as the field of his experiments and experience-gaining endeavours. [153]

Mục tiêu chính đại của Raja Yoga là giúp người suy tưởng thoát khỏi các biến thái của nguyên khí tư duy. Do đó, y không còn hòa nhập vào thế giới rộng lớn của ảo tưởng do tư tưởng, hay tự đồng hóa với những gì hoàn toàn thuộc về hiện tượng. Y ung dung tự tại, buông xả, và sử dụng thế giới của các giác quan làm môi trường cho hoạt động thông minh của mình. Và nó không còn là trường thực nghiệm, cho những cố gắng thu thập kinh nghiệm của y. [153]

It must be remembered that the means of perception are the six senses; i.e. hearing, touch, sight, taste, smell and the mind, and that these six must be transcended and known for what they are. The means of perception reveal the great maya or world of illusion which is composed of forms of every kind, built of substance which must be studied as to its atomic and molecular construction and as to the basic elements which give to that substance its specific differentiations and qualities. For purposes of study the student will do well to remember that he must investigate the nature of the following factors in the polar opposite to spirit which we call matter:

Cần nhớ rằng phương tiện nhận thức gồm có sáu giác quan: thính giác, xúc giác, thị giác, vị giác, khứu giác và cái trí. Hành giả phải vượt cao hơn và biết thực chất của sáu giác quan này. Các phương tiện nhận thức làm hiển lộ thế giới rộng lớn của maya hay là ảo ảnh, ảo hóa. Thế giới này bao gồm mọi loại hình hài, sắc tướng có cấu tạo vật chất. Cần phải nghiên cứu vật chất về cấu trúc nguyên tử và phân tử, cũng như về các nguyên tố cơ bản khiến nó có những biệt hóa và tính chất đặc thù. Khi nghiên cứu, người môn sinh cần khảo sát tính chất của các yếu tố sau đây trong cái đối cực của tinh thần mà chúng ta gọi là vật chất:

1. Atoms,

1. Các nguyên tử,

2. Molecular matter,

2. Vật chất dưới dạng phân tử,

3. The elements,

3. Các nguyên tố,

4. The three gunas or qualities,

4. Ba guna hay đặc tính,

5. The tattvas or force differentiations in their seven forms.

5. Các tattva hay là bảy dạng biệt hóa của lực.

Through an understanding of the nature and distinctions of matter he will come to a comprehension of the world of form which has held his spirit a prisoner for so long. This Patanjali points out in the next sutra.

Khi biết được tính chất và các đặc điểm của vật chất, y sẽ thấu hiểu thế giới của hình thể mà vốn đã giam giữ tinh thần của mình trong thời gian quá lâu. Patanjali nói lên điều này trong câu sau.

18. That which is perceived has three qualities, sattva, rajas and tamas (rhythm, mobility and inertia); it consists of the elements and the sense organs. The use of these produces experience and eventual liberation.

18. Cái được nhận thức có ba đặc tính, sattva, rajas và tamas (tiết điệu, năng động và trì trệ). nó bao gồm các nguyên tố và các giác quan. Việc sử dụng những thứ này mang lại kinh nghiệm và sự giải thoát chung cuộc.

This is one of the most important sutras in the book for in a few concise words we have summed [154] up for us the nature of substance, its constitution, its purpose and reason. Much time might be given to a consideration of each sentence, and the words, “the qualities,” “the elements,” “the senses,” “evolution” and “liberation” express the sum total of the factors concerned in the growth of man. These five are that with which the human unit is the most concerned and cover his career from the moment when he first took incarnation and throughout the long cycle of lives until he passes through the various gates of initiation out into the larger life of the cosmos.

Đây là một trong những câu kinh quan trọng nhất trong sách. Chỉ một số từ vắn gọn mà có thể tóm lược các đặc tính của vật chất, sự cấu tạo, mục đích và lý do của nó. [154] Có thể cần nhiều thời gian để cứu xét mỗi phần trong câu. Các từ “đặc tính,” “nguyên tố,” “giác quan,” “tiến hóa,” và “giải thoát” bao gồm toàn bộ các yếu tố liên quan đến cuộc phát triển của con người. Năm từ vừa kể là những gì được con người quan tâm nhiều nhất. Chúng bao gồm sự thăng tiến của con người kể từ khi y đầu thai lần đầu, xuyên suốt những chu kỳ sống lâu dài, cho đến khi y đi qua những cánh cửa điểm đạo khác nhau để bước vào cuộc sống rộng lớn hơn của vũ trụ.

First inertia distinguishes him, and his forms are of so heavy and gross a nature that many and violent contacts are needed before he becomes aware of his surroundings and later intelligently appreciates them. The great elements of earth, water, fire and air play their part in the building of his forms and are incorporated into his very being. His various sense organs slowly become active; first, the five senses and then when the second quality of rajas or activity is firmly established, the sixth sense or the mind begins to develop also. Later he begins to perceive in all around him in the phenomenal world, the same qualities and elements as in himself, and his knowledge rapidly grows. From that he passes to a distinction between himself as the Perceiver and that which he perceives as his forms and their world of being. The sixth sense becomes increasingly dominant and is eventually controlled by the true man who passes then into the sattvic state where he is harmonised in himself and consequently [155] with all around him. His manifestation is rhythmic and in tune with the great whole. He looks on at the spectacle and sees to it that those forms through which he is active in the world of phenomena are duly controlled and that all his activities are in harmony with the great plan.

Trước hết, y mang đặc tính trì trệ. Các thể của y quá nặng nề và thô kệch đến mức cần có nhiều lần tiếp xúc và va chạm dữ dội để y có thể ý thức được hoàn cảnh chung quanh, và về sau đánh giá được chúng một cách thông minh. Các đại nguyên tố gồm đất, nước, lửa và gió có vai trò kiến tạo các thể của y và được kết hợp vào đời sống của y. Các giác quan khác nhau của y trở nên năng động dần. Trước hết là năm giác quan. Về sau, khi đặc tính thứ hai là rajas hay cơ động đã vững vàng, ổn định, thì giác quan thứ sáu hay thể trí cũng bắt đầu phát triển. Sau đó, y bắt đầu nhận thức được trong tất cả những gì ở chung quanh y trong thế giới hiện tượng, cũng cùng những đặc tính và nguyên tố có nơi chính mình. Nhờ đó sự hiểu biết của y gia tăng nhanh chóng. Từ đây, y dần dần phân biệt được được giữa chính y là Người nhận thức và những gì y nhận thức là các thể của mình và thế giới sinh hoạt của chúng. Giác quan thứ sáu ngày càng nổi bật và rốt cuộc được chân nhân kiểm soát. Bấy giờ y chuyển sang trạng thái sattva, có sự hài hòa nơi chính mình, và nhờ đó mà hài hòa với cả cuộc sống chung quanh. Cuộc sống biểu hiện của y có tiết điệu và hòa hợp với cái toàn thể vĩ đại. Y [155] nhìn ngắm mọi sự và làm thế nào để các thể mà qua đó y tác động trong thế giới hiện tượng đều được kiểm soát thích hợp. Y cũng làm thế nào để tất cả các hoạt động của mình đều hài hòa với thiên cơ vĩ đại.

When this is so, he is part of the whole yet freed and liberated from the control of the world of form, of the elements and of the senses. He uses them; they no longer use him.

Bấy giờ, y là một thành phần của cái toàn thể, nhưng vẫn được tự do và giải thoát ra khỏi sự thúc phược của thế giới hình thể, của các nguyên tố và của các giác quan. Y sử dụng chúng, và chúng không còn sử dụng y.

19. The divisions of the gunas (or qualities of matter) are fourfold; the specific, the non-specific, the indicated and the untouchable.

19. Các guna (hay các đặc tính của vật chất) được chia làm bốn loại: cái cụ thể, cái không cụ thể, cái được chỉ thị và cái không thể tiếp xúc.

It is interesting to note here that the gunas or qualities (the sum total of the attributes or aspects of the substance of our solar system) are fourfold. In this septenary division we have an analogy to the septenates found throughout our manifested universe. First we have the major three aspects of thought-substance:

Ở đây cần lưu ý rằng các guna hay đặc tính (tất cả các thuộc tính hay khía cạnh của vật chất thái dương hệ chúng ta) có bốn loại. Cách phân chia này tương đồng với các thất phân có trong toàn cả vũ trụ biểu hiện. Trước hết, ta có ba khía cạnh chính của chất liệu tư tưởng:

1. Sattvic substance  rhythm, equilibrium, harmony,

1. Chất liệu sattva ………..tiết điệu, thăng bằng, điều hòa,

2. Rajasic substance  mobility, activity,

2. Chất liệu rajas……………cơ động, hoạt động,

3. Tamasic substance              inertia, stability.

3. Chất liệu tamas………….trì trệ, ổn định. Ba đặc tính vừa kể được chia thành:

These three are divided into:

1. Cái cụ thể …………………….các nguyên tố biểu hiện, hình thể,

1. The specific              manifested elements, form,

2. Cái không cụ thể ……….các giác quan, phản ứng với lực, các tanmatra,

2. The unspecific       the senses, force reactions, the tanmatras,

3. Cái được chỉ thị………….chất liệu nguyên thủy… các tattva, vật chất nguyên tử,

3. The indicated         primary substance…the tattvas, atomic matter,

4. Cái không thể tiếp xúc..Đấng cao cả là toàn thể của tất cả những gì vừa kể.

4. The untouchable  the great Existence who is the sum total of all these. [156]

[156]

This sutra is intended to cover the technicalities of the form aspect of manifestation whether referring to the manifestation of a human atom or of a solar deity, and simply indicates the natural triplicity of substance, its septenary nature, and its various mutations. It expresses the nature of that aspect of divine life which is called Brahma by the Hindu, and the Holy Spirit by the Christian. This is the third aspect of the Trimurti or Trinity, the aspect of active intelligent matter, out of which the body of Vishnu or of the cosmic Christ is to be built in order that Shiva, the Father or the spirit may have a medium of revelation. It might therefore be of use if the nature of the four divisions of the three gunas were indicated, after giving the synonyms for these gunas.

Câu kinh này bao gồm những thuật ngữ về phương diện hình thể của cuộc biểu hiện. Dù là chỉ về sự biểu hiện của một nguyên tử người, hay là của một vị thượng đế thái dương. Nó chỉ cho thấy tính tam phân, tính thất phân, và sự biến phân thiên hình vạn trạng tự nhiên của vật chất. Nó phát biểu tính chất, trạng thái của sự sống thiêng liêng được người Ấn giáo gọi là Brahma, và được người Thiên Chúa giáo gọi là Chúa Thánh Thần. Đây là trạng thái thứ ba của Trimurti hay Tam vị nhất thể. Đây là trạng thái của vật chất thông tuệ linh hoạt. Từ đó cơ thể của Vishnu hay của Đấng Christ vũ trụ sẽ được kiến tạo, để Shiva, Đấng Cha lành hay tinh thần khả dĩ có phương tiện để hiển lộ. Vì thế, sau khi nêu các từ đồng nghĩa của các guna nói trên, tưởng cũng nên kể ra tính chất bốn phân loại của ba guna.

The three gunas:

Ba guna:

1. The qualities of matter,

1. Các đặc tính của vật chất,

2. The aspects of thinking substance, or of the universal mind,

2. Những khía cạnh của chất liệu tư duy, hay của trí tuệ vũ trụ,

3. The attributes of force-matter,

3. Các thuộc tính của vật chất-lực,

4. The three potencies.

4. Ba mãnh lực.

These triplicities should be carefully studied as it is through them that consciousness in its various degrees becomes possible. We are here dealing with the great illusion of forms with which the Real Man identifies himself to his sorrow and pain throughout the long cycle of manifestation and from which he must eventually be liberated. [157] A still vaster thought is also involved: the imprisoning of the life of a solar Logos in the form of a solar system, its evolutionary development through the medium of that form and the eventual perfection and release of that life from the form at the conclusion of a great solar cycle. The lesser cycle of man is involved in the greater and his attainment and the nature of his liberation is only relative to the greater whole.

Cần nghiên cứu kỹ các bộ ba vừa kể, vì qua đó khả dĩ có những mức độ khác nhau của tâm thức. Ở đây chúng ta đang bàn đến cái ảo tưởng lớn về các thể mà Chân nhân tự đồng hóa với chúng khiến phải chịu đau thương, thống khổ trong suốt chu kỳ biểu hiện lâu dài, và rốt cuộc Chân nhân phải được giải thoát ra khỏi chúng. [157] Còn có một tư tưởng rộng lớn hơn nữa: sự sống của một Thượng Đế thái dương bị giam hãm trong hình thể của một thái dương hệ. Rồi sự sống của Ngài phát triển tiến hóa qua phương tiện của hình thể đó. Rốt cuộc, sự sống trở nên hoàn thiện và được giải thoát ra khỏi hình thể đó, vào lúc kết thúc một đại chu kỳ thái dương. Chu kỳ nhỏ hơn của con người được bao gồm trong chu kỳ lớn vừa kể. Vì thế sự thành đạt và tính cách giải thoát của y cũng chỉ tương đối so với chu kỳ rộng lớn nói trên.

1. The specific division of the gunas.

1. Phân loại cụ thể của các guna.

This specific or particularised division of the gunas is divided into sixteen parts which deal primarily with man’s reaction to the tangible objective world.

Phân loại cụ thể hay riêng biệt này của các guna được chia thành mười sáu phần. Chúng chủ yếu liên quan đến phản ứng của con người đối với ngoại cảnh hữu hình.

a. The five elements: ether, air, fire, water and earth. These are the directly involved effects of the unspecific or subjective sound or word.

a. Năm nguyên tố: dĩ thái, không khí, lửa, nước và đất. Những phần này bao gồm trực tiếp các hiệu quả của âm thanh hay linh từ nội tại hoặc không cụ thể.

b. The five sense organs: the ear, the skin, the eye, the tongue and the nostrils, those physical organs or channels through which identification with the tangible world becomes possible.

b. Năm giác quan: tai, da, mắt, lưỡi và mũi. Đây là những cơ quan hay đường dẫn truyền trong thể xác mà qua đó mỗi người có thể tự đồng hoá với thế giới hữu hình.

c. The five organs of action: voice, hands, feet, the excretory organs and the organs of generation.

c. Năm cơ quan hành động: tiếng nói, bàn tay, bàn chân, cơ quan bài tiết và cơ quan sinh sản.

d. The mind. This is the sixth sense, the organ which synthesises all the other sense organs and eventually will make their use a thing of the past.

d. Cái trí. Tức là giác quan thứ sáu. Giác quan này tổng hợp tất cả các giác quan hay cơ quan kia, và rốt cuộc sẽ khiến chúng trở nên không còn cần thiết.

These sixteen means of perception and activity in the phenomenal world are channels for the real thinking man; they demonstrate his active reality and are the sum total of the physical facts relating to every incarnated son of God. Similarly [158] in their cosmic connotation, they are the sum total of the facts demonstrating the reality of a cosmic incarnation. “The Word is made flesh” both individually and in a cosmic sense.

Mười sáu phương tiện nói trên cho sự nhận thức và hoạt động trong thế giới hiện tượng là những đường dẫn truyền cho chân nhân đang tư duy. Chúng biểu lộ thực tính linh hoạt của chân nhân. [158] Chúng là toàn bộ các yếu tố thực tế trong thể chất liên quan đến mọi người con của Thượng Đế đang ở cõi trần. Tương tự, với hàm ý vũ trụ chúng là toàn bộ các yếu tố thực tế biểu lộ thực tính của một đấng lâm phàm ở cấp vũ trụ. Đây là “Ngôi Lời hiện thể” cả về phương diện cá nhân và theo ý nghĩa vũ trụ.

2. The unspecific division of the gunas.

2. Phân loại không cụ thể của các guna.

These are six in number and concern that which lies back of the specific; they deal with that which is subjective and intangible, and with the force display which produces the specific forms.

Loại này có sáu phần liên quan đến những gì ẩn trong cái cụ thể. Chúng liên quan đến những gì nội tại và vô hình, và liên quan đến sự tác động của lực để tạo nên những hình thể đặc thù.

Technically these are called in the Hindu books the tanmatras. They have to do with consciousness more than form and are the “special modifications of buddhi or consciousness” (Ganganatha Jha). They are:

Những phần vừa kể được gọi với thuật ngữ tanmatra trong kinh sách Ấn giáo. Chúng liên quan đến tâm thức hơn là hình thể và là “các biến thái đặc biệt của bồ-đề hay tâm thức” (Ganganatha Jha). Đó là:

I. The element of hearing, or that which produces the ear,—the rudiment of hearing,

1. Yếu tố của thính giác, hay là những gì tạo thành tai nghe,− phần thô sơ của thính giác,

2. The element of touch or that which produces the mechanism of touch, the skin, etc.,—the rudiment of touch,

2. Yếu tố của xúc giác, hay là những gì tạo thành cơ chế của xúc giác, như da, v.v.,− phần thô sơ của xúc giác,

3. The element of sight, or that which produces the eye,

3. Yếu tố của thị giác, hay là những gì tạo thành đôi mắt,

4. The element of taste, or that which produces the mechanism of taste.

4. Yếu tố của vị giác, hay là những gì tạo thành cơ chế của vị giác.

5. The element of smell, or that which produces the mechanism of smell.

5. Yếu tố của khứu giác, hay là những gì tạo thành cơ chế của khứu giác.

Back of these five lies the sixth tanmatra or modification of the consciousness principle, the “feeling of personality” as it has been called, the “I am I” consciousnes, the ahamkara principle. It is this which produces the sense of personal reality and of one’s being a separated unit of consciousness. It is the basis of the great “heresy of [159] separateness” and the cause of the real or spiritual man being lured into the great illusion. It is this which forces man for long aeons to identify himself with the things of the senses and it is this too which eventually brings him to the position where he seeks liberation.

Ẩn trong năm phần kể trên là tanmatra thứ sáu hoặc biến thái của nguyên khí tâm thức. Nó thường được gọi là “cảm nhận của phàm nhân,” ý thức “Tôi là Tôi,” hay nguyên khí ahamkara. [159] Chính nguyên khí này mang lại cảm nhận thực tế về cá nhân, và cảm thấy mình là một đơn vị tâm thức riêng biệt. Nó là cơ sở của “đại tà thuyết chia rẽ” và là nguyên nhân khiến chân ngã hay con người tinh thần bị cám dỗ đi vào đại ảo tưởng. Chính nguyên khí này khiến con người qua những thời kỳ lâu dài tự đồng hóa với những sự vật của các giác quan. Và cũng chính nguyên khí này rốt cuộc đưa y đến vị thế tìm kiếm sự giải thoát.

3. The indicated.

3. Cái được chỉ thị.

Back of the sixteen specialized divisions and back of the six unspecialized, lies that which is the cause of them all, which is called in the Hindu books Buddhi, or pure reason, the intellect apart from the lower mind, sometimes called the intuition, whose nature is love-wisdom. This is the Christ-life or principle, which in the process of taking incarnation or form, as we know it, manifests forth as the specific and the unspecific. It is as yet for the majority only “indicated.” We surmise it is there. The work of Raja Yoga is to bring forth into full knowledge this vague surmise so that theory becomes fact and that which is latent and believed to exist may be recognized and known for what it is.

Ẩn trong mười sáu phần cụ thể hóa, và ẩn trong sáu cái không cụ thể hóa, có nguyên nhân của chúng. Nguyên nhân này được kinh sách Ấn giáo gọi là Buddhi (bồ-đề), hay lý trí thuần khiết, phần trí tuệ khác với hạ trí. Đôi khi, nguyên nhân này còn được gọi là trực giác, với phẩm tính bác ái-minh triết. Đây là sự sống hay nguyên khí Christ, đang trong tiến trình giáng trần hay khoác lấy hình thể, như chúng ta biết. Nguyên khí này biểu hiện với tính cụ thể và không cụ thể. Cho đến nay, với đa số mọi người, nguyên khí này chỉ mới “được nói cho biết.” Chúng ta chỉ phỏng đoán rằng có nguyên khí này. Thế nên, khoa Raja Yoga nhằm giúp hành giả hiểu biết đầy đủ về điều phỏng đoán mơ hồ vừa kể. Nhờ đó, lý thuyết trở thành hiện thực, và điều vốn ẩn tàng và đã được tin là hiện hữu thì nay hành giả có thể nhận biết và thấu hiểu thực tính của nó.

4. The untouchable.

4. Cái không thể tiếp xúc.

Finally we come to the fourth division of the gunas or aspects, that “in which we live and move and have our being,” the untouchable or unknown God. This is the great form of existence in which our little forms are found. This is the sum total of the thinking substance of which our little minds are part; this is the whole manifestation of God through the medium of the cosmic Christ of which each little Son of God is a [160] part. Of this untouchable and unknown the mind of man cannot as yet conceive.

Cuối cùng, chúng ta đến phân loại thứ tư của các guna hay các trạng thái. Đó là Đấng mà “chúng ta sống, di chuyển và hiện tồn trong Ngài,” vị Thượng Đế vô danh hay là không thể tiếp xúc. Đây là dạng hiện tồn vĩ đại mà các thể nhỏ bé của chúng ta đang ở trong đó. Đây là toàn bộ chất liệu tư duy mà cái trí bé nhỏ của chúng ta là thành phần của nó. Đây là toàn cuộc biểu hiện của Thượng Đế qua trung gian của Đấng Christ vũ trụ, [160] mà mỗi Người Con bé nhỏ của Thượng Đế đều là thành phần trong đó. Cái trí của con người chưa thể nhận thức được cái vô danh và không thể tiếp xúc này.

20. The seer is pure knowledge (gnosis). Though pure, he looks upon the presented idea through the medium of the mind.

20. Người tri kiến là cái biết thuần khiết (tri thức tinh thần). Dù thuần khiết, y vẫn dùng thể trí để quán xét các ý tưởng xuất lộ.

Reference has already been made to the excellent translation of this sutra as given by Johnston which runs as follows: “The seer is pure vision. Though pure, he looks out through the vesture of the mind.” Ganganatha Jha throws still further light upon it in the words “The spectator is absolute sentience, and though pure, still beholds intellected ideas.” The thought conveyed is that the true man, the spectator, perceiver or thinker is the sum total of all perception, be it through the avenues of the senses or of the lower mind; he is in himself knowledge, clear vision or true perception. All that exists in the three worlds exists because of and for him; he is the cause of its being and when he no longer seeks it or endeavours to vision it, for him it exists not. This sutra is one of the key verses in the book, and gives the clue to the entire science of yoga. Certain thoughts lie hid in its formulation which cover the whole ground of this science and students would do well to give much attention to this. It has a mantric effect and if stated as an affirmation and used constantly by the aspirant will eventually demonstrate to him the truth of the statement that “as a man thinketh, so is he.”

Trước đây, đã có tham khảo cách dịch rất hay của Johnston cho câu kinh này như sau: “Người tri kiến là cái thấy thuần khiết. Dù thuần khiết, y vẫn nhìn ra ngoài qua lớp áo của thể trí.” Ganganatha Jha làm sáng tỏ thêm với câu “Người quán xét là sự nhận thức tuyệt đối, và dù thuần khiết, vẫn nhìn ngắm các ý tưởng qua trí tuệ.” Cái ý tưởng mà câu này truyền đạt là chân nhân, người quán xét, người nhận thức hay người suy tưởng là toàn bộ sự nhận thức, dù là nhận thức qua con đường của các giác quan hay hạ trí. Y chính là sự hiểu biết, cái thấy sáng tỏ hay nhận thức chân thực. Tất cả những gì trong tam giới sở dĩ có là vì y và để cho y. Y là nguyên nhân sự hiện tồn của chúng. Khi y không còn tìm kiếm chúng, hay cố gắng quán xét chúng, thì đối với y chúng không còn hiện hữu. Câu kinh này là một trong những câu then chốt trong sách. Nó là manh mối cho trọn cả khoa yoga. một số ý tưởng ẩn giấu trong cách diễn đạt câu này bao gồm toàn bộ nền tảng của yoga. Vì thế, người môn sinh cần suy ngẫm kỹ ý nghĩa sâu xa đó. Nó có tác dụng của một câu chân ngôn. Nếu người chí nguyện thường xuyên sử dụng và đọc lên một cách khẳng định, thì rốt cuộc y sẽ thấy được thực tính của câu nói “người nào suy nghĩ điều gì, thì trở thành điều đó.”

“I am pure knowledge. Though pure, I look [161] upon presented ideas through the medium of the mind.”

“Tôi là sự hiểu biết thuần khiết. [161] Dù thuần khiết, tôi vẫn dùng thể trí để quán xét các ý tưởng được hiển lộ.”

We have here:

Ở đây chúng ta có:

1. The seer or the one who looks on and considers (from his divine standpoint) this world of effects, this great maya of illusion,

1. Người tri kiến hay là người (từ quan điểm thiêng liêng của mình) nhìn ngắm và quán xét thế giới này, là thế giới của các hậu quả, của ảo hóa và ảo tưởng rộng lớn.

2. The presented idea. The thought conveyed here is that every form which passes before the spectator in the great panorama of life in the three worlds is a “presented-idea,” and that these presented ideas are therefore embodied thoughts of some kind and must be regarded as such. The task of the occultist is to work with the force which lies back of every form and not so much with the form which is but the effect of some cause. This method of endeavour can only be developed gradually. The spectator passes gradually from the forms and their true significance in his own immediate environment and in his own tiny world, through the various forms of the world process until the world of causes stands revealed to him, and the world of effects assumes a secondary position.

2. Ý tưởng được hiển lộ. Có nghĩa là mọi hình thể mà người quan sát thoáng thấy trong toàn cảnh rộng lớn của đời sống trong tam giới, đều vốn là “ý tưởng được hiển lộ.” Do đó, phải thấy rằng những ý tưởng được hiển lộ vừa kể có thực chất là những tư tưởng hiện thể. Nhà huyền bí học cần làm việc với cái mãnh lực ẩn trong mọi hình thể. Y không quá bận tâm đến cái hình thể vì nó chỉ là hậu quả của một nguyên nhân nào đó. Phương pháp làm việc này chỉ có thể được phát triển dần. Người quan sát từ từ đi qua các hình thể trong môi trường sống chung quanh cũng như trong thế giới nhỏ bé của mình, và hiểu thực nghĩa của chúng. Y đi qua những hình thể khác nhau khi du hành trong đời, cho đến khi thấy được thế giới của các nguyên nhân. Bấy giờ y hiểu rằng thế giới của các hậu quả chỉ là thứ yếu.

He perceives first the forms in the three worlds. Gradually then he becomes aware of that which caused them and of the type of force which brought them into being. Later he discovers the idea which they embody and, tracing them progressively onward or back to their originating source, he comes into touch with the great lives which are the cause of manifestation. He thus passes out of the realm of objectivity, out of the mental, emotional and physical worlds into the [162] realm of the soul or of the subjective cause of this triple manifestation. This is the world of ideas and therefore of pure knowledge, pure reason and divine mind. Later, at a very advanced stage he touches the one Life which synthesises the many lives, the one Purpose which blends the many ideas into one homogeneous plan.

Trước hết, y nhận thức được các hình thể trong tam giới. Rồi y dần dần ý thức được những gì tạo nên chúng, và loại mãnh lực nào sản sinh ra chúng. Sau đó, y khám phá ra cái ý tưởng ẩn trong hình thể ấy. Cứ thế, y tiếp tục tìm về nguồn cội của chúng, giao tiếp với những sinh linh vĩ đại vốn là nguyên nhân giúp chúng biểu hiện. Bằng cách này, y vượt khỏi lĩnh vực khách quan, ra khỏi tam giới, tức là cõi trí, cõi tình cảm và cõi trần. Bấy giờ y đi vào lĩnh vực của linh hồn hay là cái nguyên nhân nội tại của ba phương diện biểu hiện vừa kể. Đây là thế giới của các ý tưởng, của hiểu biết thuần khiết, của lý trí thuần túy và trí tuệ thiêng liêng. [162] Về sau, đến một trình độ tiến hóa rất cao, y giao tiếp với Sự Sống duy nhất tổng hợp cả chúng sinh. Đó là mục đích duy nhất hòa hợp các ý tưởng vào thiên cơ đồng nhất.

3. The mind. This is the instrument which the seer employs in order to perceive presented ideas or thought forms. For purposes of clarification it might be noted that the presented ideas fall into five groups of thought forms:

3. Cái trí. Đây là khí cụ mà người tri kiến dùng để nhận thức các ý tưởng được hiển lộ hay những hình tư tưởng. Có thể nói rõ hơn, các ý tưởng được hiển lộ gồm năm nhóm hình tư tưởng:

a. The tangible objective forms in the physical world of every day. With these the seer has for long identified himself in the earlier and more savage stages of human existence.

a. Những hình thể hữu hình ở ngoại cảnh trong cuộc sống hằng ngày ở cõi trần. Y đã tự đồng hóa với những hình thể này trong thời gian lâu dài vào các giai đoạn đầu, còn dã man, của đời sống nhân loại.

b. The moods, feelings and desires, which all have form in the astral world, the world of the emotions.

b. Các tâm trạng, xúc cảm và ham muốn, tất cả đều có hình dạng trong cõi cảm dục hay cõi tình cảm.

c. The thought forms in their myriad distinctions which crowd the mental world.

c. Vô số các hình tư tưởng khác nhau trên cõi trí.

Through these “presented ideas,” the seer achieves knowledge of the not-self.

Qua “các ý tưởng được hiện lộ” này, y hiểu biết về cái phi-ngã.

d. The thought forms which he can create himself after he has learned to control his instrument the mind and can discriminate between the illusory world of present ideas and those realities which constitute the world of spirit.

d. Những hình tư tưởng mà y có thể tự tạo sau khi học cách kiểm soát khí cụ của mình là thể trí. Bấy giờ y có thể phân biệt giữa thế giới ảo tưởng gồm các ý tưởng hiện hữu và những thực tế trong thế giới của tinh thần.

Through this process he arrives at a knowledge of himself. Throughout the great experience of knowing the not-self and knowing himself, he uses the mind as his medium of search, of explanation and of interpretation, for the senses and [163] all his channels of contact, telegraph constant information and reactions to the mind via the lower instrument of the brain. Having reached this stage the seer is then able to use the mind in a reverse manner. Instead of turning his attention to the not-self or the illusory world of effects and instead of studying his own lower nature, he can now, owing to the mental control achieved, arrive at the fifth stage:

Qua quá trình này, y tự biết mình. Xuyên suốt kinh nghiệm rộng lớn hiểu biết cái phi-ngã và tự biết mình, y sử dụng thể trí làm phương tiện tìm kiếm, giải thích và diễn giải. Bởi vì các giác quan và toàn bộ những lối giao tiếp [163] đều gửi các thông tin và phản ứng liên tục đến cái trí qua khí cụ ở cấp thấp là bộ não. Khi đã đến trình độ này, y có thể sử dụng thể trí theo cách ngược lại. Thay vì hướng sự chú ý của mình đến cái phi-ngã hay là thế giới ảo tưởng của các hậu quả, và thay vì nghiên cứu phàm tính của mình, nay nhờ đã đạt được sự kiểm soát trí tuệ, y có thể tiến đến trình độ thứ năm:

e. The ideas presented by the world of spiritual life, the realm of spiritual knowledge, and the kingdom of God in the truest sense.

e. Các ý tưởng được hiển lộ trong thế giới của sự sống tinh thần, lĩnh vực hiểu biết tinh thần và Thiên giới, theo ý nghĩa chân thực nhất.

Through this, the seer arrives at a knowledge of God as He is and comes to an understanding of the nature of spirit. The mind then serves a triple purpose:

Qua đó, y hiểu được chân tính của Thượng Đế và thực tính của tinh thần. Bấy giờ thể trí phục vụ ba mục đích:

a. Through it, the seer looks out upon the realm of causes, the spiritual realm.

a. Qua thể trí, y quán xét lĩnh vực của các nguyên nhân, tức là lĩnh vực tinh thần.

b. By its means, the world of causes can be interpreted in terms of the intellect.

b. Y sử dụng thể trí để diễn giải thế giới các nguyên nhân trong phạm vi trí tuệ.

c. By using it correctly, the seer can transmit to the physical brain of the lower personal self (the reflection in the world of effects of the true man) that which the soul sees and knows. This triangle is then formed and comes into working activity: The seer or spiritual man, the mind, his medium of investigation, or the window through which he looks out (whether upon the world of effects, upon himself, or upon the world of cause) and the brain, which is the receiving plate upon which the seer can impress his “pure knowledge” using the mind as an interpreter and transmitting agency. [164]

c. Khi sử dụng thể trí đúng cách, y có thể truyền đến não bộ trong thể xác của phàm ngã (phản ánh của chân nhân, trong thế giới các hậu quả) những gì mà linh hồn thấy và biết. Bấy giờ, một tam giác được hình thành và bắt đầu tác động: Người tri kiến hay là con người tinh thần, thể trí, phương tiện y dùng để khảo cứu, hay là cửa sổ để y quán xét (về thế giới các các hậu quả, về chính mình, hay về thế giới các nguyên nhân), và não bộ. Não bộ là phương tiện tiếp nhận những ấn tượng về “sự hiểu biết thuần khiết” của người tri kiến, được y truyền đến qua thể trí với tính cách trung gian diễn giải và truyền đạt. [164]

21. All that is exists for the sake of the soul.

21. Cả vạn hữu là để dành cho linh hồn.

Man in his arrogance should not take this sutra to mean that all that is created exists for him. The sense is much wider than this. The soul referred to is that of the Supreme Being of which the soul of man is but an infinitesimal part. Man’s tiny world, his small environment and contacts, exist for the sake of the experience they bring him and the final liberation they bring about; he is the cause of their manifestation and they are the result of his own thought power. But around him and through him is to be found that greater whole of which he is a part, and the entire vast universe, planetary and solar, exists for the sake of the vaster Life in whose body he is but an atom. The whole world of forms is the result of the thought activity of some life; the whole universe of matter is the field for the experience of some existence.

Người có tính kiêu căng, ngã mạn không nên nắm lấy câu kinh này để giải thích rằng tất cả các tạo vật sở dĩ có là để cho y. Thực ra ý nghĩa của câu này sâu rộng hơn nhiều. Linh hồn được đề cập ở đây là linh hồn của Đấng Tối cao mà linh hồn của con người chỉ là một phần vô cùng nhỏ của Ngài. Thế giới nhỏ bé của con người, môi trường sống và phạm vi giao tiếp nhỏ hẹp của y, sở dĩ có là nhằm mang lại cho y kinh nghiệm để y đi đến sự giải thoát cuối cùng. Y là nguyên nhân cuộc biểu hiện của chúng, và chúng là kết quả của quyền năng tư tưởng của y. Thế nhưng, ở chung quanh y và xuyên qua y là cái toàn thể rộng lớn hơn mà y chỉ là thành phần trong đó. Toàn thể vũ trụ bao la, ở cấp hành tinh và thái dương, sở dĩ hiện hữu là cho Sự Sống rộng lớn mà trong cơ thể của Ngài y chỉ là một hạt nguyên tử. Toàn cả thế giới hình tướng là kết quả của hoạt động tư tưởng của một Đấng cao cả. Toàn bộ thế giới vật chất là trường kinh nghiệm của một Đấng thiêng liêng.

22. In the case of the man who has achieved yoga (or union) the objective universe has ceased to be. Yet it existeth still for those who are not yet free.

22. Đối với người đã thành đạt khoa yoga (hay hợp nhất) vũ trụ khách quan không còn nữa. Thế nhưng nó vẫn còn hiện hữu đối với những người chưa được tự do.

This sutra holds the germ of the entire science of thought. Its premise is based upon the realisation that all that we behold are modifications of thought substance, that the thinker creates his own world, whether he be God or man. When a man through the science of yoga (that science which deals with the “suppression of the activities [165] of the thinking principle” or with mind control), has achieved full power over the mind and over mental substance or thought matter, he is freed from the control of those forms which hold the majority of men captive in the three worlds.

Câu kinh này có mầm mống của trọn cả khoa học về tư tưởng. Tiền đề của nó dựa vào nhận thức rằng tất cả những gì mà chúng ta thấy đều là các biến thái của chất liệu tư tưởng. Đó cũng là nhận thức rằng người suy tưởng tự tạo nên thế giới của riêng mình, dù đó là Thượng Đế hay con người. Chúng ta biết rằng yoga là khoa bàn về “sự chế ngự các hoạt động của nguyên khí tư duy” [165] hay là sự kiểm soát thể trí. Khi qua khoa này hành giả đã hoàn toàn làm chủ thể trí và chất liệu trí tuệ hay vật chất tư tưởng, thì bấy giờ y thoát khỏi sự kiềm tỏa của các hình thể vốn đang giam giữ đa số mọi người trong tam giới.

He stands then apart from the great illusion; the bodies which have hitherto held him no longer do so; the great currents of ideas and thoughts and desires which have their origin through the “modifications of the thinking principle” of men imprisoned in the three worlds no longer sway or affect him; and the myriad thought forms which are the result of these currents in the mental, astral and physical worlds no longer shut him away from the realities or from the true subjective world of causes, and of force emanations. He is no longer deceived and can discriminate between the real and the unreal, between the true and the false, and between the life of the spirit and the world of phenomena. He becomes subject then to the currents of thought, and the world of ideas emanating from great spiritual entities, from spiritual lives, and the great plan of the Architect of the Universe can unroll itself before him. He is liberated and free and subject only to the new conditions of the life of the man who has made the great at-one-ment. The laws of the three worlds are not superseded but are transcended, for the greater always includes the lesser and though—for purposes of service—he may choose to limit himself to a seemingly three dimensional life, yet he goes forth into the world of higher dimensions at his pleasure, and [166] when needed for the extension of the kingdom of God.

Nay y đã hóa giải đại ảo tưởng. Các thể mà từ trước đến giờ đã ràng buộc y thì nay không còn thế nữa. Những dòng ý tưởng, tư tưởng và dục vọng mạnh mẽ vốn bắt nguồn từ “các biến thái của nguyên khí tư duy” nơi những người đang bị lao tù trong tam giới, thì nay không còn chi phối hay ảnh hưởng được y. Hậu quả của chúng là vô số hình tư tưởng được tạo nên ở cõi trí, cõi cảm dục và cõi trần. Các hình tư tưởng ấy nay không còn che án tầm mắt của y trước những điều thực tế, thế giới chân thực của các nguyên nhân, và những phóng phát mãnh lực. Y không còn bị lừa gạt, và có thể phân biệt được điều thật và không thật, điều đúng và điều sai, giữa sự sống tinh thần và thế giới hiện tượng. Y bắt đầu chịu ảnh hưởng của những dòng tư tưởng, và thế giới các ý tưởng phát xuất từ các đấng tinh thần cao cả, và nguồn sống tinh thần. Thiên cơ vĩ đại của vị Kiến trúc sư Vũ trụ có thể phơi bày trước mắt y. Y được giải thoát, tự do, và chỉ còn theo các điều kiện sống mới trong đời của người đã thực hiện được sự hợp nhất trọng đại. Các luật trong tam giới không được thay thế mà y chỉ vượt cao hơn chúng. Lý do là vì cái lớn luôn luôn bao gồm cái nhỏ. Vì mục đích phụng sự, y có thể chọn việc tự giới hạn mình trong đời sống chừng như thuộc ba chiều không gian. Thế nhưng, bất cứ khi nào cần cho việc mở rộng Thiên giới, y vẫn thoải mái đi vào thế giới của các chiều cao siêu hơn. [166]

The object of this science of yoga is to reveal to man the mode of this liberation and how he can free himself. Hence the trend of Patanjali’s teaching up to this point has been to indicate man’s place in the scheme, to put his finger upon the basic cause of man’s restlessness and urge towards activity of one kind or another; to show the reason for the existence of the great world of effects and to tempt the aspirant to an investigation of the world of causes; and so to demonstrate the need for further unfoldment and the nature of the hindrances to that unfoldment that the man will be ready to say: If this is all so, what are the means whereby this union with the real and this dispersal of the great illusion may be brought about? This second book presents the eight great means of yoga, giving thus a clear and concise outline of the exact steps to be followed for the needed regulation of the physical, psychic and mental life.

Mục tiêu của khoa yoga này là cho hành giả thấy phương cách để tự giải thoát và trở nên tự do. Vì thế, cho đến nay, khuynh hướng trong giáo huấn của Patanjali đã nhằm chỉ rõ vị trí của con người trong đại cuộc. Ông cho thấy nguyên nhân căn bản nào khiến con người cứ mãi băn khoăn, đau khổ, với sức thôi thúc hướng đến một loại hoạt động này hay hoạt động khác. Ông nêu rõ lý do vì sao mà có thế giới bao la của các hậu quả, và khuyến khích người môn sinh khảo cứu thế giới của các nguyên nhân. Bằng cách này, y thấy rằng cần phải khai mở nhiều hơn, và đâu là những chướng ngại đối với cố gắng khai mở đó. Bấy giờ, tất nhiên y sẽ hỏi: Nếu sự thể là như thế, thì có những phương tiện nào để có thể hợp nhất với thực tại, và giải tán cái ảo tưởng nặng nề kia? Quyển hai này trình bày tám phương tiện của yoga. Đây là bản phác thảo rõ ràng và vắn gọn về những bước chính xác cần theo đúng, để thực hiện điều thiết yếu là điều hòa cuộc sống thể chất, tâm lý và trí tuệ.

23. The association of the soul with the mind and thus with that which the mind perceives, produces an understanding of the nature of that which is perceived and likewise of the Perceiver.

23. Kết hợp linh hồn với thể trí và từ đó kết hợp với những gì mà thể trí nhận thức được, giúp hành giả thấu hiểu thực chất của điều được nhận thức cũng như bản tính của người nhận thức.

In this sutra the attention of the student is drawn to the primary quality which he must develop, that of discrimination. Its meaning is therefore very clear. The pairs of opposites, spirit and matter, purusha and prakriti. are [167] brought into close association and that union must come to be recognised by the soul, the perceiving consciousness. Through the process of this blending of the dualities, the soul, the thinker, comes to a comprehension of the nature which is his very own, the spiritual nature, and the nature of the phenomenal world which he perceives, contacts and uses. The organ of perception is the mind and the five senses, and from the standpoint of the soul, they form one instrument. For a long period and through many incarnations the soul or thinker identifies himself with this organ of perception and in the earlier stages with that also which he perceives through its use. He regards the phenomenal body he uses, the physical body, as himself, as witness the expression: “I am tired” or “I am hungry.” He identifies himself with his body of feeling or desire, and says “I am cross,” or “I want money.” He identifies himself with the mental vehicle and regards himself as thinking thus and so. It is this identification which results in the theological differences, and the doctrinal and sectarian diversities everywhere to be found, and in this fifth root race and particularly in this fifth subrace this identification reaches its apotheosis. It is the era of the personal self, not of the spiritual Self. This realisation of the lower nature is part of the great evolutionary process but must be followed by a realization of the other polar opposite, the spiritual Self. This is brought about by the soul beginning to practise discrimination, at first theoretically and intellectually (hence the great value [168] of the present era of criticism and polemical discussion, as it forms part of the planetary discriminative process) and later experimentally. This discrimination leads eventually to three things:

Câu này hướng sự chú ý của người môn sinh đến đức tính chủ yếu mà y phải phát triển, là tính phân biện. Vì thế, ý nghĩa của nó thật rõ ràng. [167] Các cặp đối cực, tinh thần và vật chất, purusha và prakriti, được kết hợp chặt chẽ với nhau. Linh hồn, tức là cái tâm thức hiểu biết, phải thấu đáo sự phối hợp này. Qua tiến trình hòa hợp các lưỡng nguyên nói trên, linh hồn là người suy tưởng hiểu rõ thực tính của chính mình là bản tính tinh thần, và bản chất của thế giới hiện tượng mà y nhận thức, tiếp xúc và sử dụng. Cơ quan nhận thức là thể trí và năm giác quan. Theo quan điểm của linh hồn, chúng họp thành một khí cụ duy nhất. Trong kỳ gian lâu dài và qua nhiều kiếp luân hồi, linh hồn hay là người suy tưởng tự đồng hóa với cơ quan nhận thức này. Trong những giai đoạn đầu, thậm chí y còn tự đồng hóa với những gì y nhận thức được khi sử dụng cơ quan đó. Y cho rằng thể xác, cái thể tạm mà y sử dụng, là chính mình. Vì thế, y thường nói: “Tôi mệt,” hoặc “Tôi đói.” Y cũng tự đồng hóa với thể xúc cảm hay dục vọng của mình và nói “Tôi bực bội,” hay “Tôi muốn có tiền bạc.” Rồi y còn tự đồng hóa với thể trí và cho rằng mình chính là sự suy nghĩ, v.v. Chính việc tự đồng hóa này gây nên hậu quả là những khác biệt về thần học, và các đa dạng về giáo lý và tính bè phái ở khắp nơi. Và chính trong căn chủng thứ năm này, và đặc biệt là trong phân chủng thứ năm hiện nay, sự tự đồng hóa này đạt đến cực điểm. Đó là thời đại của phàm ngã, chứ không phải của Chân ngã tinh thần. Sự nhận thức này của phàm tính là một phần trong diễn trình tiến hóa vĩ đại. Thế nhưng, tiếp theo phải là nhận thức về đối cực của nó, là Chân ngã tinh thần. Điều này được linh hồn thực hiện khi bắt đầu thực hành khả năng phân biện. Lúc đầu chỉ có tính cách lý thuyết và tri thức. Đó là giá trị lớn của thời đại hiện nay [168] với những chỉ trích, bút chiến và tranh luận, vì nó là một phần trong tiến trình phân biện của hành tinh. Về sau sẽ đi vào thực nghiệm. Sự phân biện vừa kể rốt cuộc đưa đến ba điều:

1. An understanding of the distinction between spirit and matter,

1. Thấu đáo sự khác biệt giữa tinh thần và vật chất,

2. A comprehension of the nature therefore of the soul which is the product of this union, and is the son, produced by the union of the father-spirit and of the mother-matter,

2. Nhờ đó mà hiểu bản tính của linh hồn vốn là sản phẩm của sự hợp nhất này. Linh hồn là đứa con sinh ra do sự phối hợp của cha-tinh thần và mẹ-vật chất,

3. A development whereby the soul begins to identify itself with the spiritual aspect and not with the phenomenal world of forms. This later stage is greatly aided and hastened through the practice of Raja Yoga and hence the determination of the Hierarchy to give this science to the critical discriminating West. It should be borne in mind that the soul passes through great stages in the unifying process and that the word yoga covers the evolutionary development of the human Monad.

3. Giai đoạn phát triển khi linh hồn bắt đầu tự đồng nhất với phương diện tinh thần, chứ không với thế giới hiện tượng gồm các hình thể. Giai đoạn này được trợ giúp rất nhiều và đẩy nhanh qua việc thực hành Raja Yoga. Vì thế mà Đại đoàn Chưởng giáo quyết định đưa khoa yoga này vào thế giới Tây phương là nơi có tính phân biệt và chỉ trích. Cần lưu ý rằng linh hồn trải qua những giai đoạn quan trọng trong tiến trình thống nhất, và từ yoga bao gồm cuộc phát triển tiến hóa của Chân thần trong con người.

1. The union of the soul with the form and its identification with the matter aspect,

1. Linh hồn hợp nhất với hình thể và tự đồng hóa với phương diện vật chất,

2. The union of thinking man or the self-conscious reflection in the three worlds with the spiritual man on its own plane,

2. Sự hợp nhất của người suy tưởng hay sự quán tưởng tự thức trong tam giới với con người tinh thần trên cảnh giới của mình,

3. The union of the spiritual man or divine thinker with its Father in Heaven, the Monad or spirit aspect. Stage I covers the period from the first incarnation up to the treading of the Probationary Path. Stage II covers the period of the Probationary Path up to the third initiation [169] upon the Path of Discipleship. Stage III covers the final stages of the Path of Initiation.

3. Sự hợp nhất của con người tinh thần hay là người suy tưởng thiêng liêng với Cha của mình ở trên Trời, tức là Chân thần hay phương diện tinh thần. Giai đoạn I bao gồm thời kỳ từ khi nhập thế lần đầu đến khi tiến bước trên Con Đường Dự bị. [169] Giai đoạn II bao gồm thời gian từ Con Đường Dự bị đến cuộc điểm đạo thứ ba trên Con Đường Đệ tử. Giai đoạn III bao gồm những chặng cuối trên Con Đường Điểm đạo.

24. The cause of this association is ignorance or avidya. This has to be overcome.

24. Nguyên nhân của sự kết hợp nói trên là vô minh hay thiếu minh triết. Tình trạng này cần được khắc phục.

Ignorance of the real nature of the soul and an urge to find out its own nature and its powers is the cause of the soul’s identifying itself with the organs of perception, and with that which they perceive or bring within the consciousness of the soul. When through this ignorance and its consequences, the soul fails to find what it is seeking, there comes the stage when the search takes on a different form and the soul itself searches for reality. It might be expressed thus.

Vì không hiểu thực tính của mình, vì khao khát muốn biết chân tính và các quyền năng của mình, linh hồn bèn tự đồng hóa với các cơ quan nhận thức, cũng như với những gì mà các cơ quan ấy nhận thức được hay là đưa vào tâm thức của linh hồn. Thế nhưng, qua sự vô minh và các hậu quả của nó, linh hồn không tìm thấy điều mình muốn tìm. Bấy giờ cố gắng tìm kiếm diễn tiến theo lối khác, và linh hồn tự tìm kiếm sự thực. Có thể mô tả cố gắng này như sau:

Identification with the phenomenal world and the use of the outgoing organs of perception covers the period which the real man spends in what is called the Hall of Ignorance. Satiety, restlessness and a search for the knowledge of the self or soul characterises the period spent in the Hall of Learning. Realization, expansion of consciousness and identification with the spiritual man cover the period spent in the Hall of Wisdom. The terms human life, mystic life and occult life apply to these three stages.

Đồng hóa với thế giới hiện tượng và sử dụng các cơ quan nhận thức hướng ngoại là tình trạng của chân nhân đang ở trong giai đoạn gọi là Phòng Vô minh. Nhàm chán, băn khoăn tìm hiểu về chân ngã hay linh hồn là giai đoạn ở trong Phòng Học tập. Nhận thức, mở mang tâm thức, và đồng nhất với con người tinh thần là giai đoạn ở trong Phòng minh triết. Ba giai đoạn nói trên được gọi là cuộc sống nhân loại, cuộc sống thần bí, và cuộc sống huyền môn.

25. When ignorance is brought to an end through non-association with the things perceived, this is the great liberation.

25. Khi hành giả xóa tan vô minh vì không còn gắn bó với những điều mà y nhận thức, thì đó là đại giải thoát.

During the process of incarnation, the seer, the soul, is submerged in the great maya or illusion. He is imprisoned by his own thought forms and [170] thought creations and in those of the three worlds also. He regards himself as part of the phenomenal world. When, through experience and discrimination, he can distinguish between himself and those forms, then the process of liberation can proceed and eventually culminate in the great renunciation which once and for all sets a man free from the three worlds.

Trong tiến trình nhập thế, người tri kiến, tức là linh hồn, đắm chìm trong bức màn ảo ảnh hay ảo tưởng rộng lớn. [170] Y bị giam hãm bởi những hình tư tưởng của chính mình, các tạo tác của tư tưởng, cũng như những loại tư tưởng khác trong tam giới. Y cho rằng mình là một thành phần của thế giới hiện tượng. Về sau, qua kinh nghiệm và phân biện, y có thể thấy sự khác biệt giữa chính mình và những hình thể đó. Bấy giờ y có thể khởi đầu tiến trình giải thoát. Rốt cuộc tiến trình này đưa đến sự từ bỏ trọn vẹn, và hành giả hoàn toàn tự do thoát khỏi tam giới.

This process is a progressive one and cannot be effected all at once. It covers two stages:

Tiến trình này có tính cách tiếp diễn, không thể thực hiện tất cả chỉ một lần, mà gồm hai giai đoạn:

1. The stage of probation, or, as the Christian expresses it, the Path of Purification,

1) Giai đoạn dự bị, hay là Con Đường Tinh luyện, theo lối nói của người Thiên Chúa giáo,

2. The stage of discipleship in two parts:

2) Con Đường Đệ tử gồm hai phần:

a. Discipleship itself or the steadfast training and discipline administered to the personal lower self by the soul, directed by his guru or master,

a. Con Đường Đệ tử chính thức hay là cuộc huấn luyện nghiêm nhặt và giới luật của linh hồn áp dụng cho phàm ngã, có sự chỉ dẫn của vị tôn sư hay chân sư,

b. Initiation, or the progressive expansions of consciousness through which the disciple passes under the guidance of the master.

b. Điểm đạo, hay là những đợt mở mang tâm thức ngày càng rộng lớn mà người đệ tử trải qua với sự hướng dẫn của chân sư.

Certain words describe this dual process:

Tiến trình kép này được mô tả bằng những từ sau đây:

a. Aspiration,

a. Lập nguyện,

b. Discipline,

b. Giới luật,

c. Purification,

c. Tinh luyện,

d. The practice of the means of yoga or union,

d. Thực hành các phương tiện của yoga hay hợp nhất,

e. Initiation,

e. Điểm đạo,

f. Realisation,

f. Nhận thức,

g. Union.

g. Hợp nhất.

26. The state of bondage is overcome through perfectly maintained discrimination.

26. Hành giả thoát khỏi tình trạng bị giam cầm, ràng buộc nhờ phân biện một cách thường xuyên và sáng suốt.

A word here on discrimination will be of value as it is the first great method of attaining liberation [171] or freedom from the three worlds. Based as it is on a realisation of the essential duality of nature, and regarding nature as a result of the union of the two polarities of the Absolute All, spirit and matter, discrimination is at first an attitude of mind and must be sedulously cultivated. The premise of the duality is admitted as a logical basis for further work and the theory is tested out in an effort to prove the truth. The aspirant then definitely assumes the attitude of higher polarity (that of spirit, manifesting as the soul or inner ruler) and seeks in the affairs of every day to discriminate between the form and the life, between the soul and the body, between the sum total of the lower manifestation (physical, astral and mental man) and the real self, the cause of the lower manifestation.

Đề cập đến khả năng phân biện ở đây thật hữu ích, vì đó là bước đầu tiên và quan trọng nhất để được tự do hay giải thoát khỏi tam giới. [171] Trước hết, phân biện là một thái độ của trí tuệ và cần được vun bồi thận trọng. Phân biện vốn dựa vào sự nhận thức về tính nhị nguyên cốt yếu của thiên nhiên. Phân biện cho thấy rằng thiên nhiên là sự phối hợp của hai đối cực của Cái Toàn thể Tuyệt đối, tức là tinh thần và vật chất. Tiền đề về tính nhị nguyên được thừa nhận là cơ sở hợp lý để nghiên cứu sâu xa hơn. Lý thuyết này được trắc nghiệm trong cố gắng chứng minh sự thật. Bấy giờ, người chí nguyện bèn dứt khoát giữ thái độ của đối cực cao siêu (thái độ của tinh thần, biểu hiện với tính cách là linh hồn hay đấng ngự trị ở nội tâm). Trong các công việc thường ngày, y tìm cách phân biệt giữa hình thể và sự sống, giữa linh hồn và cơ thể. Y cũng phân biệt giữa toàn bộ các biểu hiện phàm tính (là phàm nhân với thể xác, thể tình cảm và thể trí) và chân ngã, vốn là nguyên nhân khiến cho phàm tính biểu hiện.

He seeks in the affairs of every day to cultivate a consciousness of the real and a negation of the unreal and this he carries into all his relationships and into all his affairs. He accustoms himself, through persistent unbroken practise, to distinguish between the self and the not-self, and to occupy himself with the affairs of spirit and not with those of the great maya or world of forms. This distinction is at first theoretical, then intellectual but later assumes more reality and enters into the happenings of the emotional and physical world. Finally the following of this method eventuates in the entrance of the aspirant into an entirely new dimension and his identification with a life and a world of being dissociated from the three worlds of human endeavour. [172]

Trong đời sống hằng ngày, y cố gắng phát triển ý thức về sự thật và phủ nhận những gì giả trá. Y để cho ý thức này thấm nhuần tất cả các mối quan hệ và mọi công việc của mình. Nhờ thực hành kiên trì và liên tục, y quen phân biệt giữa chân ngã và cái phi-ngã. Y chú tâm vào những vấn đề tinh thần mà không vướng bận với những gì của thế giới ảo hóa rộng lớn gồm các hình hài, sắc tướng. Sự phân biệt này lúc đầu chỉ là lý thuyết, rồi trở thành sự phân biện của trí năng. Thế nhưng, về sau nó trở nên ngày càng đúng thực và hòa nhập vào các diễn biến ở cấp tình cảm và hồng trần. Cuối cùng, việc theo đúng phương pháp này giúp hành giả đi vào một lĩnh vực hoàn toàn mới. Nay y đồng nhất với sự sống trong một thế giới vượt cao hơn ba cõi sinh hoạt của con người. [172]

When this is so the new environment becomes familiar to him so that he knows not only the form but the subjective Reality which produces or causes the existence of the forms.

Ở trình độ này, y quen thuộc với môi trường sống mới đến mức không những y biết đến hình thể mà còn thấu hiểu được Thực tại ở nội tâm, vốn là nguyên nhân khiến cho các hình thể này hiện hữu.

Then he passes on to the cultivation of the next great quality which is dispassion or desirelessness. A man may be able to distinguish between the real and the true, between the substance and the Life which animates it and yet desire or “go out” towards the form existence. This too must be overcome before perfect liberation, emancipation or freedom is attained. In one of the old commentaries in the archives of the Lodge of Masters, the following words are found:

Sau đó, y tiếp tục phát triển phẩm tính quan trọng kế tiếp là hạnh vô dục hay là không ham muốn. một người khả dĩ có thể phân biệt được điều thật và lẽ giả, giữa vật chất và Sự Sống làm linh hoạt nó, vậy mà vẫn còn muốn “đi ra ngoài” hướng về cuộc sống hình thể. Vì thế, cũng phải khắc phục ý muốn này trước khi y có thể được hoàn toàn giải thoát, khai phóng hay tự do. một thiên cổ luận trong văn khố của Đại đoàn các Chân sư, có ghi những dòng sau đây:

“It suffices not to know the way nor to feel the force which serveth to extract the life from out of the forms of maya. A moment of great portent must take place wherein the chela breaketh by one act and through a word of Power the illusory sutratma which bindeth him to form. Like the spider which gathereth up the thread again within himself whereby he ventured forth into unknown realms, so the chela withdraweth himself from all the forms in the three realms of being which have hitherto enticed.”

“Chỉ biết phương cách hay cảm thấy mãnh lực giúp sự sống thoát ra khỏi các hình thể ảo hóa, thì vẫn chưa đủ. Phải có phút giây trọng đại khi người đệ tử dùng Quyền lực từ để dứt khoát đoạn lìa sợi sutratma ảo tưởng đã buộc chặt y vào hình thể. Giống như con nhện thu hồi sợi tơ mà nó đã dùng để phiêu lưu vào những vùng xa lạ, người đệ tử cũng tách mình ra khỏi tất cả các hình thức sống trong tam giới, mà từ trước đến giờ đã quyến rũ y.”

The above merits close consideration and can be linked to the thought embodied in the occult phrase: “Before a man can tread the Path, he must become that Path himself.”

Đoạn văn trên đây đáng cho chúng ta xem xét kỹ và có thể được liên kết với ý tưởng bao hàm trong câu phát biểu huyền môn: “Trước khi hành giả có thể dấn bước trên Đường Đạo, y phải tự trở thành con Đường Đạo.”

27. The knowledge (or illumination) achieved is sevenfold, and is attained progressively.

27. Sự hiểu biết (hay giác ngộ) đạt được gồm bảy phần, và tăng tiến dần.

The Hindu teaching holds that the states of mind-consciousness are seven in number. The [173] sixth sense and its use bring about seven modes of thought, or—to put it more technically—there are seven major modifications of the thinking principle. These are:

Kinh sách Ấn giáo cho biết rằng ý thức của thể trí gồm bảy trạng thái. [173] Khi được sử dụng, giác quan thứ sáu này có bảy phương thức suy tưởng. Hoặc nói theo thuật ngữ thì nguyên khí tư duy có bảy biến thái chính sau đây:

1. Desire for knowledge. It is this which drives forth the Prodigal Son, the soul into the three worlds of illusion, or (to carry the metaphor further back still) it is this which sends forth the Monad or Spirit into incarnation. This basic desire is what causes all experience.

1. Ý muốn hiểu biết. Chính ý muốn này thôi thúc người Cùng tử, tức là linh hồn, đi vào ba cõi giới của ảo tưởng. Khi đưa ẩn dụ này về nguồn xa xưa hơn nữa, có thể nói chính ý muốn này khiến Chân thần hay Tinh thần lâm phàm. Chính ý muốn căn bản này mang lại toàn bộ các kinh nghiệm.

2. Desire for freedom. The result of experience and of the investigations which the soul carries on in its manifold life-cycles is to cause a great longing for a different condition and a great desire for liberation and for freedom from the wheel of rebirth.

2. Ý muốn tự do. Vì thế, linh hồn tiến hành những trải nghiệm và khảo sát qua các chu kỳ sống biểu hiện của mình. Kết quả của cố gắng này là sự khao khát mạnh mẽ muốn có một điều kiện khác, và thiết tha muốn được tự do và giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử.

3. Desire for happiness. This is a basic quality of all human beings, though it shows itself in many different ways. It is based upon an inherent faculty of discrimination and upon a deep seated capacity to contrast the “Father’s” home and the Prodigal’s present condition. It is this inherent capacity for “bliss” or happiness which produces that restlessness and urge to change which lies back of the evolutionary urge itself. It is the cause of activity and progress. Dissatisfaction with the present condition is based upon a dim memory of a time of satisfaction and of bliss. This has to be regained before peace can be known.

3. Ý muốn hạnh phúc. Đây là một đặc tính căn bản của toàn nhân loại, dù nó biểu lộ theo nhiều lối khác nhau. Nó vốn dựa vào khả năng phân biện sẵn có. Nó cũng dựa vào năng lực sâu xa có thể so sánh nhà của “Đấng Cha lành” với tình trạng hiện tại của người Cùng tử. Chính năng lực cố hữu muốn tìm kiếm “chân phúc” hay hạnh phúc này khiến người ta cảm thấy băn khoăn và muốn thay đổi. Đó cũng chính là sức thôi thúc tiềm ẩn của cuộc tiến hóa. Đó là nguyên nhân của sự hoạt động và tiến bộ. Người ta bất mãn với tình trạng hiện tại do ký ức mơ hồ về một thời hài mãn và phúc lạc. Họ phải tìm lại được điều đó mới cảm thấy bình an.

4. Desire to do one’s duty. The first three modifications of the thinking principle eventually bring evolving humanity to the state where the [174] motive for life comes to be simply the fulfillment of one’s dharma. The longing for knowledge, for freedom, and for happiness has brought the man to a state of utter dissatisfaction. Nothing brings him any true joy or peace. He has exhausted himself in the search for joy for himself. Now he begins to widen his horizon and to search where (in the group and in his environment), what he seeks may lie. He awakens to a sense of responsibility to others and begins to seek for happiness in the fulfillment of his obligations to his dependents, his family, friends and all whom he contacts. This new tendency is the beginning of the life of service which leads eventually to a full realization of the significance of group consciousness. H.P.B. has said that a sense of responsibility is the first indication of the awakening of the ego or the Christ principle.

4. Ý muốn làm tròn bổn phận. Ba biến thái đầu tiên của nguyên khí tư duy rốt cuộc đưa nhân loại đang tiến hóa đến trình độ mà động cơ cuộc sống của họ chỉ còn là nhằm hoàn thành thiên chức của mình [174]. Sự khao khát được hiểu biết, được tự do và hạnh phúc đã đưa con người đến tình trạng hoàn toàn bất mãn. Không điều gì khiến y cảm thấy hân hoan hoặc bình an thực sự. Y đã làm đủ mọi cách để tìm kiếm niềm vui cho mình. Nhưng nay y bắt đầu mở rộng tầm nhìn và tìm nơi nào (trong cuộc sống tập thể và trong môi trường chung quanh) khả dĩ có điều mà y tìm kiếm. Trong y bừng lên ý thức trách nhiệm đối với người khác. Y bắt đầu tìm hạnh phúc trong việc hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với những người phụ thuộc, gia đình, bè bạn và tất cả những người mà y gặp gỡ. Khuynh hướng mới này là khởi đầu của cuộc sống phụng sự. Rốt cuộc nó giúp y nhận biết trọn vẹn ý nghĩa của tâm thức tập thể. H.P.B. nói rằng ý thức trách nhiệm là dấu hiệu đầu tiên cho thấy sự bừng tỉnh của chân nhân hay nguyên khí Christ.

5. Sorrow. The greater the refinement of the human vehicle, the greater the response of the nervous system to the pairs of opposites, pain and pleasure. As a man progresses and rises on the ladder of evolution in the human family it becomes apparent that his capacity to appreciate sorrow or joy is greatly increased. This becomes terribly true in the case of an aspirant and of a disciple. His sense of values becomes so acute and his physical vehicle so sensitized that he suffers more than the average man. This serves to drive him forward with increasing activity in his search. His response to outer contacts is ever more rapid and his capacity for pain, physical and emotional, becomes greatly increased. [175] This is apparent in the fifth race and particularly in the fifth subrace in the increasing frequency of suicide. The capacity of the race to suffer is due to the development and refinement of the physical vehicle and to the evolution of the body of feeling, the astral.

5. Đau khổ. Người có các thể càng thanh khiết thì hệ thần kinh của họ càng nhạy cảm với những cặp đối cực, vui sướng và đau khổ. Khi một người càng thăng tiến trên thang tiến hóa trong gia đình nhân loại, thì y ngày càng có khả năng cảm nhận mạnh mẽ niềm vui hay nỗi khổ một cách rõ rệt. Điều này hết sức đúng trong trường hợp của người chí nguyện và người đệ tử. Ý thức về giá trị của y trở nên rất sắc bén và thể xác của y trở nên nhạy cảm đến đỗi y đau khổ nhiều hơn người thường. Sự nhạy cảm này giúp y tiến tới và hoạt động nhiều hơn trong cuộc tìm kiếm của mình. Y đáp ứng với các giao tiếp bên ngoài ngày càng mau lẹ, và ngày càng rất dễ bị đau đớn về thể chất và tình cảm [175]. Điều này thấy rõ trong giống dân thứ năm, và đặc biệt là trong phân chủng thứ năm với tần suất tự sát ngày càng tăng. Sở dĩ giống dân này dễ bị đau khổ là do thể xác của họ trở nên ngày càng thanh bai, tế nhị, và thể tình cảm hay xúc cảm của họ phát triển, tiến hóa nhiều hơn.

6. Fear. As the mental body develops and the modifications of the thinking principle become more rapid, fear and that which it produces begin to demonstrate. This is not the instinctual fear of animals and of the savage races, which is based upon the response of the physical body to physical plane conditions, but the fears of the mind, based upon memory, imagination and anticipation, and the power to visualize. These are difficult to overcome and can only be dominated by the ego or soul itself.

6. Sợ hãi. Khi thể trí phát triển và nguyên khí tư duy biến thái mau lẹ hơn, nỗi sợ hãi do nó sản sinh sẽ lộ rõ. Đây không phải là sự sợ hãi trong bản năng của loài vật và của các giống dân dã man. Vì nỗi sợ đó là do thân xác ứng đáp với những điều kiện của cõi trần. Trong trường hợp này, nỗi sợ hãi của thể trí vốn do ký ức, do sự tưởng tượng, dự kiến, và năng lực hình dung. Đây là tình trạng khó khắc phục, và chỉ có thể được chính chân nhân hay linh hồn chế ngự.

7. Doubt. This is one of the most interesting of the modifications for it concerns causes more than effects. The man who doubts can be described perhaps as doubting himself as an arbiter of his fate, his fellowmen as to their nature and reactions, God, or the first cause as witnessed by the controversies built up around religion and its exponents, nature itself, which doubt urges him on to constant scientific investigation and finally, the mind itself. When he begins to question the capacity of the mind to explain, interpret and comprehend, he has practically exhausted the sum total of his resources in the three worlds.

7. Nghi ngờ. Đây là một trong những biến thái kỳ lạ nhất, vì nó liên quan đến nguyên nhân hơn là hậu quả. Có thể nói người nghi ngờ không hề nghĩ rằng chính y là người quyết định vận mệnh của mình. Y ngờ vực lòng chân thành và phản ứng của người khác. Y nghi ngờ Thượng Đế, hay là nguyên nhân khởi thủy. Tình trạng này nhan nhãn trong các cuộc tranh cãi xoay quanh vấn đề tôn giáo và những người đại diện cho tôn giáo. Y cũng nghi vấn về chính thiên nhiên, khiến y miệt mài khảo cứu khoa học. Cuối cùng, y nghi ngờ đến chính cái trí. Khi y bắt đầu nghi vấn về khả năng diễn giải, lý giải và thấu hiểu của thể trí, thì bấy giờ y đã thực sự vắt cạn toàn bộ các nguồn lực của mình trong tam giới.

The tendency of these seven states of mind, produced through the experience of the man upon the Wheel of Life is to bring him to the point [176] where he feels that physical plane living, sentiency and mental processes have nothing to give and utterly fail to satisfy him. He reaches the stage which Paul refers to when he says “I count all things but loss that I may win Christ.”

Bảy biến thái nói trên của cái trí sản sinh qua kinh nghiệm của con người trên Bánh xe Luân hồi. Chúng có [176] khuynh hướng đưa y đến mức cảm thấy rằng cuộc sống ở cõi trần, các quá trình xúc cảm và sinh hoạt trí não chẳng có mấy ý nghĩa, và hoàn toàn không làm cho y hài mãn. Y đến giai đoạn được Thánh Paul đề cập qua câu nói “Tôi thà mất tất cả để được Đấng Christ.”

The seven stages of illumination have been described by a Hindu teacher as follows:

Một huấn sư Ấn giáo đã mô tả bảy giai đoạn giác ngộ như sau:

1. The stage wherein the chela realizes that he has run the whole gamut of life experience in the three worlds and can say “I have known all that was to be known. Nothing further remains to know.” His place on the ladder is revealed to him. He knows what he has to do. This relates to the first modification of the thinking principle, desire for knowledge.

1. Giai đoạn mà người đệ tử nhận thấy rằng y đã trải qua mọi loại kinh nghiệm sống trong tam giới. Nay y có thể nói “Tôi đã biết tất cả những gì cần biết, và không còn phải tìm hiểu gì thêm.” Y tự thấy được vị trí của mình trên thang tiến hóa. Y biết những điều gì mình cần phải làm. Giai đoạn này liên quan đến biến thái thứ nhất của nguyên khí tư duy, tức là ý muốn hiểu biết.

2. The stage wherein he frees himself from every known limitation, and can say “I have freed myself from my fetters.” This stage is long but results in the attainment of freedom and relates to the second of the modifications dealt with above.

2. Giai đoạn y tự thoát ra khỏi mọi sự hạn chế mà y đã biết. Y có thể nói “Tôi đã tự tháo gỡ những xiềng xích của mình.” Giai đoạn này mất nhiều thời gian, nhưng rốt cuộc y cũng được tự do. Nó liên quan đến biến thái thư hai đã bàn ở trên.

3. The stage wherein the consciousness shifts completely out of the lower personality and becomes the true spiritual consciousness, centered in the real man, the ego or soul. This brings in the consciousness of the Christ nature which is love, peace and truth. He can say now “I have reached my goal. Nothing remains to attract me in the three worlds.” Desire for happiness is satisfied. The third modification is transcended.

3. Giai đoạn tâm thức hoàn toàn thoát ra khỏi phàm tính, và trở thành tâm thức tinh thần đích thực, tập trung vào chân nhân, chân ngã hay linh hồn. Đây là tâm thức với chân tính Christ bao gồm bác ái, bình an và chân lý. Y có thể nói “Tôi đã đến đích. Trong tam giới không còn điều gì hấp dẫn tôi cả.” Ý muốn hạnh phúc đã thỏa mãn. Y vượt cao hơn biến thái thứ ba.

4. The stage wherein he can say with truth “I have fulfilled my dharma, and accomplished my whole duty.” He has worked off karma, and [177] fulfilled the law. Thus he becomes a Master and a wielder of the law. This stage has relation to the fourth modification.

4. Giai đoạn y có thể thực sự nói “Tôi đã hoàn thành thiên chức của mình, và làm tròn nhiệm vụ.” Y đã trả sạch nghiệp quả, và theo đúng định luật. [177] Vì thế, y trở thành vị Chủ nhân và có thể vận dụng định luật. Giai đoạn này liên quan đến biến thái thứ tư.

5. The stage wherein complete control of the mind is achieved and the peer can say “My mind is at rest.” Then and only then, when complete rest is known can the true contemplation and samadhi of the highest kind be known. Sorrow, the fifth modification, is dispelled by the glory of the illumination received. The pairs of opposites are no longer at war.

5. Giai đoạn hành giả hoàn toàn kiểm soát được thể trí. Y có thể nói “Thể trí của tôi yên lặng.” Bấy giờ và chỉ bấy giờ, khi thể trí hoàn toàn yên lặng, y mới có thể biết trạng thái chiêm ngưỡng và samadhi thực sự ở trình độ cao nhất. Đau khổ, là biến thái thứ năm, bị giải tán bởi sự vinh quang của giác ngộ. Các cặp đối cực không còn xung đột.

6. The stage wherein the chela realises that matter or form have no longer any power over him. He can then say “The gunas or qualities of matter in the three worlds no longer attract me; they call forth no response from me.” Fear therefore is eliminated for there is nothing in the disciple which can attract to him evil, death or pain. Thus equally the sixth modification is overcome and realisation of the true nature of divinity and utter bliss takes its place.

6. Giai đoạn người đệ tử thấy mình không còn bị chi phối bởi vật chất hay hình thể. Bấy giờ y có thể nói “Các guna hay đặc tính của vật chất trong tam giới không còn hấp dẫn tôi. Chúng không gợi được sự ứng đáp nào nơi tôi cả.” Thế nên, nỗi sợ hãi tan biến vì không điều gì nơi người đệ tử có thể hấp dẫn sự ác, sự chết hay đau khổ đến với y. Thế là biến thái thứ sáu cũng được khắc phục. Y nhận thức được thiên tính thực sự và ở trong niềm chí phúc trọn vẹn.

7. Full self-realisation is the next and final stage. The initiate can now say, with full conscious knowledge, “I am that I am” and he knows himself as one with the All-Self. Doubt no longer controls. The full light of day or completed illumination takes place and floods the whole being of the seer.

7. Tự thức viên mãn là giai đoạn kế tiếp và cuối cùng. Giờ đây, người điểm đạo đồ có thể nói với sự hiểu biết đầy đủ và hữu thức “Tôi là Chân thần.” Y biết mình là một với Toàn Ngã. Sự nghi ngờ đã tiêu tan. Toàn cuộc sống của người tri kiến thấm nhuần ánh sáng giác ngộ thành tựu viên mãn.

These are the seven stages upon the Path, the seven stations of the cross as the Christian puts it, the seven great initiations and the seven ways to bliss. Now the “Path of the just shineth ever more and more until the perfect day.” [178]

Trên đây là bảy giai đoạn trên Đường Đạo, hay là bảy chặng trên con đường thánh giá, theo lối nói của người Thiên Chúa giáo. Đó là bảy cuộc điểm đạo lớn và là bảy lối tiến đến chân phúc. Nay “Con Đường của người công chính cứ mãi chói rạng cho đến ngày hoàn mãn.” [178]

THE EIGHT MEANS

TÁM PHƯƠNG TIỆN

28. When the means to Yoga have been steadily practised and when impurity has been overcome, enlightenment takes place leading up to full illumination.

28. Khi hành giả chuyên cần thực tập các phương tiện của Yoga, và đã xóa sạch những gì bất tịnh, y được khai ngộ và tiến đến trình độ hoàn toàn giác ngộ.

We now come to the practical part of the book, wherein instruction is given as to the method to pursue if full yoga, union, or at-one-ment is to be achieved. The work might be described as twofold:

Giờ đây chúng ta đến phần thực hành của sách này. Hành giả được trao phương pháp để áp dụng, nếu y muốn thực hành khoa yoga, sự hợp nhất hay thống nhất đến mức thành tựu viên mãn. Có thể chia cố gắng này làm hai phần:

1. The practice of the right means whereby union is brought about,

1. Thực hành các phương tiện đúng đắn để mang lại sự hợp nhất,

2. The discipline of the lower threefold man so that impurity in any of the three bodies is eradicated.

2. Nghiêm trì giới luật đối với phàm nhân và ba hạ thể, sao cho sự bất tịnh trong mỗi thể đều được xóa sạch.

This steadfast application to the twofold work produces two corresponding results, each dependent upon its cause:

Sự chuyên cần áp dụng hai phương diện cố gắng nói trên mang lại hai kết quả tương ứng. mỗi kết quả phụ thuộc vào nguyên nhân của nó:

1. Discrimination becomes possible. The practice of the means, leads the aspirant to a scientific understanding of the distinction existing between the self and the not-self, between spirit and matter. This knowledge is no longer theoretical and that to which the man aspires, but is a fact in the experience of the disciple and one upon which he bases all his subsequent activities.

1. Hành giả có khả năng phân biện. Việc thực hành các phương tiện khiến hành giả có thể thấu hiểu một cách khoa học sự khác biệt giữa chân ngã và phi-ngã, giữa tinh thần và vật chất. Sự hiểu biết này không còn là lý thuyết và là điều mà y ước vọng. Đó là sự kiện thực tế trong kinh nghiệm của người đệ tử, mà dựa vào đó y tiến hành các hoạt động về sau.

2. Discernment takes place. As the purificatory process is carried on, the sheaths or bodies which veil the reality become attenuated and no longer act as thick veils, hiding the soul, and the world wherein the soul normally moves. The aspirant becomes aware of a part of himself, [179] hitherto hidden and unknown. He approaches the heart of the mystery of himself and draws closer to the “Angel of the Presence” which can only be truly seen at initiation. He discerns a new factor and a new world and seeks to make them his own in conscious experience upon the physical plane.

2. Hành giả có khả năng trực thức. Khi việc tinh luyện được tiến hành liên tục, các lớp áo hay các thể vốn che án thực tại nay trở nên trong trẻo dần. Chúng không còn là những lớp màn dày đặc, che giấu linh hồn, và thế giới mà trong đó linh hồn thường xuyên hoạt động. Người chí nguyện ngày càng ý thức được phần ẩn giấu nơi chính mình mà từ trước đến nay y chưa hề biết. [179] Y tiến đến gần trung tâm bí nhiệm nơi chính mình, và tiếp cận với “Đại diện của Chân như.” Điều này chỉ có thể thực sự xảy ra vào lúc điểm đạo. Y trực nhận được một yếu tố mới và một thế giới mới. Rồi bèn tìm cách hoạch đắc chúng trong kinh nghiệm hữu thức của mình ở cõi trần.

It should be noted here that the two causes of revelation, the practice of the eight means to yoga and the purification of the life in the three worlds, deal with the man from the standpoint of the three worlds and bring about (in the man’s physical brain) the power to discriminate between the real and the unreal and to discern the things of the spirit. They cause also certain changes of conditions within the head, reorganize the vital airs and act directly upon the pineal gland and the pituitary body. When these four:

Ở đây cần lưu ý rằng hai nguyên nhân của sự khải thị, việc thực hành tám phương tiện của yoga và sự tinh luyện cuộc sống trong tam giới, vốn liên quan đến phàm nhân đang ở trong đó. Chúng mang lại (trong não bộ của hành giả) năng lực phân biện giữa điều chân, lẽ giả, và trực nhận được những gì về tinh thần. Chúng cũng tạo một số thay đổi điều kiện trong luân xa đầu. Chúng tái tổ chức các luồng sinh khí, và tác động trực tiếp đến tuyến tùng và tuyến yên. Khi bốn điều dưới đây:

1. Practise,

1. Thực hành,

2. Purification,

2. Tinh luyện,

3. Discrimination,

3. Phân biện,

4. Discernment,

4. Trực thức,

are part of the life of the physical plane man, then the spiritual man, the ego or thinker on his own plane attends to his part of the liberating process and the final two stages are brought about from above downwards. This sixfold process is the correspondence upon the Path of Discipleship, of the individualizing process, wherein animal man, the lower quaternary (physical, etheric, astral and lower mental) received that twofold expression of spirit, atma-buddhi, spiritual will and spiritual love, which completed him and made him [180] truly man. The two stages of development which are brought about by the ego within the purified and earnest aspirant, are:

xảy ra trong cuộc sống của phàm nhân ở cõi trần, thì con người tinh thần, tức là chân nhân hay người suy tưởng ở trên cảnh giới của mình cũng tham gia vào tiến trình giải thoát. Bấy giờ, hai giai đoạn cuối được thực hiện từ trên xuống. Tiến trình gồm sáu giai đoạn này là sự tương ứng trên Con Đường Đệ tử của quá trình biệt lập ngã tính. Thuở ấy, con người thú gồm có bốn hạ thể (thể xác, thể dĩ thái, thể cảm dục và hạ trí) nhận hai sự biểu lộ của tinh thần, tức là atma- buddhi, hay ý chí tinh thần và bác ái tinh thần. Cả hai giúp y đủ điều kiện để thành người thực sự. [180] Nay, hai giai đoạn phát triển mà chân nhân mang lại bên trong người chí nguyện thuần thành đã tinh luyện, là:

1. Enlightenment. The light in the head, which is at first but a spark, is fanned to a flame which illumines all things and is fed constantly from above. This is progressive (see previous sutra), and is dependent upon steadfast practise, meditation and earnest service.

1. Khai ngộ. Ánh sáng bên trong đầu, khởi thủy chỉ là một tia sáng, thì nay được thổi bừng lên thành ngọn lửa. Nó soi sáng mọi sự và được liên tục nuôi dưỡng từ bên trên. Điều này tăng tiến liên tục (xem câu trước), và tùy theo mức thực hành, tham thiền chuyên cần, và phụng sự nhiệt thành đến đâu.

2. Illumination The gradually increasing downpour of fiery energy increases steadily the “light in the head,” or the effulgence found in the brain in the neighborhood of the pineal gland. This is to the little system of the threefold man in physical manifestation what the physical sun is to the solar system. This light becomes eventually a blaze of glory and the man becomes a “son of light” or a “sun of righteousness.” Such were the Buddha, the Christ, and all the great Ones who have attained.

2. Giác ngộ. Năng lượng bừng cháy ngày càng tuôn đổ nhiều hơn, liên tục tăng cường “ánh sáng bên trong đầu”. Đó là sự chói rạng trong não bộ, ở gần tuyến tùng. Đối với phàm nhân tam phân trong cuộc biểu hiện ở cõi trần, ánh sáng này có vai trò giống như ngôi mặt trời vật chất đối với thái dương hệ. Rốt cuộc ánh sáng này bừng chiếu huy hoàng và hành giả trở thành một “người con của ánh sáng” hay là một “ngôi mặt trời công chính.” Đó là điều mà Đức Phật, Đức Christ và các Đấng Cao cả đã thành đạt.

29. The eight means of yoga are: the Commandments or Yama, the Rules or Nijama, posture or Asana, right control of life-force or Pranayama, abstraction or Pratyahara, attention or Dharana, meditation or Dhyana, and contemplation or Samadhi.

29. Tám phương tiện của yoga là: các Điều răn hay Yama, các Qui luật hay Nijama, tư thế hay asana, kiểm soát sinh lực đúng cách hay Pranayama, trừu tượng hóa hay Pratyahara, chú tâm hay Dharana, tham thiền hay Dhyana, và chiêm ngưỡng hay Samadhi.

It will be noted that these means or practices are apparently simple, but it must be carefully remembered that they do not refer to anything accomplished on one or other plane in some one body, but to the simultaneous activity and practice of these methods in all three bodies at once, [181] so that the entire threefold lower man practices the means as they refer to the physical, the astral, and the mental vehicles. This is often forgotten. Therefore, in the study of these various means to yoga or union, we must consider them as they apply to the physical man, then to the emotional man and then to the mental man. The yogi, for instance, has to understand the significance of right breathing or of posture as they relate to the triple aligned and coordinated lower man, remembering that it is only as the lower man forms a coherent rhythmic instrument that it becomes possible for the ego to enlighten and illuminate him. The practise of breathing exercises, for instance, has led the aspirant frequently to concentrate upon the physical apparatus of breath to the exclusion of the analogous practice of rhythmic control of the emotional life.

Cần lưu ý rằng các phương tiện hay những cách thực hành nói trên đều có vẻ đơn giản. Thế nhưng điều nên nhớ là chúng không chỉ về bất cứ điều gì được hoàn tất trên một cảnh giới trong một thể nào đó, mà chỉ về sự hoạt động đồng thời và thực hành các phương pháp này trong cả ba thể cùng một lúc. Vì thế, trọn cả phàm nhân tam phân đều thực hành các phương tiện vì chúng áp dụng cả cho thể xác, thể cảm dục và thể trí. [181] Đây là điều người ta thường hay quên. Thế nên, khi nghiên cứu các phương tiện khác nhau nói trên để thành tựu khoa yoga hay sự hợp nhất, chúng ta phải xem như chúng áp dụng cho hành giả ở cõi trần, ở cấp tình cảm, và ở cấp trí tuệ. Ví dụ như, nhà yogi phải hiểu ý nghĩa của việc thở đúng hoặc tư thế đúng với tính cách chúng liên quan đến cả phàm nhân gồm ba thể đã phối hợp và chỉnh hợp. Y phải nhớ rằng chỉ khi nào phàm nhân trở thành một khí cụ có tiết điệu phối kết chặt chẽ thì bấy giờ chân nhân mới có thể soi sáng và giúp phàm nhân khai ngộ. Ví dụ như khi thực hành những bài tập hơi thở, hành giả thường tập trung vào cơ quan hô hấp của thân xác, mà không hề thực hành theo cách tương tự để kiểm soát tiết điệu sinh hoạt tình cảm.

It may be of use here if (before we take up the consideration of the means, one by one) we tabulated them carefully, giving their synonyms where possible:

Trước khi lần lượt xem xét từng phương tiện, thiết tưởng nên liệt kê chi tiết về các phương tiện, và đưa ra những từ đồng nghĩa, khi có thể:

Means I.

Phương tiện I.

The Commandments. Yama. Self-control or forbearance. Restraint. Abstention from wrong acts. These are five in number and relate to the relation of the disciple (or chela) to others and to the outside world.

Các Giới răn. Yama. Sự tự chủ hay tự kiềm chế. Tự chế ngự. Chư ác mạc tác, đừng làm những điều dữ. Có năm giới răn, liên quan đến mối quan hệ của người đệ tử (hay là môn sinh) với tha nhân và ngoại giới.

Means II

Phương tiện II.

The Rules. Nijama. Right observances. These are likewise five in number and are frequently [182] called the “religious observances” because they relate to the interior life of the disciple and to that tie, the sutratma or link which relates him to God, or to his Father in Heaven. These two, the five Commandments and the five Rules are the Hindu correspondence to the ten Commandments of the Bible and cover the daily life of the aspirant, as it affects those around him, and his own internal reactions.

Các Qui luật. Nijama. Chúng thiện phụng hành, hãy làm những điều lành. Phương tiện này cũng gồm năm qui luật, và chúng thường được gọi là “nghiêm trì giới luật tôn giáo.” [182] Lý do là vì chúng liên quan đến đời sống nội tâm của người đệ tử, cũng như liên quan đến tuyến sutratma hay là đường liên kết y với Thượng Đế, tức là Cha của y ở trên Trời. Hai phương tiện nói trên, năm Giới và năm Qui luật là các giới luật trong Ấn giáo tương ứng với mười Điều răn trong Kinh Thánh. Chúng bao gồm cuộc sống thường ngày của người chí nguyện, khi cuộc sống ấy ảnh hưởng đến những người chung quanh y, và các phản ứng nội tâm của chính y.

Means III.

Phương tiện III.

Posture. Asana. Right Poise. Correct attitude. Position. This third means concerns the physical attitude of the disciple when in meditation, his emotional attitude towards his environment or his group, and his mental attitude towards ideas, thought currents and abstract concepts. Finally, the practice of this means coordinates and perfects the lower threefold man so that the three sheaths can form a perfect channel for the expression or manifestation of the life of the spirit.

Tư thế. Asana. Sự thăng bằng đúng đắn. Thái độ đúng. Vị thế. Phương tiện thứ ba này liên quan đến thái độ thân xác của người đệ tử khi tham thiền. Nó chỉ về thái độ tình cảm của y đối với môi trường sống chung quanh hay là nhóm của mình. Nó cũng áp dụng cho thái độ trong trí của y đối

Means IV.

Phương tiện IV.

Right control of the life-force. Pranayama. Suppression of the breath. Regulation of the breath. This refers to the control, regulation and suppression of the vital airs, the breath and the forces or shaktis of the body. It leads in reality to the organization of the vital body or the etheric body so that the life current or forces, emanating from the ego or spiritual man on his own plane, [183] can be correctly transmitted to the physical man in objective manifestation.

Kiểm soát sinh lực đúng cách. Pranayama. Chế ngự hơi thở. Điều hòa hơi thở. Phương tiện này nhằm kiểm soát, điều hòa và chế ngự các dòng sinh khí, hơi thở và các mãnh lực hay shakti trong cơ thể. Phương tiện này thực sự giúp tổ chức thể sinh lực hay thể dĩ thái. [183] Nhờ đó mà các dòng sinh lực hay mãnh lực, phóng phát từ chân ngã hay con người tinh thần trên cảnh giới của mình, có thể được truyền chuyển đúng đến phàm nhân đang biểu hiện ở ngoại giới.

Means V.

Phương tiện V.

Abstraction. Pratyahara. Right withdrawal. Restraint. Withdrawal of the senses. Here we get back of the physical and the etheric bodies, to the emotional body, the seat of the desires, of sensory perception and of feeling. Here can be noted the orderly method which is followed in the pursuit of yoga or union. The physical plane life, external and internal is attended to; the correct attitude to life in its triple manifestation is cultivated. The etheric body is organized and controlled and the astral body is re-oriented, for the desire nature is subdued and the real man withdraws himself gradually from all sense contacts. The next two means relate to the mental body and the final one to the real man or thinker.

Trừu tượng hóa. Pratyahara. Rút ý thức đúng cách. Kiềm chế. Rút ý thức khỏi các giác quan. Với phương tiện này, chúng ta rút tâm thức ra khỏi thể xác và thể dĩ thái, vào thể tình cảm. Nó là cơ sở của các ham muốn, cảm nhận giác quan và những cảm xúc. Ở đây cần lưu ý phương pháp có trình tự trong khi thực hành khoa yoga hay hợp nhất. Cuộc sống ở cõi trần, gồm cấp ngoại tại và nội tại, được trông nom thận trọng. Hành giả có thái độ đúng về ba phương diện của cuộc sống này. Thể dĩ thái được tổ chức, kiểm soát, và thể cảm dục được tái định hướng. Khi bản chất dục vọng được chế ngự, chân nhân từ từ rút ý thức ra khỏi toàn bộ các giao tiếp giác quan. Hai phương tiện tiếp theo liên quan đến thể trí; và phương tiện cuối cùng liên quan đến chân nhân hay là người suy tưởng.

Means VI.

Phương tiện VI.

Attention. Dharana. Concentration. Fixation of the mind. Here the instrument of the Thinker, the Real Man, is brought under this control. The sixth sense is coordinated, understood, focussed and used.

Chú tâm. Dharana. Tập trung. Định trí. Phương tiện này giúp Chân nhân, Người suy tưởng kiểm soát khí cụ của mình. Giác quan thứ sáu được điều hợp, hiểu rõ, tập trung và sử dụng.

Means VII.

Phương tiện VII.

Meditation. Dhyana. The capacity of the thinker to use the mind as desired and to transmit to the brain, higher thoughts, abstract ideas, and idealistic concepts. This means concerns higher and lower mind. [184]

Tham thiền. Dhyana. Năng lực của người suy tưởng sử dụng thể trí theo ý muốn và truyền đến não bộ những tư tưởng thanh cao, các ý tưởng trừu tượng, và những khái niệm lý tưởng. Phương tiện này liên quan đến thượng trí và hạ trí. [184]

Means VIII.

Phương tiện VIII.

Contemplation. Samadhi. This relates to the ego or real man and concerns the realm of the soul. The spiritual man contemplates, studies or meditates upon the world of causes, upon the “things of God.” He then, utilizing his controlled instrument, the mind (controlled through the practise of concentration and meditation) transmits to the physical brain, via the sutratma or thread which passes down through the three sheaths to the brain, that which the soul knows, sees and understands. This produces full illumination.

Chiêm ngưỡng. Samadhi hay nhập định. Phương tiện này liên quan đến chân ngã hay con người thật, và lĩnh vực của linh hồn. Con người tinh thần chiêm ngưỡng, nghiên cứu hay tham thiền về thế giới của các nguyên nhân, và “những điều của Thượng Đế.” Sau đó, y sử dụng cái khí cụ của mình là thể trí (đã được chế ngự qua thực hành tập trung và tham thiền). Nó được dùng để truyền đến não bộ, qua sutratma là tuyến sinh mệnh xuyên qua ba thể đến não bộ, những gì mà linh hồn thấy, biết và hiểu. Phương tiện này giúp hành giả được giác ngộ viên mãn.

MEANS I. THE COMMANDMENTS

PHƯƠNG TIỆN I. CÁC GIỚI RĂN

30. Harmlessness, truth to all beings, abstention from theft, from incontinence and from avarice, constitute yama or the five commandments.

30. Không gây tổn hại, chân thật với cả chúng sinh, không trộm cắp, không buông lung tình dục và không tham lam, là Yama hay năm giới răn.

These five commandments are simple and clear and yet, if practised, would make a man perfect in his relationships to other men, to supermen and to the subhuman realms. The very first command to be harmless is in reality a summation of the others. These commandments are curiously complete and cover the triple nature; in studying all these means we shall note their relation to one or other part of the lower threefold manifestation of the ego.

Năm giới răn này có vẻ rõ ràng và đơn giản. Thế nhưng, nếu được thực hiện đúng, chúng sẽ giúp hành giả có những liên giao tốt đẹp với tha nhân, với các bậc siêu nhân và với các giới tiến hóa thấp kém hơn nhân loại. Chính giới răn thứ nhất là không gây tổn hại vốn thực tế bao gồm các giới răn kia. Các giới răn này thật là đầy đủ và gồm cả ba khía cạnh của phàm tính. Khi nghiên cứu tất cả các phương tiện này, chúng ta sẽ thấy chúng lần lượt liên quan đến một trong các thể biểu hiện ở hạ giới của chân nhân.

I. Physical Nature.

I. Đặc tính Thân xác.

1. Harmlessness. This covers a man’s physical acts as they relate to all forms of divine manifestation [185] and concerns specifically his force nature or the energy which he expresses through his physical plane activities. He hurts no one, and injures nobody.

1. Không gây tổn hại. Giới răn này bao gồm các hành động của con người ở cõi trần khi chúng liên quan đến tất cả những hình thể biểu hiện thiêng liêng. [185] Chúng đặc biệt liên quan đến bản chất mãnh lực hay năng lượng được y phát biểu qua những hoạt động của mình ở cõi trần. Y không hại ai, và không làm tổn thương bất cứ người nào hay vật nào.

2. Truth. This concerns primarily his use of speech and of the organs of sound, and relates to “truth in the inmost part” so that truth in externality becomes possible. This is a large subject, and deals with the formulation of a man’s belief regarding God, people, things and forms through the medium of the tongue and voice. This is covered in the aphorism in Light on the Path. “Before the voice can speak in the presence of the Master it must have lost the power to wound.”

2. Chân thật. Giới răn này chính yếu liên quan đến việc y dùng lời nói của mình và cơ quan phát ra âm thanh. Nó liên quan đến sự “chân thật trong tận thâm tâm” để y có thể sống chân thật ở bên ngoài. Đây là một chủ đề rộng lớn, trình bày niềm tin của mỗi người về Thượng Đế, con người, các sự vật và hình thể, qua trung gian của cái lưỡi và tiếng nói. Đây là hàm nghĩa của một câu châm ngôn trong Ánh sáng trên Đường Đạo. “Trước khi được nói trước Chân sư, lưỡi phải mất năng lực làm tổn thương kẻ khác.”

3. Abstention from theft. The disciple is precise and accurate in all his affairs and appropriates nothing which is not rightly his. This is a large concept covering more than the fact of actual physical appropriation of others’ possessions.

3. Không trộm cắp. Người đệ tử ứng xử minh bạch và chính xác trong tất cả các công việc của mình, và không chiếm dụng bất cứ sự vật gì không đúng là của mình. Đây là một khái niệm rộng lớn bao gồm nhiều hơn là việc thực tế chiếm dụng các sở hữu vật chất của người khác.

II. Astral Nature.

II. Đặc tính Cảm dục.

4. Abstention from incontinence. This is literally desirelessness and governs the out-going tendencies to that which is not the self, which finds physical plane expression in the relation between the sexes. It must be remembered here, however, that this expression is regarded by the occult student as only one form which the out-going impulses take, and a form which allies a man closely with the animal kingdom. Any impulse which concerns the forms and the real man [186] and which tends to link him to a form and to the physical plane is regarded as a, form of incontinence. There is physical plane incontinence and this should have been left behind by the disciple long ago. But there are also many tendencies towards pleasure seeking with consequent satisfaction of the desire nature and this, to the true aspirant, is likewise regarded as incontinence.

4. Không buông lung tình dục. Đây thực sự là hạnh vô dục và chi phối các khuynh hướng quay ra ngoài, đến với những gì không phải là chân ngã. Nó biểu lộ ở cõi trần thành mối liên hệ giữa các giới tính. Tuy nhiên, ở đây cần lưu ý rằng người môn sinh huyền bí xem sự biểu lộ này chỉ là một dạng của các thôi thúc hướng ngoại. [186] Đó là một dạng liên kết chặt chẽ con người với giới loài vật. Bất cứ sự thôi thúc nào liên quan đến các hình thể và chân nhân, và có khuynh hướng nối kết chân nhân với một hình thể và với cõi trần, đều được xem là một dạng buông lung tình dục. Có sự buông lung tình dục ở cõi trần mà lẽ ra người đệ tử đã từ bỏ điều này từ lâu. Thế nhưng cũng có nhiều khuynh hướng tìm kiếm lạc thú với hậu quả thỏa mãn bản chất dục vọng, mà người chí nguyện chân chính vẫn xem là buông lung tình dục.

III. Mental Nature.

III. Đặc tính Thể trí

5. Abstention from avarice. This deals with the sin of covetousness which is literally theft upon the mental plane. The sin of avarice may lead to any number of physical plane sins and is very powerful. It concerns mental force and is a generic term covering those potent longings which have their seat not only in the emotional or kamic (desire) body, but in the mental body also. This commandment to abstain from avarice is covered by St. Paul when he says “I have learned in whatsoever state I am, therewith to be content.” That state has to be attained before the mind can be so quieted that the things of the soul can find entrance.

5. Không tham lam. Đây là sự ham muốn mà thực chất là tội trộm cắp trên cõi trí. Sự tham lam vốn rất mạnh mẽ và có thể dẫn đến bất cứ tội lỗi nào ở cõi trần. Nó liên quan đến sức mạnh của trí năng, và là thuật ngữ gồm chung các khao khát mãnh liệt không chỉ bắt nguồn từ thể tình cảm hay dục vọng, mà còn có trong thể trí. Giới răn không tham lam này được Thánh Paul đề cập đến khi ông nói “Tôi đã học được cách hài mãn dù ở trong bất cứ tình trạng nào.” Phải đạt đến trạng thái vừa kể trước khi thể trí có thể yên lặng đến mức đón nhận được ảnh hưởng từ linh hồn.

31. Yama (or the five commandments) constitutes the universal duty and is irrespective of race, place, time or emergency.

31. Yama (hay năm giới răn) là bổn phận chung của mọi người, dù họ thuộc giống dân nào, đang ở đâu, vào thời gian hay tình trạng khẩn trương thế nào.

This sutra makes clear the universality of certain requirements, and by a study of these five commandments which form the basis of what the Buddhist calls “right conduct,” it will be seen [187] that they form the basis of all true law and that their infringement constitutes lawlessness. The word translated duty or obligation, could well be expressed by that comprehensive term dharma in respect to others. Dharma means literally the proper working out of one’s obligations (or karma) in the place, surroundings and environment where fate has put one. Certain governing factors in conduct must be observed and no latitude is permitted in these respects no matter what one’s nationality, no matter what the locality in which one finds oneself, and no matter what age one may be or what emergency may arise. These are the five immutable laws governing human conduct and when they are followed by all the sons of men, the full significance of the term “peace to all beings” will be comprehended.

Câu kinh này nêu rõ tính phổ biến của một số yêu cầu. Năm giới răn này là cơ sở của điều mà người Phật tử gọi là “chánh hạnh.” [187] Người ta sẽ thấy chúng là cơ sở của tất cả các luật đúng thực, và vi phạm các giới răn này là phi pháp. Những từ như là bổn phận hay nghĩa vụ có thể được phát biểu thích hợp khi dùng thuật ngữ dharma đối với những người khác. Dharma có nghĩa đen là hoàn thành các nghĩa vụ (hay là nghiệp quả) của mình ở nơi chốn, trong hoàn cảnh và môi trường sống mà vận mệnh đã đặt để cho mình. Cần tuân thủ một số yếu tố chi phối cách hành xử và không được phóng túng trong các phương diện vừa kể. Điều này vẫn áp dụng dù một người có quốc tịch nào, đang ở địa phương nào, già hay trẻ, và ở trong tình trạng khẩn trương đến đâu. Đây là năm luật bất di bất dịch chi phối cách hành xử của con người. Khi chúng được mọi người theo đúng, thì chúng ta sẽ hiểu được trọn vẹn ý nghĩa của câu “vạn vật thái bình.”

MEANS II. THE RULES

PHƯƠNG TIỆN II. CÁC QUI LUẬT

32. Internal and external purification, contentment, fiery aspiration, spiritual reading and devotion to Ishvara constitutes nijama (or the five rules).

32. Tinh luyện bên trong và bên ngoài, an vui, nguyện vọng bừng cháy, thấu hiểu tinh thần và sùng kính Ishvara là Nijama (hay là năm qui luật).

As said above, these five rules govern the life of the lower personal self and form the basis of character. The yoga practices which so much interest the western thinker and aspirant, and which lure him on with their apparent ease of accomplishment and richness of reward (such as psychic unfoldment) are not permitted by the true guru or teacher until yama or nijama have [188] been established as controlling factors in the daily life of the disciple. The commandments and the rules must first be kept, and when his outer conduct to his fellowmen and his inner discipline of life is brought into line with these requirements, then he can safely proceed with the forms and rituals of practical yoga, but not till then.

Như đã nêu trên, năm qui luật này chi phối cuộc sống của phàm ngã và là cơ sở cho đức hạnh. Có những lối thực hành yoga được nhà tư tưởng và người tìm đạo Tây phương quan tâm. Chúng cám dỗ y vì có vẻ dễ thành công cùng với phần thưởng dồi dào (như sự khai mở thần thông). Tuy nhiên, vị tôn sư hay huấn sư chân chính không hề cho phép áp dụng những lối tập nói trên nếu người đệ tử chưa thực hành Yama hoặc Nijama đến mức chúng thành những yếu tố chi phối cuộc sống thường ngày của y. Trước hết, cần tuân hành các [188] giới răn và các qui luật. Chỉ khi, và chỉ đến khi cách hành xử của y ở bên ngoài đối với những người chung quanh, và giới luật đời sống nội tâm của y theo đúng các yêu cầu nói trên, thì bấy giờ y mới có thể an toàn tiến hành các thể thức và nghi thức thực hành yoga.

It is the failure to recognize this that leads to so much of the trouble among students of yoga in the west. There is no better basis for the work of Eastern occultism than strict adherence to the requirements laid down by the Master of all the Masters in the Sermon on the Mount, and the self-disciplined Christian, pledged to purity of life and unselfish service, can take up the practise of yoga much more safely than his more worldly and selfish yet intellectual brother. He will not run the risks that his unprepared brother takes.

Chính vì không nhận thức được điều này, mà các môn sinh yoga ở phương Tây đã gặp phải quá nhiều nỗi khó khăn. Không cơ sở nào tốt cho việc thực hành huyền bí học Đông phương hơn là hoàn toàn theo đúng các yêu cầu được vị Sư phụ của các Chân sư đề ra trong Bài giảng trên Núi. Vì thế, người Thiên Chúa giáo tự nghiêm trì giới luật, nguyện sống cuộc đời thanh khiết và phụng sự vô kỷ, có thể bắt đầu thực hành yoga một cách an toàn rất nhiều hơn là một người anh em khác tuy có tri thức nhưng còn vị kỷ và sống trần tục hơn. Y sẽ không lâm vào các nguy cơ mà người anh em kia gặp phải, do thiếu chuẩn bị.

The words “internal and external purity” relate to the three sheaths in which the self is veiled and must be interpreted in a dual sense. Every sheath has its densest and most tangible form and this must be kept clean, for there is a sense in which the astral and mental bodies can be kept cleansed from impurities coming to them from their environment, just as the physical body must be kept cleansed from similar impurities. The subtler matters of those bodies must be kept equally cleansed and this is the basis of that study of magnetic purity which is the cause of so many observances in the East which seem inexplicable to the Westerner. A shadow cast upon food by [189] a foreigner produces impure conditions; this is based upon the belief that certain types of force emanations produce impure conditions and though the method of counteracting these conditions may savour of dead letter ritual yet the thought back of the observance remains still the truth. So little is as yet known about force emanations from the human being, or acting upon the human mechanism, that what may be called “scientific purification” is as yet in its infancy.

Nhóm từ “thanh khiết bên trong và bên ngoài” chỉ về ba hạ thể đang che án chân ngã, và phải được diễn giải theo hai ý nghĩa. Mỗi thể đều có dạng hữu hình và thô đặc nhất, và dạng này phải được giữ cho sạch sẽ. Vì có một ý nghĩa là các thể cảm dục và thể trí có thể được giữ cho sạch sẽ, tránh khỏi những gì không thanh khiết đến với chúng từ môi trường chung quanh. Điều này cũng giống như phải giữ cho thân xác khỏi bị vấy bẩn theo cách tương tự. Ngoài ra, cũng phải giữ cho những chất liệu tinh vi trong các thể nói trên được hoàn toàn trong sạch. Đây là cơ sở của việc nghiên cứu sự thanh khiết về từ điện, vốn là nguyên nhân khiến phải tuân thủ quá nhiều điều ở phương Đông mà chừng như người Tây phương không thể hiểu. Cái bóng của một người nước ngoài phủ lên trên thức ăn [189] cũng khiến thực phẩm đó trở nên bất tịnh. Đây là niềm tin cho rằng một số loại lực phát ra vốn gây nên tình trạng bất tịnh. Dù phương pháp hóa giải những tình trạng vừa kể có vẻ là loại nghi thức lỗi thời, thế nhưng cái ý tưởng khiến người ta thực hành phương pháp đó thì vẫn đúng thực. Hiện nay hãy còn quá ít kiến thức về các phóng phát mãnh lực từ con người, hoặc tác động lên cơ thể con người. Do đó, phương pháp được gọi là “thanh luyện một cách khoa học” vẫn còn trong giai đoạn phôi thai.

Contentment is productive of conditions wherein the mind is at rest; it is based upon the recognition of the laws governing life and primarily the law of karma. It produces a state of mind wherein all conditions are regarded as correct and just, and as those in which the aspirant can best work out his problem and achieve the goal for any specific life. This does not entail a settling down and an acquiescence producing inertia, but a recognition of present assets, an availing oneself of one’s opportunities and letting them form a background and a basis for all future progress. When this is done rightly the three remaining rules can be more easily kept.

Sự an vui tạo điều kiện cho thể trí nghỉ ngơi, ổn định. Chúng ta thấy an vui khi nhận thức được các định luật chi phối cuộc sống, chính yếu là luật nghiệp quả. Đây là trạng thái của thể trí khi nó thấy rằng mọi điều kiện đều đúng đắn, mà trong đó người chí nguyện có thể giải quyết vấn đề của mình và đạt mục tiêu cho một kiếp sống. Điều này không hẳn là một sự trầm lắng và nhu thuận tạo nên tình trạng trì trệ. Đó là nhận thức được những lợi thế trong hiện tại và tận dụng các cơ hội sẵn có, dùng chúng làm nền tảng và cơ sở cho các bước tiến tương lai. Khi thực hiện đúng điều này, thì có thể dễ dàng áp dụng ba qui tắc còn lại.

Fiery aspiration will be dealt with more fully in the next book, but it is well to point out here that this quality of “going forth” towards the ideal or of straining towards the objective must be so profound in the aspirant to yoga that no difficulties can turn him back. Only when this quality has been developed and proved and when it is found that no problem, no darkness and no [190] time element can hinder, is a man permitted to become the disciple of some Master. Fiery effort, steady persistent longing and enduring faithfulness to the ideal visioned are the sine qua non of discipleship. These characteristics must be found in all three bodies, leading to the constant disciplining of the physical vehicle, the steady orientation of the emotional nature and the mental attitude which enables a man to “count all things but loss” if he can only arrive at his goal.

Nguyện vọng bừng cháy sẽ được bàn đầy đủ hơn trong quyển sau. Thế nhưng, ở đây cũng nên nói rằng sự “tinh tấn” hướng đến lý tưởng, hoặc tự rèn luyện nhằm đạt mục tiêu phải thật sâu xa trong tâm người chí nguyện thực hành yoga đến mức không khó khăn, trở ngại nào có thể khiến y lùi bước. Chỉ khi phẩm tính này đã phát triển đến mức tốt đẹp, và khi hành giả đã tỏ ra rằng không vấn đề khó khăn nào, không sự tối tăm  [190] hay thời gian lâu dài nào ngăn trở được y, thì bấy giờ y mới được phép trở thành đệ tử của một vị Chân sư. Sự cố gắng mãnh liệt, lòng thiết tha kiên định và liên tục, và sự trung thành không dời đổi đối với lý tưởng thấy được qua thị kiến tinh thần, là điều kiện thiết yếu của con đường đệ tử. Các đặc tính này phải có trong cả ba hạ thể, để thể xác luôn luôn nghiêm trì giới luật, thể tình cảm và thể trí thường xuyên có định hướng tinh thần. Vì thế, hành giả nhất tâm tiến đến mục tiêu “bằng mọi giá.”

Spiritual reading will be found to concern the development of the sense of subjective realities. It is fostered by study as understood in the physical sense, and by the endeavour to arrive at the thoughts which words convey. It is developed by a close scrutiny of the causes which lie back of all desires, aspirations and feelings, and thus is related to the desire or astral plane. It deals with the reading of symbols or geometrical forms ensouling an idea or thought and this concerns the mental plane. This will be dealt with later in Book III.

Sự thấu hiểu tinh thần liên quan đến việc phát triển ý thức về các thực tại nội tâm. Nó được bồi dưỡng bằng cách học hỏi những vấn đề thông thường, và bằng cách thấu đáo các ý tưởng ẩn trong ngôn từ. Nó được phát triển bằng cách thận trọng xem xét các nguyên nhân ẩn trong mọi sự ham muốn, khát vọng, và xúc cảm. Vì thế, nó liên quan đến dục vọng hay cõi cảm dục. Nó cũng tìm cách thấu hiểu các biểu tượng hay dạng hình học có hàm chứa một ý tưởng hay tư tưởng. Vì thế, nó liên quan đến cõi trí. Điều này sẽ được bàn sau, trong Quyển III.

Devotion to Ishvara may be briefly stated to constitute the attitude of the lower threefold self to the service of the ego, the inner ruler, the God or Christ within. This will be triple in its manifestation, bringing that lower personal self into a life of obedience to the Master within the heart; eventually bringing the aspirant into the group of some adept or spiritual teacher, and leading him also into devoted service to Ishvara or the divine Self as found in the hearts of all men and back of all forms of divine manifestation. [191]

Có thể nói vắn gọn sự Sùng kính Ishvara là thái độ của phàm ngã và ba hạ thể nhằm phục vụ chân nhân, vị chủ nhân, là vị Thượng Đế hay Đấng Christ ở nội tâm. Sự sùng kính này gồm ba phương diện, khiến cuộc sống phàm nhân luôn tuân phục vị Thầy ở nội tâm. Rốt cuộc, nó đưa người chí nguyện đến với các bậc trọn lành hay các huấn sư tinh thần. Nó cũng giúp y hiến mình phụng sự Ishvara hay Chân ngã thiêng liêng ẩn trong tâm của mọi người, và mọi hình thể biểu hiện thiêng liêng. [191]

33. When thoughts which are contrary to yoga are present there should be the cultivation of their opposite.

33. Khi có những tư tưởng trái với việc thực hành yoga, thì cần vun bồi những tư tưởng ngược lại.

The translation by Johnston gives the same idea in very beautiful words and the method is adequately brought out. He says:

Bản dịch của Johnston đưa ra cùng ý tưởng này với lời lẽ rất hay, trình bày đầy đủ phương pháp. Ông nói:

“When transgressions hinder, the weight of the imagination should be thrown upon the opposite side.”

“Khi có những vi phạm gây trở ngại, thì trí tưởng tượng của hành giả cần theo chiều hướng ngược lại.”

The entire science of the balancing of the pairs of opposites is given in these two translations, neither one being fully complete without the other. It is often difficult to translate the ancient Sanskrit terms by one word or phrase, for in that language a term will stand for an entire idea and will require several phrases in order to convey the true meaning in the more limited English tongue.

Toàn bộ phương cách cân bằng các cặp đối cực được trình bày trong hai bản dịch này. Cả hai đều cần bổ sung lẫn nhau. Thường thì khó chuyển dịch các thuật ngữ Bắc Phạn cổ xưa chỉ bằng một từ hay một cụm từ. Lý do là vì trong cổ ngữ này một thuật ngữ hàm chứa trọn cả một ý tưởng. Vì thế, cần vài ba cụm từ mới chuyển đạt được thực nghĩa của nó bằng tiếng Anh vốn có tính hạn chế hơn.

Certain basic concepts are embodied in this sutra and for the sake of clarity might be tabulated as follows:

Câu kinh này bao gồm một số khái niệm cơ bản, có thể nêu rõ như sau:

1. As a man thinketh so is he. That which works out into physical objectivity is always a thought, and according to that thought or idea so will be the form and life-purpose.

1. Người nào suy nghĩ điều gì thì trở thành điều đó. Những gì biểu hiện ra ngoại cảnh ở cõi trần bao giờ cũng bắt nguồn từ một tư tưởng. Tùy theo tư tưởng hay ý tưởng đó mà hình thể được tạo thành cùng với mục đích sống của nó sẽ thế nào.

2. Thoughts are of two kinds; those tending to form-building, to limitation, to physical plane expression; those tending away from the lower three planes and therefore from the form aspect as we know it in the three worlds, and leading to union (yoga or at-one-ment) with the soul, the Christ aspect. [192]

2. Tư tưởng có hai loại. Những tư tưởng có khuynh hướng kiến tạo nên hình thể, có tính hạn chế và biểu lộ ở cõi trần. Những tư tưởng khác có khuynh hướng rời khỏi ba cõi thấp và vì thế mà rời khỏi phương diện hình thể như chúng ta biết trong tam giới. Chúng đưa đến sự hợp nhất (tức là yoga hay thống nhất) với linh hồn, hay trạng thái Christ. [192]

3. When it is found that the thoughts habitually cultivated are productive of astral and physical reactions and results it must be realized that they are inimical to yoga; they hinder the at-one-ing process.

3. Khi thấy những tư tưởng mà mình thường nuôi dưỡng có khuynh hướng tạo nên các phản ứng và kết quả ở cõi cảm dục và cõi hồng trần, thì hành giả biết rằng chúng trái với khoa yoga và gây trở ngại cho tiến trình hợp nhất.

4. Contrary thoughts to these must then be cultivated; these can be easily ascertained for they will be the direct opposite of the inhibiting thoughts.

4. Bấy giờ, cần bồi dưỡng những tư tưởng ngược lại với các tư tưởng nói trên. Cũng dễ xác định, vì chúng hoàn toàn ngược chiều với các các tư tưởng ức chế kể trên.

5. The cultivation of the thoughts which will tend to yoga and lead a man to a knowledge of his real self and consequent union with that self involves a triple process:

5. Việc bồi dưỡng các tư tưởng đúng hướng yoga và giúp hành giả biết được chân ngã của mình, rồi nhờ đó mà hợp nhất với chân ngã, là một tiến trình gồm ba phần:

a. The new thought concept, definitely formulated and found to be contrary to the old thought current, must be ascertained and considered.

a. Cần xác định và xem xét kỹ khái niệm về tư tưởng mới, được xác định rõ rệt, ngược lại với tư tưởng cũ. 

b. The use of the imagination comes next in order to bring the thought into manifestation. This brings in the realm of desire and consequently the astral or emotional body is affected.

b. Kế đến là dùng trí tưởng tượng để làm cho tư tưởng mới biểu hiện. Cố gắng này đưa nó vào lĩnh vực của ý muốn để ảnh hưởng đến thể cảm dục hay thể tình cảm.

c. Then follows definite visualization of the effect of that which has been thought and imagined, as it will manifest in the physical plane life.

c. Rồi hình dung rõ rệt hiệu quả của những gì đã được suy nghĩ và tưởng tượng, khi nó biểu lộ trong cuộc sống ở cõi trần.

This will be found to generate energy. This means consequently that the etheric body becomes vitalized or energized by the new thought current and certain transformations and re-organizations take place which eventually cause a complete change in the activities of the physical plane man. The constant cultivation of this effects an entire transformation in the threefold lower man, and eventually the truth of the Christian phraseology [193] becomes apparent, “only Christ is seen and heard,” only the real or spiritual man can be seen expressing himself through a physical medium, as Christ did through His instrument and disciple, Jesus.

Chúng ta sẽ thấy rằng tiến trình nói trên làm phát sinh năng lượng. Do đó, thể dĩ thái sẽ được sinh động và tăng cường do dòng tư tưởng mới. Cũng xảy ra một số biến đổi và tái tổ chức. Rốt cuộc chúng làm hoàn toàn thay đổi các hoạt động của phàm nhân ở cõi trần. Việc thường xuyên bồi dưỡng tư tưởng mới nói trên sẽ hoàn toàn chuyển hóa phàm nhân và ba hạ thể. Rốt cuộc, hành giả hiểu rõ thực nghĩa của câu nói trong Thiên Chúa giáo [193] “Chỉ còn nghe và thấy Đấng Christ.” Chỉ còn chân nhân hay là con người tinh thần tự biểu lộ qua trung gian của mình ở cõi trần, như Đức Christ đã làm qua Chúa Jesus, là phương tiện và là đệ tử của Ngài.

34. Thoughts contrary to yoga are harmfulness, falsehood, theft, incontinence, and avarice, whether committed personally, caused to be committed or approved of, whether arising from avarice, anger or delusion (ignorance); whether slight in the doing, middling or great. These result always in excessive pain and ignorance. For this reason, the contrary thoughts must be cultivated.

34. Những tư tưởng trái với yoga là ý muốn gây tổn hại, sự giả dối, trộm cắp, buông lung tình dục, và tham vọng. Dù là đích thân vi phạm, sai khiến hay thuận cho người khác vi phạm. Dù là phát sinh từ tính tham lam, giận dữ hay ảo tưởng (vô minh). Dù vi phạm nhẹ, vừa phải hay nặng. Các vi phạm này bao giờ cũng gây nên vô vàn đau khổ và sự vô minh. Vì thế, cần phải vun bồi những tư tưởng ngược lại.

It will be noted that the five Commandments deal specifically with those “thoughts contrary to yoga” or union, and that the keeping of the Commandments will bring about:

Cần lưu ý rằng năm Giới răn nói trên cụ thể nhắm đến “những tư tưởng trái với yoga” hay sự hợp nhất. Vì thế, việc tuân hành các Giới răn này sẽ mang lại:

a. Harmlessness instead of harmfulness,

a. Tính không gây tổn hại thay vì gây hại,

b. Truth instead of falsehood,

b. Sự chân thật thay vì giả dối,

c. Abstention from theft instead of stealing,

c. Cuộc sống lương thiện thay vì trộm cắp,

d. Self-control instead of incontinence,

d. Sự tự chủ thay vì buông lung tình dục,

e. Contentment instead of avarice or covetousness.

e. Sự an vui, hài mãn thay vì tham lam hay thèm muốn. Người chí nguyện không còn tìm cách bào chữa cho mình.

No excuse is left to the aspirant, and the truth is borne in on him that transgression of the Commandments is equally productive of results whether the violation is trifling or very great. A “contrary thought” must produce its effect and the effect is dual; pain, and ignorance or delusion. There are three words which the occult student associates ever with the three worlds: [194]

Y ghi nhớ sự thật là mọi sai phạm các Giới răn đều mang lại hậu quả, dù vi phạm nhiều hay ít. một “tư tưởng sai trái” tất sẽ mang lại hậu quả, và hậu quả này có hai mặt: sự đau khổ, và vô minh hay ảo tưởng. Có ba từ mà người môn sinh huyền bí dùng để chỉ về tam giới: [194]

1. Maya or illusion, having reference to the world of forms in which the true self finds itself when in incarnation, and with which it ignorantly identifies itself for long aeons;

1. Maya hay ảo ảnh, chỉ về thế giới của hình tướng mà chân ngã đầu thai vào đó, và vì vô minh mà tự đồng hóa với thế giới này qua biết bao thời đại;

2. Delusion, the process of wrong identification, in which the self deludes itself, and says “I am the form;”

2. Ảo tưởng, tiến trình đồng hóa một cách sai lầm, trong đó cái ngã bị lừa gạt và nói “Tôi là hình thể;”

3. Ignorance or avidya, the result of this wrong identification and at the same time the cause of it.

3. Vô minh hay thiếu minh triết, kết quả của sự đồng hóa sai lầm này và đồng thời cũng là nguyên nhân của nó.

The self is clothed in form; it is deluded in the world of illusion. Every time, however, that “thoughts contrary to yoga” are knowingly entertained, the self submerges itself still more in the illusory world and adds to the veil of ignorance. Every time that the “weight of the imagination” is thrown on the side of the real nature of the self and turned away from the world of the not-self, the illusion is lessened, the delusion becomes weakened, and ignorance is gradually superseded by knowledge.

Cái ngã bị bao bọc trong hình thể. Nó bị lừa gạt trong thế giới ảo tưởng. Tuy nhiên, mỗi lần “các tư tưởng trái với yoga” được vuốt ve, thỏa mãn, thì cái ngã chìm sâu hơn vào thế giới ảo tưởng, làm cho bức màn vô minh dày thêm. mỗi lần “sức mạnh của trí tưởng tượng” hướng về thực tính của chân ngã và không còn bận tâm đến thế giới của phi-ngã, thì ảo tưởng giảm dần. Hành giả ít khi bị lừa gạt, và sự vô minh dần dần được thay thế bằng hiểu biết.

35. In the presence of him who has perfected harmlessness, all enmity ceases.

35. Với sự hiện diện của người đã thực hiện vẹn toàn hạnh vô tổn hại, mọi sự thù ghét đều ngưng dứt.

This sutra demonstrates to us the working out of a great law. In Book IV. Sutra 17, Patanjali tells us that the perception of a characteristic, of a quality and of an objective form is dependent upon the fact that in the perceiver similar characteristics, qualities and objective capacity are to be found. This similarity is the basis of perception. The same truth is hinted at in the first [195] Epistle of St. John where the words are found “We shall be like Him for we shall see Him as He is.” Only that can be contacted which is already present or partially present in the perceiver’s consciousness. If enmity and hatred are therefore to be found by the perceiver, it is because in him the seeds of enmity and hatred are present. When they are absent naught but unity and harmony exists. This is the first stage of universal love, the practical endeavour on the part of the aspirant to be at one with all beings. He begins with himself and sees to it that the seeds of harmfulness in his own nature are eradicated. He deals, therefore, with the cause which produces enmity towards him and others. The natural result is that he is at peace and others are at peace with him. In his presence even wild beasts are rendered impotent and this by the condition of the mind-state of the aspirant or yogin.

Câu này nói lên sự tác động của một đại luật. Trong Quyển IV, Câu 17, Patanjali cho chúng ta biết rằng việc nhận thức được một đặc tính, một phẩm tính và một hình thể ở ngoại cảnh, là do trong người nhận thức có các đặc tính, phẩm tính và năng lực phóng ngoại tương tự. Sự tương đồng này là cơ sở của nhận thức. Cũng chính chân lý này có hàm ý trong [195]  Bức thư thứ nhất của Thánh John với câu “Chúng ta sẽ giống như Ngài vì chúng ta sẽ thấy được thực tính của Ngài.” Chỉ có thể tiếp xúc được với những gì đã hiện hữu hoặc đang hiện hữu một phần trong tâm thức của người nhận thức. Nếu người nhận thức thấy có thù ghét và oán hận, thì đó là vì trong y hiện có những hạt giống của thù ghét và oán hận. Khi các chủng tử đó không còn, y chỉ thấy có tính duy nhất và sự hòa hợp. Đây là giai đoạn đầu của tình bác ái đại đồng. Đây là cố gắng thực hành về phần người chí nguyện nhằm hợp nhất với cả chúng sinh. Y bắt đầu nơi chính mình, và thận trọng làm thế nào để xóa sạch các chủng tử gây tổn hại trong tâm tính của mình. Vì thế, y giải quyết cái nguyên nhân tạo nên sự thù ghét đối với y và người khác. Kết quả đương nhiên là lòng y vui tươi, thoải mái, và người khác cũng bày tỏ sự vui tươi, thoải mái đối với y. Khi y có mặt ở đâu, thậm chí các loài dã thú cũng trở nên hiền dịu. Đó là do trạng thái này trong tâm trí của người chí nguyện hay nhà yogi.

36. When truth to all beings is perfected, the effectiveness of his words and acts is immediately to be seen.

36. Khi hành giả hoàn toàn chân thật với cả chúng sinh, thì hiệu quả lời nói và hành động của y lập tức được thấy rõ.

This question of truth is one of the great problems which the aspirant has to solve, and he who attempts to speak only that which is entirely accurate will find himself confronted by very definite difficulties. Truth is entirely relative whilst evolution proceeds, and is progressive in its manifestation. It might be defined as the demonstration on the physical plane of as much of the divine reality as the stage in evolution and the medium [196] employed permit. Truth, therefore, involves the ability of the perceiver or aspirant to see correctly the amount of the divine which a form (tangible, objective, or of words) clothes. It involves, therefore, the capacity to penetrate to the subject and to contact that which every form veils. It involves also the ability of the aspirant to construct a form (tangible, objective, or of words) which will convey the truth as it is. This is in reality the first two stages of the great creative process:

Sự chân thật ở đây là một trong những vấn đề lớn mà người chí nguyện phải giải quyết. Và người nào cố gắng chỉ nói điều gì hoàn toàn chính xác, thì sẽ thấy mình gặp phải những sự khó khăn rõ rệt. Chân lý hoàn toàn có tính tương đối khi cuộc tiến hóa tiếp diễn, và ngày càng biểu hiện nhiều hơn. Có thể định nghĩa chân lý là sự biểu lộ của thực tại thiêng liêng ở cõi trần với mức độ tùy theo giai đoạn tiến hóa và phương tiện được dùng để biểu lộ. [196] Thế nên, chân lý cũng bao gồm khả năng của người nhận thức hay người tìm đạo, có thể thấy đúng được mức độ nào của thực tại thiêng liêng được bao hàm trong một hình thể (hữu hình, khách quan, hay hình thức ngôn từ). Do đó, nó bao gồm năng lực xuyên thấu đến chủ thể và tiếp xúc với cái mà mọi hình thể đang ẩn giấu. Nó cũng bao gồm khả năng của người chí nguyện có thể kiến tạo một thể thức (hữu hình, khách quan, hay của ngôn từ) để chuyển đạt thực tính của chân lý. Đây thực ra là hai giai đoạn đầu của một tiến trình sáng tạo vĩ đại:

1. Correct perception,

1. Nhận thức đúng,

2. Accurate construction, and it leads on to the consummation dealt with in the sutra under consideration—the effectiveness of all words and acts to convey reality or truth as it is. This sutra gives the clue to the work of the magician and is the basis for the great science of mantras or of words of power which are the equipment of every adept.

2. Kiến tạo chính xác, và nó dẫn đến sự hoàn thành được đề cập trong câu kinh đang bàn ở đây − sự hiệu quả của tất cả các lời nói và hành động nhằm chuyển đạt thực tính của chân lý. Câu kinh này có nêu manh mối về công việc của nhà huyền thuật. Đó là cơ sở cho khoa học quan trọng về chân ngôn hay các quyền lực từ, vốn là lợi khí của các vị cao đồ.

Through an understanding of,

Khi thấu hiểu được,

a. The law of vibration,

a. Luật rung động,

b. The science of sound,

b. Khoa học về âm thanh,

c. The purpose of evolution,

c. Mục đích của cuộc tiến hóa,

d. The present cyclic stage,

d. Giai đoạn của chu kỳ hiện tại,

e. The nature of form,

e. Tính chất của hình thể,

f. The manipulation of atomic substance, the adept not only sees truth in all things but comprehends how to make truth visible, thus aiding the evolutionary process and “casting images upon the screen of time.” This he does through certain words and acts. For the aspirant, the development of this capacity comes through a constant [197] effort to fulfill the following requirements:

f. Cách vận dụng chất liệu nguyên tử, vị cao đồ không những thấy được sự thật trong tất cả các sự vật, mà còn hiểu cách làm cho sự thật ấy hiển lộ. Nhờ đó, người trợ giúp diễn trình tiến hóa và “phóng chiếu các hình ảnh lên bức màn thời gian.” Điều này được thực hiện qua một số linh từ và hành động. Với người chí nguyện, [197] y phát triển năng lực nói trên nhờ thường xuyên cố gắng theo đúng các yêu cầu sau đây:

1. Strict attention to every formulation of words used,

1. Hết sức chú ý đến cách phát biểu những ngôn từ được sử dụng,

2. The wise use of silence as a factor of service,

2. Khôn ngoan dùng sự im lặng như một yếu tố phụng sự,

3. The constant study of the causes lying back of every act so that the reason for the effectiveness or non-effectiveness of action is understood.

3. Thường xuyên nghiên cứu các nguyên nhân ẩn trong mọi hành động. Nhờ đó mà hiểu được lý do tại sao hành động có hiệu quả hoặc vô hiệu.

4. A steady endeavour to see the reality in every form. This literally involves a study of the law of cause and effect, or karma, the object of the karmic law being to bring the opposite pole of Spirit, matter, into strict conformity with the requirements of spirit so that matter and form can perfectly express the nature of spirit.

4. Liên tục cố gắng để thấy thực tính trong mọi hình thể. Cố gắng này thực sự bao gồm việc nghiên cứu luật nhân quả, hay nghiệp quả. Luật nghiệp quả có mục tiêu đưa đối cực của Tinh thần, là vật chất, đến mức hoàn toàn theo đúng các yêu cầu của tinh thần. Kết quả là vật chất và hình thể biểu lộ chân tính của tinh thần một cách hoàn hảo.

37. When abstention from theft is perfected, the yogi can have whatever he desires.

37. Khi đã hoàn toàn không trộm cắp, nhà yogi có thể có bất cứ điều gì y muốn.

In this is to be found the clue to the great law of supply and demand. When the aspirant has learned to “desire nothing for the separated self” he can then be trusted with the riches of the universe; when he makes no demand for the lower nature and claims nothing for the threefold physical man, then all that he desires comes to him unasked and unclaimed. In some translations the words are found “all jewels are his.”

Đây là manh mối của đại luật về cung và cầu. Khi người chí nguyện học cách “không ham muốn điều gì cho cái ngã riêng rẽ” thì bấy giờ y được giao phó những kho tàng phong phú của vũ trụ. Khi y không yêu cầu điều gì cho phàm tính, và không đòi hỏi điều gì cho phàm nhân tam phân, thì bấy giờ tất cả những điều gì y muốn đều đến với y mà không cần phải yêu cầu hay đòi hỏi. Trong một số bản dịch còn có ghi “tất cả ngọc ngà, châu báu đều là của y.”

It must be remembered with care that the theft referred to has reference not only to the taking of things tangible and physical, but has reference also to abstention from theft on the emotional or mental planes. The aspirant takes nothing; [198] emotional benefits, such as love and favor, dislike or hatred are not claimed by him and absorbed when they do not belong to him; intellectual benefits, the claiming of a reputation not warranted, the assumption of some one else’s duty, favour or popularity are all equally repudiated by him and he adheres with strictness to that which is his own. “Let every man attend to his own dharma” and fulfill his own role, is the Eastern injunction. “Mind your own business” is the Western attempt to teach the same truth and convey the injunction that we each of us must not steal from another the opportunity to do right, to measure up to responsibility and to do his duty. This is the true abstention from theft. It will lead a man perfectly to meet his own obligations, to shoulder his own responsibility and to fulfill his own duty. It will lead him to refrain from appropriating anything that belongs to his brother in the three worlds of human endeavour.

Cần thận trọng lưu ý rằng sự trộm cắp bàn ở đây không chỉ nói về việc lấy cắp những thứ hữu hình và vật chất. Cũng cần tránh trộm cắp trên cõi tình cảm hay cõi trí. Người chí nguyện không lấy cắp bất cứ điều gì. [198]  Y không yêu cầu và thu nhận bất cứ những lợi ích nào về tình cảm, như được yêu thương và ân huệ, những đố kỵ hay thù ghét, nếu chúng không thuộc về mình. Y cũng từ khước những lợi ích về trí tuệ, như đòi hỏi danh tiếng mà mình không xứng đáng, hoặc mạo nhận nhiệm vụ, ân huệ và sự được mến chuộng thuộc về người khác. Y chỉ hoàn toàn gắn bó với những gì của riêng mình. Lời huấn thị của Đông phương là “mỗi người hãy chú tâm vào thiên chức của chính mình” và làm tròn vai trò của mình. Câu ngạn ngữ Tây phương “Hãy lo công việc của chính bạn” cũng nhằm nói lên chân lý vừa kể. Nó truyền đạt huấn thị rằng mỗi người trong chúng ta không được ăn cắp của người khác khiến họ mất cơ hội làm điều phải, tự đảm đương trách nhiệm và thi hành nhiệm vụ của mình. Đây là thực sự không trộm cắp. Nó sẽ giúp hành giả hoàn thành nghĩa vụ, gánh vác trách nhiệm và làm tròn nhiệm vụ của mình. Nó sẽ khiến y không chiếm dụng bất cứ điều gì thuộc về người huynh đệ của mình trong ba cảnh giới hoạt động của nhân loại.

38. By abstention from incontinence, energy is acquired.

38. Không buông lung tình dục, hành giả sẽ có được năng lượng.

Incontinence is usually regarded as the dissipation of the vitality or the virility of the animal nature. The power to create upon the physical plane and to perpetuate the race is the highest physical act of which man is capable. The dissipation of the vital powers through loose living and incontinence is the great sin against the physical body. It involves the failure to recognize the importance of the procreative act, the inability to [199] resist the lower desires and pleasures, and a loss of self control. The results of this failure are apparent throughout the human family at this time in the low health average, in the full hospitals, and the diseased, enfeebled and anemic men, women and children everywhere to be found. There is little conservation of energy, and the very words “dissipation” and dissipated men” carry a lesson.

Buông lung tình dục thường được xem là phung phí sinh lực hay khả năng sinh dục của thú tính. Năng lực sáng tạo ở cõi trần và duy trì nòi giống là hành động cao nhất ở cõi trần mà con người có thể thực hiện. Việc phung phí sinh lực qua cuộc sống buông thả và phóng túng tình dục là một trọng tội chống lại thân xác [199]. Đó là vì người ta không nhận thức được tầm quan trọng của hành động sinh sản, không thể chống lại dục vọng và lạc thú thấp hèn, và mất khả năng tự chủ. Kết quả của sự thất bại này thấy rõ trong cả gia đình nhân loại vào thời gian hiện nay. Ở đâu cũng có tình trạng sức khỏe trung bình suy kém, bệnh viện quá tải, những người đàn ông, phụ nữ và trẻ con bệnh tật, yếu đuối và thiếu máu. Người ta ít khi chịu giữ gìn năng lực, và những trường hợp “suy yếu sinh lực” cũng như “những người bị suy nhược” đều là bài học cho họ.

The first thing a disciple has to do is to learn the true nature of creation and to conserve his energy. Celibacy is not enjoined. Self-control is. In the relatively short cycle of lives, however, in which the aspirant fits himself to tread the path, he may have to pass a life or maybe several in a definite abstention from the act of procreation in order to learn complete control and to demonstrate the fact that he has completely subdued the lower sex nature. The right use of the sex principle along with entire conformity to the law of the land is characteristic of every true aspirant.

Điều đầu tiên mà người đệ tử cần phải làm là học hỏi để biết thực chất của cuộc sáng tạo, và bảo tồn năng lượng của mình. Không bắt buộc phải sống độc thân. Thế nhưng, sự tự chủ thì cần phải có. Tuy nhiên, trong chu kỳ tương đối ngắn ngủi gồm một số kiếp sống mà trong đó người chí nguyện tự chuẩn bị cho thích hợp để tiến bước trên đường đạo, y có thể phải trải qua một hoặc vài ba kiếp sống dứt khoát tránh hẳn hành động sinh sản. Nhờ đó y học cách hoàn toàn tự chủ, và chứng tỏ rằng thực tế y đã hoàn toàn chế ngự được bản chất tình dục thấp hèn. Đặc trưng của mọi người tìm đạo chân chính là sử dụng đúng nguyên khí tính dục, cũng như hoàn toàn tuân hành luật pháp của đất nước mình.

Apart from a consideration of this along the lines of the conservation of energy, there is another angle from which the aspirant approaches the problem and that is the transmutation of the vital principle (as manifested through the physical organism) into the dynamic demonstration of it as manifested through the organ of sound, or creation, through the word, the work of the true magician. There is as all students of occultism know, a close connection between the organs of generation and the [200] third major centre, the throat centre. This is apparent physiologically in the change of voice seen during the adolescent period. Through the true conservation of energy and abstention from incontinence, the yogi becomes a creator on the mental plane through the use of the word and of sounds, and the energy which can be dissipated through the activity of the lower centre is concentrated and transmuted into the great creative work of the magician. This is done through continence, pure living and clean thinking, and not through any perversions of occult truth such as sex magic and the enormities of the sex perversions of various so-called occult schools. The latter are on the black path and do not lead to the portal of initiation.

Ngoài việc xem xét vấn đề này theo lối bảo toàn năng lượng, người chí nguyện còn khảo cứu vấn đề từ một góc độ khác. Đó là siêu hóa nguyên khí sống (biểu hiện qua thể xác) thành sự phát biểu mạnh mẽ qua cơ quan của âm thanh, hoặc sáng tạo, qua linh từ, tức là công tác của nhà huyền thuật chân chính. Như tất cả các môn sinh huyền bí học đều biết, có sự liên kết chặt chẽ giữa cơ quan sinh sản và trung tâm lực chính yếu thứ ba, tức là luân xa cổ họng [200]. Điều này thấy rõ về mặt sinh lý khi các thiếu niên thay đổi tiếng nói ở tuổi dậy thì. Nhờ bảo tồn năng lượng và không buông lung tình dục, nhà yogi trở thành người sáng tạo trên cõi trí. Y sáng tạo bằng cách sử dụng linh từ và âm thanh. Và năng lượng có thể bị hao tán qua hoạt động của trung tâm lực ở cấp thấp thì nay được tập trung và siêu hóa thành công tác sáng tạo quan trọng của nhà huyền thuật. Công tác này được thực hiện qua sự chế ngự tình dục, đời sống trong sạch và tư tưởng thanh khiết. Nó không qua bất cứ sự xuyên tạc nào về chân lý huyền môn như ma thuật tình dục và những tội ác dâm loạn của những môn phái khác nhau tự gọi mình là trường huyền bí học. Những lối thực hành đó đi theo hắc đạo, chứ không đưa đến cánh cửa điểm đạo.

39. When abstention from avarice is perfected, there comes an understanding of the law of rebirth.

39. Khi hoàn toàn không tham lam, hành giả thấu hiểu luật tái sinh.

This sutra gives in unequivocal terms the great teaching that it is desire for form of some kind which brings the spirit into incarnation. When desirelessness is present, then the three worlds can no longer hold the yogi. We forge our own chains in the furnace of desire and of a various longing for things, for experience and for form life.

Với những thuật ngữ rõ ràng, minh bạch, câu kinh này nói lên giáo huấn trọng đại rằng chính sự ham muốn một loại hình hài, sắc tướng nào đó khiến cho tinh thần phải đầu thai.  Khi nhà yogi thực hành vẹn toàn hạnh vô dục, thì tam giới không còn cầm giữ được y. Chúng ta tự tạo nên xiềng xích cho chính mình trong lò lửa dục vọng, và lòng khao khát những sự vật, các kinh nghiệm khác nhau cũng như đời sống hình thể.

When contentment is cultivated and present, gradually these chains drop off and no others are forged. As we disentangle ourselves from the world of illusion, our vision becomes cleared, and [201] the laws of being and of existence become apparent to us and are little by little understood. The how and the why of life are answered. The reason for and the method of physical plane existence is no longer a problem, and the yogi understands why the past has been and what its characteristics are; he understands the reason for the present life cycle and experience and can make practical application of the law each day, and he knows well what he has to do for the future. Thus he frees himself, desires nothing in the three worlds and re-orients himself to the conditions in the world of spiritual being.

Khi hành giả vun bồi sự an vui, hài mãn, thì các xiềng xích kể trên từ từ tiêu tan, và y không tạo thêm những ràng buộc nào khác. Khi chúng ta tự vượt thoát ra khỏi thế giới ảo tưởng, thì tầm nhìn tinh thần của mình trở nên sáng tỏ. Bấy giờ chúng ta thấy rõ và dần dần thấu đáo các định luật của đời sống [201] và cuộc hiện tồn. Những ưu tư, thắc mắc về cuộc đời được giải đáp. Lý do tại sao chúng ta sống và phương cách sống trong cõi đời này, không còn là vấn đề khó hiểu. Nhà yogi biết được vì sao quá khứ của mình đã là như thế, và nay nó có đặc tính gì. Y thấu hiểu nguyên do của kiếp sống và kinh nghiệm hiện tại, cũng như có thể áp dụng thực hành định luật trong đời sống thường ngày. Y cũng biết rõ mình cần phải làm điều gì cho tương lai. Bằng cách vừa kể, y tự giải thoát, không còn ham muốn điều gì trong tam giới, và hướng về những điều kiện của cuộc sống tinh thần.

In these qualities we have the carrying out of the five Commandments.

Việc thực hành năm Giới răn mang lại những phẩm tính nói trên.

40. Internal and external purification produces aversion for form, both one’s own and all forms.

40. Tinh luyện bên trong và bên ngoài khiến hành giả chán ghét hình hài, sắc tướng, cả hình thể của mình và mọi hình thể khác.

This paraphrase of Sutra 40 does not adhere to the technical translation of the Sanskrit words on account of the misunderstanding of the words used. Literally the translation runs “internal and external purification produces hatred for one’s own body and non-intercourse with all bodies.” The tendency of students in the West to interpret literally necessitates a somewhat freer translation. The Eastern student, more versed in the symbolic presentation of truth is not so liable to make mistakes along this line. In considering this sutra it should be remembered that purity is a quality of spirit. [202]

Câu 40 này không được chuyển ngữ theo cách dịch các thuật ngữ Bắc Phạn, vì e độc giả có thể hiểu lầm các từ ngữ được dùng. Theo nghĩa đen, thì câu này được dịch là “việc tinh luyện bên trong và bên ngoài khiến hành giả chán ghét cơ thể của mình và không muốn liên giao với các cơ thể khác.” Vì các môn sinh Tây phương có khuynh hướng giải thích theo nghĩa đen, nên họ cần sự chuyển dịch phần nào thoáng hơn. Trong khi đó, người môn sinh phương Đông, vốn thông thạo hơn về cách trình bày chân lý qua biểu tượng, thì không dễ bị nhầm lẫn như thế. Khi xem xét câu kinh này, chúng ta cần ghi nhớ rằng sự thanh khiết là một phẩm tính của tinh thần. [202]

Purification is necessarily of various kinds and relates to the four vehicles (the physical body, the etheric body, the emotional body and the mental body) through which man contacts the three worlds of his endeavor. We might, therefore, distinguish between them as follows:

Tất nhiên, có những lối tinh luyện khác nhau liên quan đến bốn hạ thể (gồm thể xác, thể dĩ thái, thể tình cảm, và thể trí) mà mỗi người sử dụng để giao tiếp khi hoạt động trong tam giới. Chúng có thể được phân biệt như sau:

a. External purity      physical vehicle              dense body,

a. Thanh khiết bên ngoài… thể xác ……… thể thô đặc,

b. Magnetic purity     etheric vehicle              internal purity,

b. Thanh khiết từ điện ……thể dĩ thái…. thanh khiết bên trong,

c. Psychic purity        astral vehicle              emotional purity,

c. Thanh khiết của tâm….. thể cảm dục… thanh khiết tình cảm,

d. Mental purity         mental vehicle              purity of the concrete mind.

d. Thanh khiết của trí …….thể trí……….. thanh khiết của trí cụ thể.

It should be most carefully borne in mind that this purity concerns the substance out of which each of these vehicles is composed. It is attained in three ways:

Cần lưu ý kỹ rằng sự thanh khiết này liên quan đến chất liệu được dùng để kiến tạo các thể nói trên. Chúng ta đạt được sự thanh khiết bằng ba cách:

1. Elimination of impure substance or of those atoms and molecules which limit the free expression of spirit, and which confine it to the form so that it can have neither free ingress nor egress;

1. Loại bỏ chất liệu không thanh khiết hay là các nguyên tử và phân tử vốn hạn chế sự phát biểu tự do của tinh thần. Chúng giam hãm tinh thần trong hình thể, khiến tinh thần không thể tự do ra, vào;

2. Assimilation of those atoms and molecules which will tend to provide a form through which spirit can adequately function;

2. Hấp thu những nguyên tử và phân tử có khuynh hướng tạo nên một thể mà qua đó tinh thần có thể hoạt động như ý muốn;

3. The protection of the purified form from contamination and deterioration.

3. Bảo vệ thể đã được tinh luyện khỏi bị ô nhiễm và suy biến.

On the Path of Purification or of Probation, this eliminative process is commenced; on the Path of Discipleship, the rules for the constructive or assimilative process are learnt and on the Path of Initiation (after the second initiation,) the protective work is begun.

Trên Con Đường Tinh luyện hay Dự bị, tiến trình loại trừ này khởi đầu. Trên Con Đường Đệ tử, hành giả học được các qui luật cho tiến trình kiến tạo hay hấp thu. Trên Con Đường Điểm đạo (sau cuộc điểm đạo thứ hai,) việc bảo vệ bắt đầu.

In the occident the rules of external purification, of sanitation and of hygiene are well known and largely practised. In the orient, the rules [203] of magnetic purification are better known and when the two systems are synthesized and mutually recognized, the physical sheath in its dual nature will eventually be brought to a high degree of refinement.

Ở Tây phương, các qui tắc về tinh luyện bên ngoài, về điều kiện sống lành mạnh và vệ sinh đều được biết rõ và thực hành rộng rãi. Trong khi đó, ở Đông phương [203]  các qui luật tinh luyện từ điện được biết rõ hơn. Khi hai hệ thống này được tổng hợp và cùng được công nhận, thì hai phương diện của thể hồng trần rốt cuộc sẽ đạt mức tinh luyện cao hơn.

In this cycle, however, the interest of the Hierarchy is being largely centred on the question of psychic purity and this is the reason for the trend of the occult teaching at present developing. It is away from what is commonly understood by psychic development, lays no emphasis on the lower psychic powers and seeks to train the aspirant in the laws of the spiritual life. This produces a realization of the nature of the psyche or soul, and a control of the lower psychic nature. The great “push” of the hierarchical endeavour for this century, 1926-2026, will be along these lines, combined with a dissemination of the laws of thought. Hence the necessity for the promulgation of the teaching given in the Yoga Sutras. They give the rules for mind control but the nature of the psychic powers and the development of the psychic consciousness are also largely dealt with.

Tuy nhiên, trong chu kỳ hiện nay, sự quan tâm của Đại đoàn Chưởng giáo đang được tập trung phần lớn vào sự thanh khiết của cái tâm. Đây là lý do tại sao hiện có xu thế phát triển giáo huấn huyền môn. Giáo huấn này không liên quan đến điều thường được hiểu là phát triển thần thông. Giáo huấn này không chú trọng đến các loại thần thông thấp, mà tìm cách rèn luyện người chí nguyện theo các định luật của đời sống tinh thần. Cuộc rèn luyện này mang lại nhận thức về bản tính của cái tâm hay linh hồn, và khả năng chế ngự tính chất thấp hèn ở nội tâm. “Sức thúc đẩy” lớn lao trong cố gắng của Đại đoàn Chưởng giáo cho thế kỷ này, từ năm 1926 đến năm 2026, sẽ theo các đường hướng kể trên, kết hợp với việc phổ biến các định luật về tư tưởng. Vì thế mà cần phải trình bày giáo huấn trong Yoga Điển tắc. Giáo huấn này đưa ra các quy tắc để kiểm soát trí tuệ. Thế nhưng cũng bàn rộng về tính chất của các quan năng thần thông và sự phát triển tâm thức.

The entire third book deals with these powers and the theme of the sutras as a whole might be briefly stated to be the development of mind control with a view to soul-contact and the consequent control of the lower psychic powers, their unfoldment paralleling that of the higher powers. This should be emphasized. Aversion for form or “desirelessness,” which is the generic term covering this condition of mind, is the great impulse [204] which eventually leads to complete liberation from form.

Trọn cả quyển ba bàn về các quyền năng vừa kể. Và chủ đề của tất cả các câu kinh có thể nói vắn gọn là phát triển khả năng chế ngự thể trí. Sự chế ngự này nhằm giao tiếp với linh hồn và nhờ đó mà kiểm soát các quan năng thần thông loại thấp. Những quan năng này khai mở song hành với những quyền năng bậc cao. Đây là điểm cần được nhấn mạnh. [204] Không còn ham thích hình thể hay là “hạnh vô dục,” là từ nói chung về điều kiện này của thể trí. Đây là sức thôi thúc mạnh mẽ để rốt cuộc hành giả hoàn toàn giải thoát khỏi hình thể.

It is not that form or form taking is in itself evil. Both forms and the process of incarnation are right and proper in their place but for the man who has no further use for experience in the three worlds, having learnt the needed lessons in the school of life, form and rebirth become evil and must be relegated to a position outside the life of the ego. That the liberated man may choose to limit himself by a form for specific purposes of service is true, but this he does through an act of the will and self-abnegation; he is not impelled thereto by desire but by love of humanity and a longing to stay with his brothers till the last of the sons of God has reached the portal of liberation.

Chính hình thể hay việc khoác lấy hình thể thì không có gì là tà vạy. Cả các hình hài, sắc tướng và tiến trình đầu thai đều đúng đắn và thích hợp trong vai trò của chúng. Ngày nào người ta không còn cần sử dụng chúng để thu thập thêm kinh nghiệm trong tam giới, vì đã học xong những bài học cần thiết trong trường đời, thì bấy giờ các hình thể và sự tái sinh mới trở thành điều không tốt, và phải được đặt vào vị trí ở bên ngoài cuộc sống của chân nhân. Thực tế là một người đã giải thoát có thể chọn tự giới hạn mình trong một hình hài vì những mục đích phụng sự cụ thể. Thế nhưng, y thực hiện điều này qua tác động của ý chí và sự tự quên mình. Y không bị thúc đẩy đến với hình hài đó do ham muốn, mà vì lòng yêu thương nhân loại. Điều này cũng vì y mong muốn ở lại với các huynh đệ của mình cho đến khi người con cuối cùng của Thượng Đế đã đến cánh cửa giải thoát.

41. Through purification comes also a quiet spirit, concentration, conquest of the organs, and ability to see the Self.

41. Nhờ tinh luyện mà tinh thần an tịnh, tập trung, chế ngự các cơ quan, và có khả năng thấy được chân ngã.

It should be remembered that both the Commandments and the Rules (Yama and Nyama) have to do with the lower fourfold self, functioning in the three worlds, and frequently called the lower quaternary. We have seen in the preceding sutra that the purification required is fourfold and concerns four vehicles. The results of this purity are also fourfold and have reference equally to the four sheaths. These results are, in the order of the vehicles: [205]

Nên lưu ý rằng cả các Giới răn và các Qui luật (Yama và Niyama) đều áp dụng cho phàm ngã với bốn hạ thể. Phàm ngã hoạt động trong tam giới và thường được gọi là bộ tứ thấp. Câu kinh trước đã nói rằng việc tinh luyện gồm có bốn phần và liên quan đến bốn thể. Kết quả của sự thanh khiết này cũng có bốn phương diện, và cũng liên quan đến bốn thể. Các kết quả này được kể ra theo thứ tự của các thể, như sau: [205]

1. Conquest of the organs

The physical body,

2. A quiet spirit

The emotional vehicle,

3. Concentration

The lower mind or the mental body,

4. Ability to see the self

The synthetic result of the triple condition

of the above sheaths.

1. Chế ngự các cơ quan…………..Thể xác,

2. Tinh thần an tịnh………………Thể tình cảm,

3. Tập trung………………………….Hạ trí hay là thể trí,

4. Khả năng thấy Chân ngã …..Kết quả tổng hợp của ba điều kiện trong các thể nói trên.

The “conquest of the organs” has reference specially to the senses and is the result of magnetic purity or the refinement of the etheric body. In this connection students should bear in mind that the physical body is not a principle, but is built in exact conformity with the etheric body. This etheric body is the magnetic vehicle on the physical plane and attracts (according to its own nature and constituents) those atoms and particles of substance out of which the dense physical is constructed. When the sense perceptions are refined and when the vibratory condition of the vital body is justly attuned, the organs of the senses are entirely dominated and controlled by the real man and put him in contact eventually with the two highest subplanes of the physical plane and not with the lower astral as is now the case. The correct order of this control of the organs of physical perception or of the five senses is as follows:

Sự “chế ngự các cơ quan” đặc biệt chỉ về các giác quan và là kết quả của sự thanh khiết về từ điện, hay là sự tinh luyện thể dĩ thái. Về phương diện này, các môn sinh cần lưu ý rằng thể xác không phải là một nguyên khí. Nhưng nó được kiến tạo một cách chính xác đúng theo thể dĩ thái. Thể dĩ thái là thể từ lực ở cõi trần. Tùy theo tính chất và thành phần của nó, mà thể này thu hút các loại nguyên tử và những hạt vật chất nào dùng để kiến tạo thể xác thô đặc. Khi các nhận thức giác quan được thanh lọc, và khi điều kiện rung động của thể sinh lực được điều hợp đúng đắn, thì các giác quan được chân nhân hoàn toàn chế ngự và kiểm soát. Rốt cuộc, chúng giúp chân nhân tiếp xúc với hai cõi phụ cao nhất của cõi trần, chứ không tiếp xúc với cấp thấp của cõi cảm dục như trường hợp hiện nay. Sau đây là trình tự đúng trong việc kiểm soát các cơ quan nhận thức hay là năm giác quan của thể xác:

1. Correct intellectual perception of the ideal on the mental plane.

1. Nhận thức đúng của trí tuệ về điều lý tưởng trên cõi trí,

2. Pure desire, freed from love of form on the emotional or astral plane,

2. Ý muốn thuần khiết, không còn ưa thích hình thể trên cõi tình cảm hay cảm dục,

3. Correct use and development of the five centres [206] up the spine (base of spine, sacral centre, solar plexus, heart and throat centres), each of which is found in the etheric body and is allied with one or other of the five senses,

3. Sử dụng và phát triển đúng năm luân xa dọc theo cột sống [206] (luân xa chót xương sống, luân xa sinh dục, luân xa tim và luân xa cổ họng). mỗi luân xa vừa kể đều có trong thể dĩ thái, và liên kết với một trong năm giác quan,

4. Consequent correct reaction of the sense organs to the requirements of the true or spiritual man.

4. Hậu quả là các giác quan đáp ứng đúng với yêu cầu của chân nhân hay con người tinh thần.

In connection with the astral body, the result of purification is a quiet spirit, or the “gentle stillness” of the vehicle so that it can adequately reflect the Christ principle, or the buddhic nature. The relation of the astral or kamic principle (using the middle vehicle of the threefold lower man) to the buddhic principle using the middle vehicle of the spiritual triad (or atma-buddhi-manas), should be carefully considered. Quieted emotions, and the control of the desire nature ever precede the re-orientation of the lower. Before the desire of a man can be towards things spiritual he has to cease to desire the things of the world, and of the flesh. This produces an interlude of great difficulty in the life of neophyte, and the process is symbolized for us in the use of the word “conversion” in orthodox Christian circles; it involves “a turning round” with its consequent temporary turmoil, but eventual quietness.

Với thể cảm dục, sự tinh luyện có kết quả làm cho tinh thần an tịnh, hay là “sự lắng dịu nhẹ nhàng” của thể này. Nhờ đó, nó có thể phản ánh nguyên khí Christ, hay bồ-đề tâm một cách đầy đủ. Ở đây cần xem xét kỹ mối liên hệ giữa nguyên khí kama hay cảm dục (sử dụng thể thứ hai của phàm nhân tam phân) với nguyên khí bồ-đề vốn sử dụng thể thứ hai của tam nguyên tinh thần (hay là atma-buddhi-manas). Ổn định tình cảm và chế ngự dục vọng bao giờ cũng cần có trước khi phàm ngã tái định hướng. Hành giả cần phải thôi ham muốn những sự vật ở thế gian và của thân xác trước khi y có thể hướng ý muốn của mình đến những điều tinh thần. Đây là một giai đoạn chuyển tiếp hết sức khó khăn trong cuộc đời của người sơ cơ. Tiến trình này được người Thiên Chúa giáo chính thống gọi theo lối biểu tượng là “cải tâm.” Tức là “sự hoàn toàn chuyển hướng” với hậu quả tạm thời bị xáo trộn, nhưng rốt cuộc có sự yên tĩnh.

In the mental body, the effect of purification is the development of the capacity to concentrate or to be one-pointed. The mind no longer flits hither and thither but becomes controlled and quiescent and receptive to the higher impress. [207] As this is discussed fully in book three we need not deal further with it here.

Trong thể trí, hiệu quả của việc tinh luyện là khả năng tập trung hay chuyên nhất. Cái trí không còn bay nhảy đó đây, mà được chế ngự, yên lặng, và đón nhận các ấn tượng cao siêu. [207] Vấn đề này sẽ được bàn đầy đủ trong quyển ba, nên không cần nói thêm ở đây.

When these three results of purification are making themselves felt in the life of the aspirant, he nears a certain climax which is a sudden perception of the nature of the soul. He gets a vision of the reality which is himself, and finds out the truth of the words of the Christ that “the pure in heart shall see God.” He beholds the soul and henceforth his desire is for ever towards reality and away from the unreal and the world of illusion.

Khi ba kết quả nói trên của việc tinh luyện biểu lộ rõ rệt trong cuộc sống của người chí nguyện, thì bấy giờ y đến trình độ có thể bỗng nhiên nhận thức được bản tính của linh hồn. Y thấy được thực tế về chính mình. Y hiểu thực nghĩa của những lời mà Đức Christ đã nói “Người có tâm hồn thanh khiết sẽ thấy Thượng Đế.” Y nhìn thấy linh hồn và từ nay trở đi y chỉ muốn thấy sự thực, tránh xa điều giả dối và thế giới ảo tưởng.

42. As a result of contentment bliss is achieved.

42. Tâm an vui, hài mãn tựu thành chân phúc.

There is little to say in connection with this sutra except to point out that all pain, displeasure and unhappiness are based upon rebellion, and that, from the point of view of the occultist, rebellion but stirs up increased trouble, and resistance only serves to feed the evil, whatever it may be. The man who has learnt to accept his lot, wastes no time in vain regrets, and his entire energy can then be given to the perfect fulfillment of his dharma, or obligatory work. Instead of repining, and clouding the issues of life with worry, doubt and despair, he clarifies his path by the quiet realization of life as it is and a direct appreciation of what he may make of it. Thus no strength, time or opportunity is lost, and steady progress towards the goal is made. [208]

Câu này không cần phải giải thích nhiều hơn. Tuy nhiên, nên nói rõ rằng mọi sự đau khổ, ưu phiền và bất hạnh đều do nổi loạn. Theo quan điểm của nhà huyền bí học, sự nổi loạn chỉ làm gia tăng những nỗi khó khăn, rắc rối, và sự chống đối chỉ làm tăng những điểu tà vạy, dù đó là điều gì. Người nào học biết cách chấp nhận số phận, không phí thời gian để uổng công than tiếc, thì bấy giờ có thể dùng trọn cả năng lực của mình để làm tròn thiên chức, hay nghĩa vụ của mình. Thay vì bực tức, và làm cho những vấn đề trong đời thêm phức tạp với những nỗi âu lo, nghi ngờ và tuyệt vọng, y soi sáng đường đi của mình qua nhận thức trầm tĩnh về thực tế của cuộc sống, và trực tiếp đánh giá những gì mà y có thể khai thác được. Bằng cách này, y không bị hao phí sức lực, thời gian hay cơ hội, và liên tục tiến đến mục tiêu. [208]

43. Through fiery aspiration and through the removal of all impurity, comes the perfecting of the bodily powers and of the senses.

43. Với nhiệt vọng bừng cháy và qua việc loại trừ mọi điều bất tịnh, năng lực của cơ thể và các giác quan trở nên hoàn hảo.

Though the two causes of the perfecting process are aspiration and purification, yet these two form really only one and are the two aspects of the discipline of the Probationary Path. The old commentary which forms the esoteric basis of the inner teaching on Raja Yoga has some sentences which will be found of value here in conveying the correct concept:

Hai yếu tố của tiến trình hoàn thiện là nguyện vọng tinh thần và tinh luyện. Dù vậy, cả hai thực sự là một, và là hai phương diện của giới luật trên Con Đường Dự bị. Thiên cổ luận vốn là cơ sở của giáo huấn nội môn về Raja Yoga, có một số câu cần được trình bày ở đây để chuyển đạt đúng khái niệm nói trên:

“As the breath of fire streams upward through the system, as the fiery element makes its presence felt, that which is hindering is seen to disappear, and that which was obscure becomes illuminated.

“Khi hơi thở của lửa lưu chuyển đi lên qua hệ thống, khi nguyên tố bừng cháy hiển lộ thì các chướng ngại tan biến, và những gì trong tối tăm được soi sáng.

The fire ascends and barriers are burned; the breath expands, and limitations disappear. The seven, hitherto quiescent, stir to life. The ten portals, sealed and closed or partially ajar, swing wide.

Luồng lửa tiến lên và đốt tan các rào cản. Hơi thở tỏa rộng, làm tiêu tan các giới hạn. Bảy cái từ trước đến giờ vẫn yên lặng thì nay sống động. mười cánh cửa, vốn bị niêm kín và đóng kín hay hé mở, thì nay trở nên rộng mở.

The five great means of contact rush into activity. Obstacles are overcome, and barriers no longer hinder. The purified one becomes the great receiver and the One is known.”

Năm phương tiện giao tiếp chính đại bắt đầu hoạt động. Các chướng ngại được khắc phục, và rào cản bị vẹt tan. Người đã tinh luyện nay nhận được món quà trọng đại và biết Đấng Duy nhất.”

In these words the purification by fire and by air is dealt with and this is the purification undergone on the path of yoga. Purification by water has been submitted to in the later stages of the life of the highly evolved man, prior to treading the Path of Discipleship, and is hinted at in the words “waters of sorrow” so often used. Now the fiery ordeal is undergone and the entire lower nature is passed through the fire. This is the first meaning and the one with which the aspirant [209] is most concerned. It is called forth when he can, from his heart, send forth the call for fire, embodied in the words:

Các đoạn này bàn về sự tinh luyện bằng lửa và bằng không khí. Đây là sự tinh luyện xảy ra trên đường thực hành yoga. Việc tinh luyện bằng nước đã xảy ra ở các giai đoạn sau trong cuộc đời của người tiến hóa cao, trước khi y dấn bước lên Con Đường Đệ tử. Việc này rất thường được đề cập với các từ “những dòng nước đau khổ.” Nay hành giả chịu thử thách qua thiêu đốt, và trọn cả phàm tính được tinh luyện trong lửa. Đây là ý nghĩa thứ nhất được người chí nguyện quan tâm nhiều nhất [209]. Khi có thể, từ trong thâm tâm y phát ra lời kêu gọi lửa, như những lời dưới đây:

“I seek the Way; I yearn to know. Visions I see, and fleeting deep impressions. Behind the Portal, on the other side, lies that which I call home, for the circle hath been well-nigh trod, and the end approacheth the beginning.

“Tôi tìm kiếm Đường Đạo; tôi khao khát hiểu biết. Tôi thấy linh ảnh, và những ấn tượng sâu sắc thoáng qua. Ở bên kia, phía sau Cánh cửa, có những gì mà tôi gọi là gia hương, vì đã đi gần hết vòng tiến hóa, và điểm cuối gặp lại điểm khởi đầu.

I seek the Way. All ways my feet have trod. The Way of Fire calls me with fierce appeal. Naught in me seeks the way of peace; naught in me yearns for earth.

Tôi tìm kiếm Đường Đạo. Chân tôi đã dấn bước trên mọi nẻo đường. Con Đường của Lửa kêu gọi tôi với sức hấp dẫn bừng cháy. Không điều gì trong tôi tìm kiếm lối bình an; không điều gì trong tôi khát khao trần thế.

Let the fire rage, the flames devour; let all the dross be burnt; and let me enter through that Gate, and tread the Way of Fire.”

Lửa hãy bừng lên, và ngọn lửa thiêu đốt; cháy tan mọi cặn bã; để tôi đi qua Cửa Đạo, và dấn bước trên Con Đường của Lửa.”

The breath of God is felt as the cleansing breeze also and is the response of the soul to the aspiration of the disciple. The soul then “inspires” the lower man.

Hơi thở của Thượng Đế giống như cơn gió tẩy sạch. Đáp ứng của linh hồn đối với nguyện vọng của người đệ tử cũng thế. Bấy giờ linh hồn “truyền cảm hứng” cho phàm nhân.[TP1] 

The secondary meaning has of course direct reference to the work of the kundalini or serpent fire at the base of the spine as it responds to the soul vibration (felt in the head, in the region of the pineal gland, and called “the light in the head”). Mounting upward, it burns out all obstructions in the spinal etheric channel and vitalizes or electrifies the five centres up the spine and the two in the head. The vital airs within the ventricles of the head are also swept into activity and produce a cleansing, or rather eliminating effect therein. With this the student has as yet nothing to do, beyond seeing to it that as far as in him lies, the aspiration of his heart is of the needed “fiery” character, and that the steady purification of his physical, emotional and mental [210] nature, proceeds as desired. When this is the case, the response of the soul will be effective and the consequent reactions within the etheric centres will take place safely, under law, and normally.

Dĩ nhiên, ý nghĩa thứ hai trực tiếp liên quan đến hoạt động của kundalini hay luồng hỏa xà ở chót xương sống khi nó ứng đáp với rung động của linh hồn. (Rung động này được cảm nhận bên trong đầu, ở vùng của tuyến tùng, và được gọi là “ánh sáng bên trong đầu”). Khi tiến lên trên, nó đốt tan mọi sự tắc nghẽn trong đường truyền dĩ thái của cột sống, và làm sinh động hay tích điện năm luân xa dọc theo cột sống và hai luân xa bên trong đầu. Những luồng sinh khí bên trong các não thất cũng được đưa vào hoạt động. Chúng mang lại hiệu quả tẩy sạch, hay nói đúng ra là thải trừ trong đó. Cho đến nay, người môn sinh chưa nên thực hiện cố gắng vừa kể. Y chỉ nên làm hết sức mình để tâm y có nguyện vọng “bừng cháy,” và liên tục tinh luyện tính chất của thể xác, thể tình cảm và thể trí đúng theo yêu cầu. Khi thực hiện được điều này, sự đáp ứng của linh hồn sẽ có hiệu quả. [210] Nhờ đó, phản ứng trong các luân xa dĩ thái sẽ xảy ra một cách an toàn, bình thường, và theo đúng luật.

The three verses quoted above deal with,

Ba trích đoạn nêu trên nói về

a. The seven centres, hitherto quiescent,

a. Bảy luân xa, từ trước đến nay vẫn còn yên lặng,

b. The ten closed portals, the ten orifices of the physical body,

b. Mười cánh cửa đóng kín, mười khiếu của thể xác,

c. The five senses, through which contact with the physical plane takes place, and in these terms the entire outgoing and ingoing activities of the physical plane man are comprehended.

c. Năm giác quan, qua đó mỗi người tiếp xúc với cõi trần, và trong những phạm vi này có tất cả các hoạt động hướng ngoại và hướng nội của phàm nhân ở cõi trần.

When these have all been brought under the direction of the soul, or inner ruler, then unity with the soul is effected, and consequently identification with that one in whom we live and move and have our being.

Khi các hoạt động vừa kể có sự điều khiển của linh hồn, hay đấng ngự trị ở nội tâm, thì sự hợp nhất với linh hồn được thực hiện. Do đó mà có sự đồng nhất với đấng mà chúng ta sống, di chuyển và hiện tồn trong ngài.

44. Spiritual reading results in a contact with the Soul (or divine One).

44. Khả năng thấu hiểu tinh thần mang lại sự giao tiếp với linh hồn (hay là chân ngã thiêng liêng).

This might perhaps more literally be translated as “the reading of symbols produces contact with the soul.” A symbol is a form of some kind which veils or hides a thought, an idea or a truth and it might be laid down therefore as a general axiom that every form of every kind is a symbol, or the objective veil of a thought. This when applied, will be found to refer equally to a human form, which is intended to be the symbol (or made in the image) of God; it is an objective [211] form veiling a divine thought, idea or truth, the tangible manifestation of a divine concept. The goal of evolution is to bring to perfection, this objective symbolic form. When a man knows that, he ceases to identify himself with the symbol which is his lower nature. He begins to function consciously as the divine inner subjective self, using the lower man to veil and hide his form, and daily dealing with that form so that it is moulded and wrought into an adequate instrument of expression. The idea is also carried forward into the daily life, in the attitude of the man to every form (in the three kingdoms of nature) he contacts. He seeks to see below the surface and to touch the divine idea.

Có thể dịch câu này theo nghĩa đen là “việc đọc hiểu các biểu tượng giúp hành giả giao tiếp với linh hồn.” Biểu tượng là một loại hình thể nào đó có che giấu hay ẩn giấu một tư tưởng, ý tưởng hay chân lý. Vì thế, có thể nói chung rằng mọi loại hình thể đều là một biểu tượng, hay lớp màn che bên ngoài của một tư tưởng. Điều hiển nhiên này, khi được áp dụng, cũng chỉ về hình hài của con người, vốn là biểu tượng (hay được tạo nên theo hình ảnh) của Thượng Đế. [211] Đó là hình thể bên ngoài che giấu một tư tưởng, ý tưởng hay chân lý thiêng liêng, sự biểu hiện hữu hình của một khái niệm thiêng liêng. Mục tiêu của cuộc tiến hóa là đưa cái hình thể biểu tượng này ở ngoại giới đến mức hoàn thiện. Khi biết được điều đó, hành giả không còn tự đồng hóa với cái biểu tượng vốn là phàm tính của mình. Y bắt đầu hoạt động hữu thức với tư cách chân ngã thiêng liêng ở nội tâm. Chân ngã dùng phàm nhân để che giấu và ẩn giấu hình thể của mình, và hằng ngày làm việc với hình thể đó, nắn đúc nó thành một khí cụ thích hợp để biểu lộ. Ý tưởng này cũng được triển khai trong cuộc sống thường ngày, trong thái độ của hành giả đối với mọi hình thể khác mà y tiếp xúc (trong tam giới của thiên nhiên). Y cố gắng nhìn xuyên qua cái bề ngoài để chạm đến ý tưởng thiêng liêng.

This is the fourth of the Rules and concerns the man’s inner attitude to the objective universe. It might be said therefore that the rules concern a man’s attitude towards:

Đây là qui tắc thứ tư trong các Qui luật liên quan đến thái độ nội tâm của mỗi người đối với vũ trụ bên ngoài. Vì thế, có thể nói rằng các qui luật này áp dụng cho thái độ của y đối với:

1. His own lower nature

internal and external purification,

2. His karma or lot in life

contentment,

3. His soul or ego

fiery aspiration,

4. Environment and physical plane contacts

spiritual reading.

5. The one Existence, God

devotion to Ishvara.

1.

Phàm tính của chính mình

tinh luyện bên trong và bên ngoài

2.

Nghiệp quả hay vận mệnh của y trong đời

an vui, hài mãn,

3.

Linh hồn hay chân ngã của y

nhiệt vọng bừng cháy,

4.

Tiếp xúc với môi trường sống và cõi trần

thấu hiểu tinh thần,

5.

Đấng duy nhất, Thượng Đế

sùng kính Ishvara.

Thus a “right attitude” to all things covers this set of rules.

Thế là các qui luật này giúp hành giả có “thái độ đúng đắn” đối với mọi sự vật.

45. Through devotion to Ishvara the goal of meditation (or samadhi) is reached.

45. Với lòng sùng kính Ishvara, hành giả đạt được mục tiêu của tham thiền (hay samadhi).

The goal of meditation is ability to contact the divine inner self, and through the contact, to come [212] to a realization of the unity of that self with all selves and the All-Self, and this, not just theoretically, but as a fact in nature. This comes about when a state called “samadhi” is achieved wherein the consciousness of the thinker is transferred out of the lower brain consciousness into that of the spiritual man or soul on its own plane. The stages of this transfer might be stated to be as follows:

Mục tiêu của tham thiền là khả năng giao tiếp với chân ngã thiêng liêng ở nội tâm. Qua sự giao tiếp đó, [212] hành giả nhận thức được tính duy nhất của chân ngã với mọi cái ngã khác và với Đại Ngã. Y hiểu điều này không chỉ về mặt lý thuyết, mà còn là một sự kiện thực tế. Điều này xảy ra khi hành giả đạt trạng thái “samadhi.” Trong đó, tâm thức của người suy tưởng chuyển ra khỏi ý thức cấp thấp của não bộ, nhập vào tâm thức của con người tinh thần hay linh hồn trên cảnh giới của mình. Có thể kể ra các giai đoạn chuyển nhập vừa kể như sau:

1. Transfer of the consciousness of the body, the outgoing instinctual consciousness of the physical man, into the head. This necessitates a conscious withdrawal of the consciousness to a point within the brain in the neighborhood of the pineal gland, and its conscious definite centering there.

1. Chuyển ý thức của thân xác, cái ý thức theo bản năng hướng ngoại của phàm nhân, vào trong đầu. Đây là sự hữu ý rút tâm thức đến một điểm bên trong não bộ ở gần tuyến tùng, và hữu thức tập trung rõ rệt ở đó.

2. Transfer of the consciousness out of the head or brain into the mind or mental body. In this transfer, the brain remains keenly alert and the withdrawal is consciously undertaken via the etheric body, using the brahmarandra or opening at the top of the head. At no point is the man in trance, unconscious or asleep. He actively undertakes and carries forward this abstracting or withdrawing process.

2. Chuyển tâm thức ra khỏi đầu hay não bộ vào thể trí hay hạ trí. Trong khi tâm thức chuyển di, não bộ vẫn hoàn toàn tỉnh thức. Việc rút tâm thức được hữu ý thực hiện qua thể dĩ thái, dùng brahmaranda, hay lỗ thoát ở đỉnh đầu. Không phút giây nào hành giả ở trong trạng thái ngây ngất xuất thần, hôn trầm hay ngủ say. Y chủ động thực hiện việc rút tâm thức này.

3. Transfer of the consciousness from out of the mental body into that of the ego, the soul, lodged in the causal body or egoic lotus. There is then brought about a condition in which the brain, the mental body and the egoic body form a coherent quiescent unit, alive, alert, positive and steady.

3. Chuyển tâm thức ra khỏi thể trí vào tâm thức của chân ngã hay linh hồn, ở trong thể nguyên nhân hay hoa sen chân ngã. Kế đến là một trạng thái mà não bộ, thể trí và thể của chân ngã hợp thành một đơn vị tĩnh lặng và phối kết, sinh động, linh mẫn, tích cực và vững vàng.

4. The state of samadhi or spiritual contemplation [213] can then be entered, when the soul looks out upon its own world, sees the vision of things as they are, contacts reality and “knows God.”

4. Rồi hành giả đi vào trạng thái samadhi hay chiêm ngưỡng tinh thần. [213] Bấy giờ linh hồn nhìn ra thế giới của mình, thấy thực tính của các sự vật, giao tiếp với thực tại và “biết Thượng Đế.”

Following upon this comes the stage in which the spiritual man transmits to the brain via the mind that which is visioned, seen, contacted and known; and in this way, the knowledge becomes part of the brain contents and is available for use upon the physical plane.

Sau đó, con người tinh thần truyền qua thể trí đến não bộ những gì được thị kiến, tiếp xúc và biết. Bằng cách này, sự hiểu biết nói trên trở nên một phần nội dung của não bộ, sẵn sàng được sử dụng ở cõi trần.

This is the goal of the meditation process, and the results in their many distinctions are the subject of Book III. and are produced by conformity to the eight means of yoga dealt with in Book II. Only devotion to Ishvara or true love of God, with its accompanying qualities of service, love of man, and patient endurance in well-doing, will carry a man along this arduous path of discipline, purification and hard work.

Đây là mục tiêu của tiến trình tham thiền, với nhiều kết quả khác nhau được bàn trong Quyển III. Các kết quả đó sở dĩ có được là nhờ tuân thủ tám phương tiện của yoga được bàn trong Quyển II. Chỉ sự sùng kính Ishvara hay thực lòng yêu thương Thượng Đế, với các phẩm tính kèm theo gồm phụng sự, yêu mến mọi người, và bền lòng hành thiện, mới giúp hành giả tiến lên trên con đường gian khổ của giới luật, tinh luyện và cố gắng nhọc nhằn.

MEANS III. POSTURE

PHƯƠNG TIỆN III. TƯ THẾ

46. The posture assumed must be steady and easy.

46. Tư thế phải vững vàng và thoải mái.

This sutra is one that has led our occidental students into a great deal of trouble for they have interpreted it in an entirely physical sense. That it has a physical meaning is true but taken in reference to the lower threefold nature it might be said that it refers to a steady immovable position of the physical body when in meditation, a firm steadfast unwavering condition of the astral or emotional body in the passage through worldly existence, and an unfluctuating steady mind, one [214] that is absolutely under control. Of these three, it might be said that the physical posture is of the least importance, and that the position in which the aspirant can the soonest forget that he possesses a physical body is the best. It might be generally laid down that an upright position in a comfortable chair, with the spine erect, the feet crossed naturally, the hands folded in the lap, the eye closed, and the chin a little dropped is the best posture for the occidental aspirant. In the East there is a science of postures and about eighty-four different positions, some of them most intricate and painful, are listed. This science is a branch of hatha yoga and is not to be followed by the fifth root-race; it is a remnant of that yoga which was necessary and sufficient for the Lemurian root-race man, who needed to learn physical control. Bhakti yoga, or the yoga of the devotee was the yoga of the Atlantean or fourth root-race man, plus a little hatha yoga. In this fifth rootrace, the Aryan, hatha yoga should fall into desuetude altogether where the disciple is concerned, and he should occupy himself with Raja Yoga plus bhakti yoga—he should be a mental devotee.

Đây là một câu kinh khiến các môn sinh Tây phương gặp nhiều khó khăn. Vì họ giải thích nó theo ý nghĩa hoàn toàn thể chất. Đúng là câu kinh này có một phần ý nghĩa về thể xác. Thế nhưng, xét theo ba phương diện của phàm tính, có thể nói rằng câu kinh này chỉ về ba điều. Một là vị thế vững vàng, bất động của thể xác trong tham thiền. [214] Hai là tình trạng vững mạnh, ổn định, không lay chuyển của thể cảm dục hay tình cảm trong đời sống ở cõi trần. Và ba là thể trí ổn cố, không xao động, hoàn toàn được chế ngự. Trong ba điều vừa kể, có thể nói tư thế của thân xác là ít quan trọng nhất. Cũng có thể nói thêm rằng tốt nhất nên ở vị thế mà trong đó hành giả khả dĩ nhanh chóng quên rằng mình có một thân xác. Nói chung, có thể tư thế tốt nhất cho người chí nguyện Tây phương là ngồi ngay ngắn trong chiếc ghế dựa thoải mái, với cột sống thẳng đứng, hai bàn chân tréo tự nhiên, và hai bàn tay chắp lại trong lòng, mắt nhắm, và cằm hơi hạ xuống một tí. Ở phương Đông có một khoa dạy về các tư thế, gồm khoảng tám mươi bốn tư thế khác nhau, trong đó có những tư thế rất rắc rối và gây đau đớn. Khoa này là một chi nhánh của hatha yoga, và người thuộc phân chủng thứ năm không nên theo. Đó là tàn tích của một khoa yoga mà ngày xưa vốn cần thiết và đầy đủ cho người thuộc căn chủng Lemuria, vì họ cần học cách kiểm soát thân xác. Kế đến là bhakti yoga, hay yoga của người sùng tín. Đó là yoga của người Atlantis hay thuộc căn chủng thứ tư, có thêm một ít hatha yoga. Trong căn chủng thứ năm hiện nay, là giống dân Aryan, đối với người đệ tử huyền môn thì hatha yoga đã hoàn toàn lỗi thời. Y nên chú tâm thực hành Raja Yoga cùng với bhakti yoga − y cần phải là người sùng tín ở cấp trí tuệ.

The Lemurian disciple learned to control the physical body and to devote it to the service of Ishvara through hatha yoga, with aspiration towards emotional control.

Người đệ tử vào thời kỳ Lemuria học cách kiểm soát thể xác và hiến dâng nó để phụng sự Ishvara qua hatha yoga, với nguyện vọng chế ngự tình cảm.

The Atlantean disciple learned to control the emotional body and to devote it to the service of Ishvara through bhakti yoga, with aspiration towards mental control. [215]

Người đệ tử trong thời kỳ Atlantis học cách kiểm soát thể tình cảm và hiến dâng nó để phụng sự Ishvara qua bhakti  yoga, với nguyện vọng chế ngự thể trí. [215]

The Aryan disciple has to learn to control the mental body and devote it to the service of Ishvara through Raja Yoga, with aspiration towards knowledge of the indweller, the soul. Thus in this root-race, the entire lower man, the personality is subjugated and the “Transfiguration” of humanity takes place.

Người đệ tử của thời kỳ Aryan phải học cách kiểm soát thể trí và hiến dâng nó để phụng sự Ishvara qua Raja Yoga, với nguyện vọng hiểu biết được linh hồn, là đấng ngự trị ở nội tâm. Nhờ đó mà trong căn chủng này trọn cả phàm nhân và phàm tính được chế ngự, mang lại sự “Biến dung” cho nhân loại.

47. Steadiness and ease of posture is to be achieved through persistent slight effort and through the concentration of the mind upon the infinite.

47. Có tư thế vững vàng và thoải mái nhờ cố gắng nhẹ nhàng nhưng kiên trì, và qua việc tập trung tâm trí vào cái vô cùng.

This covers the two aspects which in meditation produce difficulty, the comfort of the body and the control of the mind. It is noteworthy that the effort to attain forgetfulness of the physical body through correct posture is brought about through steady gentle persistent practise, rather than through the violent forcing of the body into postures and attitudes unaccustomed and uncomfortable. When this can be done and when the mind can be so engrossed upon a consideration of the things of the soul, then steadiness and ease characterize the man on the physical plane. He is forgetful of the physical vehicle and hence can concentrate the mind, and his concentration of the mind is then so one-pointed that thought of the body becomes impossible.

Câu này bàn về hai khía cạnh khó khăn trong tham thiền, sự thoải mái của xác thân và việc chế ngự thể trí. Cần lưu ý rằng có thể thực hiện cố gắng hoàn toàn quên đi thân xác qua tư thế đúng bằng cách kiên trì thực hành nhẹ nhàng, liên tục. Đó không phải là việc thô bạo ép buộc thân xác vào những tư thế và thái độ mà nó không quen và không thấy thoải mái. Khi có thể thực hành như trên, và khi cái trí chuyên chú xem xét những sự việc của linh hồn, thì bấy giờ thân xác sẽ vững vàng, thoải mái. Hành giả hoàn toàn quên đi thân xác và có thể tập trung vào thể trí. Việc định trí của y bấy giờ sẽ nhất tâm đến mức không còn nghĩ gì đến thân xác.

48. When this is attained, the pairs of opposites no longer limit.

48. Khi hành giả đạt được điều này, các cặp đối cực không còn hạn chế.

The pairs of opposites concern the desire body and it is significant that in the preceding sutra [216] only the mind and the physical body were dealt with. In this sutra the emotional nature, expressing itself through desire fails to be influenced by the pull of any attractive force. The astral body becomes quiescent and non-assertive, unresponsive to any lure from the world of illusion.

Các cặp đối cực chỉ về thể dục vọng. Điều có ý nghĩa là câu kinh trước chỉ bàn đến thể trí và thể xác [216]. Câu này nói về bản chất tình cảm, tự biểu lộ qua sự ham muốn, nay không còn bị ảnh hưởng bởi sức lôi kéo của bất cứ lực nào thu hút nó. Thể cảm dục trở nên yên lặng, không biểu lộ điều gì, và không ứng đáp với mọi cám dỗ từ thế giới ảo tưởng.

There is a great mystery concerned with the astral body of man and with the astral light, and the nature of the mystery is still only known to advanced initiates. The astral light is thrown into objectivity by two producing factors, and the astral body of a man is responsive to two types of energy. They seem essentially in themselves to lack character or form but to be dependent for manifestation upon “that which is above and that which is below.” The desire nature of man, for instance, seems to respond to the lure of the great world of illusion, the maya of the senses, or to the voice of the ego, using the mental body. Vibrations reach the astral body from the physical plane and from the mental world, and according to the nature of the man and to the point in evolution which he has reached, so will be the response to the higher or the lower call.

Có sự bí ẩn sâu xa liên quan đến thể cảm dục của con người và ánh sáng cõi cảm dục. Chỉ các điểm đạo đồ cấp cao mới hiểu được điều bí ẩn này. Ánh sáng cảm dục được chiếu rọi ra ngoại giới bởi hai yếu tố phát khởi, và thể cảm dục của con người ứng đáp với hai loại năng lượng. Dường như cốt yếu là chính chúng không có đặc tính hay hình thể riêng mà, để biểu hiện, chúng tùy thuộc vào “cái ở bên trên và cái ở bên dưới.” Ví dụ như, tính ham muốn của con người dường như ứng đáp với sự cám dỗ của thế giới ảo tưởng rộng lớn, và ảo ảnh của các giác quan. Nó cũng ứng đáp với tiếng nói của chân ngã, khi chân ngã sử dụng thể trí. Các rung động đến với thể cảm dục từ cõi trần và từ cõi trí. Tùy theo tính chất của mỗi người và tùy trình độ tiến hóa y đã đạt, mà nó sẽ ứng đáp với tiếng gọi từ cấp cao hay cấp thấp.

The astral body is either attentive to the egoic impression or swayed by the million voices of earth. It apparently has no voice of its own, no character of its own. This has been pictured for us in the Gita where Arjuna stands midway between the two opposing forces of good and evil and searches for the right attitude to both. The astral plane is the battleground of the soul, the place of victory or the place of defeat; it is the [217] kurukshetra, upon which the great choice is made.

Thể cảm dục có thể chú ý đến ấn tượng của chân ngã, hoặc bị lung lạc bởi vô vàn tiếng gọi của trần gian. Chừng như nó không có tiếng nói riêng, hay đặc tính riêng. Điều này đã được minh họa trong Chí Tôn Ca, khi Arjuna bâng khuâng đứng giữa hai mãnh lực thiện và ác đối chọi nhau, và tìm cách nào để có thái độ đúng đối với cả hai. Cõi cảm dục là chiến trường của linh hồn, là nơi linh hồn chiến thắng hay thất bại. Đó chính là cánh đồng Kurukshetra [217], nơi có sự chọn lựa quan trọng.

In these sutras concerning posture, the same idea lies latent. The physical plane and the mental plane are emphasized and it is brought out that when they are adjusted rightly, when poise on the physical plane and one pointedness on the mental plane are attained, then the pairs of opposites no longer limit. The point of balance is reached and the man is liberated. The scales of a man’s life are absolutely adjusted and he stands free.

Trong các câu kinh nói về tư thế trên đây, có hàm chứa cùng một ý tưởng. Cõi trần và cõi trí đều được nhấn mạnh. Kế đến là nêu rõ rằng khi chúng được điều chỉnh đúng, khi hành giả đạt được sự thăng bằng ở cõi trần và sự chuyên nhất trên cõi trí, thì y không còn bị giới hạn bởi các cặp đối cực. Y đạt sự quân bình và được giải thoát. Cán cân được điều chỉnh hoàn toàn thăng bằng trong cuộc sống của hành giả và y được tự do.

MEANS IV. PRANAYAMA

PHƯƠNG TIỆN IV. PRANAYAMA

49. When right posture (asana) has been attained there follows right control of prana and proper inspiration and expiration of the breath.

49. Khi đã có tư thế đúng (asana), thì tiếp theo là kiểm soát prana đúng cách và hơi thở vào và ra được điều hòa.

Here again we come to a sutra that has led to much misunderstanding and much mischief. Teaching on the control of prana is prevalent and has led to the following of breathing exercises and to the practices dependent for their success upon the suspension of the breathing process. Most of this has been caused by a belief in the occidental mind that prana and breath are synonymous terms. This is by no means the case. Vivekananda points this out in his commentary on the sutra in the following words:

Ở đây chúng ta lại có một câu kinh đã đưa đến nhiều sự hiểu lầm, và nhiều phiền lụy. Giáo huấn về việc kiểm soát prana rất phổ biến. Vì thế mà khiến người ta làm theo những cách tập thở và những lối thực hành mà để thành công cần phải ngưng hơi thở. Hầu hết những lối này là do niềm tin của người phương Tây cho rằng prana và hơi thở là hai từ đồng nghĩa. Tuy nhiên, sự thực không phải là như vậy. Vivekananda nêu rõ điều vừa kể trong phần luận giải của ông về câu kinh này như sau:

“When the posture has been conquered, then this motion is to be broken and controlled, and thus we come to pranayama; the controlling of the vital forces of the body. Prana is not breath, [218] though it is usually so translated. It is the sum total of the cosmic energy. It is the energy that is in each body, and its most apparent manifestation is the motion of the lungs. This motion is caused by prana drawing in the breath, and is what we seek to control in pranayama. We begin by controlling the breath, as the easiest way of getting control of the prana.”

“Khi đã có tư thế đúng, thì chuyển động này được ngưng dứt và chế ngự. Bấy giờ chúng ta đến pranayama, sự kiểm soát sinh lực trong cơ thể. Prana không phải là hơi thở [218], dù vẫn thường được dịch như thế. Nó là toàn bộ năng lượng vũ trụ. Nó là năng lượng trong mỗi cơ thể. Biểu hiện rõ nhất của nó là chuyển động của phổi. Chuyển động này do prana gây nên, khiến chúng ta hít vào. Đây chính là những gì mà chúng ta tìm cách kiểm soát trong pranayama. Chúng ta bắt đầu bằng cách điều khiển hơi thở, là cách dễ nhất để điều khiển prana.”

Prana is the sum total of the energy in the body (and this applies equally to the planetary and the solar body). It therefore concerns the inflow of energy into the etheric body and its outflow through the medium of the physical body. In the physical body this is symbolized for us in the necessary inspiration and exhalation of the breath. By stressing the physical act of breathing, much of the true sense of this sutra has been lost.

Prana là toàn bộ năng lượng trong cơ thể (và điều này cũng áp dụng cho một cơ thể hành tinh hay cơ thể thái dương). Vì thế, nó liên quan đến sự lưu nhập của năng lượng vào thể dĩ thái, và sự lưu xuất năng lượng qua trung gian của thể xác. Trong thể xác, tiêu biểu của nó là sự hít vào và thở ra cần thiết của hơi thở. Khi chú trọng tác động thở của thân xác, người ta đã bỏ qua phần lớn thực nghĩa của câu kinh này.

Certain things should be remembered as one studies pranayama. First, that one of the main purposes of the etheric body is that it acts as a stimulator and the energizer of the dense physical body. It is almost as if the dense physical body had no independent existence but simply acted as it was swayed and motivated by the etheric body. The etheric body is the force or vital body and it permeates every part of the dense vehicle. It is the background, the true substance of the physical body. According to the nature of the force animating the etheric body, according to the activity of that force in the etheric body, according to the aliveness or the sluggishness of the most important parts of the etheric body (the centres up the [219] spine) so will be the corresponding activity of the physical body. Similarly and symbolically, according to the wholeness of the breathing apparatus, and according to the ability of that apparatus to oxygenate and render pure the blood, so will be the health or wholeness of the dense physical body.

Một số điều cần ghi nhớ khi nghiên cứu pranayama. Trước hết, một trong những mục đích chính của thể dĩ thái là nó có vai trò kích thích và cấp năng lượng cho thể xác. Hầu như thể xác không thể tồn tại độc lập, mà chỉ hoạt động khi được thể dĩ thái ảnh hưởng và thúc đẩy. Thể dĩ thái là thể động lực hay sinh lực, và nó thấm nhuần mọi cơ phận của thân xác. Nó là nền tảng, là thực chất của thể xác. Tùy theo tính chất của lực làm sinh động thể dĩ thái; tùy theo hoạt động của lực ấy trong thể dĩ thái; tùy theo sức sống động hay trì trệ của hầu hết những phần quan trọng nhất trong thể dĩ thái [219] (các luân xa dọc theo cột sống) mà thể xác sẽ có hoạt động tương ứng. Tương tự và nói theo biểu tượng, tùy theo sự toàn vẹn của bộ máy hô hấp, và tùy theo khả năng của bộ máy đó có thể cung cấp oxy và thanh lọc máu nhiều đến đâu, mà thể xác sẽ được mạnh khỏe và toàn vẹn đến mức đó.

It should also be remembered that the key to the just response of the lower to the higher, lies in rhythm, and in the ability of the physical body to respond or vibrate in rhythmic unison with the etheric body. Students have found out that this is much facilitated by steady even breathing, and the majority of the breathing exercises when emphasized to the exclusion of the previous three means to yoga (the Commandments, Rules and Posture) have a definite effect upon the etheric centres and may lead to disastrous results. It is most necessary that students should follow the means of yoga in the order in which they are given by Patanjali, and so see to it that the purificatory process, the discipline of the outer and inner life and one-pointedness of the mind should be aimed at, prior to attempting the regulation of the etheric vehicle through breathing, and the awakening of the centres.

Cũng cần nên ghi nhớ rằng điều then chốt cho sự ứng đáp đúng của cái thấp đối với cái cao, là ở tiết điệu, và tùy theo khả năng của thể xác ứng đáp hay rung động hòa hợp nhịp nhàng đến đâu với thể dĩ thái. Các môn sinh nhận thấy rằng sự ứng đáp này trở nên dễ dàng hơn nhiều bằng cách thở đều đặn, liên tục. Vì thế, hầu hết những lối tập thở khi được chú trọng mà không kèm theo ba phương tiện trước của yoga (là các Giới răn, các Qui luật và Tư thế) sẽ mang lại tác dụng rõ rệt trên các luân xa dĩ thái và có thể dẫn đến những kết quả tai hại. Điều hết sức cần thiết là các môn sinh cần thực hành đúng các phương tiện của yoga theo thứ tự của chúng đã được Patanjali đưa ra. Họ phải thận trọng làm thế nào để trước hết thực hiện được tiến trình tinh luyện, áp dụng giới luật vào cuộc sống bên ngoài và đời sống nội tâm, và thể trí chuyên nhất. Sau đó họ mới nên cố gắng điều hòa thể dĩ thái qua tập thở, và đánh thức các luân xa.

The work done through pranayama might briefly be stated to be the following:

Công việc được thực hiện qua pranayama có thể nói vắn tắt như sau:

1. The oxygenation of the blood and hence the cleansing of the blood currents and consequent physical health.

1. Cung cấp oxy cho hệ tuần hoàn và do đó làm sạch dòng máu, mang lại sức khỏe cho thân xác.

2. The bringing of the physical body into a vibration synchronous with that of the etheric [220] body. This results in the complete subjugation of the dense physical body and its bringing into line with the etheric body. The two parts of the physical vehicle form a unit.

2. Làm cho thể xác rung động đồng bộ với thể dĩ thái. [220] Điều này giúp hoàn toàn chế ngự thể xác, khiến nó hòa hợp với thể dĩ thái. Hai phần này của thể hồng trần trở thành một đơn vị duy nhất.

3. The transmission of energy via the etheric body to all parts of the dense physical body. This energy may come from various sources:

3. Việc truyền năng lượng qua thể dĩ thái đến mọi cơ phận trong thể xác. Năng lượng này có thể đến từ những nguồn khác nhau:

a. From the planetary aura. In this case it is planetary prana, and so concerns primarily the spleen and the health of the physical body.

a. Từ hào quang của hành tinh. Trong trường hợp này, đó là prana của hành tinh. Vì thế nó liên quan chính yếu đến luân xa lá lách và sức khỏe của thân xác.

b. From the astral world via the astral body. This will be purely kamic or desire force and will affect primarily the centres below the diaphragm.

b. Từ cõi cảm dục, qua thể cảm dục. Loại prana này thuần là sức mạnh của dục vọng hay kama, và chủ yếu ảnh hưởng đến các luân xa ở dưới cơ hoành.

c. From the universal mind or manasic force. This will be largely thought force and will go to the throat centre.

c. Từ trí tuệ đại đồng hay là mãnh lực manas. Đây phần lớn là sức mạnh tư tưởng và sẽ đến luân xa cổ họng.

d. From the ego itself, stimulating primarily the head and heart centres.

d. Từ chính chân ngã, chủ yếu kích thích luân xa đầu và luân xa tim.

Most people receive force only from the physical and astral planes, but disciples receive force also from the mental and egoic levels.

Hầu hết mọi người chỉ nhận các lực từ cõi trần và cõi cảm dục. Nhưng các đệ tử thì còn nhận thêm các lực từ những cấp độ trí tuệ và chân ngã.

50. Right control of prana (or the life currents) is external, internal or motionless; it is subject to place, time and number and is also protracted [prolong] or brief.

50. Việc kiểm soát đúng prana (hay các dòng sinh lực) được thực hiện bên ngoài, bên trong hay bất động; cố gắng này tùy theo địa điểm, thời gian và con số, cũng như kéo dài hay ngắn ngủi.

This is a most difficult sutra to understand and its meaning has been made purposely abstruse, owing to the dangers incident to the control of the bodily forces. The ideas and teaching conveyed fall into three parts:

Đây là một câu kinh rất khó hiểu. Tác giả đã cố ý làm cho ý nghĩa của nó trở nên khó hiểu, vì những mối nguy kèm theo việc vận dụng các mãnh lực của cơ thể. Các ý tưởng và giáo huấn được truyền đạt gồm ba phần:

I. The external, internal or motionless control [221] of the life currents of the body (dense and etheric). This concerns:

I. Việc kiểm soát các dòng sinh lực của cơ thể (thể xác và thể dĩ thái) [221] ở bên ngoài, bên trong hoặc bất động. Cố gắng này liên quan đến:

1. The breathing apparatus and the use of the breath.

1. Bộ máy hô hấp và việc vận dụng hơi thở.

2. The vital airs and their radiation.

2. Các dòng sinh khí và sự phát quang của chúng.

3. The centres, and their awakening.

3. Các luân xa, và việc đánh thức chúng.

4. The kundalini fire and its right progression up the spine.

4. Luồng hỏa kundalini và việc đi lên đúng cách của nó dọc theo cột sống.

II. The astrological significance and the relation of the man to his group, planetary or otherwise. This is dealt with in the words “place, time and number.”

II. Ý nghĩa chiêm tinh và mối liên hệ của mỗi người với nhóm của mình, với hành tinh hoặc liên hệ khác. Điều này được mô tả bằng các từ “địa điểm, thời gian và con số.”

III. The process of illumination and the production of response in the physical man via the brain to the higher impressions. This ability to respond to the voice of the ego and to become quiescent and receptive must precede the last four means of yoga which do not so immediately concern the dense physical plane or the etheric levels of consciousness.

III. Tiến trình khai ngộ và phàm nhân ứng đáp với các ấn tượng cao siêu qua não bộ. Khả năng ứng đáp vừa kể với tiếng nói của chân ngã, cũng như trở nên yên lặng và thụ cảm phải có trước khi thực hành bốn phương tiện sau của yoga. Bốn phương tiện sau này không mấy trực tiếp liên quan đến các cấp ý thức trong thể xác hay thể dĩ thái.

It will be obvious that much of the teaching conveyed in this sutra can only safely be given directly by the teacher to the pupil, after a proper study of the bodily conditions of that pupil. It is not possible nor right to give in a book intended for the general public those rules, practices and methods which enable the trained disciple to bring his dense physical vehicle into instantaneous synchronization with his etheric body, to densify and irradiate his aura so as to produce certain magnetic results in his environment, and to awaken his centres so that certain psychic powers are displayed. The methods for arousing the kundalini [222] fire and blending it with the downpouring egoic force must also be left for direct teaching by a master in this science to his pupil. There is extreme danger attendant upon the premature awakening of the fire, and the consequent destruction of certain protective structures in the etheric body and the breaking down of the barriers between this world and the astral world, before the pupil is properly “balanced between the pairs of opposites. There is a menace in the premature growth of the lower psychic powers before the higher nature is awakened, and the effect upon the brain can be seen as insanity in some form or other, mild or the reverse. A few explanatory words can, however, be given which will enable the true occult student to gain that information which, if correctly used, acts as a key to the possession of more. This is ever the occult method. Let us, therefore, deal briefly with our three points.

Hiển nhiên là phần lớn giáo huấn truyền đạt trong câu kinh này chỉ có thể được vị huấn sư trực tiếp chỉ dẫn cho người môn sinh một cách an toàn, sau khi xem xét kỹ điều kiện các thể của y. Không thể và cũng không đúng nếu đưa ra trong một quyển sách dành cho công chúng các qui tắc, những lối thực hành và các phương pháp đặc biệt nhờ đó mà người đệ tử thụ huấn có thể làm cho thể xác của y ngay tức khắc rung động đồng bộ với thể dĩ thái; có thể làm cho hào quang của y đặc lại và bức xạ để tạo ra một số kết quả từ lực trong môi trường chung quanh; và có thể đánh thức các luân xa của mình để khai mở một số quan năng thần thông. Phương pháp khơi dậy luồng lửa kundalini [222] và hòa lẫn nó với mãnh lực phóng hạ của chân ngã, cũng phải để cho vị thầy thông thạo khoa này chỉ dạy trực tiếp cho người môn đệ. Sẽ hết sức hiểm nguy nếu đánh thức luồng lửa này quá sớm bởi vì hậu quả là sự hủy diệt một số cơ cấu bảo vệ trong thể dĩ thái, và phá vỡ các rào cản giữa thế giới này và cõi cảm dục, trước khi người môn sinh có thể hoàn toàn “thăng bằng giữa các cặp đối cực.” Có mối đe dọa khi phát triển sớm các loại thần thông thấp trước khi khai mở bản tính cao siêu. Bấy giờ có thể thấy hiệu ứng trong não bộ là một loại điên cuồng nào đó, nặng hay nhẹ. Tuy nhiên, có thể đưa ra vài lời giải thích để cung cấp cho người môn sinh huyền bí đích thực một số thông tin. Nếu được dùng đúng, các thông tin này sẽ là chìa khóa giúp y hiểu biết nhiều hơn. Phương pháp huyền môn bao giờ cũng là như thế. Do đó, chúng ta hãy bàn vắn tắt về ba điểm nói trên.

I. The external control of the prana or life currents concerns those breathing exercises and rhythmic practices which bring the physical organs, allied with the etheric centres, into proper condition. These physical organs are themselves never specifically dealt with by the white magician or occultist. They are dealt with in black magic, and consist of the brain, the lungs, the heart, the spleen and the generative organs.

I. Việc kiểm soát prana hay các dòng sinh lực từ bên ngoài liên quan đến những lối tập thở và thực hành có tiết điệu, tạo điều kiện thích hợp cho một số cơ quan trong thể xác, vốn liên kết với các luân xa dĩ thái. Chính các cơ quan thể chất này không bao giờ được các nhà chánh thuật hay huyền bí gia chánh đạo cụ thể sử dụng. Chúng chỉ được các nhà hắc thuật dùng, và gồm có não bộ, phổi, tim, lá lách và cơ quan sinh dục.

The black magician definitely utilizes these physical parts of the body to generate a type of force which is a mixture of etheric force and dense physical energy, to enable him to do certain [223] forms of magical work and also to produce effects on the physical bodies of animals and men. It is the knowledge of this which is the basis of voodooism and of all those practices which cause the depletion and death of men and women who obstruct the path of the black magician or are regarded by him as enemies. With these the aspirant to the mysteries of the Brotherhood of the great White Lodge has nothing to do. He brings about the merging of the two parts of the dense physical, and the synchronization of the rhythm of the two bodies and the consequent unity of the entire lower man through attention to the etheric breath and rhythm. This inevitably produces the “external control of the life currents.”

Nhà hắc thuật dứt khoát sử dụng các bộ phận này trong thể xác để phát ra một loại mãnh lực là hỗn hợp của lực dĩ thái và năng lượng thân xác. Mãnh lực này giúp y thực hiện một số [223] dạng pháp thuật, cũng như gây những hiệu ứng trên thân xác của loài vật và con người. Chính kiến thức này là cơ sở của tà thuật và tất cả những lối thực hành gây suy kiệt và chết chóc cho những ai dám cản đường nhà hắc thuật, hoặc bị y xem là kẻ thù. Người chí nguyện tìm kiếm các bí nhiệm của Huyền môn Chánh đạo không hề quan tâm đến những việc làm này. Y mang lại sự phối hợp hai thành phần của thể hồng trần, và sự đồng bộ hóa tiết điệu của hai thể. Kết quả là sự thống nhất trọn cả phàm nhân qua sự chú tâm vào hơi thở vào tiết điệu dĩ thái. Cố gắng này tất nhiên giúp “kiểm soát các dòng sinh lực từ bên ngoài.”

The internal control of the life currents is brought about in three ways:

Việc kiểm soát các dòng sinh lực từ bên trong được thực hiện bằng ba cách:

1. By an intellectual understanding of the nature of the etheric body and the laws of its life.

1. Dùng trí tìm hiểu bản chất của thể dĩ thái và các luật sinh hoạt của nó.

2. Through a consideration of the types of energy and of their apparatus, the system of centres, to be found in the etheric body.

2. Xem xét kỹ các loại mãnh lực và bộ máy vận dụng chúng, tức là hệ thống các luân xa, có trong thể dĩ thái.

3. Through certain developments and knowledge which come to the aspirant when he is ready (having attended to the previous means of yoga) and which give him the ability to tap certain types of forces, energies, or shaktis, to utilize them correctly through the medium of his own centres and to produce effects which come under the descriptive terms, illuminative, purificatory, magnetic, dynamic, psychic, and magic.

3. Qua một số phát triển và hiểu biết mà người chí nguyện có được khi y đủ điều kiện sẵn sàng (sau khi đã tuân thủ các phương tiện đầu của yoga). Điều kiện này giúp y có thể tiếp xúc với một số loại mãnh lực, năng lượng, hay shakti, sử dụng chúng đúng cách qua các luân xa của mình, và tạo ra một số hiệu quả có tính soi sáng, tinh luyện, thuộc từ lực, động lực, thần thông và huyền thuật.

The motionless control of the life currents is the effect of the proper development of the other [224] two, external and internal control and must be present before the fifth means of yoga, withdrawal or abstraction becomes possible. It simply indicates perfectly balanced synchronization and the complete unification of the two parts of the physical body so that there is no impediment to the outgoing or incoming forces. When motionless control is reached, the yogi can withdraw from his physical body at will or can pull in that body and manipulate at will any of the seven great planetary forces.

Việc kiểm soát các dòng sinh lực một cách bất động là hiệu quả sự phát triển thích hợp của hai lối kiểm soát nói trên [224], tức là sự kiểm soát bên ngoài và bên trong. Hiệu quả này phải có trước khi có thể thực hiện phương tiện thứ năm của yoga là việc rút ý thức hay trừu tượng hóa. Hiệu quả này chỉ đơn thuần cho thấy sự đồng bộ hóa hoàn toàn thăng bằng và hoàn toàn thống nhất của hai thành phần của thể hồng trần. Nhờ thế mà các lực phóng xuất hay lưu nhập đều không trở ngại. Khi đạt khả năng kiểm soát bất động, nhà yogi có thể tùy ý rút tâm thức ra khỏi thân xác của mình. Hoặc y cũng có thể tùy ý đưa vào thể xác và tùy ý sử dụng một trong bảy mãnh lực quan trọng của hành tinh.

It should be borne in mind that the ideal condition is here dealt with and that no aspirant can achieve this means of yoga without working simultaneously at the other means also. The study of the parallelism in nature is of value here.

Cần lưu ý rằng ở đây chúng ta đang bàn đến điều kiện lý tưởng. Vì thế, người chí nguyện không thể đạt được phương tiện này của yoga nếu y không đồng thời thực hành các phương tiện khác. Việc nghiên cứu nguyên tắc hoạt động song hành trong thiên nhiên và áp dụng trong trường hợp này là điều rất tốt.

II. The astrological significance is also hinted at here in the three words, “place, time, and number.” In these words the universal triplicities must be recognized, and right control of the life currents must be seen to be related to karma, opportunity and form; there are certain words which when rightly understood give the key to all practical occultism and make the yogi a master of life. They are:

II. Ở đây, cũng hàm chứa ý nghĩa chiêm tinh trong ba từ, “nơi chốn, thời gian, và con số.” Ba từ vừa kể nói về những bộ ba rất phổ quát. Việc điều khiển đúng các dòng sinh lực có liên quan đến nghiệp quả, cơ hội và hình thể. một số từ sau đây khi được hiểu đúng sẽ là chìa khóa của toàn bộ huyền bí học thực hành, giúp nhà yogi trở thành bậc thầy trong nghệ thuật sống:

Sound

Number

Colour

Form

Word

Life

Light

Body

and these are recognized as subject to the space-idea and the time-element. It should be borne in mind, in this connection, that “space is the first entity” (Secret Doctrine I. 583) and that cyclic manifestation is the law of life. [225]

và những điều này được công nhận là chịu chi phối bởi ý niệm về không gian và yếu tố thời gian. Cũng nên lưu ý rằng “Không gian là thực thể đầu tiên” (Giáo lý Bí nhiệm I. 583), và nhớ rằng sự biểu hiện theo chu kỳ là định luật của đời sống. [225]

When this is recognized, the entity, expressing itself cyclically, will make its presence felt through differentiation, through the colour or quality of the veiling form and through the form itself. These factors make up the sum total of the expression of any identity, God or man, and the appearance of any man in exoteric expression on the physical plane is dependent upon the rhythmic or cyclic outgoing or indrawing energy of the great Life in whom he lives and moves and has his being. This is the basis of the science of astrology or the relationship of the planet, or planets to the human being and of their relation to the stars and the various signs of the zodiac.

Khi điều này được nhận thức, thực thể tự phát biểu theo chu kỳ vừa kể sẽ biểu hiện qua sự biệt hóa, qua màu sắc hay phẩm tính của cái hình thể che giấu nó, và qua chính hình thể đó. Các yếu tố này hợp thành toàn bộ sự biểu lộ của một sinh linh, dù đó là Thượng Đế hay con người. Vì thế, sự xuất hiện của một người qua biểu lộ ngoại tại ở cõi trần vốn tùy thuộc vào năng lượng hướng ngoại hay hướng nội có tính tiết điệu hay theo chu kỳ của Sự Sống vĩ đại, mà y sống, di chuyển và hiện tồn trong Ngài. Đây là cơ sở của khoa chiêm tinh. Khoa này nghiên cứu mối quan hệ của một hay nhiều hành tinh với con người, và sự liên hệ của chúng với các ngôi sao và những thiên tượng khác nhau trong Hoàng đạo.

Some knowledge of this is essential to the right control of the life currents, so that the disciple can avail himself of the “times and seasons” wherein progress can be expedited.

Rất cần có một số kiến thức về khoa này để có thể kiểm soát đúng các dòng sinh lực. Nhờ đó mà người đệ tử có thể tự ích dụng được “những thời cơ và mùa tiết” để tiến bộ nhanh hơn.

III. The process of illuminating the lower man becomes possible through the right control of the pranas and this “illuminating process” is an exact science for which these four means of yoga have prepared the way. The fires of the body are justly arranged, the “motionless” condition can be somewhat reached, the vital airs in the head are “at peace” and the entire lower man awaits one of two processes:

III. Có thể thực hiện tiến trình soi sáng phàm nhân qua việc kiểm soát đúng các loại prana. “Tiến trình khai ngộ” này là một khoa học chuẩn xác mà bốn phương tiện đầu của yoga đã mở đường. Các loại lửa trong cơ thể nay được điều phối đúng. Hành giả có thể phần nào đạt được điều kiện “bất động.” Các luồng sinh khí bên trong đầu đang “ổn định” và trọn cả phàm nhân đang chờ một trong hai diễn tiến sau đây:

a. The withdrawal of the true or spiritual man in order to function on some higher plane,

a. Sự triệt thoái của chân nhân hay con người tinh thần để hoạt động trên một cảnh giới cao siêu hơn,

b. Or the bringing down into the lower brain consciousness, of light, illumination and knowledge from the planes of the ego. [226]

b. Hoặc sự phóng hạ vào ý thức cấp thấp của não bộ, các loại ánh sáng, sự khai ngộ và hiểu biết từ các cảnh giới của chân ngã. [226]

51. There is a fourth stage which transcends those dealing with the internal and external phases.

51. Có giai đoạn thứ tư vượt cao hơn các giai đoạn kiểm soát bên trong và bên ngoài.

We have seen how the control of the life currents can be either externally active, internally active or balanced. This triple process brings the entire lower personal man into a condition, first of rhythmic response to the inner motivating factor (in this case, the ego or spiritual man on his own plane) and then of complete quiescence or stillness. This latter condition of receptive waiting, if one might so call it, is succeeded by one of a form of higher activity. This is literally the imposition of a new rate of vibration on the lower, the sounding forth of a new note, emanating from the inner spiritual man which produces certain definite effects in the three sheaths which constitute the lower self and which veil the divinity which is man. These changes are dealt with in the next two sutras.

Chúng ta đã thấy bằng cách nào mà việc kiểm soát các dòng sinh lực có thể được thực hiện qua tác động từ bên ngoài, tác động bên trong hoặc thăng bằng. Tiến trình gồm ba giai đoạn này đưa trọn cả phàm nhân vào một tình trạng: Trước hết là sự ứng đáp nhịp nhàng với yếu tố phát động nội tại (trong trường hợp này là chân ngã hay con người tinh thần trên cảnh giới của mình); sau đó là sự hoàn toàn yên lặng hay tĩnh lặng. Điều kiện sau vừa kể có thể gọi là sự chờ đợi thụ cảm, được kế tiếp bởi một dạng hoạt động cao siêu. Đây thực sự là áp dụng một nhịp độ rung động mới trên phàm tính. Đây là sự xướng lên một âm điệu mới, phát ra từ con người tinh thần. Âm điệu này tạo nên một số hiệu ứng rõ rệt trong ba hạ thể của phàm ngã, chúng che giấu thiên tính tức là chân nhân. Những thay đổi vừa kể sẽ được bàn đến trong hai câu kinh kế tiếp.

The work of the average aspirant is most frequently given to preparing the sheaths so that this fourth stage can become possible. His attention is concentrated upon the attainment of:

Việc làm của người tìm đạo trình độ trung bình hầu như nhằm chuẩn bị các hạ thể để thực hiện được bốn giai đoạn này. Y tập trung chú ý đến việc đạt được:

1. The conscious coordination of the three bodies or sheaths,

1. Sự hữu thức phối hợp ba lớp áo hay hạ thể,

2. Their due alignment,

2. Sự chỉnh hợp đúng cách của chúng,

3. The regulation of the rhythm of the sheaths so that they are synchronized with each other and with the rate of the egoic impression,

3. Sự điều hoà tiết điệu của các hạ thể. Nhờ đó, chúng được đồng bộ hóa với nhau và với nhịp độ ấn tượng của chân ngã,

4. Their unification into one coherent whole [227] so that the man is literally the three in one and the one in three,

4. Chúng trở thành một toàn thể cố kết và thống nhất. [227] Bấy giờ hành giả thực sự trở thành ba trong một và một trong ba,

5. Quiescence, or the attitude of positive receptivity to the higher inspiration and downflow of egoic life and energy.

5. Sự tĩnh lặng, hay là thái độ thụ cảm tích cực đối với nguồn hứng khởi cao siêu, và sự sống và năng lượng của chân ngã tuôn xuống.

It may help the student if he realizes that the right control of prana involves the recognition that energy is the sum total of existence and of manifestation, and that the three lower bodies are energy bodies, each forming a vehicle for the higher type of energy and being themselves transmitters of energy. The energies of the lower man are energies of the third aspect, the Holy Ghost or Brahma aspect. The energy of the spiritual man is that of the second aspect, the Christ force, or buddhi. The object of evolution in the human family is to bring this Christ force, the principle of buddhi, into full manifestation upon the physical plane and this through the utilization of the lower triple sheath. This triple sheath is the Holy Grail, the cup which is the receiver and container of the life of God. When the lower man is brought into proper response through attention to the four means of yoga already considered, two results begin to manifest in him and he is ready to use the remaining four means which will reorient him and bring him eventually to liberation.

Để kiểm soát đúng các loại prana, người môn sinh cần nhận thức rằng năng lượng là toàn bộ vạn hữu và bao gồm cả cuộc biểu hiện. Y cũng cần biết rằng ba hạ thể là các thể năng lượng; mỗi thể là phương tiện cho loại năng lượng cao hơn; và cả ba đều truyền chuyển năng lượng. Các năng lượng của phàm nhân là năng lượng của trạng thái thứ ba, Chúa Thánh Thần, hay là trạng thái Brahma. Năng lượng của con người tinh thần là năng lượng của trạng thái thứ hai, mãnh lực Christ, hay bồ-đề. mục tiêu của cuộc tiến hóa trong gia đình nhân loại là giúp mãnh lực Christ hay nguyên khí bồ-đề này biểu hiện đầy đủ ở cõi trần, qua việc sử dụng ba hạ thể. Ba thể này là Chén Thánh, để nhận và chứa đựng sự sống của Thượng Đế. Khi phàm nhân có thể ứng đáp thích hợp qua việc thực hành bốn phương tiện của yoga đã bàn ở trên, thì hai kết quả bắt đầu biểu lộ nơi y. Bấy giờ y sẵn sàng sử dụng bốn phương tiện còn lại. Chúng sẽ giúp y tái định hướng và rốt cuộc được giải thoát.

52. Through this, that which obscures the light is gradually removed.

52. Qua cố gắng này, những gì che án ánh sáng dần dần bị loại bỏ.

The first result is the gradual wearing away, or attenuation of the material forms which hide [228] the reality. This does not mean the wasting away of the forms but the steady refining and transmutation of the matter with which they are constructed so that they become so purified and clarified that the “Light of God” which they have hitherto hidden, can shine forth in all its beauty in the three worlds. This can be demonstrated as literally true upon the physical plane, for through the work of purification and the control of the life currents the light in the head becomes so apparent that it can be seen by those who have supernatural vision, as radiations extending all around the head, thus forming the halo so well known in pictures of the saints. The halo is a fact in nature and not just a symbol. It is the result of the work of Raja Yoga and is the physical demonstration of the life and light of the spiritual man. Vivekananda says, speaking technically (and it is good for Western occult students to master the technique and terminology of this science of the soul which the East has held in trust for so long):

Kết quả thứ nhất là sự dần dần tiêu mòn hay suy yếu của các thể vật chất che giấu [228] thực tại. Nói như thế không có nghĩa là các thể này bị hư hoại. Đúng ra, chúng được liên tục tinh luyện và siêu hóa các loại vật chất mà từ đó chúng được tạo thành. Kết quả là chúng trở nên thanh khiết và trong trẻo đến mức “Ánh sáng của Thượng Đế” vốn đã bị chúng che án từ trước thì nay có thể chói rạng với vẻ đẹp toàn vẹn trong tam giới. Có thể nói rằng điều này cũng thực tế xảy ra ở cõi trần. Bởi vì, qua cố gắng tinh luyện và kiểm soát các dòng sinh lực, ánh sáng bên trong đầu trở nên tỏ rõ đến đỗi người có nhãn quan siêu phàm có thể thấy nó như các phóng quang ra chung quanh đầu, hình thành vòng hào quang mà người ta rất thường thấy trong hình vẽ các vị thánh. Vòng hào quang là một sự kiện có tính cách thực tế chứ không chỉ là biểu tượng. Đó là kết quả của cố gắng thực hành Raja Yoga, là sự sống và ánh sáng của con người tinh thần biểu lộ ở cõi trần. Khoa học về linh hồn này đã được ủy thác cho phương Đông gìn giữ từ thời xa xưa, với những kỹ thuật và thuật ngữ mà các môn sinh huyền bí Tây phương cần thấu đáo. Bằng các thuật ngữ đó, Vivekananda đã nói như sau:

“The chitta has, by its own nature, all knowledge. It is made of sattva particles, but is covered by rajas and tamas particles, and by pranayama this covering is removed.”

“Do tính chất của nó, chitta có đủ mọi hiểu biết. Nó gồm các vi tử sattva, nhưng bị che khuất bởi các vi tử rajas và tamas. Lớp màn che này bị loại bỏ khi thực hành pranayama.”

53. And the mind is prepared for concentrated meditation.

53. Và cái trí nay sẵn sàng cho cố gắng tham thiền chuyên chú.

Johnston’s edition gives a beautiful rendering of this sutra in the words: “Thence comes the mind’s power to hold itself in the light—,” the idea being that once the condition of quiescence [229] has been reached, and the fourth stage of supernormal impression has been made possible, the remaining means of yoga, abstraction, attention, meditation and contemplation can be properly undertaken. The mind can be gripped and used and the process of transmitting the knowledge, light and wisdom from the ego or soul, to the brain via the mind can be safely undertaken.

Bản của Johnston chuyển dịch câu kinh này với những lời rất thi vị: “Bấy giờ thể trí có năng lực tự đứng vững trong ánh sáng −,” ý muốn nói rằng khi cái trí đã trở nên trầm lặng [229] và có thể tiếp nhận các ấn tượng cao siêu ở giai đoạn thứ tư, thì hành giả đủ điều kiện thích hợp để thực hành các phương tiện còn lại của yoga. Đó là trừu tượng hóa, chú tâm, tham thiền và chiêm ngưỡng. Y có thể chế ngự và vận dụng thể trí, và có thể an toàn thực hiện tiến trình truyền chuyển sự hiểu biết, ánh sáng và minh triết từ chân ngã hay linh hồn, đến não bộ thông qua thể trí.

MEANS V. ABSTRACTION

PHƯƠNG TIỆN V. TRỪU TƯỢNG HÓA

54. Abstraction (or Pratyahara) is the subjugation of the senses by the thinking principle and their withdrawal from that which has hitherto been their object.

54. Trừu tượng hóa (hay Pratyahara) là việc sử dụng nguyên khí tư duy để chế ngự các giác quan, và rút các giác quan ra khỏi những gì mà từ trước đến nay đã là đối tượng của chúng.

This sutra summarizes for us the work done in the control of the psychic nature, and gives us the result achieved when the thinker, through the medium of the mind, the thinking principle, so dominates the senses that they have no independent expression of their own.

Câu này tóm lược những điều đã thực hiện trong cố gắng chế ngự tính chất của cái tâm. Nó cũng nêu kết quả đạt được khi người suy tưởng, qua trung gian của cái trí tức là nguyên khí tư duy, thống ngự các giác quan đến mức chúng không còn tự biểu lộ một cách độc lập.

Before attention, meditation and contemplation, (the last three means of yoga) can be properly undertaken, not only must the outer conduct be corrected, not only must inner purity be arrived at, not only must the right attitude towards all things be cultivated and the life currents consequently controlled, but the capacity to subjugate the outgoing tendencies of the five senses must be worked at. So the aspirant is taught the right withdrawal or abstraction of the consciousness which is outgoing towards the world of phenomena, [230] and must learn to centre his consciousness in the great central station in the head from whence energy can be consciously distributed as he participates in the great work, from whence he can make a contact with the realm of the soul and in which he can receive the messages and impressions which emanate from that realm. This is a definite stage of achievement and is not simply a symbolic way of expressing one-pointed interest.

Trước khi có thể thích hợp để thực hành chú tâm, tham thiền, và chiêm ngưỡng (ba phương tiện cuối của yoga), hành giả phải hội đủ các điều kiện đã nêu trong các phương tiện trước. Y phải có ứng xử tốt đẹp trong cuộc sống ở ngoại giới. Y phải có sự thanh khiết ở nội tâm. Y phải có thái độ đúng trong mọi sự việc với hậu quả là chế ngự được các dòng sinh lực. Và phải có khả năng chế ngự khuynh hướng phóng ngoại của năm giác quan. Đến trình độ này, người chí nguyện được chỉ dạy phương pháp rút tâm thức hay triệt thoái đúng cách. Tâm thức này vốn phóng ngoại, hướng đến thế giới của các hiện tượng [230]. Y phải học cách tập chú tâm thức của mình vào trạm chính trung ương ở bên trong đầu. Từ đó, năng lượng có thể được hữu ý phân phối khi y tham gia công tác phụng sự rộng lớn. Từ đó, y có thể giao tiếp với lĩnh vực của linh hồn, nơi y có thể nhận các thông điệp và ấn tượng phát xuất từ lĩnh vực này. Đây là một giai đoạn thành tựu rõ rệt, chứ không chỉ là lối nói biểu tượng về sự quan tâm chuyên nhất.

The various avenues of sense perception are brought into a quiescent condition. The consciousness of the real man no longer surges outwards along its five avenues of contact. The five senses are dominated by the sixth sense, the mind and all the consciousness and the perceptive faculty of the aspirant is synthesized in the head, and turns inward and upward. The psychic nature is thereby subjugated and the mental plane becomes the field of man’s activity. This withdrawal or abstracting process proceeds in stages:

Những lối nhận thức khác nhau của các giác quan được làm yên lặng. Tâm thức của chân nhân không còn phóng ngoại theo năm lối giao tiếp nói trên. Ngũ quan được giác quan thứ sáu, là thể trí, ngự trị. Trọn cả tâm thức và khả năng nhận thức của hành giả được tổng hợp bên trong đầu, rồi hướng nội và hướng thượng. Bằng cách này, tính chất của cái tâm được chế ngự và cõi trí trở thành trường hoạt động của hành giả. Việc rút tâm thức hay triệt thoái này diễn tiến qua các giai đoạn sau đây:

1. The withdrawal of the physical consciousness, or perception through hearing, touch, sight, taste and smell. These modes of perception become temporarily dormant, and man’s perception becomes simply mental and the brain consciousness is all that is active on the physical plane.

1. Rút ý thức hay nhận thức của thân xác qua các cơ quan thính giác, xúc giác, thị giác, vị giác và khứu giác. Các phương thức cảm nhận này tạm thời ngủ yên. Ý thức của hành giả trở thành đơn thuần qua thể trí. Ý thức não bộ là tất cả những gì còn linh hoạt trong thể xác.

2. The withdrawal of the consciousness into the region of the pineal gland, so that man’s point of realization is centralized in the region between the middle of the forehead and the pineal gland.

2. Rút ý thức vào vùng của tuyến tùng. Bấy giờ điểm nhận thức của hành giả được tập trung vào vùng giữa khoảng cách của điểm giữa trán và tuyến tùng.

3. The next stage is that of abstracting the [231] consciousness into the head centre, the thousand petalled lotus or sahasara, by knowingly withdrawing the consciousness out of the head. This can be done in full waking consciousness when certain rules are learned and certain work accomplished. These can obviously not be given in such a work as this. The majority of people have to master the first two stages and learn to control the avenues of perception, the five senses.

3. Giai đoạn kế tiếp là rút tâm thức vào luân xa đầu, [231] tức là sahasara hay hoa sen ngàn cánh, bằng cách hữu ý rút tâm thức ra khỏi đầu. Có thể thực hiện điều này với ý thức hoàn toàn tỉnh táo, khi hành giả học được một số qui luật và hoàn thành một số công việc. Hiển nhiên là các chi tiết vừa kể không thể được đưa ra trong một tác phẩm như thế này. Hầu hết mọi người đều còn phải thực hành thấu đáo hai giai đoạn đầu, và học cách kiểm soát những đường lối nhận thức của năm giác quan.

4. The abstracting of the consciousness into the astral body and thus freeing it from the physical plane.

4. Rút tâm thức vào thể cảm dục để tách rời nó khỏi cõi trần.

5. A still further withdrawal into the mental body or the mind so that neither the physical nor the astral any longer limit or confine the man.

5. Tiếp tục rút tâm thức vào thể trí, hay cái trí. Nhờ đó, hành giả không còn bị giới hạn ở cấp hồng trần hay cảm dục.

When this can be done, true meditation and contemplation becomes possible.

Khi thực hiện được điều này, hành giả có thể thực sự tiến đến giai đoạn tham thiền và chiêm ngưỡng.

Dvivedi says in his commentary on this sutra: “Abstraction consists in the senses becoming entirely assimilated to, or controlled by the mind. They must be drawn away from their objects and fixed upon the mind and assimilated to it, so that by preventing the transformation of the thinking principle, the sense also will follow it and be immediately controlled. Not only this but they will be ever ready to contribute collectively toward the absorbing meditation of any given thing at any moment.”

Trong phần bình giải của ông về câu kinh này, Dvidevi nói: “Rút tâm thức là làm cho các giác quan hoàn toàn đồng hóa với, hoặc được thể trí chế ngự. Chúng phải được tách rời khỏi các đối tượng của chúng và chú định vào thể trí và đồng hóa với thể trí. Vì thế, khi hành giả ngăn sự biến thái của nguyên khí tư duy thì giác quan cũng theo nó, và lập tức được chế ngự. Không những được chế ngự, bất cứ lúc nào chúng cũng cùng góp phần vào tham thiền chuyên chú về bất cứ điều gì.”

The result, therefore, of correct abstraction or withdrawal is briefly:

Do đó, có thể kể vắn tắt các kết quả của việc triệt thoái hay rút tâm thức đúng cách, như sau:

1. The synthesis of the senses by the sixth sense, the mind. [232]

1. Thể trí, là giác quan thứ sáu, tổng hợp các giác quan kia. [232]

2. The alignment of the threefold lower man so that the three bodies function as a coordinated unit.

2. Sự chỉnh hợp của phàm nhân với ba hạ thể. Do đó, các thể này hoạt động như một đơn vị phối kết.

3. The freeing of the man from the limitations of the bodies.

3. Hành giả thoát khỏi sự hạn chế của các thể.

4. The consequent ability of the soul or ego to impress and illuminate the brain through the medium of the mind.

4. Hậu quả là linh hồn hoặc chân ngã có thể tạo ấn tượng trên não bộ và soi sáng não bộ thông qua thể trí.

55. As a result of these means there follows the complete subjugation of the sense organs.

55. Kết quả của sự thực hành các phương tiện nói trên là các giác quan được hoàn toàn chế ngự.

In Book I a general indication was given of the objective of Raja Yoga and of the hindrances to its practice coupled with an indication of the benefits. In Book II which we have just completed, the hindrances are specifically dealt with, the method of correcting them is indicated and then the means of yoga are taken up, five out of the eight being considered and explained. These five means, when duly followed, bring a man to the point where his lower psychic nature is being controlled, the senses are being mastered and he can begin to undertake the subjugation of the sixth sense, the mind.

Quyển I nói chung về mục tiêu của Raja Yoga, những chướng ngại khi thực hành Raja Yoga cùng với những lợi ích của nó. Trong Quyển II vừa hoàn tất, có bàn cụ thể về các chướng ngại, và nêu rõ phương pháp khắc phục chúng. Sau đó là bàn đến các phương tiện. Năm trong số tám phương tiện được cứu xét và giải thích. Khi thực hành đúng năm phương tiện vừa kể, hành giả sẽ chế ngự được tính chất của phàm tâm. Y đã làm chủ các giác quan, và bắt đầu chế ngự giác quan thứ sáu, là cái trí.

The methods whereby the mind is controlled and the aspirant becomes complete master of the entire lower man are taken up in the next book. The remaining three means of yoga are explained and then the results of yoga are given in detail. Students will find it useful to note the graded and accurate method outlined in this marvellous treatise. It is valuable to note its brevity and yet its [233] concise and complete nature. It is the text book of an exact science and within its few short pages are gathered all the rules, necessary in the Aryan rootrace, for the complete control of the mind, which should be the contribution of that race to the evolutionary process.

Quyển kế tiếp sẽ bàn về những phương pháp kiểm soát cái trí, và để người chí nguyện dần dần làm chủ trọn cả phàm nhân. Ba phương tiện còn lại của yoga sẽ được giải rõ, kèm theo các chi tiết về những kết quả của yoga. Các môn sinh cần lưu ý đến phương pháp tuần tự theo trình độ và chính xác, được phác họa trong thiên luận giải tuyệt diệu này. [233] Dù vắn gọn, nhưng sách này vẫn súc tích và đầy đủ. Đây là giáo trình về một khoa học chuẩn xác. Chỉ trong một số trang ngắn ngủi, sách đã trình bày được tất cả các qui luật, cần cho căn chủng Aryan, để hoàn toàn chế ngự cái trí. Điều đó chắc hẳn sẽ là sự góp phần của căn chủng này cho diễn trình tiến hóa.

Scroll to Top