BOOK III. – UNION ACHIEVED AND ITS RESULTS—SỰ HỢP NHẤT ĐẠT ĐƯỢC VÀ KẾT QUẢ
|
a. Meditation, and its stages |
a. Tham thiền, và các giai đoạn. |
|
b. Twenty-three results of meditation |
b. Hai mươi ba kết quả của tham thiền. |
|
Topic: The powers of the soul [237] |
Chủ đề: Quyền năng của linh hồn. |
|
1. Concentration is the fixing of the chitta (mind stuff) upon a particular object. This is dharana. |
1. Tập trung là chú định chitta (trí tuệ chất) vào một đối tượng riêng biệt. Đây là dharana. |
|
2. Sustained concentration (dharana) is meditation (dhyana). |
2. Tập trung (dharana) kéo dài là tham thiền (dhyana). |
|
3. When the chitta becomes absorbed in that which is the reality (or idea embodied in the form), and is unaware of separateness or the personal self, this is contemplation or samadhi. |
3. Khi chitta đắm chìm trong thực tại (hay là cái ý tưởng ẩn trong hình thể), và không còn ý thức về tính chia rẽ hay về tư ngã, thì đó là chiêm ngưỡng hay samadhi. |
|
4. When concentration, meditation and contemplation form one sequential act, then is sanyama achieved. |
4. Khi tập trung, tham thiền và chiêm ngưỡng trở nên một hành động có trình tự và duy nhất, thì đó là sự thành tựu sanyama. |
|
5. As a result of sanyama comes the shining forth of the light. |
5. Sanyama có kết quả làm cho ánh sáng chói rạng. |
|
6. This illumination is gradual; it is developed stage by stage. |
6. Sự giác ngộ vốn tuần tự, và được phát triển qua từng giai đoạn. |
|
7. These last three means of yoga have a more intimate subjective effect than the previous means. |
7. Ba phương tiện sau này của yoga có hiệu quả mật thiết về mặt nội tâm hơn các phương tiện trước. |
|
8. Even these three, however, are external to the true seedless meditation (or samadhi) which is not based on an object. It is free from the effects of the discriminative nature of the chitta (or mind stuff). |
8. Tuy nhiên, ngay cả ba phương tiện nói trên vẫn còn là bên ngoài so với tham thiền vô chủng đích thực (hay là samadhi) vốn không dựa vào đối tượng. Samadhi không còn chịu ảnh hưởng bởi tính phân biện của chitta (hay trí tuệ chất). |
|
9. The sequence of mental states is as follows: the mind reacts to that which is seen; then follows the moment of mind control. Then ensues a moment wherein the chitta (mind stuff) responds to both these factors. Finally these pass away, and the perceiving consciousness has full sway. |
9. Trình tự của các trạng thái trí tuệ như sau: Cái trí phản ứng với điều thấy được. Kế đến là sự chế ngự cái trí. Sau đó, chitta (trí tuệ chất) ứng đáp với cả hai yếu tố vừa kể. Cuối cùng chúng qua đi, chỉ còn tâm thức trực nhận hoàn toàn sáng tỏ. |
|
10. Through the cultivation of this habit of mind there will eventuate a steadiness of spiritual perception. [238] |
10. Khi thói quen này của thể trí được thường xuyên vun bồi, rốt cuộc nhận thức tinh thần sẽ vững vàng, liên tục. [238] |
|
11. The establishing of this habit, and the restraining of the mind from its thought-form-making tendency, results eventually in the constant power to contemplate. |
11. Khi đã có thói quen này, và kềm chế được khuynh hướng tạo hình tư tưởng của thể trí, rốt cuộc hành giả có năng lực chiêm ngưỡng liên tục. |
|
12. When mind control and the controlling factor are equally balanced, then comes the condition of one-pointedness. |
12. Khi việc chế ngự cái trí và yếu tố chế ngự đều cùng cân bằng, bấy giờ mới có sự nhất tâm. |
|
13. Through this process the aspects of every object are known, their characteristics (or form), their symbolic nature, and their specific use in time-conditions (stage of development) are known and realised. |
13. Qua tiến trình này, hành giả biết được các phương diện của mọi đối tượng. Y biết và nhận thức được các đặc điểm (hay hình thể) của chúng, tính biểu tượng của chúng, và công dụng đặc biệt của chúng theo điều kiện thời gian (giai đoạn phát triển). |
|
14. The characteristics of every object are acquired, manifesting or latent. |
14. Đặc tính của mọi vật thể hay đối tượng đều do tập nhiễm, đang biểu lộ hay tiềm ẩn. |
|
15. The stage of development is responsible for the various modifications of the versatile psychic nature and of the thinking principle. |
15. Giai đoạn phát triển bao gồm những biến thái khác nhau của bản chất cái tâm thường thay đổi và nguyên khí tư duy. |
|
16. Through concentrated meditation upon the triple nature of every form, comes the revelation of that which has been and of that which will be. |
16. Qua tham thiền tập trung về bản chất tam phân của mọi hình thể, hành giả hiểu được những gì đã có và những gì sẽ có. |
|
17. The Sound (or word), that which it denotes (the object) and the embodied spiritual essence (or idea) are usually confused in the mind of the perceiver. By concentrated meditation on these three aspects comes an (intuitive) comprehension of the sound uttered by all forms of life. |
17. Âm thanh (hay linh từ), điều nó biểu thị (là đối tượng), và tinh túy tinh thần (hay ý tưởng) ở trong hình thể, vốn thường bị lẫn lộn trong trí của người nhận thức. Qua tham thiền tập trung về ba phương diện này, hành giả có thể thấu hiểu (trực giác) được âm thanh mà mọi hình thể của sự sống phát ra. |
|
18. Knowledge of previous incarnations becomes available when the power to see thought-images is acquired. |
18. Khi hoạch đắc năng lực thấy các hình tư tưởng, hành giả có thể biết được các tiền kiếp. |
|
19. Through concentrated meditation, the thought images in the minds of other people become apparent. |
19. Qua tham thiền tập trung, hành giả có thể thấy rõ các hình tư tưởng trong trí của người khác. |
|
20. As, however, the object of those thoughts is not apparent to the perceiver, he sees only the thought and not the object. His meditation excludes the tangible. |
20. Tuy nhiên, vì đối tượng của các tư tưởng này không tỏ rõ đối với người nhận thức, nên y chỉ thấy tư tưởng chứ không thấy đối tượng đó. Việc tham thiền của y không bao gồm cái hữu hình. |
|
21. By concentrated meditation upon the distinction between form and body, those properties of the body which make it visible to the human eye are negated (or withdrawn) and the yogi can render himself invisible. |
21. Bằng cách tham thiền tập trung vào sự khác biệt giữa hình thể và cơ thể, những đặc tính của thân xác khiến nó hữu hình đối với mắt người, bị vô hiệu hóa (hay rút lại), và nhà yogi có thể trở nên vô hình. |
|
22. Karma (or effects) are of two kinds: immediate karma or future karma. By perfectly concentrated [239] meditation on these, the yogi knows the term of his experience in the three worlds. This knowledge comes also from signs. |
22. Nghiệp quả (hay hậu quả) có hai loại: nghiệp quả hiện tại hay nghiệp quả tương lai. [239]Qua tham thiền hoàn toàn tập trung về các loại nghiệp quả này, nhà yogi biết được phạm vi kinh nghiệm của mình trong tam giới. Sự hiểu biết này cũng nhờ xem các dấu hiệu. |
|
23. Union with others is to be gained through one-pointed meditation upon the three states of feeling—compassion, tenderness and dispassion. |
23. Hành giả hợp nhất với người khác khi nhất tâm tham thiền về ba trạng thái của tình cảm − lòng từ bi, nhân hậu và vô dục. |
|
24. Meditation, one-pointedly centered upon the power of the elephant, will awaken that force or light. |
24. Tham thiền tập trung chuyên nhất vào năng lực của con voi, sẽ khơi dậy mãnh lực hay ánh sáng ấy. |
|
25. Perfectly concentrated meditation upon the awakened light will produce the consciousness of that which is subtle, hidden or remote. |
25. Tham thiền hoàn toàn tập trung vào ánh sáng đã khơi hoạt, hành giả sẽ ý thức được những gì tinh tế, ẩn tàng, hoặc ở xa. |
|
26. Through meditation, one-pointedly fixed upon the sun, will come a consciousness (or knowledge) of the seven worlds. |
26. Qua tham thiền nhất tâm về mặt trời, hành giả sẽ ý thức (hay biết) được bảy cảnh giới. |
|
27. A knowledge of all lunar forms arises through one-pointed meditation upon the moon. |
27. Tham thiền chuyên chú về mặt trăng giúp hành giả hiểu biết tất cả các thể mặt trăng. |
|
28. Concentration upon the Pole-Star will give knowledge of the orbits of the planets and the stars. |
28. Tập trung suy ngẫm về Sao Bắc đẩu, hành giả sẽ hiểu biết quỹ đạo của các hành tinh và các ngôi sao. |
|
29. By concentrated attention upon the centre called the solar plexus, comes perfected knowledge as to the condition of the body. |
29. Khi tập trung chú ý vào luân xa gọi là nhật tùng (tùng thái dương), hành giả sẽ biết rõ tình trạng của cơ thể. |
|
30. By fixing the attention upon the throat centre, the cessation of hunger and thirst will ensue. |
30. Bằng cách chú định vào luân xa cổ họng, hành giả không còn thấy đói và khát. |
|
31. By fixing the attention upon the tube or nerve below the throat centre, equilibrium is achieved. |
31. Khi chú định vào ống hay dây thần kinh bên dưới luân xa cổ họng, hành giả đạt được sự quân bình. |
|
32. Those who have attained self-mastery can be seen and contacted through focussing the light in the head. This power is developed in one-pointed meditation. |
32. Khi tập trung ánh sáng bên trong đầu, hành giả có thể thấy và giao tiếp với những bậc đã đạt sự tự chủ. Quyền năng này được phát triển trong tham thiền chuyên nhất. |
|
33. All things can be known in the vivid light of the intuition. |
33. Trong ánh sáng chói rạng của trực giác, hành giả có thể hiểu biết mọi sự. |
|
34. Understanding of the mind-consciousness comes from one-pointed meditation upon the heart centre. |
34. Hành giả thấu hiểu tâm thức trí tuệ khi chuyên chú tham thiền vào luân xa tim. |
|
35. Experience (of the pairs of opposites) comes from the inability of the soul to distinguish between the personal self and the purusa (or spirit). The objective forms exist for the use (and experience) of the spiritual man. By meditation upon this, arises the intuitive perception of the spiritual nature (the purusa). [240] |
35. Linh hồn trải qua các cặp đối cực vì không thể phân biệt được [240] giữa phàm ngã và Purusa (hay tinh thần). Các ngoại thể sở dĩ có là để cho con người tinh thần sử dụng (hay thu thập kinh nghiệm). Khi tham thiền về điều này, hành giả sẽ có nhận thức trực giác về bản tính tinh thần. |
|
36. As the result of this experience and meditation, the higher hearing, touch, sight, taste and smell are developed, producing intuitional knowledge. |
36. Kết quả của kinh nghiệm và cố gắng tham thiền này là các cơ quan thính giác, xúc giác, thị giác, vị giác và khứu giác cấp cao được phát triển, mang lại sự hiểu biết trực giác. |
|
37. These powers are obstacles to the highest spiritual realisation, but serve as magical powers in the objective worlds. |
37. Các quyền năng này là chướng ngại đối với nhận thức tinh thần cao tột, nhưng được dùng như quyền năng huyền thuật trong những thế giới khách quan. |
|
38. By liberation from the causes of bondage through their weakening and by an understanding of the mode of transference (withdrawal or entrance), the mind stuff (or chitta) can enter another body. |
38. Nhờ thoát khỏi các nguyên nhân gây giam hãm bằng cách làm cho chúng suy yếu, và nhờ hiểu được phương thức chuyển di (nhập hoặc xuất), trí tuệ chất (hay chitta) có thể nhập vào một cơ thể khác. |
|
39. By subjugation of the upward life (the udana) there is liberation from water, the thorny path, and mire, and the power of ascension is gained. |
39. Bằng cách chế ngự sự sống hướng thượng (udana), hành giả được tự do thoát khỏi ảnh hưởng của nước, đường đi chông gai, và bùn lầy, và có quyền năng khinh thân. |
|
40. Through subjugation of the samana, the spark becomes the flame. |
40. Nhờ chế ngự samana, tia lửa trở thành ngọn lửa. |
|
41. By the means of one-pointed meditation upon the relationship between the akasha and sound, an organ for spiritual hearing will be developed. |
41. Bằng cách tham thiền chuyên nhất về mối liên hệ giữa akasha và âm thanh, cơ quan của thính giác tinh thần sẽ được phát triển. |
|
42. By one-pointed meditation upon the relationship existing between the body and the akasha, ascension out of matter (the three worlds) and power to travel in space is gained. |
42. Khi tham thiền chuyên nhất về mối liên hệ giữa cơ thể và tiên thiên khí, hành giả vượt ra khỏi vật chất (tam giới) và có quyền năng du hành trong không gian. |
|
43. When that which veils the light is done away with, then comes the state of being called discarnate (or disembodied), freed from the modification of the thinking principle. This is the state of illumination. |
43. Khi màn che ánh sáng bị loại bỏ, hành giả hiện tồn trong trạng thái thoát trần (hay giải thể), không còn bị chi phối bởi biến thái của nguyên khí tư duy. Đây là trạng thái giác ngộ. |
|
44. One-pointed meditation upon the five forms which every element takes, produces mastery over every element. These five forms are the gross nature, the elemental form, the quality, the pervasiveness and the basic purpose. |
44. Tham thiền nhất tâm về năm dạng của mọi nguyên tố, hành giả sẽ có khả năng chế ngự mọi nguyên tố. Năm dạng vừa kể là tính chất thô, dạng tinh hoa, phẩm tính, sự đều khắp và mục đích cơ bản. |
|
45. Through this mastery, minuteness and the other siddhis (or powers) are attained, likewise bodily perfection and freedom from all hindrances. |
45. Qua cố gắng chế ngự này, hành giả đạt được sự cực vi và các siddhi (hay quyền năng) khác, cũng như sự hoàn hảo của thân xác và thoát khỏi mọi chướng ngại. |
|
46. Symmetry of form, beauty of colour, strength and the compactness of the diamond, constitute bodily perfection. |
46. Sự hoàn thiện của cơ thể là hình thể cân đối, màu sắc tốt đẹp, sức mạnh và sự rắn chắc của kim cương. |
|
47. Mastery over the senses is brought about through concentrated meditation upon their nature, peculiar attributes, egoism, pervasiveness and useful purpose. [241] |
47. Hành giả làm chủ các giác quan nhờ tham thiền tập trung vào tính chất, thuộc tính đặc thù, ngã thức, tính đều khắp, và mục đích hữu ích của chúng. [241] |
|
48. As a result of this perfection, there comes rapidity of action like that of mind, perception independent of the organs, and mastery over root substance. |
48. Kết quả của sự hoàn thiện này là khả năng hành động mau lẹ như cái trí, có nhận thức độc lập với các cơ quan, và vận dụng được chất liệu căn bản. |
|
49. The man who can discriminate between the soul and the spirit achieves supremacy over all conditions and becomes omniscient. |
49. Khi có thể phân biệt giữa linh hồn và tinh thần, hành giả thấu đáo được mọi điều kiện và trở nên toàn tri. |
|
50. By a passionless attitude towards this attainment and towards all soul-powers, the one who is free from the seeds of bondage, attains the condition of isolated unity. |
50. Với thái độ không ham muốn sự thành đạt này và tất cả các quyền năng của linh hồn, người đã giải thoát khỏi các chủng tử của nô lệ, nay đi vào trạng thái nhất như tự tại. |
|
51. There should be entire rejection of all allurements from all forms of being, even the celestial, for the recurrence of evil contacts remains possible. |
51. Cần hoàn toàn thản nhiên đối với mọi sự cám dỗ của mọi hình thái sống, cho dù là sống ở cõi trời, vì vẫn khả dĩ có sự tái diễn ảnh hưởng của điều ác. |
|
52. Intuitive knowledge is developed through the use of the discriminative faculty when there is one-pointed concentration upon moments and their continuous succession. |
52. Hiểu biết trực giác phát triển nhờ dùng khả năng phân biện, khi hành giả chuyên chú vào những khoảnh khắc và sự tiếp diễn liên tục của chúng. |
|
53. From this intuitive knowledge is born the capacity to distinguish (between all beings) and to cognize their genus, qualities and position in space. |
53. Từ sự hiểu biết trực giác này phát sinh khả năng phân biệt (giữa tất cả các chúng sinh) và biết được chủng loại, đặc tính và vị trí của họ trong không gian. |
|
54. This intuitive knowledge, which is the great Deliverer, is omnipresent and omniscient and includes the past, the present and the future in the Eternal Now. |
54. Sự hiểu biết trực giác này là Tác nhân hiển lộ quan trọng. Nó có ở khắp nơi, toàn tri và gồm cả quá khứ, hiện tại và tương lai trong Hiện tại Vĩnh cửu. |
|
55. When the objective forms and the soul have reached a condition of equal purity, then is At-one-ment achieved and liberation results. [243] |
55. Khi các ngoại thể và linh hồn đã đạt độ tinh khiết như nhau, bấy giờ có sự Nhất quán đưa đến giải thoát. |
THE YOGA SUTRAS OF PATANJALI |
|
1. Concentration is the fixing of the chitta (mind stuff) upon a particular object. This is dharana. |
1. Tập trung là chú định chitta (trí tuệ chất) vào một đối tượng riêng biệt. Đây là dharana. |
|
We have now reached the part of the Yoga Sutras which deals specifically with mind control and with the effect of that control. The first fifteen sutras are given to the control of the mind and how it is to be attained and the remaining forty sutras concern the results which take place after this control has been gained. Twenty-four results are enumerated, and these are all along the line of expansions of consciousness and the demonstration of psychic faculties, both lower and higher. |
Nay đến phần của Yoga Điển tắc cụ thể bàn về việc kiểm soát cái trí và hiệu quả của việc kiểm soát đó. mười lăm câu đầu nói về kiểm soát cái trí và cách thực hiện. Bốn mươi câu còn lại nói đến các kết quả xảy ra sau khi đã kiểm soát được cái trí. Có hai mươi bốn kết quả. Tất cả đều theo đường hướng mở mang tâm thức, và phát triển các quan năng thần thông cả cấp thấp và cấp cao. |
|
The first step towards this unfoldment is concentration, or the ability to hold the mind steadily and unwaveringly upon that which the aspirant chooses. This first step is one of the most difficult [244] stages in the meditation process and involves constant unremitting ability to keep bringing the mind back to that “object” upon which the aspirant has chosen to concentrate. The stages in concentration are themselves well marked and can be stated as follows: |
Bước đầu của việc khai mở này là tập trung, hay là khả năng định trí trên điều được hành giả chọn, một cách vững vàng và không xao xuyến. Bước đầu này là một trong những giai đoạn khó khăn nhất của tiến trình tham thiền [244]. Đây là khả năng liên tục nhẫn nại đưa cái trí trở về đối tượng mà hành giả đã chọn để tập trung. Chính việc tập trung cũng có các giai đoạn rõ rệt sau đây: |
|
1. The choice of some “object” upon which to concentrate, |
1. Chọn một “đối tượng” để tập trung, |
|
2. The withdrawing of the mind-consciousness from the periphery of the body, so that the avenues of outer perception and contact (the five senses) are stilled, and the consciousness is no longer outgoing, |
2. Rút ý thức của cái trí khỏi phần ngoại vi của cơ thể. Nhờ đó, mà các đường lối cảm nhận và giao tiếp với bên ngoài (năm giác quan) trở nên yên lặng, và tâm thức không còn phóng ngoại, |
|
3. The centering of the consciousness and its steadying within the head at a point midway between the eyebrows, |
3. Tập trung tâm thức vững vàng, liên tục bên trong đầu, ở điểm giữa hai chân mày, |
|
4. The application of the mind, or the paying of close attention to the object chosen for concentration, |
4. Cái trí chuyên chú vào đối tượng được chọn để tập trung, |
|
5. The visualization of that object, imaginative perception of it and logical reasoning about it, |
5. Hình dung đối tượng đó, nhận thức nó qua trí tưởng tượng, và suy lý về nó, |
|
6. The extension of the mental concepts which have been formed from the specific and particular to the general and the universal or cosmic, |
6. Mở rộng các khái niệm trí tuệ đã được hình thành, từ mức cụ thể và đặc thù đến cấp tổng quát, đại đồng hay vũ trụ, |
|
7. An attempt to arrive at that which lies back of the form considered, or to reach the idea which is responsible for the form. |
7. Cố gắng thấu hiểu những gì ẩn trong hình thể đang được xem xét. Tức là thấy cái ý tưởng cốt yếu của hình thể đó. |
|
This process gradually steps up the consciousness and enables the aspirant to arrive at the life side of manifestation instead of the form side. He begins however with the form or “object.” Objects upon which to concentrate are of four kinds: [245] |
Tiến trình này từ từ nâng cao tâm thức, giúp hành giả có thể thấu đến phương diện sự sống của cuộc biểu hiện thay vì phương diện hình thể. Tuy nhiên, y vẫn bắt đầu với hình thể hay “đối tượng.” Có bốn loại đối tượng để tập trung: [245] |
|
1. External objects, such as images of the deity, pictures or forms in nature, |
1. Các đối tượng bên ngoài, như các hình tượng thần, thánh, những tranh ảnh hay hình thể trong thiên nhiên, |
|
2. Internal objects, such as the centres in the etheric body, |
2. Những đối tượng bên trong, như các luân xa trong thể dĩ thái, |
|
3. Qualities, such as the various virtues, with the intent to awaken desire for these virtues and thus to build them into the content of the personal life, |
3. Các phẩm tính, như những đức hạnh khác nhau, với ý muốn phát triển các thiện hạnh này để làm phong phú đời sống cá nhân, |
|
4. Mental concepts or those ideas which embody the ideals lying back of all animated forms. These may take the form of symbols or of words. |
4. Khái niệm trí tuệ hay là những ý tưởng thể hiện các lý tưởng ẩn trong mọi hình thể được chúng phát động. Những khái niệm này có thể dưới dạng biểu tượng hay ngôn từ. |
|
In one of the Puranas the idea embodied in concentration is expressed most beautifully. The aspirant is told, after he has made use of the first five means of yoga (dealt with in Book II), that he “should make a localization of the mind stuff upon some auspicious support” and this localization is illustrated by a description of the fixing of the attention upon a form of God. |
Một quyển kinh Purana đã bàn rất hay về vấn đề tập trung này: Trước hết, người chí nguyện cần thực hành năm phương tiện đầu của yoga (đã bàn trong Quyển II). Sau đó, y “cần an trụ trí tuệ chất trên một điểm tựa tốt đẹp.” Sự an trụ này được minh họa là chú tâm vào một hình thể của Thượng Đế. |
|
“The incarnated form of the Exalted One leaves one without desire for any other support. This should be understood to be fixed attention, when the mind stuff is fixed upon this form. And what is this incarnate form of Hari on which one should ponder, let that be heard by thee, O Ruler of Men. Fixed attention is not possible without something on which to fix it.” (Vishnu Purana VI. 7. 75-85.) |
“Hình thể lâm phàm của Đấng Cao cả khiến hành giả không còn muốn nương tựa vào bất cứ điều gì khác. Đây là sự tập trung chuyên chú, khi trí tuệ chất an định vào hình thể này. Hỡi Nhà Cai trị Thế nhân, hãy lắng nghe những điều suy ngẫm về hình thể lâm phàm này của Hari. Không thể tập trung chuyên chú nếu không có điều gì để trụ vào đó.” (Vishnu Purana VI. 7. 75-85.) |
|
Then follows a description of the incarnated form of the Exalted One, concluding with these words: |
Kế đến là phần mô tả hình thể lâm phàm của Đấng Cao cả, với những lời sau đây: |
|
“. . . upon Him let the yogin ponder; and lost in Him, concentrate his own mind until, O, King, the fixed attention becomes firmly fixed upon Him only. While [246] performing this or while doing, as he wills, some other action wherein his mind does not wander, he should then deem this fixed attention to be perfected.” (Naradiya Purana LXVII. 54-62.) |
“. . . nhà yogi hãy suy ngẫm về Ngài. Trí y tập trung và chìm đắm trong Ngài cho đến khi, Hỡi Đức Vua, y chỉ chuyên tâm định trí nơi Ngài. Khi [246] thực hành cố gắng này hoặc trong khi thực hiện điều này tùy ý muốn, thể trí của y không còn vẩn vơ trong bất cứ hành động nào khác. Bấy giờ xem như sự chú tâm, định trí này là hoàn hảo.” (Naradiya Purana LXVII. 54-62.) |
|
It is the realization of the necessity for “objects” in concentration that originated the demand for images, sacred sculptures and pictures. All these objects entail the use of the lower concrete mind and this is the necessary preliminary stage. Their use brings the mind into a controlled condition so that the aspirant can make it do just what he chooses. The four types of objects mentioned above carry the aspirant gradually inwards and enable him to transfer his consciousness from the physical plane into the etheric realm, from thence into the world of desire or of the emotions, and so into the world of mental ideas and concepts. This process, which is carried on within the brain, brings the entire lower man into a state of one-pointed coherent attention, all parts of his nature being directed to the attainment of fixed attention or a concentration of all the mental faculties. The mind then is no longer scattering, unsteady and outgoing, but is fully “fixed in attention.” Vivekananda translates “dharana” as “holding the mind to one thought for twelve seconds.” |
Chính vì nhận thấy sự thiết yếu của “đối tượng” trong tập trung, mới nảy sinh nhu cầu về các hình ảnh, những tác phẩm điêu khắc, và tranh tượng thánh tích. Tất cả các đối tượng này đều cần để sử dụng hạ trí cụ thể, và đây là bước đầu cần thiết. Việc sử dụng chúng giúp cho thể trí ở trong tình trạng được kiểm soát. Do đó, hành giả có thể khiến nó thực hiện đúng điều gì y chọn. Bốn loại đối tượng kể trên giúp hành giả dần dần hướng nội. Chúng giúp y có thể chuyển tâm thức từ cấp hồng trần vào cấp dĩ thái. Rồi từ đó đi vào thế giới của dục vọng hay tình cảm. Sau đó là đi vào cõi trí với các ý tưởng và khái niệm. Tiến trình này tiếp diễn bên trong não bộ, đưa trọn cả phàm nhân vào trạng thái chú tâm hoàn toàn chuyên nhất. Y dồn hết tâm lực vào việc định trí, hay là tập trung toàn bộ trí năng. Bấy giờ thể trí không còn phân tán, xao động hay hướng ngoại, mà hoàn toàn “chú định, tập trung.” Vivekananda gọi “dharana” là “giữ cái trí tập trung vào chỉ một tư tưởng trong mười hai giây.” |
|
This clear, one-pointed, still perception of an object, without any other object or thought entering into one’s consciousness is most difficult of achievement, and when it can be done for the space of twelve seconds, true concentration is being achieved. [247] |
Sự nhận thức yên lặng, chuyên nhất, sáng tỏ về một đối tượng, mà không để cho bất cứ đối tượng hay tư tưởng nào khác xâm nhập vào tâm thức của hành giả, là điều rất khó đạt. Khi có thể thực hiện điều này trong mười hai giây, thì đó là tập trung đích thực. [247] |
2. Sustained Concentration (dharana) is meditation (dhyana). |
2. Tập trung (dharana) kéo dài là tham thiền (dhyana). |
|
Meditation is but the extension of concentration and grows out of the facility a man achieves in “fixing the mind” at will on any particular object. It falls under the same rules and conditions as concentration and the only distinction between the two is in the time element. |
Tham thiền thực ra chỉ là việc tập trung được kéo dài. Tham thiền dựa vào khả năng của hành giả có thể tùy ý “định trí” dễ dàng vào bất cứ đối tượng nào. Tham thiền cũng theo cùng các qui luật và điều kiện như tập trung. Hai cố gắng này chỉ khác nhau về yếu tố thời gian. |
|
Having achieved the capacity to focus the mind steadily upon an object, the next step is developing the power to hold the mind stuff or chitta unwaveringly occupied with that object or thought for a prolonged period. The Purana quoted above continues: |
Khi đã đạt được khả năng định trí liên tục trên một đối tượng, thì bước kế tiếp là phát triển năng lực giữ trí tuệ chất hay chitta tập trung không xao động vào đối tượng hay tư tưởng đó trong thời gian kéo dài. Quyển kinh Purana được trích dẫn ở trên có đoạn tiếp theo: |
|
“An uninterrupted succession of presented ideas single in intent upon His form, without desire for anything else, that, O King, is contemplation. It is brought about by the first six aids of yoga.” |
“Một chuỗi các ý tưởng được trình bày không gián đoạn chỉ với ý định tập trung vào hình thể của Ngài, mà không muốn bất cứ điều gì khác, Hỡi Đức Vua, đó chính là chiêm ngưỡng. Chiêm ngưỡng được thực hiện nhờ sáu phương tiện trợ giúp đầu tiên của yoga.” |
|
The word contemplation here is synonymous with meditation. This meditation is still with seed or with an object. |
Từ chiêm ngưỡng nói trên được dùng đồng nghĩa với tham thiền. Đây vẫn còn là tham thiền hữu chủng, hay là có đối tượng. |
|
Dvivedi says in his comment on this sutra: |
Trong phần bình giải của ông về câu này, Dvivedi nói: |
|
“… Dhyana is the entire fixing of the mind on the object thought of (to the extent of making it one with it). In fact, the mind should, at the time, be conscious only of itself and the object.” The man’s attitude becomes pure fixed attention; his physical body, his emotions, surroundings, and all sounds and sights are lost sight of and the brain is conscious only of the object which is the topic or seed of meditation, and the thoughts which the mind is formulating in connection with that object. [248] |
“. . . Dhyana là hoàn toàn chú định cái trí trên đối tượng được suy tưởng (đến mức làm cho cái trí hợp nhất với đối tượng đó). Thực sự bấy giờ cái trí chỉ cần nên ý thức về nó và đối tượng.” Thái độ của hành giả trở thành hoàn toàn chú tâm. Thể xác, tình cảm của y, môi trường chung quanh, toàn bộ các âm thanh và quang cảnh đều mờ đi. Não bộ chỉ ý thức về đối tượng là đề tài hay chủng tử của tham thiền, và những tư tưởng mà cái trí tạo ra về đối tượng đó. [248] |
3. When the chitta becomes absorbed in that which is the reality (or idea embodied in the form), and is unaware of separateness or of the personal self, this is contemplation or samadhi. |
3. Khi chitta đắm chìm trong thực tại (hay là cái ý tưởng ẩn trong hình thể), và không còn ý thức về tính chia rẽ hay về tư ngã, thì đó là chiêm ngưỡng hay samadhi. |
|
The simplest way in which to comprehend this sutra is to realize that every form or object is a manifested life of some kind or another. In the early stages of the meditation process, the student becomes aware of the nature of the form and of his relation to it. The two states in which he is conscious of himself and of the object of his meditation are entirely mental conditions; they exist within his mind. |
Cách đơn giản nhất để hiểu câu kinh này là nhận thức rằng mọi hình thể hay đối tượng đều là biểu hiện của sự sống thuộc loại nào đó. Trong những giai đoạn đầu của tiến trình tham thiền, người môn sinh biết đến bản chất của hình thể, và sự liên hệ của y với hình thể đó. Hai trạng thái mà trong đó y ý thức về mình và về đối tượng y đang tham thiền thì hoàn toàn là những điều kiện của thể trí. Chúng xảy ra bên trong thể trí của y. |
|
This condition is followed by one in which his realization travels inward on to the subjective plane and he becomes aware of the nature of the life which is expressing itself through the form. Quality and subjective relationships engross his attention and the form aspect is lost sight of, but still the sense of separateness or of duality persists. He is still aware of himself and of that which is the not-self. Similarity of quality and response to analogous vibration are his, however. |
Sau đó, nhận thức của y hướng nội nhiều hơn để biết được bản tính của sự sống đang tự phát biểu qua hình thể. Y hoàn toàn chú ý đến phẩm tính và các quan hệ nội tại, và không còn bận tâm đến phương diện hình thể. Thế nhưng, ý thức chia rẽ hay là tính nhị nguyên vẫn còn. Y vẫn còn ý thức về mình và về cái phi-ngã. Tuy nhiên, y có sự tương đồng về phẩm tính và có khả năng ứng đáp với rung động tương tự. |
|
In the two stages of dharana and dhyana, of concentration and of meditation, the mind is the important factor and is the producer in the brain. A great Hindu teacher, Kecidhvaja, expresses this idea in the following words: |
Trong hai giai đoạn dharana và dhyana, hay là định trí và tham thiền, cái trí là yếu tố quan trọng và sản sinh ấn tượng trong não bộ. Kecidhvaja, một đại huấn sư Ấn giáo, phát biểu ý tưởng này như sau: |
|
“The soul has the means. Thinking is the means. It is inanimate. When thinking has completed its task of release, it has done what it had to do and ceases.” (From the Vishnu Parana. VI. 7:90.) [249] |
“Linh hồn có phương tiện để sử dụng. Tư duy, suy tưởng, là phương tiện đó. Nó không tự sinh động. Khi tư duy đã hoàn thành nhiệm vụ khai phóng, nó đã làm những gì phải làm, và dừng lại.” (Theo Vishnu Purana. VI. 7:90.) [249] |
|
The truth of this makes any description or explanation of the high state of samadhi or contemplation exceedingly difficult, for words and phrases are but the effort of the mind to submit to the brain of the personal self that which will enable it to appreciate and comprehend the process. |
Sự thực này khiến cho bất cứ cố gắng nào để mô tả hay diễn giải trạng thái cao siêu của samadhi hay chiêm ngưỡng đều trở nên hết sức khó khăn. Lý do là vì ngôn từ và ngữ nghĩa chẳng qua chỉ là cố gắng của cái trí nhằm truyền đến não bộ của phàm ngã những gì giúp nó có thể đánh giá và lãnh hội được tiến trình này. |
|
In contemplation, the yogi loses sight of: |
Trong khi chiêm ngưỡng, nhà yogi không còn cảm thấy: |
|
1. His brain consciousness or the physical plane apprehensions as to time and space. |
1. Ý thức của não bộ, hay là sự cảm nhận ở cõi trần về thời gian và không gian. |
|
2. His emotional reactions to the subject of his meditation process. |
2. Phản ứng tình cảm của y đối với chủ đề mà y đang tham thiền. |
|
3. His mental activities, so that all the “modifications” of the thinking process, all the emotional reactions of the desire-mind (kama-manas) vehicle are subdued and the yogi is unaware of them. He is, however, intensely alive and alert, positive and awake, for the brain and the mind are held by him in a steady grip, and are used by him without any interference on their part. |
3. Hoạt động thể trí của y, và chế ngự tất cả “các biến thái” của tiến trình tư duy, và toàn bộ phản ứng tình cảm của thể trí-cảm (kama-manas). Nhà yogi không còn biết đến chúng. Tuy nhiên, y lại hết sức sống động, mẫn tiệp, tích cực và tỉnh thức. Vì y vẫn liên tục nắm giữ não bộ và thể trí, và sử dụng chúng, mà chúng không hề gây phiền nhiễu. |
|
This literally means that the independent life of these forms through which the real self is functioning is still, quieted and subdued, and the real or spiritual man, awake on his own plane, is able to function with full use of the brain, sheaths and mind of the lower self, his vehicle or instrument. He is, therefore, centred in himself or in the soul aspect. All sense of separateness or of the lower personal self are lost sight of, and he becomes identified with the soul of that form which has been the object of his meditation. |
Điều này thực sự có nghĩa là sự sống độc lập của các thể mà chân ngã hoạt động xuyên qua đó, vẫn an tĩnh, yên lặng và tuân phục. Bấy giờ chân nhân hay con người tinh thần, đang tỉnh thức trên cảnh giới của mình, có thể hoạt động và sử dụng tất cả não bộ, các thể và cái trí của phàm ngã, là vận cụ hay khí cụ của mình. Vì thế, chân nhân tập trung vào chính mình hay phương diện linh hồn. Hoàn toàn không còn ý thức chia rẽ hay ý thức về phàm ngã, hành giả trở nên đồng nhất với linh hồn của cái hình thể vốn là đối tượng tham thiền của mình. |
|
Unhindered by the mind stuff, or by the desire [250] nature he “enters into” that condition which has four outstanding characteristics: |
Không còn bị trở ngại bởi trí tuệ chất hay bởi bản chất dục vọng, y “đi vào” trạng thái có bốn đặc trưng nổi bật: . [250] |
|
1. Absorption in the soul consciousness and therefore awareness of the soul of all things. Form is no longer seen, and the vision of the reality, veiled by all forms, is revealed. |
1. Sự hấp thu vào tâm thức của linh hồn, nhờ đó mà ý thức được linh hồn của vạn vật. Y không còn để ý đến hình thể, mà thấy được thực tại, vốn bị mọi hình thể che án, và nay được hiển lộ. |
|
2. Liberation from the three worlds of sense perception, so that only is known and contacted which is free from form, from desire and from lower concrete mental substance. |
2. Giải thoát khỏi tam giới của cảm nhận giác quan. Hành giả chỉ còn biết đến và giao tiếp với thực tại nói trên. Nó vốn tự do đối với hình thể, dục vọng và chất liệu hạ trí cụ thể. |
|
3. Realization of oneness with all souls, subhuman, human, and superhuman. Group consciousness somewhat expresses the idea, just as separated consciousness, or realization of one’s own individual identity, characterizes consciousness in the three worlds. |
3. Nhận thức được tính duy nhất với mọi linh hồn, trong các giới hạ đẳng, trong nhân loại và các siêu nhân. Tâm thức tập thể bao hàm ý tưởng này. Tương phản với trước đây, khi tâm thức còn ở trong tam giới, y có ý thức riêng rẽ, chỉ nhận thức về cá nhân mình. |
|
4. Illumination or perception of the light aspect of manifestation. Through meditation the yogi knows himself to be light, a point of fiery essence. Through facility in the meditation process he can focus that light on any object he chooses and come “en rapport” with the light which that object is hiding. That light is then known to be one in essence with his own light-centre, and comprehension, communication and identification then become possible. |
4. Giác ngộ hay nhận thức được phương diện ánh sáng của cuộc biểu hiện. Qua tham thiền, nhà yogi biết mình là ánh sáng, là một điểm tinh hoa của lửa. Với khả năng hành thiền dễ dàng, y có thể tập trung ánh sáng ấy trên bất cứ đối tượng nào y chọn và “hòa hợp” với ánh sáng ẩn tàng trong đó. Bấy giờ, y hiểu rằng ánh sáng đó trong tinh túy là một với trung tâm ánh sáng nơi y. Kết quả là sự thông hiểu, thông đạt, và đồng nhất. |
4. When concentration, meditation and contemplation form one sequential act, then is sanyama achieved. |
4. Khi tập trung, tham thiền và chiêm ngưỡng trở nên một hành động có trình tự và duy nhất, thì đó là sự thành tựu sanyama. |
|
This is a most difficult idea to express for we have not in the English language the equivalent [251] of the Sanskrit term “sanyama.” It is the synthesis of the three stages of the meditation process and is only possible to that student who has learnt and mastered the three states of mind control. Through that mastery he has produced certain results, which are as follows: |
Đây là ý tưởng rất khó phát biểu, vì trong tiếng Anh không có từ tương đương với thuật ngữ “sanyama” của tiếng Bắc Phạn [251]. Từ này chỉ về sự tổng hợp ba giai đoạn của tiến trình tham thiền. Người môn sinh chỉ có thể thực hiện được sự tổng hợp này khi đã học biết và thông thạo việc kiểm soát ba trạng thái của trí tuệ. Với sự thành thạo đó, y mang lại những kết quả sau đây: |
|
1. He has freed himself from the three worlds of mind, emotion and physical plane existence. They no longer attract his attention. He is not concentrated upon, or engrossed by them. |
1. Y đã tự giải thoát ra khỏi tam giới, tức là cuộc hiện tồn trên cõi trí, cõi tình cảm và cõi trần. Chúng không còn hấp dẫn được sự quan tâm của y, và y cũng không còn tập trung, hoặc chìm đắm vào trong các cảnh giới đó. |
|
2. He can focus his attention at will and can hold his mind steady indefinitely, whilst working intensively in the mental world, should he so choose. |
2. Y có thể tùy ý tập trung và giữ thể trí của mình vững vàng liên tục bao lâu cũng được, trong khi hoạt động tích cực trên cõi trí, nếu y muốn làm điều đó. |
|
3. He can polarize or centre himself in the consciousness of the ego, soul or spiritual man, and knows himself as separate from the mind, the emotions, desires, feelings and form which constitute the lower man. |
3. Y có thể phân cực hay tập trung vào tâm thức của chân ngã, linh hồn hay con người tinh thần. Đồng thời y biết mình riêng biệt với cái trí, các tình cảm, ước muốn, xúc cảm và hình thể; chúng hợp thành phàm nhân. |
|
4. He has learnt to recognize that lower man (the sum total of mental states, of emotions and physical atoms) as simply his instrument for communicating at will with the three lower planes. |
4. Y đã học biết, và nhận thấy rằng phàm nhân (bao gồm các biến thái của thể trí, các loại tình cảm và những nguyên tử thể chất) chỉ là khí cụ để y tùy ý dùng giao tiếp với ba cõi thấp. |
|
5. He has acquired the faculty of contemplation or the attitude of the real Identity towards the realm of the soul and can look out on the soul-realm in a sense corresponding to the way a man can use his eyes to see on the physical plane. |
5. Y đã hoạch đắc năng lực chiêm ngưỡng, hay là thái độ của Chân ngã đối với lĩnh vực của linh hồn. Nay y có thể nhìn xem lĩnh vực của linh hồn tương tự như cách một người có thể dùng đôi mắt của mình để quan sát các sự vật ở cõi trần. |
|
6. He can transmit to the brain, via the controlled mind, that which he sees, and can thus impart knowledge of the self and of its kingdom to the man on the physical plane. |
6. Y có thể truyền những điều y thấy đến não bộ, qua cái trí đã được kiểm soát. Bằng cách đó, y truyền đạt sự hiểu biết về chân ngã và cõi giới của chân ngã cho phàm nhân ở cõi trần. |
|
This is perfectly concentrated meditation and [252] the power so to meditate is called sanyama in this sutra. It is the attainment of the power of meditation which is the objective of the Raja Yoga system. Through this achievement, the yogi has learnt to differentiate between the object and that which the object veils or hides. He has learnt to pierce through all veils and contact the reality behind. He has achieved a working knowledge of duality. |
Đây là tham thiền tập trung hoàn hảo. [252] Trong câu kinh này, năng lực tham thiền như thế được gọi là sanyama. Chính việc đạt được năng lực tham thiền này là mục tiêu của Raja Yoga. Với năng lực này, nhà yogi biết cách phân biệt giữa đối tượng và những gì mà đối tượng ấy che án hay ẩn giấu. Y đã học cách nhìn xuyên qua tất cả những bức màn che, và tiếp xúc với thực tại bên trong. Y đã có sự hiểu biết thực hành về tính nhị nguyên. |
|
There is yet a higher consciousness than this, that realization which is covered by the term unity, but as yet it is not his. This is, however, a very high stage and produces in the physical man astounding effects and introduces him to various forms of phenomena. |
Còn có một cấp tâm thức cao siêu hơn nữa. Nhận thức đó được gọi là nhất nguyên, thế nhưng y vẫn chưa thấu ngộ được. Tuy nhiên, đây là một giai đoạn rất cao siêu. Nó mang lại những hiệu quả gây kinh ngạc trong phàm nhân, và cho y thấy những loại hiện tượng khác nhau. |
5. As a result of sanyama comes the shining forth of the light. |
5. Sanyama có kết quả làm cho ánh sáng chói rạng. |
|
There are several terms used here by various commentators and translators and it might be of interest to consider some of them, for in the various interpretations will come a full understanding of the Sanskrit terms. |
Các nhà luận giải và dịch giả đã dùng những thuật ngữ khác nhau ở đây, rất đáng nên xem xét. Vì những cách lý giải khác nhau sẽ giúp độc giả hiểu đầy đủ ý nghĩa của các thuật ngữ Bắc Phạn. |
|
Briefly, the idea involves the conception that the nature of the soul is light, and that light is the great revealer. The yogi, through steady practise in meditation, has reached the point where he can at will, turn the light which radiates from his very being, in any direction, and can illumine any subject. Nothing can therefore be hid from him and all knowledge is at his disposal. This power is therefore described as: [253] |
Nói ngắn gọn, ý tưởng này cho biết rằng bản tính của linh hồn là ánh sáng. Ánh sáng ấy làm hiển lộ những điều trọng đại. Nhờ chuyên tâm hành thiền, nhà yogi có thể tùy ý phóng chiếu ánh sáng từ trong bản thể của mình theo bất cứ chiều hướng nào, và soi tỏ bất cứ điều gì. Vì thế, không điều gì là bí ẩn đối với y, và mọi sự hiểu biết đều dành cho y tùy nghi sử dụng. Năng lực này được mô tả như sau: [253] |
|
1. Illumination of perception. The light of the soul pours forth and the man on the physical plane, in his brain consciousness, is thereby enabled to perceive that which before was dark and hidden from him. The process may technically be described in the following concise terms: |
1. Khai sáng nhận thức. Ánh sáng của linh hồn chói rạng. Nhờ đó phàm nhân ở cõi trần, trong ý thức não bộ của mình, có thể nhận thức được những gì mà trước đây y thấy tối tăm và bí ẩn. Về mặt kỹ thuật, có thể mô tả tiến trình này với các thuật ngữ vắn tắt sau đây: |
|
a. Meditation, |
a. Tham thiền, |
|
b. Polarization in the soul or egoic consciousness, |
b. Phân cực hay tập trung trong linh hồn hoặc tâm thức chân ngã, |
|
c. Contemplation, or the turning of the soul-light upon that which is to be known or investigated, |
c. Chiêm ngưỡng, hay là chiếu rọi ánh sáng của linh hồn vào điều gì cần biết hay cần khảo cứu, |
|
d. The subsequent pouring down of the knowledge ascertained, in a “stream of illumination” into the brain, via the sutratma, the thread-soul, silver cord, or magnetic link. This thread passes through the mind and illumines it. The thoughts engendered in the automatic response of the chitta (or mind stuff) to the knowledge conveyed, are then impressed upon the brain and the man, in his physical consciousness, becomes cognizant of what the soul knows. He becomes illumined. |
d. Sau đó, sự hiểu biết đã xác định được truyền xuống não bộ, như một “dòng ánh sáng khai ngộ,” xuyên qua sutratma, hay là hồn dây, sợi dây bạc, hoặc đường nối từ lực. Đường nối này đi ngang qua thể trí và soi sáng nó. Bấy giờ tư tưởng phát sinh do sự ứng đáp tự động của chitta (hay là trí tuệ chất) đối với sự hiểu biết được truyền đạt. Sau đó nó tạo ấn tượng trên não bộ và phàm nhân ở cõi trần ý thức được những điều linh hồn hiểu biết. Y được khai ngộ. |
|
As this process becomes more frequent and steady, a change takes place in the physical man. He becomes more and more synchronized with the soul. The time element in transmission recedes into the background and the illumination of the field of knowledge by the light of the soul and the illumining of the physical brain, becomes an instantaneous happening. |
Khi tiến trình này ngày càng thường xuyên, liên tục thì trong phàm nhân có sự thay đổi. Y trở nên ngày càng được đồng bộ hóa với linh hồn. Yếu tố thời gian trong việc truyền đạt chìm vào hậu trường, và sự soi sáng lĩnh vực hiểu biết nhờ ánh sáng của linh hồn cũng như sự chói rạng của não bộ trong thể xác, bắt đầu xảy ra tức thì. |
|
The light in the head increases in a corresponding degree and the third eye develops and functions. On the astral and mental plane a corresponding [254] “eye” develops, and thus the ego or soul can illumine all the three planes in the three worlds as well as the soul realm. |
Ánh sáng bên trong đầu bừng chiếu tương ứng. Con mắt thứ ba phát triển và hoạt động. Trên cõi cảm dục và cõi trí, [254] các “nhãn quan” tương ứng cũng phát triển. Thế là chân ngã hay linh hồn có thể soi sáng cả tam giới cũng như lĩnh vực của linh hồn. |
|
2. Lucidity of consciousness. A man becomes lucid and clear sighted. He is conscious of a growing power in himself which will enable him to explain and solve all problems, and not only this, but “lucidly to speak” and thus become one of the teaching forces of the world. All knowledge, consciously acquired by self illumination must be shared, and clearly imparted to others. It is the corollary of illumination. |
2. Sự sáng suốt của tâm thức. Hành giả trở nên sáng suốt với tầm nhìn tỏ rõ. Y cảm thấy nơi mình có năng lực ngày càng gia tăng, có thể lý giải và giải quyết mọi vấn đề khó khăn. Không những thế, y còn có khả năng “ngôn ngữ lưu loát” và có thể trợ giúp công tác giảng huấn ở thế gian. mọi sự hiểu biết, được hoạch đắc hữu thức do tự giác ngộ đều phải được chia sẻ, và truyền đạt minh bạch cho người khác. Đó là hệ quả của sự giác ngộ. |
|
3. The shining forth of insight. This gives a new angle on the subject and a most important one. It is the definition of the capacity to “see into” a form, to arrive at that subjective reality which has made the objective sheath what it is. This insight is more than understanding, sympathy or comprehension. They are but the effects of it. It is the capacity to pierce through all forms and arrive at that which they veil, because that reality is identical with the reality in oneself. |
3. Sự bừng chiếu của thị kiến. Đây là một phương diện mới của vấn đề, và là phương diện quan trọng nhất. Đây là năng lực “nhìn xuyên qua” hình thể, để thấu hiểu chân tính nội tại đã mang lại sức sống và đặc trưng của lớp áo ở bên ngoài. Thị kiến này còn sâu xa hơn sự thông hiểu, cảm thông hay lãnh hội. Chúng chỉ là hiệu quả của nó. Đây là năng lực xuyên thấu mọi hình thể, để biết được thực tính mà chúng che giấu, vì thực tính ấy vốn đồng nhất với chân tính của hành giả. |
|
4. The illumining of the intellect. Unless the mind or intellect can grasp and transmit that which the soul knows, the mysteries remain unexplained to the physical brain and the knowledge possessed by the soul must remain nothing more than a beautiful and unattainable vision. But once the intellect is illumined, it can transmit to and impress upon the brain those hidden things which only the sons of God on their own plane know. Hence the need for Raja Yoga or the [255] science of union through mind control and development. |
4. Soi sáng trí tuệ. Nếu thể trí hay trí tuệ không thể thấu hiểu và truyền sự hiểu biết của linh hồn, thì các bí nhiệm vẫn chưa được giải rõ cho não bộ hồng trần. Bấy giờ sự hiểu biết của linh hồn chẳng còn gì khác hơn là một viễn ảnh đẹp đẽ và không thể đạt. Khi trí tuệ được soi sáng, nó có thể truyền đến và tạo ấn tượng trên não bộ về những điều bí ẩn mà chỉ những người con của Thượng Đế trên cảnh giới của chính mình mới biết được. [255] Vì thế mà cần phải thực hành Raja Yoga hay là khoa học hợp nhất qua việc chế ngự và phát triển trí tuệ. |
6. This illumination is gradual; it is developed stage by stage. |
6. Sự giác ngộ vốn tuần tự, và được phát triển qua từng giai đoạn. |
|
The evolutionary nature of all growth and unfoldment is dealt with here and the aspirant is reminded that nothing is accomplished at once but only as the result of long and steady effort. |
Câu này nói lên phương cách tiến hóa của mọi sự tăng trưởng và khai mở. Người chí nguyện được nhắc nhở rằng không điều gì có thể thành tựu ngay tức khắc, mà chỉ là kết quả của cố gắng lâu dài và liên tục. |
|
One thing that every aspirant to the mysteries should remember is that growth that is gradual, and relatively slow, is the method of every natural process and this soul unfoldment is, after all, but one of the great processes of nature. All that the aspirant has to do is to provide the right conditions. The growth then will take care of itself normally. Steady perseverance, patient endurance, the achievement of a little every day, are of more value to the aspirant than the violent rushing forward and the enthusiastic endeavour of the emotional and temperamental person. The undue forcing of one’s development carries with it certain most definite and specific dangers. These are avoided when the student realizes that the path is long and that an intelligent understanding of each stage of the path is of more value to him than the results achieved through the premature awakening of the psychic nature. The injunction to grow as the flower grows, carries with it a tremendous occult truth. There is an injunction in Ecc. VII. 16, which carries this thought, “Be not righteous over much, . . . why shouldest thou die?” [256] |
Một điều mà mọi người chí nguyện đi tìm các bí nhiệm cần ghi nhớ là sự tăng trưởng vốn xảy ra từ từ, và tương đối chậm chạp. Đó là phương pháp của mọi diễn trình trong thiên nhiên. Và nói cho cùng, sự khai mở linh hồn được bàn ở đây cũng chẳng qua là một trong những tiến trình vĩ đại của thiên nhiên. Tất cả những gì mà người chí nguyện phải làm là tạo các điều kiện đúng. Bấy giờ sự tăng trưởng sẽ tự xảy ra một cách bình thường. Người chí nguyện cần bền lòng liên tục, kiên trì nhẫn nại, và thành tựu mỗi ngày một ít. Cố gắng như thế thì có giá trị nhiều hơn là sự cố cưỡng vội vàng, hấp tấp và bồng bột của người đầy xúc cảm và tính khí thất thường. Việc hối thúc sự phát triển của cá nhân mình một cách không thích đáng sẽ kèm theo một số nguy cơ cụ thể và rất rõ rệt. Người môn sinh có thể tránh được những mối nguy này khi nhận thức rằng con đường đạo thì lâu dài. Y cũng cần nhận thức rằng thấu đáo mỗi giai đoạn trên đường đạo một cách thông minh thì tốt cho y hơn là những kết quả đạt được qua việc khơi dậy các quan năng thần thông quá sớm. Lời khuyên hãy tăng trưởng như đóa hoa tăng trưởng, vốn là một chân lý tuyệt vời của huyền môn. Trong Ecc. VII. 16, cũng có lời huấn thị hàm chứa tư tưởng này, “Đừng tỏ ra đạo đức thái quá, . . . tại sao bạn phải chết vì điều đó?” [256] |
7. These last three means of yoga have a more intimate subjective effect than the previous means. |
7. Ba phương tiện sau này của yoga có hiệu quả mật thiết về mặt nội tâm hơn các phương tiện trước. |
|
The first five means of yoga have for their primary objective the preparation of the would-be yogi. Through keeping the Commandments and the Rules, through the achievements of poise and rhythmic control of the energies of the body, and through the power to withdraw his consciousness and centre it in the head, the aspirant is enabled to take full advantage of, and safely to cultivate the powers of concentration, meditation and contemplation. |
Năm phương tiện đầu của yoga có mục tiêu chính là chuẩn bị cho nhà yogi tương lai. Y đã tuân thủ các Giới răn và các Qui luật. Y đã đạt sự thăng bằng và kiểm soát tiết điệu các năng lượng của cơ thể. Y đã có khả năng rút ý thức và tập trung ý thức bên trong đầu. Nay người chí nguyện có thể hưởng đầy đủ lợi ích của, và an toàn vun bồi, năng lực định trí, tham thiền và chiêm ngưỡng. |
|
Having contacted the subjective in himself and become aware of that which is interior, he can begin to work with the interior, internal and intimate means. |
Đã giao tiếp với thực tại nội tâm nơi chính mình và đã ý thức được thực tại nội tâm ấy, nay y có thể làm việc với nó, và với các phương tiện mật thiết ở nội tâm. |
|
The entire eight means of yoga themselves only prepare a man for that state of spiritual consciousness which transcends thought, which is apart from any of the seeds of thought, which is formless, and which can only be described (and then inadequately) by such terms as unification, realization, identification, nirvanic consciousness, etc. |
Chính toàn bộ tám phương tiện của yoga cũng chỉ chuẩn bị cho hành giả đến trạng thái tâm thức tinh thần vượt cao hơn tư tưởng. Trạng thái này vốn tách rời khỏi mọi chủng tử của tư tưởng. Nó không hề có sắc tướng, và chỉ có thể được mô tả (tất nhiên là một cách thiếu sót) với những từ như thống nhất, nhận thức, đồng nhất, tâm thức niết-bàn, v.v. |
|
It is useless for the neophyte to attempt to comprehend until he has developed the internal instrument for comprehension; it is fruitless for the man of the world to question and seek to be shown unless at the same time he is willing (as in the acquirement of any science) to learn the A.B.C. and graduate in the technique. [257] |
Không ích gì mà người tân môn sinh cố gắng tìm hiểu những điều nói trên, nếu y chưa phát triển được cái khí cụ nội tại để thấu hiểu. Thật là vô hiệu khi người bình thường đặt câu hỏi và tìm cách chứng minh, nếu đồng thời họ không sẵn lòng học những điều cơ bản và thấu đáo kỹ thuật (như khi học hỏi một ngành khoa học). [257] |
|
Johnston in his commentary says: |
Trong phần luận giải của ông, Johnston nói: |
|
“. . . The means of growth previously described were concerned with the extrication of the spiritual man from psychic bondages and veils; while this threefold power is to be exercised by the spiritual man thus extricated and standing on his feet, viewing life with his open eyes.” |
“. . . Các phương tiện tăng trưởng được mô tả trên đây liên quan đến việc con người tinh thần thoát khỏi các ràng buộc và những lớp màn che của cái tâm. Con người nội tâm cần thực hiện ba năng lực này để tự giải thoát và trở nên tự tại, nhìn đời với tầm nhìn rộng mở.” |
8. Even these three, however, are external to the true seedless meditation (or samadhi) which is not based on an object. It is free from the effects of the discriminative nature of the chitta (or mind stuff). |
8. Tuy nhiên, ngay cả ba phương tiện nói trên vẫn còn là bên ngoài so với tham thiền vô chủng đích thực (hay là samadhi) vốn không dựa vào đối tượng. Samadhi không còn chịu ảnh hưởng bởi tính phân biện của chitta (hay trí tuệ chất). |
|
In all the previous stages the thinker has been aware of both himself, the knower, and of the field of knowledge. In the earliest stages he was aware of triplicity, for the instrument of knowledge was likewise recognised, later to be transcended and forgotten. Now comes the final stage, the object of all yoga practices, where unity is known and even duality is seen to be a limitation. Naught remains but awareness of the self, of that omniscient, omnipotent knower who is one with the All, and whose very nature is awareness and energy. As has been well said: |
Trong tất cả các giai đoạn trước, người suy tưởng đã ý thức cả về chính mình, là người tri thức, và về lĩnh vực hiểu biết. Trong các giai đoạn đầu, y biết đến ba phương diện của tiến trình, vì cái khí cụ để hiểu biết cũng được nhận thức, để rồi sau đó hành giả vượt lên khỏi và quên nó đi. Nay là giai đoạn cuối, là mục tiêu của tất cả cố gắng thực hành yoga. Trong giai đoạn này, y biết đến nhất nguyên, và ngay cả nhị nguyên vẫn bị xem là giới hạn. Không điều gì còn lại ngoài sự trực thức về chân ngã. Đó là người hiểu biết toàn tri và toàn năng, là một với Tất cả, có bản tính là trực thức và năng lượng. Như trước đây đã nói: |
|
“There are therefore these two types of perception: That of living things and that of the Life; that of the soul’s works and that of the soul itself.” |
“Vì thế, có hai loại nhận thức: Nhận thức về chúng sinh và nhận thức về Sự Sống. Hay là nhận thức về hoạt động của linh hồn và về chính linh hồn.” |
|
The expounder of yoga is now desirous of describing the results of meditation (some along the line of the higher psychism and some along the line of the lower); the next seven sutras, therefore, [258] deal with the nature of the objects seen and the control of the mind as the real man seeks to focus the illuminating ray of his mind upon them. |
Nhà yogi giờ đây cần phải mô tả những kết quả của tham thiền (một số liên quan đến thần thông cấp cao, và một số thuộc về thần thông cấp thấp). Thế nên, [258] bảy câu kinh kế tiếp sẽ bàn về tính chất của các đối tượng thấy được, và việc kiểm soát thể trí khi chân nhân cố gắng hội tụ những tia sáng khai ngộ của cái trí vào các đối tượng đó. |
|
In studying these results of meditation in the psychic realm, it should be borne in mind that the eight means of yoga do produce definite effects in the lower nature and that this causes certain unfoldments and experiences to take place; these put the aspirant more consciously en rapport with the interior planes in the three worlds. This is a safe and necessary process provided it is the outcome of the awakening of the man on his own plane, and the turning of the eye of the soul, via the mind and the third eye, upon these planes. The presence of the lower psychic power may, however, mean that the soul is (from the physical plane standpoint) asleep and unable to use its instrument, and that these experiences are therefore only the result of the activity of the solar plexus producing awareness of the astral plane. This type of psychism is a reversion to the animal state and to the child stage of the human race. It is undesirable and dangerous. |
Khi nghiên cứu các kết quả nói trên của tham thiền trong lĩnh vực thần thông, cần lưu ý rằng tám phương tiện của yoga thực sự tạo ra những hiệu quả rõ rệt trong phàm tính. Kèm theo đó là một số khai mở và kinh nghiệm. Những thành quả này giúp hành giả hữu thức hòa hợp với những cấp độ nội tại trong tam giới. Đây là một tiến trình an toàn và cần thiết. Với điều kiện nó là thành quả của việc hành giả tỉnh thức trên cảnh giới của mình. Và với điều kiện hướng tầm nhìn của linh hồn qua thể trí và con mắt thứ ba, vào các cảnh giới ấy. Tuy nhiên, sự biểu lộ của thần thông thấp có nghĩa là linh hồn (theo quan điểm hồng trần) vẫn còn yên ngủ và chưa có thể sử dụng được cái khí cụ của mình. Nó cũng cho thấy rằng những kinh nghiệm thần thông nói trên chẳng qua chỉ là kết quả hoạt động của luân xa tùng thái dương mang lại ý thức của cõi cảm dục. Loại thần thông vừa kể là sự trở về với tình trạng của loài thú, và với giai đoạn ấu trĩ của nhân loại. Vì thế, nó không nên có và nguy hiểm. |
9. The sequence of mental states is as follows: the mind reacts to that which is seen; then follows the moment of mind control. Then ensues a moment wherein the chitta (mind stuff) responds to both these factors. Finally these pass away, and the perceiving consciousness has full sway. |
9. Trình tự của các trạng thái trí tuệ như sau: cái trí phản ứng với điều thấy được. Kế đến là sự chế ngự cái trí. Sau đó, chitta (trí tuệ chất) ứng đáp với cả hai yếu tố vừa kể. cuối cùng chúng qua đi, chỉ còn tâm thức trực nhận hoàn toàn sáng tỏ. |
|
If the student will look at any of the translations of the sutras he will find that this one is [259] variously translated and most of the translations are exceedingly ambiguous. This can be illustrated by giving the translation of Tatya: |
Qua các bản dịch khác nhau của các câu kinh văn, [259] người môn sinh sẽ thấy câu này được chuyển dịch theo những lối khác nhau, và hầu hết các câu dịch đều hết sức mơ hồ. Ta hãy xem phần chuyển dịch của Tatya: |
|
“Out of the two trains of self-reproductive thought resulting from the Vyutthana and the Nirodha (respectively), when the former is subdued and the latter is manifested, and, at the moment of manifestation the internal organ (Chitta) is concerned in both of the trains, then such modifications of the internal organ is the modification in the shape of Nirodha.” |
“Trong hai dòng tư tưởng tự sản sinh từ Vyutthana và Nirodha (theo thứ tự), khi cái trước được chế ngự và cái sau được biểu hiện, và, vào lúc biểu hiện cơ quan bên trong (là Chitta) có liên quan trong cả hai dòng. Bấy giờ, sự biến thái đó của cơ quan bên trong là biến thái dưới dạng Nirodha.” |
|
The others are still more vague, with the exception of Johnston’s translation. He gives us the following which throws much light upon the thought involved: |
Những câu dịch khác thậm chí còn mơ hồ hơn nữa, chỉ trừ bản dịch của Johnston. Ông dịch như sau và khiến cho hàm ý của câu kinh trở nên sáng tỏ rất nhiều: |
|
“Out of the ascending degrees is the development of control. First there is the overcoming of the mind-impress of excitation. Then comes the manifestation of the mind-impress of control. Then the perceiving consciousness follows after the moment of control. This is the development of control.” |
“Sự chế ngự phát triển tùy theo mức độ nâng cao. Trước hết là ấn tượng trong cái trí do sự kích động. Rồi đến sự chế ngự ấn tượng của cái trí. Kế đó là tâm thức trực nhận sau phút giây chế ngự. Đây là việc phát triển khả năng chế ngự.” |
|
Perhaps the simplest way to understand this thought is to realize that the man in his physical brain is aware of three factors as he attempts to meditate: |
Có lẽ cách đơn giản nhất để hiểu tư tưởng này là nhận thức rằng khi hành giả cố gắng tham thiền y biết đến ba yếu tố trong não bộ thân xác của mình: |
|
1. He is aware of the object of his meditation. This excites or impresses his mind, and throws into activity the “modifications of the thinking principle,” or stimulates the tendency of the mind to create thought-forms, and throws the chitta or mind stuff into shapes corresponding to the object seen. [260] |
1. Y biết đến đối tượng của tham thiền. Đối tượng này kích thích hay gây ấn tượng nơi thể trí của y. Nó khiến “nguyên khí tư duy biến thái” hay kích thích khuynh hướng tạo hình tư tưởng của cái trí. Và nó định hình chitta hay trí tuệ chất tương ứng với đối tượng thấy được. [260] |
|
2. He then becomes aware of the necessity to subdue this tendency and so brings in the action of the will and steadies and controls the mind stuff so that it ceases to modify itself and take on shape. |
2. Sau đó, y thấy cần phải chế ngự khuynh hướng này và dùng ý chí để kiểm soát và làm cho trí tuệ chất ổn định, khiến nó không còn biến thái và giữ nguyên dạng. |
|
By dint of steady persevering endeavour the sequential nature of these two states of consciousness are gradually offset, and in time they become simultaneous. Recognition of an object and the immediate control of the responsive chitta occur like a flash of lightning. This is the state technically called “nirodha.” It must be remembered that (as Vivekananda says): |
Nhờ cố gắng bền bỉ và liên tục, hai trạng thái tâm thức nói trên được dần dần ổn cố theo trình tự, và đến mức xảy ra đồng thời. Nhận biết một đối tượng và ngay lập tức kiểm soát được sự ứng đáp của chitta xảy ra nhanh như tia chớp. Trạng thái này được gọi với thuật ngữ “nirodha.” Cần lưu ý (như Vivekananda nói) rằng: |
|
“If there is a modification which impels the mind to rush out through the senses and the yogi tries to control it, that very control itself will be a modification.” |
“Nếu có một biến thái nào thúc đẩy cái trí vọng ngoại qua các giác quan và nhà yogi cố gắng kiểm soát điều đó, thì chính sự kiểm soát vừa kể cũng sẽ là một biến thái.” |
|
The impress of the will upon the mind will naturally lead to the mind assuming the shape that controls it and it will be thrown into a modification, dependent largely upon the point in evolution the aspirant has reached, the trend of his daily thought, and the extent of his egoic contact. This is not the true and highest form of contemplation. It is but one of the earlier stages, but it is much higher than concentration and meditation with seed as usually understood, for it is inevitably succeeded by the third stage which is one of great interest. |
Ấn tượng của ý chí trên cái trí sẽ đương nhiên khiến nó khoác hình dạng của những gì kiểm soát nó. Điều này tùy thuộc phần lớn vào trình độ tiến hóa của hành giả, xu thế tư tưởng hàng ngày của y, và mức độ mà y giao tiếp với chân ngã. Đây không phải là chiêm ngưỡng thực sự hay là dạng cao nhất của chiêm ngưỡng. Đây chỉ là một trong những giai đoạn đầu. Thế nhưng, nó vượt cao hơn trình độ định trí và tham thiền hữu chủng như chúng ta thường biết. Bởi vì tiếp theo đó là giai đoạn thứ ba, rất đáng quan tâm. |
|
3. He then slips suddenly out of the lower state of consciousness and realizes his identity with the perceiver, with the thinker on his own plane, and because the mind is controlled and the [261] object seen excites no response, the true identity is able to perceive that which has hitherto been veiled. |
3. Sau đó hành giả bỗng nhiên vượt ra khỏi trạng thái ý thức cấp thấp, và nhận thấy mình đồng nhất với người nhận thức, với người suy tưởng trên cảnh giới của mình. Vì cái trí được chế ngự và đối tượng [261] thấy được thì không mang lại một ứng đáp nào, nên chân ngã có thể nhận thức được những gì mà từ trước đến giờ bị che án. |
|
It should be made clear, however, that the perceiver on his own plane has always been aware of that which is now recognized. The difference lies in the fact that the instrument, the mind, is now in a state of control, it is therefore possible for the thinker to impress the brain, via the controlled mind, with that which is perceived. Man on the physical plane simultaneously also perceives, and true meditation and contemplation for the first time become possible. At first this will only be for a brief second. A flash of intuitive perception, a moment of vision and of illumination and all has gone. The mind begins again to modify itself and is thrown into activity, the vision is lost sight of, the high moment has passed, and the door into the soul-realm seems suddenly to shut. But assurance has been gained; a glimpse of reality has been registered on the brain and the guarantee of future achievement is recognized. |
Tuy nhiên, cần nói rõ rằng người nhận thức trên cảnh giới của mình đã luôn luôn biết được điều mà nay hành giả mới nhận thấy. Sự khác biệt ở chỗ cái khí cụ, là thể trí, nay đang trong tình trạng được chế ngự. Vì thế, người suy tưởng có thể tạo ấn tượng lên não bộ về những gì mình nhận thức, qua cái trí đã được kiểm soát. Phàm nhân ở cõi trần cũng có thể đồng thời nhận thức được vấn đề. Thế là, lần đầu tiên hành giả có thể thực sự tham thiền và chiêm ngưỡng. Lúc đầu, điều này chỉ xảy ra trong phút giây ngắn ngủi. một ánh chớp của nhận thức trực giác, một linh ảnh và tia sáng khai ngộ thoáng qua, rồi tất cả đều tan biến. Cái trí lại tiếp tục biến thái và lao vào hoạt động. Linh ảnh đã phai mờ. Giây phút nâng cao đã trôi qua. Và cánh cửa đi vào lĩnh vực của linh hồn dường như bỗng nhiên đóng kín. Thế nhưng đã có sự bảo đảm. Cái nhìn thoáng qua về thực tại đã được ghi nhận trên não bộ. Hành giả biết rằng thế nào y cũng sẽ thành đạt. |
10. Through the cultivation of this habit of mind there will eventuate a steadiness of spiritual perception. |
10. Khi thói quen này của thể trí được thường xuyên vun bồi, rốt cuộc nhận thức tinh thần sẽ vững vàng, liên tục. |
|
The point of balance between excitation of the mind and control can be achieved with greater frequency by constant repetition, until the habit of stabilizing the mind is acquired. When this is accomplished two things occur: [262] |
Bằng cách kiên trì cố gắng hết lần này đến lần khác, hành giả có thể đạt mức thăng bằng giữa sự phấn khích cái trí và việc chế ngự nó, một cách thường xuyên hơn, cho đến khi việc ổn định thể trí đã trở thành thói quen. Bấy giờ có hai điều xảy ra: [262] |
|
1. An instantaneous control of mind at will, producing |
1. Y có thể tùy ý chế ngự thể trí ngay lập tức, với kết quả: |
|
a. A still mind, free from thought forms, |
a. Cái trí an tịnh, không còn hình tư tưởng, |
|
b. A quiescent responsive brain. |
b. Não bộ yên lặng và có khả năng ứng đáp. |
|
2. A downflow into the physical brain of the consciousness of the perceiver, the soul. |
2. Dòng tâm thức của người nhận thức, hay là linh hồn, phóng hạ và lưu nhập vào não bộ. |
|
This becomes increasingly clearer, more informative and less interrupted as time elapses, until a rhythmic response is set up between the soul and the physical plane man. The mind and brain are completely subdued by the soul. |
Theo thời gian, hiệu quả này ngày càng rõ rệt, truyền đạt nhiều hiểu biết hơn, và ít bị gián đoạn hơn. Cứ thế cho đến khi một sự ứng đáp nhịp nhàng được thiết lập giữa linh hồn và phàm nhân ở cõi trần. Bấy giờ, cái trí và não bộ được linh hồn hoàn toàn chế ngự. |
|
It should be remembered here that this condition of the mind and brain is a positive one, not a negative state. |
Ở đây cần lưu ý rằng tình trạng vừa kể là một trạng thái tích cực, chứ không tiêu cực. |
11. The establishing of this habit, and the restraining of the mind from its thought-form-making tendency, results eventually in the constant power to contemplate. |
11. Khi đã có thói quen này, và kềm chế được khuynh hướng tạo hình tư tưởng của thể trí, rốt cuộc hành giả có năng lực chiêm ngưỡng liên tục. |
|
Little need be said in explanation of this sutra owing to its clarity. It is in the nature of a summation of the previous sutras. |
Ý nghĩa của câu kinh này đã rõ ràng, nên hầu như không cần giải thích. Nó có tính chất là sự hoàn thành của các câu trước. |
|
The idea conveyed is that of the achievement of a constant state of meditation. Though periods in which definite work is done at certain specific and stated hours are of exceeding value, particularly in the early stages of soul unfoldment, yet the ideal condition is that of being in a state of realization all day every day. The ability at will to draw upon the resources of the ego, the constant recognition that one is a Son of God incarnate [263] upon the physical plane, and the ability to draw down, when needed, the power and the force of the soul, is one which will be eventually achieved by every aspirant! But first, however, the habit of recollection has to be instituted and the instantaneous ability to restrain the modifications of the thinking principle has to precede this desirable state of being. |
Ý tưởng được truyền đạt là sự thành tựu một trạng thái thiền liên tục. Đặc biệt là trong những giai đoạn đầu của sự khai mở linh hồn, điều hết sức có giá trị là hành giả cần có những thời khoảng thực hành các công việc nhất định theo những giờ giấc cụ thể và được ấn định. Tuy nhiên, điều kiện lý tưởng là ở trong trạng thái trực thức trọn ngày và trong mọi ngày. Rốt cuộc, mọi người chí nguyện đều có khả năng tùy ý sử dụng các nguồn lực của chân ngã. Họ sẽ có khả năng liên tục nhận biết rằng mình là một Người con của Thượng Đế [263] trong xác phàm ở cõi trần. Và khi cần, họ cũng có khả năng kêu gọi đến quyền năng và mãnh lực của linh hồn! Thế nhưng, trước hết phải tạo thói quen hồi tưởng. Đồng thời khả năng có thể lập tức kềm chế các biến thái của nguyên khí tư duy phải ổn cố trước khi xảy ra tâm thái tốt đẹp này. |
12. When mind control and the controlling factor are equally balanced, then comes the condition of one-pointedness. |
12. Khi việc chế ngự cái trí và yếu tố chế ngự đều cùng cân bằng, bấy giờ mới có sự nhất tâm. |
|
The Sanskrit term used is difficult to explain clearly. Such terms as one-pointed, single in intent, fixed, synthesized, perfected concentration, all give some idea of the mind condition under consideration. |
Thật khó mà giải thích rõ thuật ngữ Bắc Phạn được sử dụng. Tất cả những thuật ngữ như nhất tâm, chủ đích duy nhất, tập trung chuyên chú, tổng hợp, hoàn toàn, đều cho ta một vài ý niệm về tình trạng nói trên của cái trí. |
|
The aspirant is now deliberately unconscious of all states of mind relating to the three worlds. His attention is focussed upon a specific object, and primarily upon the reality or subjective life, veiled by the form of the object. He is likewise unconscious of himself, the thinker or knower, and only that which is contemplated is realized in the true sense of the term. This is the negative aspect. |
Giờ đây, hành giả thận trọng làm thế nào để không còn bận tâm đến tất cả các trạng thái của cái trí liên quan đến tam giới. Y chú tâm, tập trung vào một đối tượng đã chọn. Chính yếu là chú tâm vào thực tính hay là sự sống nội tại, bị che khuất bởi hình thể của đối tượng đó. Y cũng không bận tâm về chính mình, là người suy tưởng hay người tri thức. Chỉ còn điều đang được chiêm ngưỡng, được y nhận thức trong thực nghĩa của nó. Đây là phương diện phủ định. |
|
It should be remembered, however, that this is a very active mental state, for the perceiving consciousness is aware of the object in a most comprehensive manner. The sum of its qualities, aspects and vibration is revealed to him, as well as the essential central energy which has called that [264] particular object into manifestation. This is revealed by the illuminating light of the mind being steadily directed upon that object. The perceiving consciousness is also aware of its identification with the reality behind the form. This is the true occult realization, but it is not the realization of the object so much as a realization of unity with, or identification with the life it veils. |
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng đây là một trạng thái trí tuệ rất tích cực. Vì tâm thức đang nhận biết và trực thức đối tượng một cách toàn diện nhất. Tất cả những đặc tính, khía cạnh và rung động của nó đều được hiển lộ cho y thấy. Y cũng thấy được năng lượng cốt yếu ở trung tâm đã khiến cho đối tượng đó biểu hiện. [264] Sở dĩ có sự hiển lộ này là nhờ ánh sáng khai ngộ của cái trí được liên tục chiếu vào đối tượng. Tâm thức tỉnh giác này cũng thấy mình đồng nhất với thực tính ẩn trong hình thể đó. Đây là nhận thức huyền môn đích thực. Thế nhưng không chỉ là nhận thức về đối tượng mà đúng ra là thấy mình là một hay đồng nhất với sự sống bên trong nó. |
|
This is in itself a dual condition but not in the ordinarily accepted sense. There is, however, a still higher state of consciousness when the unity of the life in all forms is realized, and not simply unity with the life in one specific object. |
Nhận thức này cũng còn là một tình trạng nhị nguyên, nhưng không có ý nghĩa như chúng ta thường hiểu. Tuy nhiên, có một trạng thái tâm thức còn cao siêu hơn nữa. Bấy giờ hành giả nhận biết được sự sống duy nhất trong mọi hình thể, chứ không chỉ thấy mình là một với sự sống trong một đối tượng riêng biệt. |
13. Through this process the aspects of every object are known, their characteristics (or form) their symbolic nature, and their specific use in time-conditions (stage of development) are known and realised. |
13. Qua tiến trình này, hành giả biết được các phương diện của mọi đối tượng. Y biết và nhận thức được các đặc điểm (hay hình thể) của chúng, tính biểu tượng của chúng, và công dụng đặc biệt của chúng theo điều kiện thời gian (giai đoạn phát triển). |
|
It should here be borne in mind that every form of divine manifestation has three aspects and hence is made truly in the image of God with all divine potentialities. In the human kingdom this is recognised. It is equally true of all forms. This triple nature is grasped by the truly concentrated yogi and the three are seen as they exist and yet are recognised as constituting one whole. In his commentary, Johnston gives us a picture of the ideas involved, in the following words: |
Cần lưu ý rằng mọi hình thể biểu hiện thiêng liêng đều có ba phương diện. Vì thế, chúng thực sự là hình ảnh của Thượng Đế với tất cả các tiềm năng thiêng liêng. Điều này rất rõ trong giới nhân loại. Điều này cũng đúng với mọi hình hài, sắc tướng. Với sự chú tâm hoàn toàn, nhà yogi thấy được tính chất tam phân này. Y thấy cả ba phương diện nhưng hiểu rằng chúng là một toàn thể. Trong phần luận giải của ông, Johnston minh họa các ý tưởng vừa kể như sau: |
|
“. . . we get a twofold view of this object, seeing at once all its individual characteristics, [265] its essential character, species and genus; we see it in relation to itself and in relation to the Eternal.” |
“. . . chúng ta thấy hai phương diện của đối tượng này, lập tức thấy tất cả các đặc tính của nó, đặc trưng cốt yếu, dòng loài và đoàn nhóm của nó. Chúng ta thấy thực tính của nó, đồng thời thấy nó trong tương quan với cái Vĩnh cửu.” |
|
In a curious way these three aspects cover the three aspects of the time equation or of the relationship of the object to its environment. |
Điều lạ là ba phương diện nói trên bao gồm ba khía cạnh của sự sai biệt về thời gian, hay là mối liên hệ của đối tượng đó với môi trường chung quanh nó. |
|
1. Characteristics of the form. In this phrase the tangible outward aspects of the form are seen. The matter-side of the manifesting idea is dealt with, and that which can be contacted through the medium of the senses is first considered and dismissed. This form is the result of the past, and the limitations due to the point in evolution are recognised. Every form carries in itself the evidence of the previous cycles and this can be seen in: |
1. Đặc điểm của hình thể. Tức là các khía cạnh hữu hình bên ngoài của hình thể. [265] Đây là phương diện vật chất của ý tưởng đang biểu hiện. Những gì có thể tiếp xúc qua các giác quan trước hết được xem xét và bỏ qua. Hình thể này là kết quả của quá khứ, là những hạn chế do trình độ tiến hóa mà hành giả nhận biết. mọi hình thể đều có mang bằng chứng của những chu kỳ trước đó, biểu lộ trong: |
|
a. Its rate of vibration, |
a. Tốc độ rung động, |
|
b. The nature of its rhythm, |
b. Tính chất nhịp điệu của nó, |
|
c. The amount of light which it permits to manifest, |
c. Lượng ánh sáng mà nó cho phát lộ, |
|
d. Its occult colour. |
d. màu huyền bí của nó. |
|
2. Symbolic nature. Every object is but the symbol of a reality. The difference in the development of the forms which symbolize or embody that reality is the guarantee that at some future date all the symbols will achieve the fruition of their mission. A symbol is an embodied idea, the working out in objective existence of some life. This is the consciousness aspect and two great revelations are latent in every symbol or form. [266] |
2. Tính biểu tượng. mọi vật thể đều chỉ là biểu tượng của một thực tại. Sự khác biệt trong phát triển của các hình thể tượng trưng cho, hay chứa đựng, thực tại vừa kể là bảo đảm rằng một ngày nào đó sau này tất cả các hình thể đều sẽ hoàn thành nhiệm vụ của chúng. một biểu tượng là một ý tưởng hiện thể, là sự biểu lộ tồn tại khách quan của một sự sống. Sự sống này là phương diện tâm thức, và trong mọi biểu tượng hay hình thể đều hàm chứa hai sự hiển lộ quan trọng. [266] |
|
a. The revelation of full consciousness, or the streaming forth of that response to contact which is potential or differing as yet in all forms but which can and will be carried forward to the full flood-tide of awareness. |
a. Sự hiển lộ của tâm thức đầy đủ hay là ứng đáp mau lẹ với các giao tiếp. Ý thức này hãy còn tiềm tàng và khác biệt nhau trong mọi hình thể. Thế nhưng nó có thể và sẽ trở thành trực thức viên mãn. |
|
b. The revelation of that which the consciousness aspect (the second aspect) is in its turn veiling. The unveiling of the soul leads to the manifestation of the one life. The manifestation of the Son of God leads to a knowledge of the Father. The shining forth of the higher self, through the medium of the lower self, produces the revelation of the divine or spiritual self. The matrix holds the diamond and when the matrix reveals its hidden gem, and the work of cutting and polishing is accomplished, the glory of the jewel will be seen. When the lotus plant has grown to maturity, the flower comes to fruition and in the centre of its petals the “Jewel in the Lotus” (Om mani padme hum) can be seen. |
b. Sự hiển lộ của điều mà chính tâm thức (là trạng thái thứ hai) đang che giấu. Khi loại bỏ bức màn che án linh hồn, hành giả thấy được sự sống duy nhất. Khi Người Con của Thượng Đế xuất lộ, dần dần sẽ có sự hiểu biết về Đấng Cha lành. Sự bừng chiếu của chân ngã, qua trung gian của phàm ngã, sẽ hiển lộ chân ngã tinh thần hay siêu ngã. Khối đá bao bọc viên kim cương. Khi khối đá để lộ viên ngọc ẩn tàng này, và khi hoàn tất việc cắt gọt, hoàn thiện, viên ngọc quí sẽ tỏa sáng. Khi cây sen phát triển đến độ trưởng thành, hoa sen bừng nở, đóa hoa tạo quả, phô bày “Viên ngọc quí trong tâm Hoa sen” (Om mani padme hum). |
|
This symbolic aspect of forms is true of all, and whether the symbol is the atom of substance, the mineral, or a tree, an animal or the “form of the Son of God” the jewel of the first aspect will be found hidden. It will make its presence known through the quality of consciousness in one or other of its many states. |
Ý nghĩa biểu tượng nói trên của hình thể là đúng với tất cả, dù biểu tượng đó là một nguyên tử vật chất, khoáng chất, hoặc một cội cây, một con vật, hay “hình thể của Người Con Thượng Đế.” Trong tất cả đều có ẩn tàng viên ngọc quí của trạng thái thứ nhất. Nó sẽ hiển lộ qua phẩm tính của tâm thức trong nhiều trạng thái khác nhau. |
|
3. Specific use in time conditions. As the yogi one-pointedly concentrates on the form, or object, meditates on its quality (the subjective aspect or symbolic nature), and contemplates the life veiled by the form but testified to by the factor of consciousness, he becomes aware of the present stage [267] of development, and thus the future, past and present, stand revealed to his intuition. |
3. Công dụng đặc biệt theo điều kiện thời gian. Khi nhà yogi hoàn toàn chú tâm vào hình thể, hay đối tượng; khi y tham thiền về đặc tính (phương diện nội tại hay tính biểu tượng của nó); và khi y chiêm ngưỡng sự sống ẩn tàng trong hình thể đó, nhưng có biểu hiệu là yếu tố tâm thức, thì bấy giờ y trực nhận được giai đoạn phát triển hiện tại của nó. [267] Bằng cách này, trực giác của y thấu ngộ cả quá khứ, hiện tại và tương lai. |
|
It will be apparent therefore to even the casual reader, that if meditation in its three above mentioned stages is carried forward correctly, all knowledge becomes possible to the yogi, the Eternal Now is a realized fact in nature and intelligent cooperation with the evolutionary plan becomes possible. Service is then based on complete understanding. |
Vì thế, chỉ cần đọc qua mấy dòng nói trên, chúng ta cũng thấy rằng nếu tham thiền, với cả ba giai đoạn vừa kể, được thực hiện đúng đắn, thì nhà yogi có thể hoạch đắc mọi sự hiểu biết. Y nhận thức rằng Hiện tại Vĩnh cữu là một sự kiện thực tế, và có thể hợp tác một cách thông minh với cơ tiến hóa. Bấy giờ, y có thể phụng sự trong điều kiện hoàn toàn thông hiểu. |
14. The characteristics of every object are acquired, manifesting or latent. |
14. Đặc tính của mọi vật thể hay đối tượng đều do tập nhiễm, đang biểu lộ hay tiềm ẩn. |
|
Much the same idea is covered in this sutra as in the previous one. In time and space all characteristics have relative values. The goal is one; the origin is one, but owing to the differing rates of vibration of the seven great breaths or streams of divine energy, every life borne forth upon them differs and is distinctive. The stage of development of the seven Lords of the Rays is not equal. The unfoldment of the life of the various planetary Logoi, or of the seven Spirits before the Throne of God, is not uniform and the atoms in Their bodies, or the monads who constitute Their vehicles are therefore not uniform in unfoldment. |
Hầu như chính ý tưởng trong câu kinh này cũng có trong câu trước. Trong không gian và thời gian, mọi đặc tính đều chỉ có giá trị tương đối. Tuy nhiên, tất cả chỉ có mục tiêu duy nhất, và phát xuất từ nguồn cội duy nhất. Chỉ vì những nhịp độ rung động khác nhau của bảy hơi thở vĩ đại hay bảy dòng năng lượng thiêng liêng, mà mọi sự sống sinh ra từ đó mới trở nên phân biệt và khác biệt. Giai đoạn phát triển của bảy vị Chúa tể các Cung vốn không đồng đều. mức độ khai mở của các vị hành tinh Thượng Đế, hay bảy vị Tinh quân trước Ngôi Thượng Đế, cũng không giống nhau. Do đó, những hạt nguyên tử trong cơ thể của các Ngài, hay là các chân thần hợp thành những vận cụ của các Ngài, cũng được khai mở không thống nhất. |
|
This is a vast subject and cannot be more than touched upon here. Students will find it of interest to search for information given in the different presentations of the one truth anent the great Lives in whom we “live, and move and have [268] our being.” They can be studied under the following names: |
Chủ đề này quá rộng lớn, nên ở đây chỉ có thể đề cập khái quát. Người môn sinh sẽ thấy bổ ích khi quan tâm tìm hiểu những điều trình bày khác nhau của chân lý duy nhất về các Chân linh vĩ đại mà “chúng ta sống, di chuyển và hiện tồn [268]” trong các Ngài, với những danh hiệu sau đây: |
|
1. The seven Rays, |
1. Bảy Cung, |
|
2. The seven Spirits before the Throne, |
2. Bảy vị Tinh quân trước Ngôi Thượng Đế, |
|
3. The seven planetary Logoi, |
3. Bảy vị hành tinh Thượng Đế, |
|
4. The seven great Lords, |
4. Bảy vị Chúa Cao cả, |
|
5. The seven Aeons, |
5. Bảy Giai kỳ, |
|
6. The seven Emanations, |
6. Bảy Phóng phát Năng lượng, |
|
7. The seven Prajapatis, |
7. Bảy Prajapati, |
|
and other less known terms, and much light will be forthcoming. |
và những thuật ngữ khác ít thông dụng hơn. Nhờ đó, vấn đề sẽ sáng tỏ hơn. |
|
In the characteristic form (taking into consideration its specific point in development, and its lack of development) is revealed to the knower: |
Một hình thể đặc thù (xét theo mức phát triển, và còn thiếu phát triển của nó) sẽ cho người tri thức thấy: |
|
a. The sum total of acquirement. That which the past has given. This is the total chord which the soul of that object is as yet capable of sounding. |
a. Tất cả những gì đã hoạch đắc. Tức là thành quả của quá khứ. Đây là toàn thể hòa âm mà linh hồn của vật thể đó có thể phát ra cho đến nay. |
|
b. The particular range of qualities out of that total acquisition which the life is manifesting through any specific form. This is the present note in the acquired chord which the soul of the object has chosen to sound. |
b. một loạt các đặc tính nhờ tất cả hoạch đắc kể trên mà sự sống bên trong biểu lộ ra qua một hình dạng cụ thể. Đây là nốt hiện tại trong hòa âm đã đạt mà linh hồn của vật thể đó đã chọn để phát ra. |
|
c. That which is latent and possible. This knowledge will be dual, revealing first, the latent possibilities to be unfolded through the medium of the form contemplated, and secondly, the latent possibilities capable of unfoldment in the present world cycle through various forms. This covers future developments. This will give the yogi the completed chord when the great evolutionary cycle has run its course. [269] |
c. Những gì còn ẩn tàng và khả dĩ phát triển. Sự hiểu biết này có hai phần. Trước hết, nó cho thấy những khả năng tiềm tàng có thể khai mở qua trung gian của hình thể được chiêm ngưỡng. Các khả năng tiềm ẩn này có thể khai mở trong chu kỳ thế giới hiện tại qua những hình thể khác nhau. Đây là các phát triển tương lai. Cái ẩn tàng này sẽ mang lại hòa âm hoàn mãn cho đến khi kết thúc đại chu kỳ tiến hóa này. [269] |
15. The stage of development is responsible for the various modifications of the versatile psychic nature and of the thinking principle. |
15. Giai đoạn phát triển bao gồm những biến thái khác nhau của bản chất cái tâm thường thay đổi và nguyên khí tư duy. |
|
This is a very general paraphrase of the idea involved and is in the nature of a summing up of the rather abstruse ideas of the text. The sutras following upon this one deal (for the remainder of Book III) with the results of meditation. The preceding sutras have considered the hindrances and difficulties that have to be overcome before true meditation becomes possible. The key to that overcoming and the difference between aspirants to the path is made apparent in this sutra. The ascertaining of one’s approximate place upon the ladder of evolution, the summing up of one’s assets and debits is one of the most useful activities the would-be aspirant can undertake. An understanding of the stage reached and of the next step to be taken is essential for all true progress. |
Câu này nói rất tổng quát về ý tưởng trong câu, và tóm lược những ý tưởng khác sâu xa, khó hiểu hơn trong bản văn. Các câu kinh tiếp theo câu này bàn về những kết quả của tham thiền (trong phần còn lại của Quyển III). Những câu kinh ở phần trước đã xem xét các khó khăn và chướng ngại cần khắc phục trước khi có thể hành thiền thực sự. Câu này nêu rõ điều then chốt của phương pháp khắc phục, và sự khác biệt giữa những người chí nguyện tìm đạo. Một trong những điều rất hữu ích mà người chí nguyện tương lai có thể thực hiện là xác định vị thế gần đúng của mình trên thang tiến hóa. Y cũng cần tổng kết các sở trường và sở đoản mà y hiện có. Điều cần yếu là hiểu giai đoạn hiện tại của mình và bước kế tiếp cần thực hiện. |
|
Johnson translates this sutra in the words: “Difference in stage is the cause of difference in development,” and goes on to say: “The first stage is the sapling, the caterpillar, the animal. The second stage is the growing tree, the chrysalis, the man. The third is the splendid pine, the butterfly, the angel …” |
Johnston dịch câu này như sau: “Khác biệt về giai đoạn tiến hóa khiến có khác biệt trong phát triển.” Rồi ông nói tiếp: “Giai đoạn đầu là cây non, sâu bọ, loài vật. Giai đoạn thứ hai là cây lớn, sâu trưởng thành, loài người. Giai đoạn thứ ba là cây thông xinh đẹp, loài bướm, thiên thần . . .” |
16. Through concentrated meditation upon the triple nature of every form, comes the revelation of that which has been and of that which will be. |
16. Qua tham thiền tập trung về bản chất tam phân của mọi hình thể, hành giả hiểu được những gì đã có và những gì sẽ có. |
|
The sutra which we are considering sums the [270] preceding ideas and it is interesting to note how this first great result of meditation takes one right back to the true facts anent divine manifestation and emphasizes the three aspects through which every life (from an atom of substance to a solar Logos) expresses itself. The great Law of Cause and Effect and the entire process of evolutionary unfoldment are recognized and that which is, is seen to be the result of that which has been. Similarly that which will later eventuate is recognized to be the working out of causes set in motion in the present, and thus the cycle of development is seen to be one process existing in three stages. |
Câu kinh này tổng kết các ý tưởng ở phần trước. [270] Điều thú vị là lưu ý xem cách nào mà kết quả quan trọng đầu tiên này của tham thiền giúp hành giả trực tiếp quay về với những sự kiện thực tế về cuộc biểu hiện thiêng liêng. Nó cũng nhấn mạnh ba trạng thái mà qua đó mọi sự sống (từ một nguyên tử vật chất đến vị thái dương Thượng Đế) tự phát triển. Hành giả nhận thức đại Luật Nhân Quả, và trọn cả diễn trình khai mở tiến hóa. Y hiểu rằng cái hiện có vốn là kết quả của những gì đã có. Tương tự, y biết rằng điều sẽ xảy ra sau này vốn là biểu hiện của những nguyên nhân đang phát động trong hiện tại. Thế nên, chu kỳ phát triển là một tiến trình có ba giai đoạn. |
|
These three stages in the three worlds of human unfoldment correspond to the three dimensions, and students will find it interesting to work out these analogies of the various triplicities, remembering that the third aspect (intelligent substance), the Holy Ghost or Brahma aspects, corresponds to the past (hence a hint as to the nature of evil). The second aspect (consciousness) or the Christ or Vishnu aspect relates to the present, whilst only the future will reveal the nature of spirit, the highest or Father aspect. This line of thought, through concentrated meditation will become clear, and a sense of proportion and a sense of just values as to the present point in time will grow. A recognition also of the relation of all lives to each other will be developed and the life of the aspirant will be stabilized and adjusted so that past karma will be adjusted and possible future karma negated and the process of liberation will proceed with rapidity. [271] |
Ba giai đoạn vừa kể trong ba cảnh giới tiến hóa của nhân loại tương ứng với ba chiều không gian. Người môn sinh sẽ thấy thú vị khi tìm các tương đồng này trong những bộ ba khác nhau. Nên nhớ rằng phương diện thứ ba (chất liệu thông minh), là Chúa Thánh Thần hay trạng thái Brahma vốn tương ứng với quá khứ (vì thế có ngụ ý về tính chất của điều ác). Phương diện thứ hai (tâm thức) là trạng thái Christ hay Vishnu có liên quan đến hiện tại. Trong khi đó, chỉ tương lai mới hiển lộ tinh thần, trạng thái cao nhất hay Đức Chúa Cha. Qua tham thiền tập trung, dòng tư tưởng này sẽ trở nên sáng tỏ. Từ đó sẽ phát triển ý thức cân đối tỉ lệ, và ý thức giá trị đúng về trình độ hiện nay trong thời gian. Hành giả cũng nhận thức được mối liên hệ của tất cả các kiếp sống với nhau. Cuộc sống của y sẽ được ổn định và điều chỉnh để thanh toán nghiệp quả của quá khứ. Y cũng có thể tránh tạo nghiệp tương lai, và đẩy nhanh tiến trình giải thoát. [271] |
17. The Sound (or word), that which it denotes (the object) and the embodied spiritual essence (or idea) are usually confused in the mind of the perceiver. By concentrated meditation on these three aspects comes an (intuitive) comprehension of the sound uttered by all forms of life. |
17. Âm thanh (hay linh từ), điều nó biểu thị (là đối tượng), và tinh túy tinh thần (hay ý tưởng) ở trong hình thể, vốn thường bị lẫn lộn trong trí của người nhận thức. Qua tham thiền tập trung về ba phương diện này, hành giả có thể thấu hiểu (trực giác) được âm thanh mà mọi hình thể của sự sống phát ra. |
|
This is one of the most important sutras in the book, and holds the key to the object of the entire meditation process. This is to reveal or to unveil to the perceiver or spiritual man, the true nature of the self, the second aspect, and the correspondence to the second aspect in all forms of subhuman life, as well as to put him en rapport with the second aspect in all superhuman forms. Thus it concerns the subjective side of all manifestation and deals with those forces which in every form constitute the consciousness aspect, which concern the Christ or buddhic principle and which are the direct cause of objective manifestation and the revelation of spirit through the medium of form. |
Đây là một trong những câu kinh quan trọng nhất trong sách. Nó cho ta bí quyết để hiểu đối tượng của trọn cả tiến trình tham thiền. Nó hiển lộ hay bày tỏ cho người nhận thức, hay con người tinh thần, thấy được thực tính của chân ngã, trạng thái thứ hai. Nó cho thấy sự tương ứng với trạng thái thứ hai trong mọi hình hài của các loài thấp kém hơn nhân loại. Nó cũng giúp hành giả hòa hợp với trạng thái thứ hai trong các đẳng cấp siêu nhân. Vì thế nó liên quan đến phương diện nội tại của toàn cuộc biểu hiện. Nó đề cập đến những mãnh lực là phương diện ý thức trong mọi hình thể, có liên quan đến nguyên khí Christ hay nguyên khí bồ- đề. Đây là nguyên nhân trực tiếp của cuộc biểu hiện khách quan, nhằm hiển lộ tinh thần qua trung gian của hình hài, sắc tướng. |
|
This is the AUM. First the breath, then the word and all that is, appeared. |
Đây là AUM. Trước hết là hơi thở, kế đó là linh từ, và vạn hữu xuất hiện. |
|
Just as long as the great Existence who is the sum total of all forms and of all states of consciousness continues to sound the cosmic AUM, just so long will the objective tangible solar system persist. |
Ngày nào mà Đấng cao cả, vốn bao gồm toàn bộ các hình hài sắc tướng và tất cả các trạng thái tâm thức, còn tiếp tục xướng lên thánh ngữ AUM vũ trụ, thì ngày ấy thái dương hệ khách quan hữu hình vẫn còn tồn tại. |
|
The following synonyms in connection with this sutra must be borne in mind if clarity of thought is to be achieved: [272] |
Cần lưu ý các từ đồng nghĩa sau đây liên quan đến câu kinh này, để hiểu rõ ý tưởng của nó hơn: [272] |
|
I. Spiritual Essence. |
II. The Sound or Word. |
III. The Object. |
|
1. Spirit. |
1. The Soul. |
1. Body |
|
2. Pneuma. |
2. The Psyche. |
2. Form |
|
3. The Father. Shiva |
3. The Son. Vishnu. |
3. The Holy Spirit. |
|
4. The Monad. The One. |
4. The cosmic Christ. |
4. The vehicle of life and of incarnation. |
|
5. The eternal Will or Purpose. |
5. Eternal Love-Wisdom. |
5. Eternal activity and intelligence. |
|
6. One great Breath. |
6. The AUM. |
6. The Worlds. |
|
7. Life. |
7. Consciousness Aspect. |
7. Activity Aspect. |
|
8. Synthesising Energy. |
8. Attractive Force. |
8. Matter. |
|
9. First Aspect. |
9. Second Aspect. |
9. Third Aspect. |
|
I. |
Tinh túy Tinh thần. |
II. |
Âm thanh hay Linh từ. |
III. |
Đối tượng. |
|
1. |
Tinh thần. |
1. |
Linh hồn. |
1. |
Cơ thể. |
|
2. |
Hơi thở Sự Sống. |
2. |
Tâm. |
2. |
Hình thể. |
|
3. |
Đức Chúa Cha. Shiva. |
3. |
Đức Chúa Con. Vishnu. |
3. |
Chúa Thánh Thần. Brahma. |
|
4. |
Chân thần. Đấng Duy nhất. |
4. |
Đấng Christ vũ trụ. |
4. |
Phương tiện của sự sống và nhập thế. |
|
5. |
Ý chí hay Thiên ý vĩnh cửu. |
5. |
Bác ái-Minh triết vĩnh cửu. |
5. |
Hoạt động và thông tuệ vĩnh cửu. |
|
6. |
Hơi thơ vĩ đại duy nhất. |
6. |
Thánh ngữ AUM. |
6. |
Các Cảnh giới. |
|
7. |
Sự Sông. |
7. |
Phương diện Tâm thức. |
7. |
Phương diện Hoạt động. |
|
8. |
Năng lượng Tổng hợp. |
8. |
Lực Hấp dẫn. |
8. |
Vật chất. |
|
9. |
Trạng thái Thứ nhất. |
9. |
Trạng thái Thứ hai. |
9. |
Trạng thái Thứ ba. |
|
In the mind of man these three aspects are confused and that which is outward and objective is usually recognized as reality. This is the great maya or illusion and can only be dissipated when the perceiver can distinguish the three great aspects in every form, his own included. When the second aspect, the soul, the middle or mediating principle is known, the nature of the form is also known, and the essential nature of spirit can be inferred. The immediate field of knowledge, however, which the yogi has to master is that of the second aspect. He must arrive at the Sound or Word which brought every form into manifestation, and which is the result of the breath, the essence or spirit. |
Trong trí mọi người, ba trạng thái nói trên thường bị lẫn lộn. Họ thường xem những gì ở bên ngoài, thuộc thế giới khách quan, là thực tại. Đó là đại ảo ảnh hay ảo tưởng. Chúng chỉ bị xóa tan khi người nhận thức có thể phân biệt ba phương diện chính trong mọi hình thể, gồm cả hình thể của y. Khi hiểu biết linh hồn, là trạng thái thứ hai hay nguyên khí trung gian, thì y cũng biết được tính chất của hình thể. Bấy giờ y có thể suy ra bản tính cốt yếu của tinh thần. Tuy nhiên, lĩnh vực hiểu biết hiện nay nhà yogi cần phải thấu đáo là trạng thái thứ hai. Y phải hiểu biết về Âm thanh hay Linh từ đã giúp mọi hình thể biểu hiện. Chúng vốn là kết quả của hơi thở sự sống, là tinh hoa hay tinh thần. |
|
“In the beginning was the Word and the Word [273] was with God and the Word was God. All things were made by Him. . . ” (John I. 1:2.) |
“Ban đầu có Ngôi Lời, và Ngôi Lời [273] ở cùng với Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. muôn loài vạn vật đều do Ngài tạo ra . . . .” (John I. 1 : 2.) |
|
Here, in the Christian Bible, is the substance of the entire teaching, and in the significance of the three letters of the Sacred Word, AUM, lies the clue to the entire cosmic process. The meditation process when duly and correctly carried out reveals therefore the second or soul aspect, and the Sound, or Word (the Voice of the Silence) can then be heard. |
Câu này, trong Kinh Thánh Thiên Chúa giáo, là thực chất của trọn cả giáo huấn. Diệu nghĩa của ba mẫu tự trong Thánh ngữ AUM, cho ta manh mối của toàn thể tiến trình vũ trụ. Vì thế, khi thực hiện tiến trình tham thiền một cách thích hợp và đúng đắn, hành giả sẽ hiểu được phương diện thứ hai hay là linh hồn. Bấy giờ y có thể nghe được Diệu âm, hay Linh từ (Tiếng nói của Im lặng). |
|
Once heard and the work carried steadily forward, the realm of consciousness is revealed and the yogi is en rapport with the second aspect of his own nature and with the second aspect in every form. This is the basis of the whole science of the soul and leads a man to know his own soul or psyche and the psyche in every form of divine life. It is the foundation for the entire science of psychism, both in its higher and lower aspects. |
Khi đã nghe được Âm thanh này và tiếp tục chuyên cần thực hành, y đi vào lĩnh vực tâm thức. Nhà yogi hòa hợp với trạng thái thứ hai nơi chính mình, và với trạng thái thứ hai trong mọi hình thể. Đây là cơ bản của trọn cả khoa học về linh hồn. Nhờ đó, y biết được linh hồn hay tâm của mình, và linh hồn trong mọi hình thể của sự sống thiêng liêng. Đây cũng là cơ sở của khoa học về tâm thông, cả cấp cao và cấp thấp. |
|
When a man is a lower psychic he is aware of, and responds to the soul aspect of the material forms and the third or Brahma aspect (the body), dominates, for every atom of matter has a soul. This concerns all that is subhuman. |
Khi một người là nhà tâm thông cấp thấp, y ý thức được, và ứng đáp với trạng thái nội tâm của các hình thể vật chất. Trong trường hợp này, phương diện thứ ba hay trạng thái Brahma thống ngự, vì mọi nguyên tử vật chất đều có một linh hồn. Tình trạng này liên quan đến các giới tiến hóa dưới nhân loại. |
|
When he responds to the higher correspondence of this, to the reality of which the lower is but the shadow, he is in touch with the Christ consciousness, with the soul of his being which is one with the soul in all the superhuman kingdoms. |
Khi y ứng đáp với phần tương ứng cấp cao của cái tâm, là thực tại mà cấp thấp chỉ là hình bóng của nó, thì y giao tiếp với tâm thức Christ. Y giao tiếp với linh hồn của mình, vốn là một với linh hồn trong tất cả các trường tiến hóa siêu nhân. |
|
In connection with this, two things must be remembered. If he is a lower psychic he is in touch with the second aspect of the lower man, the astral body, the middle principle in the lower [274] man, linking the mental body and the etheric. He is, therefore, en rapport with all that can be contacted on that plane. |
Có hai điều cần lưu ý trong vấn đề này. Nếu y là nhà tâm thông cấp thấp, thì y tiếp xúc với trạng thái thứ hai trong phàm nhân, tức là thể cảm dục. Đó là nguyên khí trung gian trong phàm ngã, [274] liên kết thể trí và thể dĩ thái. Vì thế, y hòa hợp với tất cả những gì có thể tiếp xúc được trên cảnh giới đó. |
|
If, however, he is a higher psychic he is en rapport with the second aspect of divine manifestation, the ego or soul on its own plane, mediating between and linking the monad with the personality, spirit with the body. |
Tuy nhiên, nếu y là nhà tâm thông cấp cao, thì y hòa hợp với trạng thái thứ hai của cuộc biểu hiện thiêng liêng. Đó là chân ngã hay linh hồn trên cảnh giới của mình, làm trung gian và liên kết chân thần với phàm ngã, tinh thần với thể chất. |
|
It is interesting here to note that a clue to the truth of this can be found in the manifestations of lower psychism such as are seen in the average mediumistic seance and the ordinary type of spiritualism. Contact with the astral plane is made through that great centre, the solar plexus which links the higher three centres and the lower. It accounts also for the fact that flowers are such a feature in materializations at seances, for the vegetable kingdom is the middle kingdom of the three subhuman kingdoms, mineral, vegetable, and animal. The explanation as to the prevalence of Indian guides is also found here, for they are the shells and powerful thought-forms left by the second of the three strictly human races, Lemurian, Atlantean and Aryan. No Lemurian shells or thought-forms are left now, but many Atlantean shells are still to be found preserved through the use of certain forms of Atlantean magic. |
Người ta có thể tìm thấy manh mối thú vị về sự thực nói trên trong các biểu hiện thần thông cấp thấp, như trong những buổi lên đồng tầm mức trung bình, và việc thực hành khoa thông thần loại thường. Việc giao tiếp với cõi cảm dục được thực hiện qua luân xa chính là tùng thái dương. Nó liên kết ba luân xa cao và các luân xa thấp. Nó cho thấy tại sao người ta dùng hoa cho việc hiện hình tại các buổi cầu hồn. Lý do là vì giới thảo mộc đóng vai trò trung gian trong ba trường tiến hóa thấp kém hơn nhân loại, giới khoáng vật, thực vật, và động vật. Ở đây cũng cho thấy tại sao có rất nhiều vong linh hướng dẫn người Ấn Độ. Vì chúng là những lớp vỏ và các hình tư tưởng mạnh mẽ bị bỏ lại của giống dân thứ hai trong ba giống dân thực sự là nhân loại, tức là dân Lemuria, dân Atlantis và dân Aryan. Hiện nay thì những lớp vỏ có liên quan đến người Lemuria không còn nữa. Thế nhưng, nhiều lớp vỏ của dân Atlantis vẫn còn được bảo tồn, do người ta sử dụng một số dạng pháp thuật của thời Atlantis. |
|
By concentrated meditation upon the distinction between these aspects there will eventually come a hearing of the Voice of the Silence and contact with a man’s own second aspect. He will know himself as the “Word made flesh” and will recognize himself as the AUM. [275] |
Khi tham thiền tập trung về sự khác biệt giữa ba trạng thái nói trên, rốt cuộc hành giả sẽ nghe được Tiếng nói của Im lặng và giao tiếp với trạng thái thứ hai nơi chính mình. Y sẽ biết mình là “Ngôi Lời hiện thể” và sẽ nhận biết chính mình là AUM. [275] |
|
When this is the case he will then hear the word in other units of the human family, and will awaken to a recognition of the sound, as it is emanated by all forms in all the kingdoms of nature. The realm of the soul will stand open to him and this, when it includes recognition of the sound in all the four kingdoms, will lead him to know himself as Master. Soul knowledge and the power to work with the soul of all things in the three worlds is the distinctive mark of the Adept. |
Bấy giờ, y sẽ nghe được linh từ trong những người khác của gia đình nhân loại. Y cũng sẽ nhận thức được âm thanh phát ra từ tất cả các hình thể trong mọi giới tiến hóa của thiên nhiên. Lĩnh vực của linh hồn sẽ rộng mở cho y. Khi có thêm nhận thức về âm thanh trong cả bốn trường tiến hóa, y sẽ tự biết mình là một vị Chủ nhân. Đặc điểm của bậc Toàn thông là hiểu biết về linh hồn và có năng lực làm việc với linh hồn của vạn vật trong tam giới. |
18. Knowledge of previous incarnations becomes available when the power to see thought images is acquired. |
18. Khi hoạch đắc năng lực thấy các hình tư tưởng, hành giả có thể biết được các tiền kiếp. |
|
The significance of this sutra is very great, for it gives the basis for the regaining of a knowledge of past experience. This basis is strictly mental, and only those mentally polarised and with the mind under control can regain this knowledge if they so wish. The power to see thought-images only comes through mind control, and the mind can only be controlled by the real or spiritual man. Therefore only egoically centred people can truly acquire this knowledge. It might be asked here what therefore do those people see who are emotional and not mental, when they claim to know who they are, and to relate the past lives of their friends? They are reading the akashic records and because their mental control and equipment are not adequate, they cannot discriminate nor ascertain accurately what they see. |
Câu kinh này có ý nghĩa rất quan trọng, vì đó là cơ sở để gợi lại sự hiểu biết về các kinh nghiệm quá khứ. Cơ sở này hoàn toàn thuộc về trí tuệ. Vì thế, chỉ những ai đã có trí tuệ phân cực, và chế ngự thể trí, mới có thể gợi lại được sự hiểu biết này, nếu họ muốn. Chỉ khi chế ngự được thể trí, hành giả mới có năng lực thấy các hình tư tưởng. Và chỉ có chân nhân hay con người tinh thần mới chế ngự được thể trí. Do đó, chỉ những người đã tập trung tâm thức vào chân ngã mới có thể thực sự hoạch đắc kiến thức này. Thế nên, ở đây có thể nghi vấn về cái thấy của những người còn nhiều xúc cảm và chưa phát triển trí năng. Họ tuyên bố rằng họ biết mình là ai, và nói về tiền kiếp của bạn bè mình. Thực ra, họ chỉ đọc được các tiên thiên ký ảnh. Cũng vì họ chưa hoàn toàn chế ngự thể trí và các thể kia, nên họ không thể phân biện và xác định đúng đắn những gì họ thấy. |
|
The akashic record is like an immense photographic [276] film, registering all the desires and earth experiences of our planet. Those who perceive it will see pictured thereon: |
Tiên thiên ký ảnh giống như một cuộn phim rộng lớn [276], ghi lại tất cả các ham muốn và những kinh nghiệm trần gian của hành tinh chúng ta. Những ai nhận thức được nó sẽ thấy có ghi hình ảnh trên đó về: |
|
1. The life experiences of every human being since time began, |
1. Kinh nghiệm sống của mọi người kể từ thời khởi thủy, |
|
2. The reactions to experience of the entire animal kingdom, |
2. Những phản ứng với kinh nghiệm của trọn cả giới thú vật, |
|
3. The aggregation of the thought-forms of a kamic nature (based on desire) of every human unit throughout time. Herein lies the great deception of the records. Only a trained occultist can distinguish between actual experience and those astral pictures created by imagination and keen desire. |
3. Tất cả các hình tư tưởng có tính chất kama (dựa vào dục vọng) của mọi người theo thời gian. Đây chính là khả năng rất dễ gây nhầm lẫn của các ký ảnh này. Chỉ huyền bí gia đã qua thụ huấn mới có thể phân biệt được giữa kinh nghiệm thực tế với những hình ảnh trên cõi cảm dục được tạo bởi sự tưởng tượng và lòng ham muốn mãnh liệt. |
|
4. The planetary “Dweller on the Threshold” with all that appertains to that term and all the aggregations of forms which are to be found in its environment. |
4. “Người giữ Cửa” của hành tinh cùng với tất cả những gì liên quan đến thuật ngữ này, và toàn bộ các hình thể có trong môi trường của nó. |
|
The trained seer has learnt to dissociate that which pertains to his own aura and the aura of the planet (which is in actuality the akashic record). He can distinguish between those records which are: |
Nhà nhãn thông lão luyện đã học cách tách rời những gì liên quan đến hào quang của riêng mình và hào quang của hành tinh (vốn thực tế là các tiên thiên ký ảnh). Y có thể phân biệt giữa những ký ảnh: |
|
a. Planetary, |
a. Thuộc về hành tinh, |
|
b. Hierarchical or pertaining to the work of the twelve Creative Hierarchies as they bring to concretion the plan of the Logos. |
b. Thuộc về Đại đoàn Chưởng giáo hay liên quan đến công tác của mười hai Huyền giai Sáng tạo, khi họ thực thi thiên cơ của Thượng Đế. |
|
c. Imaginative forms, the result of the desire-thought activity of the myriads of men, animated by desire for some form of experience or other. |
c. Những hình dạng tưởng tượng, là kết quả của hoạt động tư tưởng tham dục của vô số người. Họ bị thôi thúc bởi lòng ham muốn có loại kinh nghiệm này hay loại khác. |
|
d. The historical record pertaining to races, nations, groups and families in their two great divisions on the physical plane and on the astral. [277] It should be borne in mind that every human being belongs to a physical family which constitutes his link with the animal kingdom, and also belongs to an astral family. Through that affiliation on the upward are he is linked with his egoic group and on the downward arc with the vegetable kingdom. |
d. Ghi nhận về lịch sử liên quan đến các chủng tộc, quốc gia, đoàn nhóm và gia đình, chia làm hai phần ở cõi trần và trên cõi cảm dục. [277] Cần lưu ý rằng mọi người đều có một gia đình ở cõi trần, liên kết y với giới thú vật. Ngoài ra, y cũng thuộc về một gia đình ở cõi cảm dục. Qua sự liên kết đó trên cung tiến hóa thăng thượng, y kết hợp với nhóm chân ngã của mình. Mặt khác, trên cung tiến hóa giáng hạ y lại liên kết với giới thực vật. |
|
e. The astrological record, or the forms taken on the astral plane under the influence of the planetary forces. These are in two great groups. |
e. Ký ảnh chiêm tinh, hay các hình thể được tạo ra trên cảnh giới cảm dục dưới ảnh hưởng của các mãnh lực hành tinh. Những hình thể này được phân thành hai nhóm lớn. |
|
1. Those forms or pictures in the akasha produced by the inflow of solar force via the planets. |
1. Những hình thể hay hình ảnh trong tiên thiên khí được tạo ra do sự lưu nhập của mãnh lực thái dương qua các hành tinh. |
|
2. Those forms or pictures which are produced by the inflow of cosmic force from one or other of the signs of the zodiac, that is, from their corresponding constellations. |
2. Những hình thể hay hình ảnh được tạo ra do sự lưu nhập của mãnh lực vũ trụ từ một trong các thiên tượng của hoàng đạo, tức là từ một trong các chòm sao tương ứng của chúng. |
|
These points are enumerated to show how impossible it is that the majority of the claims regarding past incarnations can be true. They are the result of a vivid imagination and the assumption that the flashes of astral sight which reveal glimpses of the akashic film give that which pertains to the one who sees. This is not the case any more than the people and activities seen out of any window in a big city reveal to the onlooker his own relatives, friends and pursuits. |
Những điểm nói trên được kể ra để cho thấy rằng đa số những lời khẳng định về tiền kiếp thì ít có khả năng đúng thực đến đâu. Chúng là kết quả của sự tưởng tượng sống động, và do người ta giả định rằng những ánh chớp của quang cảnh trên cõi cảm dục cho họ thoáng nhìn cuộn phim tiên thiên khí thì có mang những chi tiết liên quan đến người thấy. Sự thực không phải là như thế. Nó tương tự như khi người ta nhìn qua một cửa sổ ở thành phố lớn, quan sát người qua kẻ lại và các hoạt động bên ngoài để mong tìm thấy người thân, bạn bè và những gì mình cần. |
|
The knowledge referred to in the sutra comes in three ways: |
Có thể tìm kiếm sự hiểu biết nêu trong câu kinh này bằng ba cách: |
|
1. Direct ability to see the records if so desired. This form of acquiring knowledge is seldom employed except by initiates and adepts in connection with their pledged disciples. [278] |
1. Khả năng thấy trực tiếp các ký ảnh, nếu muốn. Lối thu thập sự hiểu biết này ít khi được dùng, trừ trường hợp các điểm đạo đồ và các bậc toàn thông thực hiện liên quan đến các đệ tử hữu thệ của mình. [278] |
|
2. Through direct knowledge of the group activities and relations of a man’s own ego. This, however, only covers that cycle of time which began when a man stepped upon the probationary path. Experiences prior to that are relatively of no more vital importance than is a second in the life of an old man as he passes in retrospect his long life. All that stands out are events and happenings and not the individual hours and seconds. |
2. Qua sự hiểu biết trực tiếp về hoạt động của nhóm, và những liên giao của hành giả với chân ngã của mình. Tuy nhiên, sự hiểu biết này chỉ bao gồm khoảng thời gian bắt đầu từ khi hành giả bước lên con đường dự bị. Những kinh nghiệm trước thời khoảng đó thì không mấy quan trọng. Nó chẳng khác gì một giây lát trong đời của một người cao tuổi khi người ấy nhìn lại cuộc sống lâu dài của mình. Tất cả những gì biểu lộ đều là những sự kiện và sự việc xảy ra, chứ không là những giờ phút riêng rẽ. |
|
3. Through the instinctual life. This is based on memory, on acquired faculty and capacity and on the possession of those qualities which go to the equipment of the ego. The ego knows that the possession of the power to do thus and so in the three worlds, is the direct result of past experience, and knows too that certain effects are only to be achieved through certain causes. These he arrives at through concentrated meditation. |
3. Qua sự sống bản năng. Cách này dựa vào ký ức, dựa vào quan năng và năng lực đã hoạch đắc, và nhờ sở hữu những phẩm tính có trong chân ngã. Chân ngã biết rằng việc sở hữu quyền năng thực hiện những điều nói trên trong tam giới, là kết quả trực tiếp của kinh nghiệm quá khứ. Chân ngã cũng biết rằng chỉ có thể đạt được một số hiệu quả qua một số nguyên nhân. Vì thế, hành giả đạt đến các hiệu quả đó qua tham thiền tập trung. |
|
The thought images he becomes aware of are: |
Những hình tư tưởng mà y biết được là: |
|
1. Those in his aura at the time of his meditation, |
1. Các hình ảnh trong hào quang của y vào thời gian y hành thiền, |
|
2. Those in his immediate environment, |
2. Những hình ảnh trong môi trường chung quanh y, |
|
3. Those of his present family, group and race, |
3. Những hình ảnh về gia đình, đoàn nhóm và chủng tộc hiện tại của y, |
|
4. Those of his present life cycle, |
4. Những hình ảnh về chu kỳ sống hiện nay của y, |
|
5. These of his egoic group. |
5. Những hình ảnh về nhóm chân ngã của y. |
|
Thus through the process of elimination he gradually works his way through grade after grade of thought images until he arrives at the particular layer of thought impression which deals with the cycle about which he is concerning himself. This is not therefore simply a perception of certain aspects of the records, but a definitely [279] scientific process, known only to the trained occultist. |
Bằng cách đó, qua tiến trình loại bỏ, y dần dần tìm kiếm qua từng cấp hình tư tưởng cho đến khi y chạm đến lớp ấn tượng tư tưởng đặc biệt về chu kỳ sống mà y quan tâm đến. Thế nên, đây không phải đơn thuần là nhận thức được một vài phương diện của các ký ảnh. [279] Nó thực sự là một tiến trình khoa học, mà chỉ có huyền bí gia lão luyện mới thấu đáo được. |
19. Through concentrated meditation, the thought images in the minds of other people become apparent. |
19. Qua tham thiền tập trung, hành giả có thể thấy rõ các hình tư tưởng trong trí của người khác. |
|
It should be remembered that the result of the eight means of yoga is to produce a yogi or trained knower. He is, therefore, one who concerns himself with causes and not with effects. He perceives that which causes the tangible to appear, that is the thoughts which start into motion the forces of substance and eventually produce the concretion of that substance. |
Nên lưu ý rằng kết quả của tám phương tiện của yoga là nhằm đào tạo một nhà yogi hay một người hiểu biết thành thạo. Vì thế, y chú ý đến các nguyên nhân chứ không bận tâm đến các hậu quả. Y nhận thức được điều gì khiến cho cái hữu hình xuất lộ. Đó là những tư tưởng làm khởi động các lực vật chất, và rốt cuộc khiến cho chất liệu ấy trở nên cụ thể. |
|
The use of this power to read the minds of others is only permitted to the yogi in those cases where it is necessary for him to understand the causes, lying back of certain events, and this only in order to work out intelligently the plans of the Hierarchy and of evolution. The power here is analogous to that of telepathy but it is not identical. Telepathy entails the tuning in of one mind with another, and necessitates their being en rapport. This faculty of the trained seer is more in the nature of an act of the will and the manipulation of certain forces whereby he can instantly see what he wants in any aura at any time. |
Nhà yogi chỉ được phép sử dụng quyền năng này để đọc tư tưởng người khác trong những trường hợp y cần phải hiểu các nguyên nhân ẩn trong một số sự kiện. Và y làm điều này chỉ để thực thi các kế hoạch của Đại đoàn Chưởng giáo và thiên cơ tiến hóa một cách thông minh. Quyền năng này tương tự với quyền năng thần giao cách cảm nhưng không hoàn toàn đồng nhất. Thần giao cách cảm cần điều chỉnh tần số rung động của cái trí người này với cái trí người kia, và nhất thiết chúng phải hòa hợp với nhau. Quan năng nói trên của nhà nhãn thông lão luyện thì có tính chất tác động của ý chí nhiều hơn, và việc vận dụng một số mãnh lực để bất cứ lúc nào y cũng có thể ngay lập tức thấy được điều y cần trong bất cứ hào quang nào. |
|
The subject of his investigation may be attuned to him or not; through intense meditation and the use of the will faculty thought images stand revealed. This power is a dangerous one to use and is only permitted to trained disciples. [280] |
Đối tượng mà y khảo sát có thể hòa hợp với y hay không. Thế nhưng, qua tham thiền chuyên chú và sử dụng năng lực ý chí, các hình tư tưởng sẽ tự hiển lộ. Quyền năng này rất nguy hiểm khi sử dụng, và chỉ những người đệ tử đã thành thạo mới được phép thực hành. [280] |
20. As however the object of those thoughts is not apparent to the perceiver, he sees only the thought and not the object. His meditation excludes the tangible. |
20. Tuy nhiên, vì đối tượng của các tư tưởng này không tỏ rõ đối với người nhận thức, nên y chỉ thấy tư tưởng chứ không thấy đối tượng đó. Việc tham thiền của y không bao gồm cái hữu hình. |
|
All that he is “awake” to in his meditation is thought substance, his own chitta (or mind-stuff) and that of others. |
Tất cả những gì mà y “ý thức” được trong tham thiền là chất liệu tư tưởng, là chitta (hay trí tuệ chất) của mình và của người khác. |
|
It is the inherent activity of this chitta which is the cause of the eventual appearing of forms, tangible and objective, on the physical plane. |
Chính hoạt động cố hữu này của chitta là nguyên nhân khiến cho rốt cuộc các hình thể xuất hiện ở cấp khách quan, hữu hình, trên cõi trần. |
|
Everything that appears is the result of a subjective happening. All that is exists in the mind of the thinker, not in the sense that is usually understood but in the sense that thought sets in motion certain currents of force. These currents of force gradually sweep into shape forms which correspond to the thinker’s idea and those forms persist as long as the mind of the thinker is on them and disappear when he “takes his mind off” them. |
Mọi sự vật xuất lộ đều là kết quả của một diễn biến nội tại. Vạn vật đều hiện hữu trong cái trí của người suy tưởng. Sự hiện hữu này không như chúng ta thường hiểu, mà có nghĩa là tư tưởng làm phát động một số dòng mãnh lực. Các dòng mãnh lực này từ từ tạo thành các hình dạng tương ứng với ý tưởng của người suy tưởng. Các hình dạng vừa kể còn tồn tại ngày nào cái trí của người suy tưởng còn tập chú vào chúng, và tan biến khi y “cất cái trí ra khỏi chúng.” |
|
It is the nature of the thought force or current which is perceived through concentrated meditation. The form which will be ultimately produced does not interest the seer. He knows from the cause what the inevitable effect will be. |
Chính bản chất của mãnh lực hay dòng tư tưởng được hành giả nhận thức qua tham thiền tập trung. Người tri kiến không bận tâm đến cái hình thể mà cuối cùng sẽ được sản sinh. Từ cái nguyên nhân, y biết rằng cái hậu quả tất sẽ như thế nào. |
21. By concentrated meditation upon the distinction between form and body, those properties of the body which make it visible to the human eye are negated (or withdrawn) and the yogi can render himself invisible. |
21. Bằng cách tham thiền tập trung vào sự khác biệt giữa hình thể và cơ thể, những đặc tính của thân xác khiến nó hữu hình đối với mắt người, bị vô hiệu hóa (hay rút lại), và nhà yogi có thể trở nên vô hình. |
|
This is one of the most difficult of the sutras to the western thinker for it involves certain recognitions [281] which are foreign to the occident. It involves primarily the recognition of the etheric or vital body and its functions as the attractive force holding the dense physical vehicle in shape. Through this etheric substratum the physical body is realized as a coherent whole and its objectivity is observable. This vital body is the true form from the standpoint of the occultist and not the dense tangible sheath. |
Đây là một trong những câu kinh mà nhà tư tưởng Tây phương thấy rất khó hiểu, vì nó có một số nhận thức vốn xa lạ đối với người ở phương Tây[281]. Chính yếu, câu này bao gồm sự nhận thức về thể dĩ thái hay thể sinh lực, và chức năng của nó là lực hấp dẫn, giữ cho thể xác có vóc dáng bình thường. Qua lớp nền dĩ thái này, thể xác được nhận biết như một toàn thể cố kết, và người quan sát có thể thấy được sự biểu lộ ngoại tại của nó. Theo quan điểm của huyền bí gia thì thể dĩ thái này mới thực sự là hình thể, chứ không phải là lớp vỏ thô đặc hữu hình bên ngoài. |
|
The yogi, through concentration and meditation, has acquired the power to center his consciousness in the true or spiritual man and to control the thinking principle. It is an occult law that “as a man thinketh, so is he” and it is equally true occultly that “where a man thinketh there is he.” At will the trained seer can withdraw his consciousness from the physical plane and center it on the mental. At will he can “shut off the light” and when that is the case visibility is negated and (from the standpoint of the human eye) he disappears. He also becomes intangible from the point of view of touch, and inaudible from the standpoint of hearing. It is this fact that demonstrates the reality of the hypothesis that there is nothing but energy of some form or other, and that that energy is triple; in the East they call the nature of energy sattvic, rajasic, or tamasic. That is translated as follows: |
Qua định trí và tham thiền, nhà yogi đã có năng lực tập trung tâm thức vào chân nhân hay con người tinh thần, và chế ngự nguyên khí tư duy. Có một định luật huyền môn cho biết rằng “người nào suy nghĩ điều gì thì trở thành điều đó.” Cũng đúng về mặt huyền môn khi nói rằng “ai nghĩ đến nơi nào thì sẽ ở đó.” Nhà nhãn thông thành thạo có thể tùy ý rút tâm thức của mình ra khỏi cõi trần và tập trung tâm thức trên cõi trí. Y có thể tùy ý “ngắt ánh sáng.” Bấy giờ, tính cách hữu hình bị vô hiệu hóa và (dưới cái nhìn của người khác) y biến mất. Y cũng có thể trở nên vô hình đối với xúc giác, và người khác không thể nghe thấy y qua thính giác. Chính sự việc này chứng tỏ thực tính của giả thuyết: không có gì ngoài năng lượng dưới dạng này hay dạng khác, và năng lượng đó vốn tam phân. Ở Đông phương, tính chất đó của năng lượng được gọi là sattva, rajas, hoặc tamas, và được chuyển dịch như sau: |
|
Sattva |
rhythm |
spirit |
life |
|
Rajas |
mobility |
soul |
light |
|
Tamas |
inertia |
body |
substance |
|
Sattva ……………… tiết điệu……………..tinh thần ……………sự sống |
||
|
Rajas ……………… cơ động ………………linh hồn……………..ánh sáng |
||
|
Tamas ……………… trì trệ…………………cơ thể …………………chất liệu |
||
|
All are differentiations in time and space of the one eternal primordial spirit-essence. It may [282] be suggested that the modern western correspondences are to be found in the terms: |
Tất cả đều là những biến phân trong thời gian và không gian của cái tinh thần-tinh túy nguyên thủy vĩnh cửu duy nhất. [282] Có thể đề nghị những thuật ngữ tương ứng của phương Tây sau đây: |
|
|
Energy |
spirit |
life |
|
Force |
soul |
light |
|
Matter |
form |
substance |
Năng lượng…………………….tinh thần …………………. sự sống
mãnh lực………………………..linh hồn …………………… ánh sáng
Vật chất …………………………hình thể…………………… chất liệu
|
The outstanding characteristic of spirit (or energy) is the life-principle, that mysterious something which causes all things to be and to persist. The outstanding characteristic of the soul (or of force) is light. It brings into visibility that which exists. |
Đặc tính nổi bật của tinh thần (hay năng lượng) là nguyên khí-sống. Nó là điều huyền nhiệm khiến cho muôn loài vạn vật hiện hữu và tồn tại. Đặc tính nổi bật của linh hồn (hay mãnh lực) là ánh sáng. Nó giúp cho vạn hữu trở nên hữu hình. |
|
The outstanding characteristic of living matter is that it is that which “sub-stands” or is found back of the objective body; and provides the true form. It should be remembered here that the basis of all occult teaching and of all phenomena is to be found in the words: |
Đặc tính quan trọng của vật chất sống là cái “nền tảng” tiềm ẩn trong cơ thể hữu hình. Nó tạo nên hình thể thực sự. Ở đây, cần ghi nhớ rằng cơ sở của trọn cả giáo huấn huyền môn và mọi hiện tượng trong các bầu thế giới, là câu phát biểu: |
|
“Matter is the vehicle for the manifestation of soul on this plane of existence; and soul is the vehicle on a higher turn of the spiral for the manifestation of spirit.” (Secret Doctrine I. 80.) |
“Vật chất là phương tiện cho sự biểu hiện của linh hồn trên cảnh giới hiện hữu này; và linh hồn là phương tiện cho sự biểu hiện của tinh thần trên vòng tiến hóa cao hơn.” (Giáo lý Bí nhiệm I. 80.) |
|
When the soul (or force) withdraws itself out of the matter aspect (the tangible objective form), that form is no longer to be seen. It disappears, and temporarily is dissipated. At present this can be adequately accomplished by the seer through a concentration of his consciousness in the ego, the spiritual man or soul, and (through the use of the thinking principle and an act of the will) his withdrawal of the etheric body from the dense physical. This is covered by the word “abstraction” and entails: [283] |
Khi linh hồn (hay mãnh lực) tự rút lui khỏi phương diện vật chất (ngoại thể hữu hình), thì hình thể đó không còn được thấy. Nó biến mất, và tạm thời tiêu tan. Hiện nay, nhà nhãn thông có thể hoàn toàn thực hiện điều này qua việc tập trung tâm thức của mình vào chân ngã, con người tinh thần hay linh hồn. Và (qua việc sử dụng nguyên khí tư duy và tác động của ý chí) y rút thể dĩ thái ra khỏi thể xác. Việc làm này được gọi là “trừu tượng hóa” và bao gồm: [283] |
|
1. A gathering together of the life or vital forces of the body into the physical plane nerve centres up the spine, |
1. Việc thu góp các mãnh lực sống hay sinh lực của cơ thể vào các trung khu thần kinh dọc theo cột sống, trong thể xác, |
|
2. Their direction up the spine to the head, |
2. Việc điều khiển chúng đi lên qua cột sống đến đầu, |
|
3. Their concentration there and subsequent abstraction along the thread or sutratma, via the pineal gland and the brahmarandra, |
3. Tập trung chúng ở đó, và kế đến thu rút dọc theo sinh mệnh tuyến hay sutratma, qua tuyến tùng và qua brahmaranda, |
|
4. The seer then stands in his true form, the etheric body, which is invisible to the human eye. As etheric vision develops in the race this will necessitate a further abstraction, then the seer will likewise withdraw the vital and luminous principles (the qualities of sattva and of rajas) out of the etheric body and stand in his kamic or astral body and thus be also etherically invisible. However, that time is still distant. |
4. Giờ đây, nhà nhãn thông ở trong hình thể thực sự của mình là thể dĩ thái, nó vốn vô hình đối với thị giác của con người. Khi con mắt dĩ thái phát triển trong nhân loại, sẽ cần có việc rút lui thêm. Bấy giờ, nhà nhãn thông cũng rút luôn các nguyên khí sinh lực và nguyên khí phát quang (các đặc tính sattva và rajas) ra khỏi thể dĩ thái, và trụ trong thể tình cảm hay cảm dục của mình. Bằng cách này, y cũng trở nên vô hình ở cấp dĩ thái. Tuy nhiên, thời điểm đó hãy còn xa. |
|
W. Q. Judge, in his commentary, makes certain interesting remarks, as follows: “Another great difference between this philosophy and modern science is here indicated. The schools of today lay down the rule that if there is a healthy eye in line with the rays of light reflected from an object—such as a human body—the latter will be seen, and that no action of the mind of the person looked at can inhibit the functions of the optic nerves and retina of the onlooker. But the ancient Hindus held that all things are seen by reason of that differentiation of Satwa—one of the three great qualities composing all things—which is manifested as luminosity, operating in conjunction with the eye, which is also a manifestation of Satwa in another aspect. The two must conjoin; the absence of luminosity [284] or its being disconnected from the seer’s eye will cause a disappearance. And as the quality of luminosity is completely under the control of the ascetic, he can, by the process laid down, check it, and thus cut off from the eye of the other an essential element in the seeing of any object.” |
Trong phần luận giải của mình, ông W. Q. Judge có một số nhận xét thú vị như sau: “Ở đây có thêm một khác biệt lớn giữa triết thuyết này và khoa học hiện đại. Các trường phái hiện nay đưa ra qui tắc là nếu có một con mắt lành mạnh nằm trong đường đi của các tia sáng phản chiếu từ một vật thể − ví dụ như cơ thể người − thì mắt sẽ thấy được cơ thể đó. Bấy giờ, không hành động nào từ cái trí của người được quan sát có thể ức chế các chức năng thần kinh thị giác và võng mạc của người quan sát đó. Thế nhưng, người Ấn giáo thời xưa lại cho rằng tất cả các sự vật được thấy là do sự biến phân của Satwa − một trong ba đặc tính quan trọng cấu thành vạn vật. Đặc tính này được biểu hiện như là tính phát quang, tác động kèm theo hoạt động của mắt, vốn cũng là một phương diện biểu hiện khác của Satwa. Hai phương diện này phải kết hợp với nhau. Nếu thiếu tính phát quang, [284] hoặc nó bị tách khỏi mắt của người quan sát, thì đối tượng sẽ biến mất. Và khi đặc tính phát quang hoàn toàn chịu sự kiểm soát của người tu sĩ, thì y có thể, áp dụng một tiến trình, ngăn chặn nó, và do đó mà tách khỏi mắt của người kia một yếu tố quan trọng trong việc thấy được vật thể.” |
|
This entire process is only possible as the result of concentrated and one pointed meditation, and hence is impossible to the man who has not passed through the long discipline and training involved in the work of gaining control of the thinking principle and setting up that direct alignment and functioning which is possible when the thinker on his own plane, the mind, and the brain, are all aligned and coordinated via the sutratma, thread or magnetic silver cord. |
Chỉ có thể thực hiện trọn cả tiến trình này nhờ tham thiền tập trung và chuyên nhất. Vì thế, hành giả không thể thực hiện nếu chưa trải qua một thời gian dài nghiêm trì giới luật và rèn luyện cần để chế ngự nguyên khí tư duy, và thiết lập sự chỉnh hợp và hoạt động trực tiếp. Điều này khả dĩ có khi cả người suy tưởng trên cảnh giới của mình, thể trí, và não bộ đều chỉnh hợp và phối hợp qua sutratma, là sợi dây bạc từ lực. |
22. Karma (or effects) are of two kinds: immediate karma or future karma. By perfectly concentrated meditation on these, the yogi knows the term of his experience in the three worlds. This knowledge comes also from signs. |
22. Nghiệp quả (hay hậu quả) có hai loại: nghiệp quả hiện tại hay nghiệp quả tương lai. Qua tham thiền hoàn toàn tập trung về các loại nghiệp quả này, nhà yogi biết được phạm vi kinh nghiệm của mình trong tam giới. Sự hiểu biết này cũng nhờ xem các dấu hiệu. |
|
This sutra can be somewhat elucidated if read in connection with Sutra 18 of Book III. The karma referred to here deals primarily with the present life of the aspirant or seer. He knows that every event in that life is the effect of a previous cause, initiated by himself in an early incarnation; he knows also that every act of the present life must produce an effect (to be worked [285] out in another life) unless it is done in such a way that: |
Câu kinh này có thể phần nào sáng tỏ khi đọc cùng với Câu 18, Quyển III. Nghiệp quả được đề cập ở đây chủ yếu nói về kiếp sống hiện tại của người chí nguyện hay hành giả. Y biết rằng mọi sự kiện xảy ra trong đời này là hậu quả của một nguyên nhân đã có, do chính y phát khởi trong một tiền kiếp. Y cũng biết rằng mọi hành động trong hiện kiếp đều phải mang lại một hậu quả (sẽ được thể hiện trong một kiếp khác), [285] trừ phi hành động đó được thực hiện thế nào để: |
|
1. The effect is immediate and culminates within the scope of the present life time, |
1. Hậu quả xảy ra tức thì và hoàn tất trong phạm vi kiếp sống hiện tại, |
|
2. The effect involves no Karma, for the act has been done from a selfless motive and carried out with complete detachment. He then produces the effect desired in accordance with the law but it carries no consequences for himself. |
2. Hậu quả không tạo Nghiệp, vì hành động đã được thực hiện với động cơ vô kỷ, và tiến hành với thái độ hoàn toàn buông xả. Bấy giờ, y tạo nên kết quả đúng theo định luật, nhưng nó không mang lại hậu quả gì cho chính y. |
|
When the seer enters into incarnation in a life wherein only a few more effects remain to be worked out, and when all that he initiates is freed from karma, then he can set a term to his life experience and he knows that the day of liberation is at hand. Through meditation and ability to function as the ego he can arrive at the world of causes, and he knows therefore what acts must be performed to release the few remaining effects. Through strict attention to the motive underlying every act of the present life he obviates the necessity for their effects to tie him in any way to the wheel of rebirth. Thus he consciously and intelligently nears his goal and every deed, act and thought is governed by direct knowledge, and in no way chains him. |
Khi người tri kiến nhập thế trong một kiếp sống, ở đó chỉ còn một ít hậu quả cần phải thanh toán, và khi tất cả những gì y phát khởi đều không tạo nghiệp, thì bấy giờ y có thể bắt đầu một giai đoạn kinh nghiệm sống mới. Và bấy giờ y biết rằng ngày giải thoát gần kề. Qua tham thiền và khả năng có thể hoạt động như chân ngã, y có thể thấu đến thế giới của các nguyên nhân. Từ đó, y biết rằng cần phải thực hiện những hành động nào để giải tỏa một vài hậu quả còn sót lại. Nhờ thận trọng chú ý đến cái động cơ ẩn tàng của mọi hành động trong kiếp sống này, y loại trừ tính tất yếu khiến hậu quả của chúng ràng buộc y bằng bất cứ cách nào đó vào bánh xe luân hồi. Cứ thế, y tiến đến gần mục tiêu của mình một cách hữu thức và thông minh. Đồng thời, mọi hành vi, tác động và tư tưởng đều chịu chi phối bởi cái biết trực tiếp, và không hề xiềng xích y. |
|
The signs or portents referred to, relate primarily to the mental world, where the real man dwells. Through an understanding of three things: |
Những dấu hiệu hay điềm báo nêu trong câu kinh này, chính yếu liên quan đến cõi trí, là trú sở của chân nhân. Khi hiểu được ba điều sau đây: |
|
a. Numbers, |
a. Con số, |
|
b. Colours, |
b. màu sắc, |
|
c. Vibrations, |
c. Rung động, |
|
the seer becomes aware of the freedom of his [286] aura from “death producing” effects. He knows there is nothing more written, symbolically, in the records which can bring him back to the three worlds, and therefore “by signs” his path is seen to be clear. |
người tri kiến biết được thời điểm nào hào quang của y được giải thoát khỏi những hậu quả “dẫn đến sự tử vong.” [286] Nói theo lối biểu tượng, y biết rằng không điều gì được ghi thêm vào các ký ảnh có thể buộc y phải trở lại tam giới. Vì thế, “theo các dấu hiệu” y thấy con đường mình đi trở nên hanh thông. |
|
This has been expressed for us in the ancient writings found in the Masters’ archives as follows: |
Điều này được phát biểu qua các tài liệu cổ xưa trong văn khố của các Chân sư, như sau: |
|
“When the star with five points shines with clarity and no forms are seen within its points, the way is clear. |
“Khi ngôi sao năm cánh chói rạng, và không còn hình thể nào thấy trong các cánh của nó, thì con đường trở nên hanh thông. |
|
When the triangle encloses naught but light, the path is freed for the passing of the pilgrim. |
Khi tam giác không còn gì khác hơn là ánh sáng, thì con đường rộng mở cho người tìm đạo đi qua. |
|
When within the aura of the pilgrim the many forms die out and colours three are seen, then the road is freed from that which might obstruct. |
Khi bên trong hào quang của người khách hành hương mọi hình thể đều lịm tắt, và chỉ thấy có ba màu, thì con đường của y không còn chướng ngại. |
|
When thoughts call not to forms and when no shadows are reflected, the thread provides a way direct from the circle to the center. |
Khi tư tưởng không còn tập chú vào hình thể, và không còn phản ánh bóng đen nào, thì sinh mệnh tuyến trở thành đường nối trực tiếp từ vòng tròn đến trung tâm.” |
|
From that point of rest, no return is possible. The term of necessary experience in the three worlds is at an end. No karma then can draw the freed spirit back to earth for further lessons, or the working out of prior causes. He may, however, continue or resume his work of service in the three worlds, without ever really leaving his true home in the subtler realms and higher spheres of consciousness. |
Từ điểm an nghỉ này, hành giả không quay lại. Thời gian thu thập kinh nghiệm cần thiết trong tam giới nay đã hết. Bấy giờ không còn nghiệp quả nào có thể lôi kéo tinh thần đã giải thoát trở lại trần gian để học hỏi thêm, hoặc để giải tỏa các nguyên nhân đã có. Tuy nhiên, y vẫn có thể tiếp tục hay tái tục công tác phụng sự của mình trong tam giới, mà không hề rời quê hương thực của mình trong các cảnh giới tinh anh, và những lĩnh vực tâm thức cao siêu. |
23. Union with others is to be gained through one-pointed meditation upon the three states of feeling—compassion, tenderness and dispassion. |
23. Hành giả hợp nhất với người khác khi nhất tâm tham thiền về ba trạng thái của tình cảm − lòng từ bi, nhân hậu và vô dục. |
|
Some understanding of this will come if the student will compare this sutra with one in the [287] first book (Sutra 33). The union here dealt with marks a step further than the previous attainment. In that, the nature of the aspirant is being trained to harmonious peaceful association with all around him. In this, he is taught to identify himself with all other selves through concentration upon what are sometimes called the “three states of feeling.” These are: |
Người môn sinh sẽ hiểu được phần nào câu kinh này, khi so sánh nó với một câu [287] trong quyển đầu (Câu kinh 33). Sự hợp nhất được bàn ở đây đánh dấu một bước tiến xa hơn những gì mà trước kia đã đạt. Trong đó, người chí nguyện rèn luyện tâm tính để kết hợp hài hòa và an bình với mọi người và mọi vật ở chung quanh mình. Trong sự hợp nhất này, y học cách tự đồng nhất với mọi chúng sinh khác, qua việc tập trung vào những gì mà đôi khi được gọi là “ba trạng thái của tình cảm.” Đó là: |
|
a. Compassion, the antithesis of passion which is selfish and grasping, |
a. Lòng từ bi, tương phản với sự si mê, vốn vị kỷ và tham lam, |
|
b. Tenderness, the antithesis of self-centredness, which is always hard and self-absorbed, |
b. Lòng nhân hậu, tương phản với thái độ xem mình là trung tâm, vốn luôn luôn chai rắn và chỉ nghĩ đến mình. |
|
c. Dispassion, the antithesis of lust or desire. |
c. Hạnh vô dục, tương phản với sự tham dục hay dục vọng. |
|
These three states of feeling when understood and entered into, put a man en rapport with the soul of all men. |
Khi thấu hiểu và thâm nhập vào ba trạng thái nói trên của tình cảm, hành giả hòa hợp với linh hồn của mọi người. |
|
Through compassion, he is no longer occupied with his own selfish interests but enters into and suffers with his brother; he can adapt his vibration so that it responds to his brother’s need; he is enabled to share in all that is taking place in his brother’s heart. This he does through the keying up of his own vibration to respond to the love nature of his own ego, and through that unifying principle all hearts everywhere are open to him. |
Với lòng từ bi, y không còn bận bịu đến những mối quan tâm vị kỷ của riêng mình. Y thấu hiểu và cảm thông với người huynh đệ của mình. Y có thể điều chỉnh rung động của mình để nó đáp ứng với nhu cầu của người huynh đệ. Y có thể chia sẻ tất cả những gì đang xảy ra trong tâm của người huynh đệ. Điều này được thực hiện bằng cách nâng cao sự rung động của mình để ứng đáp với bản tính yêu thương của chân ngã nơi mình. Qua nguyên khí thống nhất này, tâm hồn của mọi người ở khắp nơi mở ra với y. |
|
Through tenderness, that compassionate understanding works out into practical expression. His activities are no longer in-going and self-centred but are out-going and inspired by an unselfish heartfelt desire to serve and aid. This state of feeling is sometimes called mercy, and characterizes all the servers of the race. It involves active [288] help, unselfish intent, wise judgment and loving activity. It is free from any wish for reward or recognition. This has been beautifully covered by H. P. Blavatsky in The Voice of the Silence in the following words: |
Với lòng nhân hậu, sự thông cảm yêu thương nói trên thể hiện thành những biểu lộ thực tiễn. Hoạt động của y không còn hướng nội và xem mình là trung tâm. Nay y hướng ra ngoài với lòng thiết tha bất vị kỷ muốn phụng sự và giúp đỡ. Trạng thái tình cảm này đôi khi được gọi là lòng nhân từ, là đặc trưng của tất cả những người phụng sự nhân loại. Nó bao gồm sự trợ giúp tích cực, [288] ý định vô kỷ, phán đoán khôn ngoan, và hoạt động với tình thương. Nó không còn dấu vết nào của mong muốn được phần thưởng hay công nhận. Điều này đã được H. P. Blavatsky diễn tả rất hay trong quyển Tiếng nói của Im lặng, qua những lời lẽ sau đây: |
|
“Let thy Soul lend its ear to every cry of pain like as the lotus bares its heart to drink the morning sun. |
“Hãy để Linh hồn bạn lắng nghe mọi tiếng kêu đau khổ như đóa hoa sen mở lòng đón nhận ánh nắng ban mai. |
|
Let not the fierce sun dry one tear of pain before thyself hast wiped it from the sufferer’s eye. |
Đừng để nắng gắt làm khô đi dù chỉ một giọt nước mắt bi thương trước khi chính bạn lau sạch nó khỏi mắt của người khốn khổ. |
|
But let each burning human tear drop on thy heart and there remain; nor ever brush it off until the pain that caused it is removed. |
Nhưng hãy để mỗi giọt nước mắt cháy bỏng của con người rơi vào tim bạn và vẫn còn ở đó. Đừng bao giờ gạt bỏ nó nếu nguyên nhân gây đau khổ chưa bị loại trừ. |
|
These tears, O thou of heart most merciful, these are the streams that irrigate the fields of charity immortal.” |
Hỡi kẻ có tâm từ ái, những giọt nước mắt này là dòng nước tưới mát cánh đồng từ thiện bất diệt.” |
|
Through dispassion, the aspirant and server stands free from the karmic results of his activity on behalf of others. It is, as we know, our own desire which binds us to the three worlds and to others. “Binding to” is of a different nature to “union with.” One is full of desire and causes obligation and effects; the other is free from desire, produces “identification with” and has no binding effects in the three worlds. Dispassion has more of a mental quality than the other two. It might be noted that dispassion brings in the quality of lower mind, tenderness is the emotional result of dispassionate compassion and involves the kamic or astral principle, whilst compassion concerns also the physical plane for it is the working out into physical manifestation of the two other states. It is the practical ability to identify oneself with another in all the three world conditions. |
Với hạnh vô dục, người chí nguyện phụng sự không hề bị ràng buộc bởi nghiệp quả của những điều y làm cho người khác. Như chúng ta biết, chính sự ham muốn của mỗi người ràng buộc họ vào tam giới, và vào người khác. Tất nhiên, “bị ràng buộc vào” thì khác hẳn “sự hợp nhất với.” một đàng thì đầy dục vọng, gây nên sự trói buộc và hậu quả. Đàng kia thì không còn ham muốn, mang lại sự “đồng nhất với” và không có hậu quả ràng buộc trong tam giới. Hạnh vô dục có đặc tính trí tuệ hơn hai trạng thái kia. Có thể thấy rằng hạnh vô dục mang đặc tính của hạ trí. Lòng nhân hậu là kết quả về mặt tình cảm của lòng thương xót vô tư, và bao gồm nguyên khí kama hay cảm dục. Trong khi lòng từ bi cũng liên quan đến cõi trần, bởi vì nó là sự biểu hiện của hai trạng thái kia ở cõi hồng trần. Đó là khả năng thực sự tự đồng nhất với người khác trong mọi tình huống trong tam giới. |
|
This union is the result of the egoic oneness [289] brought down into full activity in the three worlds through meditation. |
Sự hợp nhất này là do tính duy nhất của chân ngã [289]được đưa vào tác động trọn vẹn trong tam giới qua tham thiền. |
24. Meditation, one-pointedly centred upon the power of the elephant, will awaken that force or light. |
24. Tham thiền tập trung chuyên nhất vào năng lực của con voi, sẽ khơi dậy mãnh lực hay ánh sáng ấy. |
|
This sutra has given rise to much discussion and its usual interpretation has given the idea that meditation upon the elephant will give the strength of the elephant. Many commentators infer from these words, that meditation upon other animals will give their characteristics. |
Câu kinh này đã gây nhiều bàn cãi, và thường được giải thích khiến người ta hiểu lầm rằng tham thiền về con voi sẽ có sức mạnh của con voi. Từ lời lẽ nói trên, nhiều nhà luận giải còn suy diễn rằng tham thiền về những loài vật khác sẽ có được đặc tính của chúng. |
|
It should be remembered that this is a scientific text-book, having for its objective the following: |
Cần lưu ý rằng đây là một giáo trình có tính khoa học, với những mục tiêu như sau: |
|
1. Training the aspirant so that he can enter into subtler realms. |
1. Rèn luyện người chí nguyện để y có thể đi vào các lĩnh vực tế vi hơn. |
|
2. Giving him power over the mind, so that it is his instrument to use as he will as an organ of vision into the higher worlds and as a transmitter or intermediary between the soul and the brain. |
2. Giúp y có năng lực chế ngự cái trí. Từ đó, y có thể tùy ý sử dụng nó như một khí cụ, một cơ quan thị giác nhìn vào các cảnh giới cao siêu, và như một phương tiện truyền đạt hay trung gian giữa linh hồn và não bộ. |
|
3. Awakening the light in the head so that the aspirant can become a radiant centre of light and illumine all problems, and through its light see light everywhere. |
3. Khơi dậy ánh sáng bên trong đầu, nhờ đó y có thể trở thành một trung tâm ánh sáng chói rạng và soi tỏ mọi vấn đề, và qua ánh sáng đó y thấy ánh sáng ở khắp nơi. |
|
4. Arousing the fires of the body so that the centres become active, luminous, connected and coordinated. |
4. Khơi hoạt các loại lửa trong cơ thể, do đó các luân xa trở nên linh hoạt, phát quang, được liên kết và phối hợp. |
|
5. Producing a coordination between: |
5. Tạo sự phối hợp giữa: |
|
a. The ego or soul on its own plane, |
a. Chân ngã hay linh hồn trên cảnh giới của mình, |
|
b. The brain via the mind, |
b. Não bộ, qua thể trí, |
|
c. The centres. By an act of the will they can then all be thrown into uniform activity. |
c. Các luân xa. Với tác động của ý chí, bấy giờ tất cả có thể thống nhất hoạt động. |
|
6. This effected, the fire at the base of the spine, dormant hitherto, will be aroused and can proceed upward with security, blending ultimately with the fire or light in the head, and so pass out, having “burned out all dross, and left all channels clear” for the use of the ego. |
6. Khi đã thực hiện điều này, luồng hỏa ở chót xương sống, từ trước đến giờ vẫn ngủ yên, sẽ được khơi hoạt và có thể đi lên một cách an toàn. Cuối cùng nó hòa hợp với lửa hay ánh sáng bên trong đầu, rồi ra ngoài, sau khi đã “đốt tan mọi cặn bã, và để lại tất cả các đường dẫn truyền thông thoáng” cho chân ngã sử dụng. |
|
7. Developing thus the powers of the soul; the siddhis, higher and lower, so that an efficient server of the race is produced. |
7. Bằng cách này, phát triển các quyền năng của linh hồn, các siddhi, cao và thấp. Hành giả trở thành một người phụng sự hiệu quả cho nhân loại. |
|
When these seven points are borne in mind, it is interesting to note that the symbol of the centre at the base of the spine, the muladhara centre, is the elephant. It is the symbol of strength, of concentrated power, of the great moving force, which once aroused, carries all before it. It is for our fifth root race, the symbol of the most powerful and mighty of the animal kingdom. It is a picture of the transmutation or sublimation of the animal nature, for at the base of the spine is the elephant and in the head is the thousand petalled lotus hiding Vishnu, seated in the centre. Thus is the animal nature carried upward into heaven. |
Khi đã hiểu bảy điểm nói trên, chúng ta sẽ thú vị thấy rằng biểu tượng của luân xa ở chót xương sống, luân xa muladhara, chính là con voi. Nó là biểu tượng của sức mạnh, của năng lực tập trung, động lực cường mãnh, khi được khơi hoạt, sẽ tác động vào tất cả những gì trên đường đi của nó. Biểu tượng của con vật mạnh mẽ và hùng dũng nhất này trong loài vật là dành cho căn chủng thứ năm hiện nay. Đó là hình ảnh siêu hóa hay thăng hoa của thú tính. Bởi vì con voi ở trong [265] luân xa chót xương sống, trong khi ở đầu có hoa sen ngàn cánh, với Đấng Vishnu ngự ở trung tâm. Thế là thú tính được thăng hóa lên cõi thiêng liêng. |
|
By meditation upon this “elephant force,” the power of the third aspect, the energy of matter itself and therefore of God the Holy Ghost or of Brahma, is aroused and conjoined to that of the second or consciousness aspect, to soul energy, that of Vishnu, the second aspect, the Christ force. This produces the perfect at-one-ment, or union between soul and body, which is the true goal of Raja Yoga. |
Bằng cách tham thiền về “mãnh lực của chú voi” này, quyền năng của trạng thái thứ ba, năng lượng của chính vật chất và vì thế của Chúa Thánh Thần hay của Brahma, được khơi hoạt và hợp nhất với quyền năng của trạng thái thứ hai hay trạng thái tâm thức, với năng lượng của linh hồn, của Vishnu, trạng thái thứ hai, mãnh lực Christ. Đây là sự nhất quán, hay hợp nhất hoàn hảo giữa linh hồn và cơ thể, vốn là mục tiêu đích thực của Raja Yoga. |
|
Will the students of this science remember here, [291] however, that these forms of one-pointed meditation are only permitted after the eight means of yoga (dealt with in Book II) have been followed. |
Tuy nhiên, ở đây các môn sinh của khoa yoga này cần nhớ rằng chỉ được phép thực hành [291] những hình thức thiền chuyên nhất nói trên sau khi hành giả đã theo đúng tám phương tiện của yoga (bàn trong Quyển II). |
25. Perfectly concentrated meditation upon the awakened light will produce the consciousness of that which is subtle, hidden or remote. |
25. Tham thiền hoàn toàn tập trung vào ánh sáng đã khơi hoạt, hành giả sẽ ý thức được những gì tinh tế, ẩn tàng, hoặc ở xa. |
|
Throughout all teachings of an occult or mystical nature reference is found frequently to what is called the “Light.” The Bible has many such passages as have all the Scriptures of the world. Many terms are applied to this but space only permits us to consider those to be found in the various translations of the Yoga Sutras of Patanjali. They might be enumerated as follows: |
Xuyên suốt tất cả các giáo huấn có tính cách huyền môn hay thần bí, thường có đề cập đến điều gọi là “Ánh sáng.” Cùng với tất cả các Kinh điển khác trên thế giới, Kinh thánh cũng có nhiều đoạn như thế. Nhiều thuật ngữ được dùng cho vấn đề này. Thế nhưng ở đây chỉ đủ chỗ để xem xét những thuật ngữ đã dùng trong các bản dịch khác nhau từ Yoga Điển tắc của Patanjali. Có thể kể ra như sau: |
|
a. The awakened inner Light (Johnston), |
a. Ánh sáng nội tại linh hoạt (Johnston), |
|
b. The Light in the head (Johnston), |
b. Ánh sáng bên trong đầu (Johnston), |
|
c. The Light of immediate cognition (intuitive knowledge) (Tatya), |
c. Ánh sáng nhận thức trực tiếp (hiểu biết trực giác) (Tatya), |
|
d. That effulgent Light (Vivekananda), |
d. Ánh sáng rực rỡ, huy hoàng (Vivekananda), |
|
e. The Light from the top of the head (Vivekananda), |
e. Ánh sáng trên đỉnh đầu (Vivekananda), |
|
f. The coronal Light (Ganganatha Jha), |
f. Ánh sáng hào quang (Ganganatha Jha), |
|
g. The Light of the luminous disposition (Ganganatha Jha), |
g. Ánh sáng chói rạng (Ganganatha Jha), |
|
h. The inner Light (Dvivedi), |
h. Ánh sáng nội tại (Dvivedi), |
|
i. The mind, full of Light (Dvivedi), |
i. Cái trí, đầy Ánh sáng (Dvivedi), |
|
j. The radiance in the head (Woods), |
j. Sự phát quang bên trong đầu (Woods), |
|
k. The luminosity of the central organ (Rama Prasad), |
k. Sự tỏa sáng của cơ quan trung ương (Rama Prasad), |
|
1. The Light of the higher sense-activity (Rama Prasad). |
l. Ánh sáng của hoạt động-quan năng cao (Rama Prasad). |
|
From a study of these terms it will be apparent [292] that within the physical vehicle there is to be found a point of luminosity which (when contacted) will pour the light of the spirit upon the path of the disciple, thus illuminating the way, revealing the solution of all problems, and enabling him to stand as a light bearer to others. |
Qua nghiên cứu các thuật ngữ nói trên, chúng ta sẽ thấy rõ rằng [292] bên trong thể xác có một điểm phát quang. Khi được tiếp xúc, nó sẽ chiếu rọi ánh sáng tinh thần trên lối đi của người đệ tử. Bằng cách đó, nó soi sáng con đường đạo, hé lộ giải pháp cho tất cả các vấn đề, và giúp y đứng vững như một người mang ánh sáng đến cho kẻ khác. |
|
This light is in the nature of an internal radiance, its position is in the head, in the neighborhood of the pineal gland, and it is produced by the activity of the soul. |
Ánh sáng này có tính cách là một sự phóng chiếu nội tại, có vị trí bên trong đầu, ở vùng gần tuyến tùng, và do kết quả sự hoạt động của linh hồn. |
|
A good deal of discussion has been aroused, by the term “central organ” associated with this light. Some commentators refer this to the heart, others to the head. Technically neither of them are entirely right, for to the trained adept the “central organ” is the causal vehicle, the karana sarira, the body of the ego, the sheath of the soul. This is the middle of the “three periodical vehicles” which the divine Son of God discovers and utilizes in the course of his long pilgrimage. These find their analogies in the three temples found in the Christian Bible: |
Đã có rất nhiều bàn cãi về từ “cơ quan trung ương” kết hợp với ánh sáng này. một số nhà luận giải nói rằng đó là tim; những người khác thì nói là đầu. Về mặt kỹ thuật, không ai trong họ là hoàn toàn đúng. Vì đối với bậc thành thạo, lão luyện thì “cơ quan trung ương” là thể nguyên nhân, là karana sarira, thể của chân ngã, lớp áo của linh hồn. Đây là thể trung gian trong “ba vận cụ định kỳ” mà người Con thiêng liêng của Thượng Đế tìm ra và sử dụng trong cuộc hành hương lâu dài của mình. Ba thể này tương đồng với ba ngôi đền đã nêu trong Kinh thánh Thiên Chúa giáo. |
|
1. The transitory ephemeral tabernacle in the wilderness, typical of the soul in physical incarnation, persisting for one life. |
1. Ngôi thánh đường xây dựng tạm thời trong hoang mạc, tiêu biểu cho linh hồn đang giáng trần, chỉ tồn tại trong một kiếp sống. |
|
2. The more permanent and beautiful temple of Solomon, typical of the soul body or causal vehicle, of longer duration and persisting for aeons, and increasingly revealed in its beauty upon the Path up to the third initiation. |
2. Ngôi đền Solomon, trường tồn và xinh đẹp hơn, tiêu biểu cho thể của linh hồn hay thể nguyên nhân. Thể này tồn tại lâu hơn qua nhiều thời đại. Nó ngày càng biểu lộ vẻ đẹp của nó trên Đường Đạo, mãi đến lần điểm đạo thứ ba. |
|
3. The, as yet, unrevealed and inconceivably beautiful, temple of Ezekiel, the symbol of the sheath of the spirit, the home of the Father, one [293] of the “many mansions,” the “auric egg” of the occultist. |
3. Ngôi đền của Ezekiel, chưa hiển lộ và xinh đẹp không thể tả. Nó tiêu biểu cho lớp áo của tinh thần, ngôi nhà của Đấng Cha lành, một trong “nhiều tòa lâu đài,” [293] hay là “noãn hào quang” của nhà huyền bí học. |
|
In the science of yoga, which has to be wrought out and mastered in the physical body the term “central organ” is applied to the head or the heart, and the distinction is one of time primarily. The heart in the earlier stages of unfoldment upon the Path is the central organ; later it is the organ in the head where the true light has its abiding place. |
Với khoa yoga cần luyện tập và thấu triệt trong thể xác, thì thuật ngữ “cơ quan trung ương” được áp dụng cho luân xa đầu hay luân xa tim, và sự phân biệt chính yếu là theo thời gian. Trong các giai đoạn đầu khai mở trên Đường Đạo, luân xa tim là cơ quan trung ương. Về sau, cơ quan này ở bên trong đầu, là trú sở của ánh sáng thực sự. |
|
In the process of unfoldment, heart development precedes head development. The emotional nature and the senses unfold prior to the mind, as can be seen if we study humanity as a whole. The heart centre opens before the head centre. Love must ever be developed before power can be safely used. Therefore the light of love must be functioning before the light of life can be consciously employed. |
Trong tiến trình khai mở, luân xa tim phát triển trước luân xa đầu. Trong toàn nhân loại, chúng ta có thể thấy bản chất tình cảm và các giác quan khai mở trước cái trí. Luân xa tim khai mở trước luân xa đầu. Bao giờ cũng phải phát triển tình thương trước khi có thể sử dụng quyền năng an toàn. Thế nên, ánh sáng của tình thương phải khởi hoạt, trước khi ánh sáng của sự sống có thể được sử dụng một cách hữu thức. |
|
As the lotus centre of the heart opens and reveals the love of God, through meditation a synchronous unfoldment takes place within the head. The twelve petalled lotus in the head (which is the higher correspondence of the heart centre, and the intermediary between the twelve petalled egoic lotus on its own plane and the head centre) awakens. The pineal gland is gradually brought from a state of atrophy to full functioning activity and the centre of consciousness is transferred out of the emotional nature into the illuminated mind consciousness. This marks the transition which the mystic has to make onto the path of the occultist, keeping, as he always does, his mystical [294] knowledge and awareness but adding to it the intellectual knowledge and conscious power of the trained occultist and yogi. |
Khi hoa sen của luân xa tim mở ra và hiển lộ tình thương của Thượng Đế, thì qua tham thiền một sự khai mở đồng bộ xảy ra bên trong đầu. Hoa sen mười hai cánh bên trong luân xa đầu cũng bừng nở. Nó là tương ứng ở cấp cao của luân xa tim, và là trung gian giữa hoa sen mười hai cánh của chân ngã trên cảnh giới của mình với luân xa tim. Tuyến tùng từ trạng thái yếu ớt dần dần trở nên hoàn toàn linh hoạt. Trung tâm của ý thức được chuyển ra khỏi cấp tình cảm vào ý thức khai ngộ của cái trí. Đây là giai đoạn chuyển tiếp mà nhà thần bí phải thực hiện để tiến lên con đường của nhà huyền bí học. Y vẫn giữ kiến thức và ý thức thần bí của mình, nhưng [294] thêm vào đó là sự hiểu biết trí tuệ và năng lực hữu thức của nhà huyền bí học và nhà yogi thành thạo. |
|
From the point of power in the head the yogi directs all his affairs and undertakings, throwing upon all events, circumstances and problems the “awakened inner light.” In this he is guided by the love, insight and wisdom which is his through the transmutation of his love nature, the awakening of his heart centre and the transference of the fires of the solar plexus to the heart. |
Từ điểm quyền lực bên trong đầu, nhà yogi điều hành tất cả các công việc và kế hoạch của mình. Y dùng “ánh sáng nội tại đã bừng chiếu” để soi tỏ mọi sự kiện, các tình huống và những vấn đề khó khăn. Trong cố gắng này, y được sự hướng dẫn của tình thương, sự thấu hiểu và minh triết. Đó là những gì y gặt hái được nhờ siêu hóa tình thương riêng tư, sự khơi hoạt luân xa tim, và chuyển lửa của tùng thái dương lên luân xa tim. |
|
It might be asked very pertinently here how this junction between head and heart, producing the luminosity of the central organ and the emission of the inner radiance can be brought about. Briefly stated, it is produced as follows: |
Ở đây, có thể rất thích hợp để đặt vấn đề làm thế nào tạo sự kết hợp giữa đầu và tim, khiến cho cơ quan trung ương tỏa sáng và mang lại sự phóng quang nội tại. Về cách thực hành, có thể nêu vắn tắt như sau: |
|
1. Through the subjugation of the lower nature which transfers the activity of all the life below the solar plexus and including the solar plexus, into the three centres above the diaphragm, the head, heart and throat. This is done through life, love and service, not through breathing exercise and sitting for development. |
1. Qua sự chế ngự phàm tính để chuyển toàn bộ sinh hoạt bên dưới tùng thái dương gồm cả tùng thái dương, vào ba luân xa bên trên cơ hoành. Đó là luân xa đầu, luân xa tim, và luân xa cổ họng. Điều này được thực hiện trong đời sống, qua tình thương và phụng sự, chứ không qua việc luyện tập hơi thở, và ngồi chờ phát triển. |
|
2. Through the practice of love, the focussing of the attention upon the heart life and service, and the realization that the heart centre is the reflection in man of the soul, and that this soul should guide the heart issues from the throne or the seat between the eyebrows. |
2. Qua thực hành yêu thương, tập trung chú ý vào cuộc sống và phụng sự thành tâm. Hành giả cũng nhận thức rằng luân xa tim là phản ánh của linh hồn trong phàm nhân, và hiểu rằng linh hồn sẽ hướng dẫn những vấn đề nội tâm từ điểm trụ ở luân xa giữa hai chân mày. |
|
3. Through a knowledge of meditation. Through meditation, which is the exemplification of the basic yoga aphorism “energy follows thought,” all the unfoldments and developments [295] which the aspirant desires are brought about. Through meditation, the heart centre, which in undeveloped man is pictured as a closed lotus turned downwards, is reversed, turned upwards and unfolded. At its heart is the light of love. The radiance of this light, being turned upwards, illumines the path to God, but is not the Path, except in the sense that as we tread upon that which the heart desires (in a lower sense) that path leads us on to the Path itself. |
3. Qua sự hiểu biết kỹ thuật tham thiền. Vốn tiêu biểu cho câu châm ngôn cơ bản của yoga “năng lượng đi theo tư tưởng,” tham thiền giúp mang lại tất cả [295] những khai mở và phát triển cần thiết. Ở người kém phát triển, luân xa tim giống như một búp sen hướng xuống. Qua tham thiền, nó chuyển hướng, quay lên trên và bừng nở. Ở tâm hoa sen này có ánh sáng yêu thương. Với phóng quang hướng thượng, nó soi sáng đường về với Thượng Đế. Thế nhưng đó chưa phải là Đường Đạo. Nó chỉ có nghĩa là khi chúng ta tiến theo con đường mà cái tâm mong muốn (theo ý nghĩa cấp thấp), thì con đường đó sẽ dắt chúng ta đến chính Con Đường Đạo. |
|
Perhaps clarity will come if we realize that part of the path is within ourselves and this the heart reveals. It leads us to the head, where we find the first portal of the Path proper and enter upon that part of the path of life which conducts us away from the body-life, to the fullest liberation from experience in the flesh and in the three worlds. |
Có lẽ vấn đề sẽ sáng tỏ hơn khi chúng ta hiểu rằng một phần của con đường vốn ở bên trong chúng ta, và được cái tâm hé lộ. Nó đưa chúng ta lên luân xa đầu, nơi có cánh cửa đầu tiên của Đường Đạo đích thực. Ở đó, chúng ta đi vào giai đoạn của con đường sống vượt khỏi cuộc sống trong thân xác. Từ đó, chúng ta hoàn toàn giải thoát khỏi các kinh nghiệm trong thân xác và trong tam giới. |
|
It is all one path, but the Path of Initiation has to be trodden consciously by the thinker functioning through the central organ in the head, and from there intelligently traversing the Path which leads through the three worlds to the realm or kingdom of the soul. It might be stated here that the awakening of the heart centre leads a man to consciousness of the source of the heart centre within the head. This in turn leads a man to the twelve-petalled lotus, the egoic centre on the higher levels of the mental plane. The path from the heart centre to the head, when followed, is the reflection in the body of the building of the antaskarana on the mental plane. “As above, SO below.” [296] |
Tất cả chỉ là một con đường. Thế nhưng, người suy tưởng đang hoạt động qua cơ quan trung ương bên trong đầu phải dấn bước lên Con đường Điểm đạo. Từ đó, với sự thông tuệ, y tiến lên trên Đường Đạo ngang qua tam giới để đến trường tiến hóa của linh hồn. Ở đây, có thể nói rằng, việc đánh thức luân xa tim giúp hành giả ý thức được nguồn của luân xa tim bên trong đầu. Với ý thức đó, y tiến đến hoa sen mười hai cánh, trung tâm của chân ngã trên các cấp cao của cõi trí. Đi theo con đường từ luân xa tim đến luân xa đầu, là phản ánh trong cơ thể của việc kiến tạo cầu antahkarana trên cõi trí. “Trên sao, dưới vậy.” [296] |
|
4. Through perfectly concentrated meditation in the head. This carries on automatically the increased stimulation and awakening of the centres up the spine, five in number, arouses the sixth centre, the one between the eyebrows, and in time reveals to the aspirant, the exit at the top of the head, which can be seen as a radiant circle of pure white light. This begins as a mere pin point and passes through various stages of increasing glory and radiant light until the Portal itself stands revealed. More along this line is not permissible. |
4. Qua tham thiền tập trung bên trong đầu. Cố gắng này tự động tăng tiến sức kích thích và thức động năm luân xa dọc theo cột sống. Nó cũng khơi đậy luân xa thứ sáu, ở giữa hai chân mày, và đúng lúc sẽ hé lộ cho hành giả thấy lối thoát ở đỉnh đầu, có hình ảnh giống như một vòng ánh sáng trắng chói rạng và thanh khiết. Lúc đầu nó chỉ nhỏ như mũi kim. Qua các giai đoạn phát triển khác nhau, nó trở nên ánh sáng ngày càng chói rạng cho đến khi hiển lộ chính Cửa đạo. Không được phép nói thêm về vấn đề này. |
|
This light in the head is the great revealer, the great purifier, and the medium whereby the disciple fulfills the command of the Christ, “Let your light shine.” It is the “path of the just which shineth ever more and more until the perfect day.” It is that which produces the halo or circle of light seen around the heads of all the sons of God who have come or are coming into their heritage. |
Ánh sáng bên trong đầu nói trên là tác nhân làm hiển lộ, và tinh luyện rất quan trọng. Nhờ đó mà người đệ tử hoàn thành lời dạy của Đức Christ, “Hãy làm cho ánh sáng của ngươi chói rạng.” Đó là “con đường của người công chính cứ mãi chói rạng cho đến ngày hoàn mãn.” Đó là yếu tố tạo nên hào quang hay vòng ánh sáng chung quanh đầu của những người con Thượng Đế đã và đang thừa hưởng di sản của mình. |
|
Through this light, as Patanjali here points out, we become conscious of that which is subtle, or of those things which can only be known through a conscious use of our subtle bodies. These subtle bodies are the means whereby we function upon the inner planes, such as the emotional or astral plane and the mental. At present the majority of us function on these planes unconsciously. Through this light we also become conscious of that which is hidden or as yet unrevealed. The Mysteries are revealed to the man whose light is shining and he becomes a knower. [297] That which is remote or the future is likewise unfolded to him. |
Như Patanjali nêu ở đây, qua ánh sáng này chúng ta có thể ý thức được những điều tinh tế. Đó là những gì chúng ta chỉ biết được khi hữu thức sử dụng các thể thanh của mình. Những thể thanh này là các phương tiện để chúng ta hoạt động trên các nội giới, như cõi tình cảm hay cõi cảm dục và cõi trí. Hiện nay, hầu hết chúng ta đều đang hoạt động trên các cảnh giới này một cách vô thức. Qua ánh sáng kể trên, chúng ta cũng có thể biết được những gì còn ẩn tàng hay chưa được hiển lộ. Các Bí nhiệm được khai thị cho người nào có ánh sáng chói rạng và là một thức giả. [297]Những gì ở xa hoặc trong tương lai cũng được hé lộ cho y thấy. |
26. Through meditation, one-pointedly fixed upon the sun, will come a consciousness (or knowledge) of the seven worlds. |
26. Qua tham thiền nhất tâm về mặt trời, hành giả sẽ ý thức (hay biết) được bảy cảnh giới. |
|
This passage has been commented upon at length by many writers for many centuries. Simply for the sake of clarity let us modernize the statement and reduce its terms to those of modern occultism. |
Câu kinh này đã được nhiều tác giả bình luận rất nhiều qua nhiều thế kỷ. Để sáng tỏ hơn, chúng ta hãy phát biểu nó theo lối mới, và chuyển dịch nó theo thuật ngữ của khoa huyền bí học hiện nay. |
|
“By constant steady meditation upon the emanating cause of our solar system will come a realization of the seven states of being.” The various terms used here serve frequently to confuse the student and it might be wise if we used only two sets of terms, one conveying the orthodox oriental terminology as found in the best commentaries, and the other the one most easily recognizable by the western investigator. Using Wood’s translation we find the following: |
“Bằng cách tham thiền chuyên chú về nguyên nhân phát khởi của thái dương hệ này, hành giả sẽ nhận thức được bảy trạng thái hiện tồn.” Các thuật ngữ khác nhau được dùng ở đây thường khiến cho người môn sinh bối rối. Có lẽ chúng ta chỉ nên dùng hai nhóm thuật ngữ. một nhóm tiêu biểu cho các thuật ngữ chính thống của phương Đông, được dùng trong các bản luận giải hay nhất. Nhóm kia gồm những từ dễ hiểu nhất cho các nhà khảo cứu phương Tây. Với bản dịch của Woods, ta có các thuật ngữ sau đây: |
|
| |
| 7. Satya….the world of those Gods who |
|
|
| |
| |
|
|
| Brahma |
< 6. Tapas…the world of the self-luminous Gods |
|
|
| |
| |
|
|
Svar |
< |
| 5. Jana…..the lowest of the Brahma world |
|
| |
4. Mahar Prajapatya………the great world |
|
|
| |
3.
Mahendra…………………the home of the Agnishvattas |
|
|
2. Antariksa………………….the intermediate space. |
||
|
1. Bhu…………………………the earth world. |

|
This differentiation of the world into seven [298] great divisions is also interesting in so far as it demonstrates the equal accuracy of the fivefold division which some of the commentators hold. |
Sự phân hóa này của thế giới thành bảy phần chính đại [298] cũng rất thú vị. Nó cho thấy sự chính xác tương tự khi một số nhà luận giải lại phân chia thế giới thành năm phần. |
|
These seven worlds correspond to the modern occult division of our solar system into seven planes embodying seven states of consciousness and enfolding seven great types of living beings. The analogy will be seen as follows: |
Bảy cảnh giới nói trên tương ứng với việc huyền bí học hiện nay phân chia thái dương hệ của chúng ta thành bảy cảnh giới. Bảy cảnh giới này thể hiện bảy trạng thái tâm thức và bao gồm bảy đẳng cấp chính của các sinh linh. Chúng ta có thể thấy sự tương đồng như sau: |
|
1. Physical Plane Bhu Earth world. |
|
Physical consciousness. |
|
2. Astral Plane Antariksa World of the emotions. |
|
Kamic or desire consciousness. |
|
3. Mental Plane Mahendra World of the mind and of the soul. |
|
Mind consciousness. |
|
4. Buddhic Plane Mahar Prajapatya Christ world. |
|
Intuitional or Christ consciousness. |
|
Group consciousness. |
|
5. Atmic Plane Jana Spiritual world. |
|
Planetary consciousness. |
|
World of the third aspect. |
|
6. Monadic Plane Tapas Divine world. |
|
God-consciousness. |
|
World of the second aspect. |
|
7. Logoic Plane Tatya World of the emanating cause. |
|
Absolute consciousness. |
|
World of the first aspect. [299] |

|
It is interesting to note certain comments of Vyasa on this differentiation, for they blend in with modern Theosophical thought. |
[299] Điều thú vị là lưu ý một số nhận xét của Vyasa về sự phân hóa này. Vì nhận xét của ông cũng phù hợp với tư tưởng của giới Thần triết hiện nay. |
|
The earth plane is described by him as “supported respectively by solid matter, by water, by fire, by wind, by air and by darkness . . . wherein living creatures, having been allotted a long and grievous length-of-life, feeling the misery incurred as the result of their own karma, are born.” Comment here is needless. |
Ông mô tả cõi trần là “bao gồm vật chất rắn, nước, lửa, gió, không khí, và bóng tối . . . theo thứ tự. Đó là nơi chào đời của những sinh vật, qua một thời gian lâu dài sống đau buồn, cảm thấy khốn khổ do nghiệp quả của mình.” Không cần bình luận thêm. |
|
In connection with the second plane, the astral, reference is made to the fact that the stars (the lives), on that plane are “driven by the wind as cows are driven by the ploughman in a circle around the threshing floor” and that they are “regulated by the steady impulsion of the wind.” We have here a wonderful picture of how all lives are driven by the force of their desires on the wheel of rebirth. |
Về cảnh giới thứ hai, cõi cảm dục, ông đề cập đến việc các ngôi sao (các sinh linh) trên đó được “gió cuốn đi như những con bò được người lực điền dắt đi quanh sân đập lúa” và chúng “được vận hành theo sức gió thổi liên tục.” Đây là hình ảnh linh động về tình trạng cả chúng sinh đều bị thôi thúc như thế nào bởi sức mạnh ham muốn của họ, trong vòng luân hồi, sinh tử. |
|
Vyasa notes that the mind world is peopled by six groups of Gods (the six groups of egos and their six rays, the six subrays of the one synthetic ray, which is apparently inferred). These are the sons of mind, the Agnishvattas (referred to at length in the Secret Doctrine and in A Treatise on Cosmic Fire) and they are portrayed as: |
Vyasa nói rằng cõi trí gồm có sáu nhóm Thần (sáu nhóm chân ngã và sáu cung của họ, tức là sáu cung phụ của cung tổng hợp duy nhất, được suy diễn rõ). Đây là những người con của trí tuệ, hay là các Agnishvatta (được đề cập nhiều trong bộ Giáo lý Bí nhiệm và trong Luận về Lửa Vũ trụ), và được mô tả là: |
|
1. Fulfilling their desires, therefore driven by desire to incarnate, |
1. Đang tìm kiếm những điều họ muốn. Thế nên, ý muốn ấy thôi thúc họ giáng trần, |
|
2. Endowed with atomisation and other powers, therefore able to create their vehicles of manifestation, |
2. Được phú cho quyền năng phân thân và những quyền năng khác. Nhờ đó họ có thể tạo ra các thể biểu hiện của mình, |
|
3. Living for a mundane period, therefore in incarnation during a world period, [300] |
3. Sống qua một thời kỳ lâm phàm, và vì thế mà đầu thai trong một giai đoạn của thế giới, [300] |
|
4. Goodly to behold, for the sons of God are luminous, radiant and full of beauty, |
4. Có hình dạng xinh xắn, vì những người con của Thượng Đế đều tỏa sáng, rạng ngời, và đầy sự mỹ lệ, |
|
5. Delighting in love, for love is the characteristic of the soul, and all sons of God, or sons of Mind reveal the love of the Father, |
5. Hoan hỉ trong tình thương, vì tình thương là đặc trưng của linh hồn, và tất cả những người con của Thượng Đế, hay là con của Trí tuệ đều hiển lộ tình thương của Đấng Cha lành, |
|
6. Possessing bodies of their own “not caused by parents,” that body “not made by hands, eternal in the heavens” mentioned by St. Paul. |
6. Có những thể riêng của mình “không do cha mẹ sinh ra.” Thể ấy “không do người tạo ra, mà vĩnh cửu trong cõi thiêng liêng” như Thánh Paul đã nói. |
|
In connection with the fourth world, Vyasa notes that it is the world of mastery, therefore the home of the Masters, and all liberated souls whose “food is contemplation” and whose lives are “for a thousand mundane periods,” therefore who have immortality. |
Nói về cảnh giới thứ tư, Vyasa cho biết rằng đó là thế giới của sự tự chủ. Vì thế, nó là gia hương của các Chân sư và tất cả những linh hồn đã giải thoát. Họ dùng “thực phẩm là sự chiêm ngưỡng.” Họ sống “qua muôn ngàn thời kỳ lâm phàm,” vì họ vốn bất tử. |
|
Then he describes the three highest planes, with the great existences who are the lives of those planes and in whom we “live and move and have our being.” These correspond to the three planes of the Trinity and of these existences in their various groups, the following comments by Vyasa are illuminating. He states: |
Rồi ông mô tả ba cảnh giới cao nhất. Ở đó có những đấng cao cả mà chúng ta “sống, di chuyển, và hiện tồn” trong các ngài. Các cảnh giới này tương ứng cảnh giới của Ba Ngôi. Và nói về các đấng này trong những nhóm khác nhau, ông có những lời nhận xét sáng tỏ sau đây: |
|
1. “Their lives are chaste,” i. e., free from impurity, or the limitations of the lower forms. |
1. “Cuộc đời của các ngài rất thánh khiết,” tức là không còn những gì bất tịnh, hay sự hạn chế của các hạ thể. |
|
2. “Upwards there is no impediment to their thinking and in regions below there is no object obscure to their thought.” They know all things within the solar system. |
2. “Hướng lên trên, tư duy của các ngài không thấy có điều gì khó khăn, và ở các cõi dưới chẳng có vấn đề gì các ngài khó hiểu.” Các ngài biết hết mọi sự trong thái dương hệ này. |
|
3. “By them no laying down of foundations for a dwelling is made,” therefore they have no dense bodies. |
3. “Các ngài vốn vô trụ,” thế nên không dùng những thể thô thiển. |
|
4. “They are grounded in themselves and live as long as there are creations.” They are the great lives back of all sentient existence. [301] |
4. “Các ngài vốn tự tại . . . và cùng sống với những thời kỳ sáng tạo.” Các ngài là những đấng cao cả ẩn trong toàn bộ cuộc sống hữu tình. [301] |
|
5. They delight in contemplation of varying kinds. Our worlds are but the reflection of God’s thought; and they are the sum total of the mind of God. |
5. Các ngài an vui trong mọi loại chiêm ngưỡng khác nhau. Các bầu thế giới của chúng ta chỉ là phản ánh tư tưởng của Thượng Đế. Và các ngài hợp thành toàn thể Thiên trí. |
|
The ancient commentator sums up by making two basic statements which should be noted by the student. He says: |
Nhà luận giải cổ xưa này tóm lược bằng hai câu phát biểu cơ bản sau đây mà người môn sinh cần lưu ý: |
|
“This whole well-founded configuration stretches out in the midmost part of the (World) Egg. And the Egg is a minute fragment of the primary cause, like a firefly in the sky.” |
“Toàn thể cấu hình này được thành lập tốt đẹp và vươn ra từ phần trung tâm của Quả trứng (Thế giới). Và Quả trứng này là một mảnh li ti của nguyên nhân đầu tiên, như con đom đóm trong bầu trời.” |
|
This means that our solar system is but a cosmic atom and is itself only a part of a still greater spheroidal whole. Then he states: |
Lời phát biểu nói trên có nghĩa là thái dương hệ của chúng ta chỉ là một nguyên tử trong vũ trụ. Nó chỉ là thành phần của một toàn thể khối cầu vĩ đại hơn nữa. Ông nói thêm: |
|
“By performing constraint upon the door of the sun, the yogin should directly perceive all this.” Constraint is a term frequently used in translating phrases which mean “the harnessing or restraining of the modifications of the thinking principle;” in other words, perfect one-pointed meditation. By meditation upon the door of the sun full knowledge can be achieved. This means very briefly that through a knowledge of the sun within one’s own heart and, through the light emanating from that sun, having found the portal of the path, one enters into relationship with the sun which is at the heart of our solar system and eventually finds that portal which admits a man to the sevenfold cosmic path. Of this no more need be said, as the object of Raja Yoga is to enable a man to find the light within himself and in that light see light. It enables him also [302] to find the door to life and subsequently to tread the path. |
“Bằng cách kềm chế cánh cửa của mặt trời, nhà yogi sẽ trực tiếp nhận thức được trọn cả vấn đề này.” Kềm chế là một thuật ngữ thường được dùng trong các câu chuyển dịch với ý nghĩa “chế ngự hay khống chế các biến thái của nguyên khí tư duy.” Nói cách khác, đây là tham thiền chuyên nhất. Khi tham thiền về cánh cửa của mặt trời, hành giả sẽ có đầy đủ hiểu biết. Nói vắn gọn là khi biết được ngôi mặt trời trong tâm của mình, qua ánh sáng phát ra từ đó, hành giả tìm thấy cửa đạo. Bấy giờ y liên giao với ngôi mặt trời ở tâm của thái dương hệ chúng ta và rốt cuộc tìm thấy cánh cửa để đi vào bảy con đường vũ trụ. Không cần nói thêm về bảy con đường này, vì mục tiêu của Raja Yoga là giúp hành giả tìm thấy ánh sáng nội tâm, và trong ánh sáng ấy y thấy nguồn ánh sáng cao siêu hơn. [302] Nó cũng giúp y tìm thấy cánh cửa đi vào sự sống, và tiến bước trên đường đạo. |
|
Only one more point need be touched upon. Esoterically the sun is regarded as triple: |
Chỉ còn một điểm cần bàn thêm. Về mặt nội môn, mặt trời được xem như gồm ba phần: |
|
1. The physical sun body intelligent form. |
1. Mặt trời vật chất…………………..cơ thể ……..hình thể thông minh. |
|
2. The heart of the sun soul love. |
2. Tâm của mặt trời………………….linh hồn ….tình thương. |
|
3. The central spiritual sun spirit life or power. |
3. mặt trời tinh thần trung ương.. tinh thần .. sự sống hay quyền lực. |
|
In man, the microcosm, the correspondences are: |
Trong con người, là tiểu vũ trụ, có các tương ứng sau đây: |
|
1. The personal physical man body intelligent form. |
1. Phàm nhân ở cõi trần……………cơ thể ……..hình thể thông minh. |
|
2. The ego or Christ soul love. |
2. Chân ngã hay Christ…………….linh hồn ….tình thương. |
|
3. The monad spirit life or power. |
3. Chân thần ……………………………tinh thần ..sự sống hay quyền lực. |
27. A knowledge of all lunar forms arises through one-pointed meditation upon the moon. |
27. Tham thiền chuyên chú về mặt trăng giúp hành giả hiểu biết tất cả các thể mặt trăng. |
|
There are two translations permissible here, the above and the following: |
Ở đây có hai cách dịch được chấp nhận, câu ở trên và câu sau đây: |
|
“A knowledge of the astral world comes to him who can meditate upon the moon.” Either is correct and probably a true understanding of the Sanskrit is only arrived at through combining the two. It might suffice here to give a simple English paraphrase which will give the essence of the significance of this sutra: |
“Người tham thiền về mặt trăng có thể hiểu biết cõi cảm dục.” Câu nào cũng đúng, và có lẽ độc giả chỉ thực sự hiểu được câu kinh tiếng Bắc Phạn khi kết hợp cả hai lối dịch. Thiết tưởng cũng nên đưa ra một lối chuyển dịch sang tiếng Anh đơn giản, để nói lên yếu nghĩa của câu kinh này: |
|
“One-pointed concentration upon the mother of forms (the moon) will reveal to the aspirant the nature and purpose of form.” |
“Hoàn toàn tập trung vào mẹ của các hình thể (là mặt trăng), hành giả sẽ thấu hiểu tính chất và mục đích của hình thể.” |
|
If the student will remember that the moon is the symbol of matter, whereas the sun in its aspect of light is the symbol of the soul, he will have no difficulty in ascertaining the meaning of the two sutras we have just considered. One deals with the soul and the various states of consciousness; the other deals with the body, the [303] vehicle of consciousness. One concerns the body incorruptible, not made with hands, eternal in the heavens. The other deals with the “lunar mansions” (as one translator calls it) and with the home of the soul in the three worlds of human endeavour. |
Người môn sinh nên nhớ rằng mặt trăng là biểu tượng của vật chất, trong khi ánh sáng của mặt trời là biểu tượng của linh hồn. Bấy giờ y sẽ không thấy khó hiểu ý nghĩa của hai câu kinh mà chúng ta vừa xem xét. một câu bàn về linh hồn và các trạng thái khác nhau của tâm thức. Câu kia nói về cơ thể, là phương tiện của tâm thức. Một câu nói về thể bất hoại, không do tay phàm tạo ra, vĩnh cửu trong cõi thiêng liêng. [303] Câu kia nói về “ngôi nhà của mặt trăng (theo cách gọi của một dịch giả), tức là ngôi nhà của linh hồn trong ba cảnh giới tiến hóa của nhân loại. |
|
We must be careful however to remember that the moon aspect is the governing one in all the kingdoms below the human, whilst the sun aspect should dominate in the human. |
Tuy nhiên, chúng ta cần thận trọng lưu ý rằng phương diện mặt trăng chi phối tất cả các giới đẳng cấp dưới nhân loại. Trong khi đó phương diện mặt trời là yếu tố chi phối trong nhân loại. |
|
A knowledge of the lunar mansions or of forms would give an understanding of the physical body, of the astral or desire vehicle and of the mental sheath. |
Hiểu biết về ngôi nhà của mặt trăng hay về các hình thể, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về thể xác, thể cảm dục hay thể dục vọng, và thể trí. |
28. Concentration upon the Pole-Star will give knowledge of the orbits of the planets and the stars. |
28. Tập trung suy ngẫm về Sao Bắc đẩu, hành giả sẽ hiểu biết quỹ đạo của các hành tinh và các ngôi sao. |
|
This sutra is of small significance to the ordinary student, but is of profound use to the initiate or pledged disciple. Suffice it here to say that this sutra forms the background for all astrological investigation and from an appreciation of its meaning will eventuate an understanding of: |
Câu này không mấy ý nghĩa đối với người môn sinh bình thường, nhưng lại có công dụng thâm sâu đối với điểm đạo đồ hay người đệ tử hữu thệ. Có thể nói rằng câu kinh này là cơ sở cho mọi sự khảo cứu về chiêm tinh. Thấu đáo ý nghĩa của nó, rốt cuộc hành giả sẽ hiểu được: |
|
1. The relation of our solar system to the other six constellations which (with ours) form the seven force centres of which the seven great spiritual influences of our system are the reflections and agents. |
1. Sự liên giao của thái dương hệ chúng ta với sáu chòm sao khác. Tất cả cùng hình thành bảy trung tâm lực mà bảy ảnh hưởng tinh thần vĩ đại của hệ thống chúng ta là phản ánh và đại diện. |
|
2. The path of our sun in the Heavens and the twelve signs of the Zodiac through which our sun apparently passes. Therefore it will be apparent that this sutra is the key to the purpose of the [304] seven and the twelve upon which all our creative processes are built. |
2. Đường đi của mặt trời chúng ta trên bầu trời và mười hai thiên tượng Hoàng đạo mà mặt trời có vẻ đi ngang qua. Vì thế, dường như câu kinh này là chìa khóa để hiểu mục đích [304] của số bảy và số mười hai mà tất cả các tiến trình sáng tạo của chúng ta đều được xây dựng trên đó. |
|
3. The meaning of the twelve labours of Hercules in their relation to man, the microcosm. |
3. Ý nghĩa của mười hai lao tác của Hercules, liên quan đến con người, là tiểu vũ trụ. |
|
4. The purpose of our planet, gained by the adept through an understanding of the triplicity formed by: |
4. Mục đích của hành tinh chúng ta, mà bậc toàn thông đạt được nhờ thấu hiểu bộ ba sau đây: |
|
a. The Pole Star, |
a. Sao Bắc đẩu, |
|
b. Our Earth Planet, |
b. Hành tinh của chúng ta là Địa cầu, |
|
c. The Great Bear. |
c. Chòm sao Đại hùng. |
|
Other meanings are available to those who hold the key, but the above will suffice to show the deep, though esoteric significance attached to these brief words. |
Những ai nắm giữ chìa khóa có thể hiểu thêm các ý nghĩa khác. Thế nhưng, những điều nói trên cũng đủ cho thấy cái ý nghĩa nội môn, sâu xa của câu kinh vắn tắt này. |
29. By concentrated attention upon the centre called the solar plexus, comes perfected knowledge as to the condition of the body. |
29. Khi tập trung chú ý vào luân xa gọi là nhật tùng (tùng thái dương), hành giả sẽ biết rõ tình trạng của cơ thể. |
|
In the commentary upon Book I Sutra 36, the various centres were enumerated and their qualities given. In this section of the book, five of these centres are mentioned and they are the five which most closely concern the aspirant, and which are the most dominant in the fifth or Aryan race, being awakened but not unfolded in the fourth race. These are: |
Trong phần luận giải Quyển I, Câu kinh 36, có kể ra những luân xa khác nhau và đặc tính của chúng. Phần này của sách kể ra năm luân xa có liên hệ mật thiết nhất với người chí nguyện tìm đạo. Chúng là các luân xa nổi trội nhất trong giống dân thứ năm hay là dân Aryan. Trong giống dân thứ tư, chúng chỉ được đánh thức chứ chưa khai mở. Đây là: |
|
1. The centre at the base of the spine 4 petals, |
1. Luân xa ở chót xương sống ….4 cánh, |
|
2. The solar plexus centre 10 petals, |
2. Luân xa nhật tùng ..10 cánh, |
|
3. The heart centre 12 petals, |
3. Luân xa tim …………..12 cánh, |
|
4. The throat centre 16 petals, |
4. Luân xa cổ họng……….16 cánh, |
|
5. The head centre 1000 petals. |
5. Luân xa đầu ……..1000 cánh. |
|
With these five, the aspirant is primarily concerned. The centre called the spleen was dominant [305] in Lemurian days but is now relegated to the domain of the fully functioning and therefore automatic centres, and has sunk below the threshold of consciousness. The centre between the eyebrows is the one through which the light in the head is cast upon things “subtle, obscure, hidden or remote” and is a result of the unfolding of the head and heart. |
Người chí nguyện chính yếu liên quan đến năm luân xa này. Luân xa lá lách có vai trò nổi bật vào thời kỳ Lemuria. [305] Nhưng nay nó được liệt vào loại các luân xa đã hoạt động trọn vẹn, vì thế mà có tính tự động, và đã ở dưới ngưỡng của tâm thức. Luân xa giữa hai chân mày là luân xa mà qua đó ánh sáng bên trong đầu được chiếu rọi lên những sự vật “tinh tế, ẩn vi, tiềm tàng hay xa xăm.” Ánh sáng này là kết quả của sự khai mở luân xa đầu và luân xa tim. |
|
The three major centres are so powerful in the most unevolved person even in their unopened state that they have produced physical correspondences or glands. Their vibration is such that already in all men they sound, and through sounding attract and consequently produce a form. In the disciple or initiate these three centres not only sound but form words; they therefore command the building of vital forces and take the entire man under control. |
Ba luân xa chủ yếu này vẫn hoạt động mạnh mẽ dù là trong những người kém tiến hóa nhất. Vì thế, thậm chí trong trạng thái chưa khai mở, chúng vẫn đã tạo nên các phần tương ứng hay các hạch tuyến trong thể xác. Rung động của chúng mạnh đến đỗi trong mọi người chúng đều phát ra âm thanh. Và qua âm thanh, chúng thu hút vật chất với hậu quả tạo nên hình thể. Trong người đệ tử hay điểm đạo đồ, ba luân xa này không những phát ra âm thanh mà còn tạo thành các linh từ. Do đó, chúng giúp sự kiến tạo của các loại sinh lực, và chế ngự trọn cả phàm nhân. |
|
The glands corresponding to the three centres are: |
Các hạch tuyến tương ứng với ba luân xa này là: |
|
1. The pineal gland and pituitary body Head centre, |
1. Tuyến tùng và tuyến yên …………………Luân xa đầu, |
|
2. The thyroid gland Throat centre, |
2. Tuyến giáp………………………………………Luân xa cổ họng, |
|
3. The spleen Heart centre. |
3. Lá lách……………………………………………Luân xa tim. |
|
“Out of the heart are the issues of life”; from it the current of the life blood circulates; from its development in the Atlantean race and the consequent coordination and growth of the astral or emotional body, the heart centre has become the most important in the body. Its activity and development has been paralleled by the spleen, which is the organ of vitality, of prana or physical sun force, in the body. [306] |
“Trái tim phân phát sự sống.” Từ nó mà có sự tuần hoàn của dòng máu mang sự sống. Luân xa tim đã được phát triển trong giống dân Atlantis, với hậu quả điều phối và giúp tăng trưởng thể cảm dục hay thể tình cảm. Kể từ đó, nó đã trở nên hết sức quan trọng trong cơ thể. Hoạt động và sự phát triển của nó đã có sự song hành của luân xa lá lách, vốn là cơ quan của sinh lực, của prana hay là mãnh lực của ngôi mặt trời thể chất, trong thân xác. [306] |
|
There are other glands having a close relation to the various centres but the subject is too vast to be more than hinted at here. There is not, however, the same close relation existing between the glands associated with the centres below the diaphragm as with those connected with the major centres, situated above the diaphragm. |
Còn có những hạch tuyến khác liên quan mật thiết với các luân xa khác nhau. Thế nhưng, vì vấn đề quá rộng nên chỉ có thể nêu vắn tắt ở đây. Tuy nhiên, không có sự liên quan mật thiết giữa các hạch tuyến kết hợp với các luân xa bên dưới cơ hoành như trường hợp những hạch tuyến liên kết với các luân xa chính bên trên cơ hoành. |
|
In the sutra under consideration we are dealing with one of the five most important centres, and this for the reason that: |
Trong câu kinh này, chúng ta đang bàn đến một trong năm luân xa quan trọng nhất, vì lý do: |
|
1. It is situated in the centre of the trunk. It is therefore a correspondence of the middle principle. In man in Atlantean days the three major centres for that race were: |
1. Nó có vị trí ở giữa thân mình. Vì thế, nó tương ứng với nguyên khí trung gian. Vào thời kỳ Atlantis, người của giống dân đó có ba luân xa chính sau đây: |
|
a. The Head Father or spiritual aspect, |
a. Đầu…………………..Đức Chúa Cha hay phương diện tinh thần, |
|
b. The Solar Plexus The Son or soul aspect, |
b. Nhật tùng………….Đức Chúa Con hay phương diện linh hồn, |
|
c. The Base of the Spine The Holy Ghost or matter aspect. |
c. Chót xương sống .. .. Chúa Thánh Thần hay phương diện vật chất. |
|
The soul was not then so individualized as it is now. The animal soul controlled, and consequently full contact with the anima mundi was the dominant factor. As time elapsed, the soul became more individualized in each human being, and more and more separative, as the mind aspect (the great dividing factor) dominated. At the close of this race, the three main centres will be the head, the heart, and the base of the spine. In the sixth race we shall have, the head, the heart, and the throat. |
Linh hồn bấy giờ chưa được biệt lập ngã tính như hiện nay. Hồn thú còn chế ngự; do đó mà yếu tố nổi bật là sự giao tiếp hoàn toàn với linh hồn thế giới. Theo thời gian, linh hồn trở nên cá nhân hóa nhiều hơn trong mỗi người. Họ trở nên ngày càng tách biệt, khi phương diện trí năng (yếu tố phân chia quan trọng) chi phối. Vào cuối giống dân này, ba luân xa chính sẽ là đầu, tim, và chót xương sống. Trong giống dân thứ sáu, chúng ta sẽ có các luân xa đầu, tim, và cổ họng là chính yếu. |
|
In the final race of the illuminated sons of God, the seventh, we shall have as the centres through which they work: [307] |
Trong giống dân cuối gồm những người con Thượng Đế đã khai ngộ, là giống dân thứ bảy, họ sẽ làm việc qua các luân xa: [307] |
|
a. The thousand petalled head center life or spiritual aspect, |
a. Luân xa ngàn cánh ở đầu ….. phương diện sự sống hay tinh thần, |
|
b. The centre between the eyebrows Son or consciousness aspect, |
b. Luân xa giữa hai chân mày… phương diện Chúa Con hay tâm thức, |
|
c. The throat The Holy Ghost or creative aspect. |
c. Luân xa cổ họng………………… phương diện Chúa Thánh Thần hay sáng tạo. |
|
Through the first, spiritual life will pour in from the monad; through the second, the Christ principle, the light of the world, the soul will work, pouring light and life on all things, and using it as the great organ of awareness. Through the last, the work of creation will be carried on, and the creative word sent forth. |
Qua luân xa thứ nhất, sự sống tinh thần sẽ lưu nhập từ chân thần. Qua luân xa thứ hai, nguyên khí Christ, ánh sáng của thế giới, tức là linh hồn sẽ hoạt động, tuôn rải ánh sáng và sự sống trên mọi sự vật, và dùng luân xa này như một cơ quan ý thức quan trọng. Qua luân xa thứ ba, công tác sáng tạo sẽ được tiến hành, và linh từ sáng tạo sẽ phát ra. |
|
This general view is given so as to present to the student the vision of what lies ahead. It is, however, of no present value; most aspirants are concerned with the solar plexus and hence the necessity of our present consideration. |
Cái nhìn chung vừa kể nhằm giúp người môn sinh dự kiến về những bước sẽ đến. Tuy nhiên, hiện nay chưa có thể áp dụng. Hầu hết các môn sinh đều có liên quan đến luân xa nhật tùng, nên nay vấn đề này cần xem xét. |
|
2. It is the organ of the astral nature, of the emotions, moods, desires and feelings and hence is most active in all. It is through it that the lower bodily functions are aroused—desire to eat, to drink, and to procreate, and through it the lower centres are contacted and work with them is carried forward. In the disciple, the heart supersedes the solar plexus; in the Master, the head. All the centres, however, are the expression of the life and love of God, and in their totality and perfection express the Christ life. |
2. Nó là cơ quan của cảm dục tính, tình cảm, tính khí, ham muốn và xúc cảm. Vì thế, nó linh hoạt hơn các luân xa kia. Chính qua luân xa này mà các chức năng cấp thấp của thân xác được khơi gợi − ý muốn ăn, uống, và sinh sản. Các luân xa thấp hơn được tiếp xúc và làm việc qua nhật tùng. Ở người đệ tử, luân xa tim thay thế cho nhật tùng. Trong khi đó, ở vị Chân sư là luân xa đầu. Tuy nhiên, tất cả các luân xa đều phát biểu sự sống và tình thương của Thượng Đế. Trong sự tổng hợp và hoàn hảo, chúng biểu lộ sự sống Christ. |
|
3. It is the centre wherein is carried forward the great work of transmuting all the lower and animal desires into the higher. Through it literally [308] must be passed the forces of the lower nature. It gathers up the forces of the body below the diaphragm and directs them upward. |
3. Nó là luân xa mà trong đó tiến hành công tác quan trọng là siêu hóa tất cả các ham muốn thấp hèn và thú tính thành nguyện vọng cao siêu. [308] Thực sự là các mãnh lực của phàm tính đều phải đi ngang qua nó. Nó thu góp các lực của cơ thể bên dưới cơ hoành và chuyển chúng lên cao. |
|
4. In the solar plexus, the animal soul becomes merged in the soul of man, and the Christ consciousness is seen in germ. Taking the analogy of the antenatal state and the germinating of the Christ in each human being, students who have their intuition developed will see the correspondence between the activity of the solar plexus and its function, and the first three and one-half months of the antenatal period. Then comes what is called the “quickening” and life makes itself felt. A rising up takes place, and the correspondence can then be seen between the natural physiological process and the birth of the Christ in the cave of the heart. Herein lies the deep mystery of initiation, and it is only revealed to those who tread the Path of Discipleship to the end. |
4. Trong luân xa nhật tùng, hồn thú hòa hợp với hồn người, và tâm thức Christ còn trong giai đoạn phôi thai. Có sự tương đồng giữa trạng thái trước khi sinh và sự nảy nở của tâm thức Christ trong mỗi người. Những môn sinh đã phát triển trực giác sẽ thấy sự tương ứng giữa hoạt động của luân xa nhật tùng cùng với chức năng của nó, và giai đoạn ba tháng rưỡi đầu trong thai kỳ trước khi đứa bé chào đời. Kế đó là giai đoạn “tăng tốc”, và sự sống ngày càng biểu lộ. Có sự thăng tiến. Có thể thấy sự tương ứng giữa tiến trình sinh lý tự nhiên và sự sinh ra của Đấng Christ ở nơi sâu thẳm của luân xa tim. Đây là bí nhiệm sâu xa của điểm đạo. Bí nhiệm này chỉ được khải thị cho người trên giai đoạn cuối của Con đường Đệ tử. |
|
We are told in this sutra that knowledge as to the condition of the body comes through meditation upon this centre. The reason is this: when man arrives at an understanding of his emotional body and of the force centre through which it functions upon the physical plane, he finds that all that he is (physically and etherically) is the result of desire, of kama, and that it is his desires which chain him upon the wheel of rebirth. Hence the emphasis laid by the yogi upon that basic discrimination through which a man develops the capacity to choose between the real and the unreal and which cultivates in him a just [309] sense of values. Then follows dispassion which, when developed, gives him a distaste for the life of sensuous perception. |
Câu kinh này nói rằng khi tham thiền về luân xa nhật tùng, hành giả sẽ biết được tình trạng của cơ thể. Lý do là vì khi thấu đáo thể tình cảm của mình và trung tâm lực mà qua đó thể này tác động ở cõi trần, y thấy rằng tất cả những gì y hiện có (trong thể xác và thể dĩ thái) là kết quả của dục vọng, tức là của kama. Y cũng thấy rằng chính các ham muốn xiềng xích y vào bánh xe luân hồi. Vì thế, nhà yogi chú trọng vào trí phân biện căn bản. Nhờ đó, y phát triển khả năng chọn lựa giữa điều chân thật và điều giả trá, để tự vun bồi một ý thức đúng về giá trị. [309] Kế đến là hạnh vô dục, khi đã phát triển, sẽ khiến y không còn bận tâm đến đời sống với các cảm nhận giác quan. |
|
When the aspirant can grasp the place that desire plays in his life, when he realizes that it is his emotional or astral body which produces the greater part of the trouble in his lower nature, and when he can grasp the technical side of the process which desire-energy follows, then the work of the solar plexus is understood and he can begin the great dual work of transference and transmutation. He has to transfer the energy of the centres below the diaphragm into those above, and in the process transmute and change the energy. The centres are to be found up the spine, but it aids the student considerably if he can grasp the idea of the relative localities in the body which are energized and affected by these centres. All these centres have physical plane organs which are the result of the response of dense substance to their vibration. |
Khi người chí nguyện có thể thấu hiểu vai trò của sự ham muốn trong cuộc sống của mình; khi y nhận thức rằng chính thể tình cảm hay thể cảm dục gây nên phần lớn những nỗi khó khăn, phiền phức trong phàm tính của mình; và khi y có thể hiểu rõ khía cạnh kỹ thuật của tiến trình mà năng lượng ham muốn tác động, bấy giờ y mới hiểu được hoạt động của luân xa nhật tùng. Bấy giờ y mới bắt đầu hai cố gắng quan trọng là chuyển di và siêu hóa. Y phải chuyển di năng lượng của các luân xa bên dưới cơ hoành vào các luân xa ở trên. Và trong tiến trình đó, y cũng siêu hóa và chuyển hóa năng lượng. Các luân xa này nằm dọc theo cột sống. Thế nhưng, sẽ rất hữu ích cho người môn sinh nếu y hiểu được các vùng trong cơ thể nhận năng lượng và chịu ảnh hưởng của các luân xa này. Tất cả chúng đều có những cơ quan trong thể xác, vốn được tạo thành do vật chất trọng trược ứng đáp với rung động của chúng. |
|
The Three Major Centres. |
Ba Luân xa Chính. |
|
1. Head centre brain. pineal gland and pituitary body, |
1. Luân xa đầu………………….. não bộ, tuyến tùng và tuyến yên, |
|
2. Throat larynx. vocal cords and palate, thyroid gland, |
2. Luân xa cổ họng…………….. thanh quản, dây thanh âm và vòm miệng, tuyến giáp, |
|
3. Heart pericardium, ventricles, auricles with spleen affected. |
3. Luân xa tim ………………….. ảnh hưởng đến màng ngoài tim, tâm thất, tâm nhĩ và lá lách |
|
The Four Minor Centres. |
Bốn Luân xa Phụ. |
|
4. Solar plexus stomach. |
4. Luân xa nhật tùng ………… dạ dày, |
|
5. Spleen spleen. |
5. Luân xa lá lách ……………… lá lách, |
|
6. Sacral generative organs. |
6. Luân xa sinh dục…………… cơ quan sinh dục, |
|
7. Base of spine eliminative organs, kidneys, bladder. [310] |
7. Luân xa chót xương sống .. cơ quan bài tiết, thận, bàng quang. |
|
These physical organs are results or effects; the centres are their physical cause and they are produced through the activity of the etheric centres. |
Các cơ quan trong thể xác nói trên chỉ là kết quả hay hậu quả. Các luân xa là nguyên nhân vật lý của chúng, và chúng được tạo ra do hoạt động của các luân xa dĩ thái. [310] |
|
These details have been given and the above information collated, owing to the importance of the solar plexus in this fourth round of the fourth creative Hierarchy (the Hierarchy of human monads or spirits), the fourth centre in man whether considered upward or downward. One more technical point might here be given. In the process of transmutation the student should remember that: |
Các chi tiết này được đưa ra và các thông tin nói trên được tập hợp lại, là do tầm quan trọng của luân xa nhật tùng trong cuộc tuần hoàn thứ tư này của Huyền giai sáng tạo thứ tư (tức là Huyền giai gồm các chân thần hay tinh thần của con người). Nó là luân xa thứ tư trong con người, dù tính từ dưới lên hay từ trên xuống. Thêm một điểm kỹ thuật nữa có thể nêu ở đây. Trong tiến trình siêu hóa, người môn sinh cần ghi nhớ rằng: |
|
a. The energy at the base of the spine must go to the head, |
a. Năng lượng ở luân xa chót xương sống phải thăng hoa lên luân xa đầu, |
|
b. The energy of the sacral centre must go to the throat, |
b. Năng lượng ở luân xa sinh dục phải thăng hoa lên luân xa cổ họng, |
|
c. The energy of the solar plexus must go to the heart. Splenic energy concerns solely the physical body. It goes to all the centres. |
c. Năng lượng ở luân xa nhật tùng phải thăng hoa lên luân xa tim. Năng lượng của luân xa lá lách chỉ liên quan đến thể xác. Nó đi đến tất cả các luân xa kia. |
30-31. By fixing the attention upon the throat centre, the cessation of hunger and thirst will ensue. By fixing the attention upon the tube or nerve below the throat centre, equilibrium is achieved. |
30-31. Bằng cách chú định vào luân xa cổ họng, hành giả không còn thấy đói và khát. Khi chú định vào ống hay dây thần kinh bên dưới luân xa cổ họng, hành giả đạt được sự quân bình. |
|
It should be remembered that all the sutras which deal with psychic powers are capable of a lower and a higher interpretation. This is nowhere more apparent than in this sutra. Through an understanding of the nature of the throat centre and a steady meditation upon it, the yogi can arrest the pangs of hunger and of thirst and thus [311] do without food indefinitely, whilst through directing energy to that portion of the great nerve in the throat which lies just below the throat centre (found in the well or pit of the throat) he can achieve absolute immobility and rigidity of the human form. Similarly through concentration upon the solar plexus he can become aware in full consciousness of every part of his physical body. But these concern the lower siddhis or powers and with these the student of Raja Yoga is not concerned, regarding them as the secondary effects of soul development. He knows them to be the result of the correct following of the eight means of yoga, and therefore automatic and inevitable results. He knows too the danger to the physical organism when their lower or physical aspect is emphasized. |
Cần lưu ý rằng tất cả các câu kinh bàn về những quan năng thần thông đều có thể được giải thích theo nghĩa thấp và cao. Điều này không rõ nét ở đâu hơn trong câu kinh này. [311] Khi thấu đáo ý nghĩa của luân xa cổ họng và tham thiền liên tục về nó, nhà yogi có thể ngăn được cơn đói và khát, và nhờ đó mà có thể nhịn ăn vô thời hạn. Trong khi đó, nếu hướng năng lượng đến phần của dây thần kinh lớn trong cổ họng, ở ngay dưới luân xa cổ họng (ở trong hõm hay hố cổ họng), hành giả có thể khiến cho thân xác hoàn toàn bất động và cứng rắn. Tương tự, khi tập trung vào nhật tùng, hành giả có thể hoàn toàn ý thức được mọi cơ phận trong thân xác mình. Thế nhưng, những điều vừa kể liên quan đến các siddhi hay thần thông loại thấp mà người môn sinh Raja Yoga không hề quan tâm. Y chỉ xem chúng là hiệu quả thứ yếu trong việc phát triển của linh hồn. Y biết rằng chúng là kết quả của việc theo đúng tám phương tiện của yoga. Vì thế, chúng là các kết quả tự động và tất nhiên xảy ra. Y cũng biết mối nguy đối với các thể hồng trần khi chú trọng đến phương tiện thấp hay khía cạnh vật lý của chúng. |
|
The true significance of the above sutras which are here bracketed together, grows out of an understanding of the transmutative process and the transference which is effected in the solar plexus. |
Thực nghĩa của các câu kinh nói trên, được gom chung ở đây, phát sinh từ sự thấu hiểu về tiến trình siêu hóa và chuyển di năng lượng được thực hiện trong luân xa nhật tùng. |
|
The energy of the sacral centre which feeds the generative organs is in due course of time transferred into the throat centre. The creative process is then carried on by thought, sound and the spoken Word. Hunger and thirst are the two aspects of desire, the one, hunger, being positive, masculine and grasping; the other, thirst, being negative, feminine and receptive. Those two words are but symbols of the two great impulses underlying the sex impulse. When these impulses are dominated and controlled, then the energy of the centre lying behind the organs concerned, can [312] be carried upward to the throat, and hunger and thirst are arrested in the esoteric sense. It should be borne in mind here that these two words are the physical plane analogies to the great pairs of opposites which the yogi has to balance and which he does balance when the solar plexus is performing its highest function. |
Năng lượng của luân xa sinh dục (ở vùng xương cùng) nuôi dưỡng các cơ quan sinh dục. Đúng lúc, nó sẽ chuyển vào luân xa cổ họng. Sau đó, tiến trình sáng tạo được tiếp tục nhờ tư tưởng, âm thanh, và xướng lên Linh từ. Đói và khát là hai khía cạnh của dục vọng. một mặt, sự đói, thuộc dương, giống đực, có tính nắm bắt. mặt kia, sự khát, thuộc âm, giống cái, có tính thụ nhận. Hai từ này chỉ là biểu tượng của hai xung lực mạnh mẽ tiềm ẩn trong sức thôi thúc tính dục. Khi các xung lực này được chế ngự và kiểm soát, thì năng lượng của luân xa chi phối các cơ quan sinh dục, có thể được thăng hoa lên luân xa cổ họng. [312] Bấy giờ, hành giả không còn đói và khát, hiểu theo nghĩa nội môn. Ở đây cần lưu ý rằng hai từ nói trên là những gì tương đồng ở cõi trần với các cặp đối cực chính yếu mà nhà yogi phải cân bằng. Và y chỉ cân bằng được chúng khi luân xa nhật tùng thể hiện chức năng cao nhất của nó. |
|
On the astral or desire plane, within the astral body of the aspirant, must this balancing process be wrought out to completion. This is the great battleground, symbolized so beautifully for us in the human body, with its three higher centres, its lower energy focal points and that great middle centre, the solar plexus, typifying the astral plane and its work. It will now be apparent why the two sutras are read as one, for they cover one completed work. |
Trong thể cảm dục của mình trên cảnh giới cảm dục hay dục vọng, hành giả phải thực hiện tiến trình cân bằng này đến mức hoàn tất. Đây là chiến trường rộng lớn. Nó tượng trưng rất hay trong cơ thể con người, với ba luân xa cấp cao, các tụ điểm năng lượng cấp thấp, và luân xa đóng vai trò trung gian quan trọng là nhật tùng, tiêu biểu cho cõi cảm dục và tác động của nó. Vì thế, đến đây chúng ta thấy rõ tại sao hai câu kinh lại được đọc chung như một câu, vì chúng bao gồm một công việc duy nhất được hoàn tất. |
|
After achieving some measure of equilibrium, the aspirant learns to perfect that balancing process and gains the power to stand firm and immovable, preserving an unshakable equilibrium between the pairs of opposites. The nerve, called “kurma-nadi” or the “tortoise tube” is the physical correspondence to the point the aspirant has reached. He stands erect and unshaken before the entrance to the path; he is at the point in his evolution where he can “escape upward” and function in the head. |
Sau khi đạt một mức độ quân bình, hành giả học cách hoàn thiện tiến trình làm cân bằng này. Y có năng lực đứng vững vàng, kiên định, giữ được sự quân bình không hề lay chuyển giữa các cặp đối cực. Dây thần kinh có tên “kurma- nadi” hay “ống rùa” là phần trong thể xác tương ứng với trình độ mà hành giả đã đạt. Y đứng thẳng, vững vàng trước lối vào đường đạo. Y nay đến trình độ tiến hóa với khả năng “vượt lên trên” và hoạt động trong luân xa đầu. |
|
The tortoise has from the earliest ages been the symbol of the slow creative process, and of the long evolutionary road travelled by the spirit. Hence the appropriateness of this term, as applied to what is considered the lowest of the three major [313] centres, and the one which represents the Creator or Brahma aspect of divinity, of God, the Holy Ghost, with His function as the energizer of matter or body. |
Từ thời xa xưa, con rùa đã là biểu tượng của tiến trình sáng tạo chậm chạp. Nó cũng là biểu tượng của con đường tiến hóa lâu dài mà tinh thần phải đi qua. Vì thế, thuật ngữ này rất thích hợp, khi áp dụng cho những gì được xem là thấp nhất trong ba luân xa chính yếu. [313] Nó tượng trưng cho Đấng sáng tạo hay trạng thái Brahma trong thiên tính, của Thượng Đế, Chúa Thánh Thần. Chức năng của Ngài là cung cấp năng lượng cho vật chất hay cơ thể. |
32. Those who have attained self-mastery can be seen and contacted through focussing the light in the head. This power is developed in one-pointed meditation. |
32. Khi tập trung ánh sáng bên trong đầu, hành giả có thể thấy và giao tiếp với những bậc đã đạt sự tự chủ. Quyền năng này được phát triển trong tham thiền chuyên nhất. |
|
This is a paraphrase of a very general nature, but gives the exact sense of the terms employed. In the twenty-fifth sutra we considered the nature of the light in the head. Here it might briefly be stated that when the aspirant is aware of the light in the head, and can utilize it at will, turning its radiance upon all that he seeks to know, the time comes when he can not only turn it outward on to the field of knowledge wherein he functions in the three worlds, but can turn it inward and direct it upward into those realms wherein the saints of God, the great “Cloud of Witnesses” walk. He can, therefore, through its medium, become aware of the world of the Masters, Adepts and Initiates and thus contact them in full waking consciousness, registering those contacts with his physical brain apparatus. |
Đây là câu chuyển dịch một cách rất tổng quát, nhưng cho ý nghĩa chính xác của các thuật ngữ được dùng. Trong câu kinh thứ hai mươi lăm, chúng ta đã xét đến ánh sáng bên trong đầu. Ở đây có thể nói vắn tắt rằng khi người chí nguyện biết được ánh sáng bên trong đầu, thì dần dần y có thể sử dụng nó tùy ý muốn, chiếu rọi ánh sáng chói rạng của nó lên bất cứ điều gì y muốn biết. Rồi đến lúc y có thể quay nó ra ngoài, soi sáng phạm vi hiểu biết trong tam giới mà y đang hoạt động trong đó. Không chỉ có khả năng vừa kể, y còn có thể quay nó vào trong, và hướng lên lĩnh vực của những vị thánh, “Đám mây vĩ đại các Chứng nhân” của Thượng Đế. Qua đó, y có thể biết được thế giới của các Chân sư, các Bậc toàn thông và Điểm đạo đồ. Bằng cách đó, y giao tiếp với các Ngài trong ý thức hoàn toàn tỉnh táo, và ghi nhận các giao tiếp đó trong não bộ hồng trần. |
|
Hence the necessity of becoming aware of one’s own light, of trimming one’s lamp and of using the light that is in one, to the full. By use and care, the power of the spiritual light grows and waxes and develops a dual function. |
Vì thế, cần phải ý thức được ánh sáng nơi chính mình, khơi tỏ ngọn đèn của mình, và sử dụng ánh sáng ấy nơi mình đến mức viên mãn. Khi được sử dụng và nuôi dưỡng, năng lực của ánh sáng tinh thần tăng trưởng, bừng chiếu, và phát triển hai chức năng. |
|
The aspirant becomes a light or lamp set in a [314] dark place and illumines the way for others. Only thus can the light within be fanned to a flame. This process of lighting others and being a lamp must always precede that wonderful experience wherein the mystic turns his lamp and light into other realms and finds the “way of escape” into those worlds where the Masters work and walk. |
Người chí nguyện trở thành ngọn đèn ở nơi tăm tối, soi sáng đường đi cho kẻ khác. [314] Chỉ bằng cách đó, ánh sáng nội tâm mới bừng lên thành ngọn lửa. Tiến trình soi sáng kẻ khác và trở thành ngọn lửa luôn luôn phải có trước. Từ đó mới xảy ra kinh nghiệm tuyệt vời, trong đó nhà thần bí quay ngọn đèn và ánh sáng của mình vào những lĩnh vực khác và tìm thấy “con đường giải thoát” đi vào những cảnh giới nơi các Chân sư đang hiện hữu và hoạt động. |
|
This point needs emphasis for there is too strong an inclination among students to search for the Masters or some Guru or Teacher who will “give” them light. They can only be found by the one who has lit his own light, trimmed his own lamp and thus provided himself with the means of penetrating into Their world. The more technical side of this matter has been well covered in the words of W. Q. Judge: |
Cần nhấn mạnh điểm này vì các môn sinh thường có khuynh hướng quá nồng nhiệt muốn tìm kiếm các Chân sư hoặc một vị Tôn sư hay Huấn sư sẽ “cho” họ ánh sáng. Chỉ có thể tìm thấy các Ngài khi hành giả đã tăng cường ánh sáng nơi chính mình, khơi tỏ ngọn đèn tâm, dùng đó làm phương tiện để thâm nhập vào thế giới của các Ngài. Ông W. Q. Judge đã bàn rõ hơn về phương diện kỹ thuật của vấn đề này như sau: |
|
“There are two inferences here which have nothing to correspond to them in modern thought. One is, that there is a light in the head; and the other, that there are divine beings who may be seen by those who thus concentrate upon the ‘light in the head.’ It is held that a certain nerve, or psychic current, called Brahmarandhra-nadi, passes out through the brain near the top of the head. In this there collects more of the luminous principle in nature than elsewhere in the body and it is called jyotis—the light in the head. And, as every result is to be brought about by the use of appropriate means, the seeing of divine beings can be accomplished by concentration upon that part of the body more nearly connected with them. This point—the end of Brahmarandhra-nadi—is [315] also the place where the connection is made between man and the solar forces.” |
“Ở đây có hai sự suy diễn mà các tư tưởng hiện nay không hề có điều gì tương ứng. một là, có ánh sáng bên trong đầu. Hai là, có những đấng thiêng liêng mà hành giả có thể thấy được khi tập trung vào ‘ánh sáng bên trong đầu.’ Người ta cho rằng có một dây thần kinh hay một dòng tâm thức, gọi là Brahmarandhra-nadi, đi ngang qua não ở nơi gần đỉnh đầu. Trong vùng này có thu góp nguyên khí phát quang của thiên nhiên, nhiều hơn bất cứ nơi nào trong cơ thể. Nó được gọi là jyotis − ánh sáng bên trong đầu. mọi kết quả có được là nhờ sử dụng phương tiện thích hợp. Vì thế, hành giả có thể thấy được các đấng thiêng liêng bằng cách tập trung vào phần nào trong cơ thể được nối kết nhiều hơn với các ngài. Điểm này—ở cuối Brahmarandhra-nadi— [315] cũng là nơi có sự liên kết giữa con người và các mãnh lực thái dương.” |
|
It is this light which causes the “face to shine” and is responsible for the halo depicted around the head of all saints and Masters and which is seen by those with clairvoyant vision around the head of all advanced aspirants and disciples. |
Chính ánh sáng này mang lại “gương mặt rạng ngời” và vòng hào quang được mô tả là ở chung quanh đầu của các vị thánh và các Chân sư. Nó cũng là những gì mà các nhà nhãn thông thấy được chung quanh những người chí nguyện và người đệ tử tiến hóa cao. |
|
Dvivedi also gives the same teaching in the following words: |
Dvivedi cũng có những lời bình giải sau đây: |
|
“The light in the head is explained to be that collective flow of the light of sattva which is seen at the Brahmarandhra which is variously supposed to be somewhere near the coronal artery, the pineal gland, or over the medulla oblongata. Just as the light of a lamp burning within the four walls of a house presents a luminous appearance at the keyhole, so even does the light of sattva show itself at the crown of the head. This light is very familiar to all acquainted even slightly with Yoga practices and is seen even by concentration on the space between the eyebrows. By Samyama (meditation) on this light the class of beings called siddhas—popularly known in theosophic circles as Mahatmas or high adepts—able to walk through space unseen, are immediately brought to view, notwithstanding obstacles of space and time.” |
“Có thể nói ánh sáng bên trong đầu là dòng ánh sáng chung của sattva thấy ở Brahmarandhra. Nhiều ý kiến khác nhau cho rằng nó ở gần động mạch đỉnh đầu, tuyến tùng, hoặc phía trên hành não. Ánh sáng của sattva phát ra ở đỉnh đầu cũng giống như một ngọn đèn cháy sáng bên trong bốn vách của ngôi nhà có tia sáng chiếu ra ngoài xuyên qua lỗ khóa vậy. Ánh sáng này rất quen thuộc đối với những ai đã từng thực hành Yoga dù là chưa nhiều. Thậm chí có thể thấy nó bằng cách tập trung vào khoảng giữa hai chân mày. Khi thực hành Samyama (tham thiền) về ánh sáng này, hành giả có thể lập tức thấy được các vị siddha, bất kể sự ngăn cách của không gian và thời gian. Đây là những vị thường được giới Thần triết gọi là các Thánh sư hay cao đồ, có khả năng đi xuyên qua không gian một cách vô hình, vô ảnh.” |
33. All things can be known in the vivid light of the intuition. |
33. Trong ánh sáng chói rạng của trực giác, hành giả có thể hiểu biết mọi sự. |
|
There are three aspects of knowledge associated with the light in the head. |
Có ba phương diện hiểu biết kết hợp với ánh sáng bên trong đầu. |
|
First, there is that knowledge which the ordinary [316] man can possess, which perhaps is best expressed in the word theoretical. It makes a man aware of certain hypotheses, possibilities and explanations. It gives to him an understanding of ways, means and methods, and enables him to take the first step towards correct ascertainment and achievement. This is true of that knowledge which Patanjali deals with. By acting upon this knowledge and by conforming to the requirements of the intended investigation or development, the aspirant becomes aware of the light in the head. |
Thứ nhất, loại hiểu biết mà người bình thường [316] có thể sở hữu. Có lẽ tốt nhất nên gọi đây là hiểu biết về lý thuyết. Phương diện này giúp người ấy biết được một số giả thuyết, những điều khả hữu, và những cách lý giải. Nó giúp họ hiểu được những phương cách, phương tiện và phương pháp. Nó giúp họ có thể thực hiện bước đầu để tiến đến việc xác định đúng và thành tựu. Phương diện này đúng với các kiến thức mà Patanjali truyền đạt. Khi thực hành kiến thức này, và theo đúng yêu cầu về khảo cứu hay phát triển như đã định, hành giả sẽ dần dần biết được ánh sáng bên trong đầu. |
|
Secondly, discriminative knowledge is the next type utilized by the aspirant. The light having been contacted, is used, and the result is that the pairs of opposites become apparent, duality is known, and the question of choice comes in. The light of God is cast upon either side of the razor edged path the aspirant is endeavouring to tread, and at first this “noble middle” path is not so apparent as that which lies on either side. By the addition of dispassion or non-attachment to discriminative knowledge, hindrances are worn away, the veil which hides the light becomes increasingly thin until eventually the third or highest light is touched. |
Thứ hai, hiểu biết do phân biệt là loại kế tiếp được hành giả sử dụng. Đã tiếp xúc với ánh sáng, nay y sử dụng nó, và kết quả là y thấy rõ các cặp đối cực. Y hiểu được tính nhị nguyên, và phải chọn lựa. Ánh sáng của Thượng Đế chiếu rọi một bên của con đường mảnh mai như sợi tóc mà hành giả đang cố gắng bước lên. Lúc đầu, y không thấy rõ con đường “trung đạo, cao cả” này, như thấy những gì ở một bên của nó. Khi phát triển thêm hạnh vô dục, hay không bám chấp vào sự hiểu biết do phân biệt, thì các chướng ngại từ từ tan biến. Bức màn che ánh sáng ngày càng thưa mỏng dần, cho đến khi y thấy loại ánh sáng thứ ba, cao siêu nhất. |
|
Thirdly, the “light of the intuition” is one of the terms which can be applied to this type of illuminative knowledge. It results from the treading of the path and the overcoming of the pairs of opposites, and is the forerunner of complete illumination and the full light of day. Ganganatha Jha in his brief commentary touches on all these three. He says: [317] |
Thứ ba, “ánh sáng trực giác” là một trong những thuật ngữ có thể được áp dụng cho loại ánh sáng khai ngộ này. Nó là kết quả của việc tiến bước trên đường đạo và thắng phục các cặp đối cực. Nó mở đầu cho giai đoạn giác ngộ và ánh sáng tỏ rõ, thành tựu viên mãn. Ganganatha Jha có bàn vắn tắt về cả ba phương diện hiểu biết nói trên, như sau: [317] |
|
“Intelligence is the emancipator—the forerunner of discriminative knowledge, as the dawn is of sunrise. On the production of intuitional insight, the yogi comes to know everything.” |
“Sự thông minh là yếu tố khai phóng − nó đưa đến sự hiểu biết có phân biện, giống như ánh bình minh đưa đến mặt trời mọc. Khi phát sinh thấu hiểu trực giác, nhà yogi trở nên hiểu biết mọi sự.” |
|
These flashes of intuition are at first simply vivid flashes of illumination, breaking forth into the mind consciousness and disappearing almost instantaneously. But they come with increasing frequency as the habit of meditation is cultivated and persist for increasingly long periods as stability of the mind is achieved. Gradually the light shines forth in a continuous stream until the aspirant walks in the full light of day. When the intuition begins to function, the aspirant has to learn to utilize it by turning the light which is in him upon all matters “obscure, subtle and remote,” and thus enlarging his horizon, solving his problems, and increasing his efficiency. What he sees and contacts through the use of this spiritual light has then to be registered, understood and adapted for use by the man upon the physical plane, through the medium of the brain. Here is where the rational mind plays its part, interpreting, formulating and transmitting to the brain that which the true spiritual man on his own plane knows, sees, and understands. Thus this knowledge becomes available in full waking consciousness to the incarnated son of God, the man on the physical plane. |
Lúc đầu, những tia chớp này của trực giác chỉ là những tia chớp khai ngộ, lóe lên, chiếu rọi vào ý thức của cái trí, rồi hầu như lập tức biến đi. Nhưng chúng đến thường xuyên hơn, khi thói quen tham thiền được bồi đắp và duy trì trong khoảng thời gian ngày càng lâu hơn, và khi cái trí đã trở nên ổn định. Dần dần, ánh sáng chói rạng thành dòng liên tục, cho đến khi hành giả tiến bước trong thanh thiên bạch nhật. Khi trực giác bắt đầu hoạt động, hành giả phải học sử dụng nó bằng cách hướng ánh sáng nội tâm của mình đến những vấn đề “khó hiểu, tinh tế và thâm viễn.” Nhờ đó y mở rộng tầm mắt, giải quyết những vấn đề khó khăn, và gia tăng hiệu năng của mình. Những gì y thấy và giao tiếp khi sử dụng ánh sáng tinh thần này, bấy giờ phải được ghi nhận, thấu hiểu, và làm thích ứng cho phàm nhân ở cõi trần sử dụng, qua trung gian của não bộ. Đây là vai trò của cái trí sáng suốt. Nó lý giải, diễn đạt và truyền đến não bộ những gì mà chân ngã tinh thần biết, thấy, và hiểu trên cảnh giới của mình. Thế là sự hiểu biết trở nên khả dụng trong ý thức hoàn toàn tỉnh táo, cho người con của Thượng Đế đang nhập thế, là phàm nhân ở cõi hồng trần. |
|
Another side of this, equally true and necessary, is pictured for us by Charles Johnston on page 123 of his edition. He says: |
Một phương diện khác của vấn đề này, cũng đúng thực và cần thiết, được Charles Johnston minh họa ở trang 123 trong bản dịch của ông: |
|
“This divining power of intuition is the power [318] which lies above and behind the so-called rational mind; the rational mind formulates a question and lays it before the intuition, which gives a real answer, often immediately distorted by the rational mind, yet always embodying a kernel of truth. It is by this process, through which the rational mind brings questions to the intuition for solution, that the truths of science are reached, the flashes of discovery and genius. But this higher power need not work in subordination to the so-called rational mind, it may act directly, as full illumination, ‘the vision and the faculty divine.'” |
“Năng lực trực thức này của trực giác vốn cao sâu hơn [318] cái gọi là lý trí. Lý trí diễn đạt một vấn đề, và đặt vấn đề ấy trước trực giác. Trực giác liền đưa ra giải đáp, mà thường lập tức bị lý trí làm cho méo mó. Dù vậy, nó vẫn luôn luôn hàm chứa một hạt nhân của chân lý. Trong giới khoa học cũng có tiến trình lý trí đặt vấn đề cho trực giác để tìm giải pháp, như vừa kể. Nhờ đó mà người ta tìm thấy sự thực, với những tia chớp mang lại sự phát minh và thiên tài. Thế nhưng, quyền năng cao siêu này không nhất thiết phải tác động phụ thuộc vào cái gọi là lý trí. Nó có thể tác động trực tiếp, như một sự giác ngộ trọn vẹn, ‘tầm nhìn tinh thần và năng lực thiêng liêng’.” |
34. Understanding of the mind-conscious comes from one-pointed meditation upon the heart centre. |
34. Hành giả thấu hiểu tâm thức trí tuệ khi chuyên chú tham thiền vào luân xa tim. |
|
The sons of men are distinguished from the animal kingdom by the possession of intelligence, of the rational reasoning mind. Hence in the Ageless Wisdom, the Secret Doctrine of the world, human beings are frequently called “sons of mind.” It is this which gives them their sense of individuality, of their separate identity; it is this which makes them egos. |
Những người con của nhân loại khác với loài vật nhờ có được sự thông tuệ và lý trí suy luận. Vì thế, trong minh triết Ngàn đời, là Giáo lý Bí nhiệm của thế giới, con người thường được gọi là “những người con của trí tuệ.” Chính trí tuệ cho họ ý thức về cá tính, về lai lịch riêng biệt của mình, hiểu mình là chân ngã. |
|
In the centre of the brain, seated in the pineal gland, we are told is the home of the soul, an outpost of the life of God, a spark of pure spiritual fire. This is the lowest point which pure spiritual life, direct from the Monad, our Father in Heaven, contacts or reaches. It is the termination of the sutratma, or thread which links and connects [319] the various sheaths and passes from the monad on its own high plane, via the soul body on the higher levels of the mental plane down into the physical vehicle. This life of God is triple and combines the energy of the Father, the Son and the Holy Ghost, and is therefore responsible for the full functioning of all the parts of man’s nature on all planes, and for all states of consciousness. One strand of this triple thread or path, the first, is the giver of life, of spirit, of energy. Another, the second, is responsible for the consciousness or intelligence aspect, for the power of spirit to respond to contact and to evolve response. The third concerns the life of the matter or body aspect. |
Chúng ta được biết rằng ở phần trung tâm của não bộ, bên trong tuyến tùng, có trú sở của linh hồn. Đó là tiền đồn của sự sống Thượng Đế, một tia lửa tinh thần thuần khiết. Đây là điểm thấp nhất mà sự sống tinh thần thuần khiết, trực tiếp từ Chân thần, Cha của chúng ta ở trên Trời, tiếp xúc và đạt đến. Đó là điểm cuối của sutratma, tuyến liên kết và nối kết các thể khác nhau. [319] Tuyến này đi từ Chân thần trên cảnh giới cao siêu của mình, qua thể của linh hồn ở các cấp cao của cõi trí, xuống đến thể xác. Sự sống này của Thượng Đế vốn tam phân, kết hợp năng lượng của Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Nhờ nó mà mọi cơ phận của con người hoạt động đầy đủ trên mọi cảnh giới, và mọi trạng thái tâm thức của y được thành tựu viên mãn. Phần thứ nhất của tuyến hay con đường tam phân này mang lại sự sống, tinhthần, năng lượng. Phần thứ hai dành cho phương diện tâm thức hay thông tuệ, năng lực của tinh thần có thể ứng đáp với các giao tiếp, ngày càng hiệu quả hơn. Phần thứ ba liên quan đến sự sống trong phương diện vật chất hay cơ thể. |
|
The first aspect via the monad reaches to the pineal gland—the point where spirit resides in man. The second or consciousness aspect, via the ego, makes a point of contact with the heart centre, whilst the third aspect or third part of the sutratma links up with the centre at the base of the spine, which is the main source of the personality or bodily activity. |
Phương diện thứ nhất qua Chân thần xuống đến tuyến tùng − là điểm trụ của tinh thần trong con người. Phương diện thứ hai hay tâm thức, qua chân ngã, có điểm giao tiếp với luân xa tim. Trong khi đó, phương diện thứ ba hay phần thứ ba của sutratma thì liên kết với luân xa ở chót xương sống. Đây là nguồn chính yếu cho hoạt động của phàm ngã hay cơ thể. |
|
Through concentration, therefore, on the light in the head, knowledge of the spiritual worlds and of those pure spirits who work and walk in them is achieved, for Atma or spirit shines there. Similarly through concentrated meditation upon the heart, knowledge of the second aspect, of the conscious intelligent principle which makes a man a son of God, is gained. |
Vì thế, qua tập trung vào ánh sáng bên trong đầu, hành giả biết được các ảnh giới tinh thần và những chân linh thuần khiết đang sống và làm việc trong đó. Atma hay tinh thần vốn chói rạng trong các cảnh giới vừa kể. Tương tự, khi tham thiền tập trung vào luân xa tim, hành giả biết được phương diện thứ hai, là nguyên khí thông tuệ hữu thức giúp y trở thành một người con của Thượng Đế. |
|
Through the development of the head and the use of the head centre, the will is brought into [320 functioning activity. It is the characteristic of spirit, and demonstrates purpose and control. Through the unfolding and use of the heart centre the love-wisdom aspect is similarly brought into use and the love of God is seen working out in a man’s life and work. For the mind of God is love, and the love of God is intelligence, and these two aspects of one great quality are brought into play for the working out of His will and purpose. Of this the Christ was the outstanding example to the Occident, as Krishna was to India, and this has to be reflected and manifested also in every man. |
Nhờ phát triển luân xa đầu và sử dụng luân xa tim, ý chí được khơi hoạt. Ý chí là đặc trưng của tinh thần, biểu lộ mục đích tiến hóa và sự chế ngự. Khi khai mở và sử dụng luân xa tim, phương diện bác ái-minh triết cũng được sử dụng tương tự. Bấy giờ tình thương của Thượng Đế biểu lộ rõ trong đời sống và công việc của mỗi người. Vì trí tuệ của Thượng Đế là bác ái, và bác ái của Thượng Đế là sự thông tuệ. Cả hai phương diện này của cùng một phẩm tính thiêng liêng duy nhất được đưa vào hoạt động để thực thi ý chí và chủ đích của Ngài. Điển hình xuất sắc của phẩm tính này cho người Đông phương là Đấng Christ, và cho người Ấn Độ là Đức Krishna. Phẩm tính này cũng phải được phản ánh và biểu hiện trong mọi người. |
35. Experience (of the pairs of opposites) comes from the inability of the soul to distinguish between the personal self and the purusa (or spirit). The objective forms exist for the use (and experience) of the spiritual man. By meditation upon this, arises the intuitive perception of the spiritual nature. |
35. Linh hồn trải qua các cặp đối cực vì không thể phân biệt được giữa phàm ngã và purusa (hay tinh thần). các ngoại thể sở dĩ có là để cho con người tinh thần sử dụng (hay thu thập kinh nghiệm). Khi tham thiền về điều này, hành giả sẽ có nhận thức trực giác về bản tính tinh thần. |
|
Again we have quite a loose paraphrase of the original text, but one which nevertheless conveys the correct interpretation. |
Một lần nữa, chúng ta lại có lối chuyển ngữ khá lỏng lẻo của câu kinh trong bản chính. Tuy nhiên, lối dịch này lại chuyển đạt đúng ý nghĩa. |
|
We have seen in the preceding sutras that the narrow path to be trodden between the pairs of opposites (through the practice of discrimination and dispassion) is the path of equilibrium, of balance, the noble middle path. This sutra is in the nature of a comment upon this stage of the soul’s experience and points out the following lessons: [321] |
Trong các câu trước, chúng ta đã thấy con đường nhỏ hẹp mà hành giả phải tiến bước giữa các cặp đối cực (qua thực hành phân biện và vô dục). Đó là con đường quân bình, thăng bằng, con đường trung đạo cao cả. Câu này có tính cách nhận xét về giai đoạn vừa kể trong kinh nghiệm của linh hồn, và nêu lên các bài học sau đây: [321] |
|
First, that the reason we are confronted by the pairs of opposites, and so frequently choose that line of activity or attitude of mind which produces in us pleasure or pain, is because we fail to distinguish between the lower nature and the higher, between the personal self (functioning as a physical, an emotional, and a mental unit) and the divine spirit to be found in each of us. We identify ourselves with the form aspect, and not with the spirit. We regard ourselves as the not-self, for aeons of time and forget our sonship, our unity with the father and the fact that we are, in reality, the indwelling self. |
Thứ nhất, chúng ta đứng trước những cặp đối cực, và quá thường khi chọn đường lối hoạt động hoặc thái độ nào trong trí mang lại cho chúng ta niềm vui hay nỗi khổ. Lý do là vì chúng ta không phân biệt được giữa phàm tính và chân tính cao siêu, giữa phàm ngã (hoạt động qua thể xác, thể tình cảm, và thể trí) và tinh thần thiêng liêng trong mỗi chúng ta. Chúng ta tự đồng hóa với phương diện hình thể, chứ không đồng nhất với tinh thần. Chúng ta cho rằng mình là cái phi- ngã. Chúng ta quên đi tư cách chúa con của mình, sự hợp nhất của mình với Đấng Cha lành, và quên đi sự kiện rằng thực tế chúng ta là chân ngã ngự ở nội tâm. |
|
Second, that the purpose of form is simply to enable the self to contact worlds otherwise closed to it, and to develop full awareness in all parts of the Father’s kingdom, and thus demonstrate as a fully conscious son of God. Through the form, experience is gained, consciousness awakened, faculty is developed and powers are unfolded. |
Thứ hai, mục đích của hình thể chỉ là giúp chân ngã tiếp xúc với những thế giới mà chân ngã chưa hề biết, và phát triển trực thức viên mãn trong toàn vương quốc của Đấng Cha lành, để biểu dương tư cách người con Thượng Đế hoàn toàn tỉnh thức. Qua hình thể, chân ngã thu thập kinh nghiệm, mở mang tâm thức, phát triển quan năng và khai mở quyền năng. |
|
Third, that as this fact is grasped intellectually and meditated upon interiorly, awareness of one’s identity with the spiritual nature and one’s distinction from the form is developed. One knows oneself in truth to be, not the form but the indweller, not the material self but the spiritual, not the differentiated aspects but the One alone, and thus the great process of liberation is carried forward. One becomes what one is, and one accomplishes this through meditation on the intelligent soul, the middle aspect, the Christ principle which links the Father (spirit) and the Mother (matter). [322] |
Thứ ba, khi hành giả thấu đáo sự kiện thực tế này qua trí tuệ và tham thiền về nó ở nội tâm, hành giả trực nhận ra rằng mình chính là bản tính tinh thần và khác với hình thể. Y thực sự biết được chân tính của mình. Y không là hình thể mà là chân ngã ngự ở nội tâm. Y không là cái ta vật chất mà là sự sống tinh thần. Y không phải là những phương diện biệt hóa, mà là Đấng Duy nhất. Cứ thế tiến trình giải thoát tiếp diễn. Qua tham thiền về linh hồn thông tuệ, về trạng thái trung gian, nguyên khí Christ liên kết Cha (tinh thần) và mẹ (vật chất), y thành tựu bản tính thiêng liêng của mình. [322] |
|
Thus the great triplicity is again to be seen: |
Một lần nữa, ba ngôi chánh đại lại được đề cập ở đây: |
|
1. The Father, or spirit, the one who manifests, who creates, who indwells, |
1. Đức Chúa Cha, hay tinh thần, đấng biểu hiện, sáng tạo, và ẩn ngự trong hình thể, |
|
2. The Son who reveals, meditates and links the highest aspect with the lower, |
2. Đức Chúa Con, làm hiển lộ, trung gian, và liên kết trạng thái cao nhất và trạng thái thấp, |
|
3. The Holy Ghost, overshadowing the Mother, intelligent material substance providing the forms through which experience and development are gained. |
3. Chúa Thánh Thần, ảnh hưởng đến mẹ vật chất thông minh, tạo nên các hình thể để qua đó sự sống thu kinh nghiệm và phát triển. |
|
The one who experiences, who incarnates and who achieves divine expression through the medium of form is the soul, the self, the spiritual conscious man, the Christ within. When through this experience he has achieved maturity, he reveals the Father or spirit and so fulfills the words of Christ, when He said (in reply to Philip’s question “Lord, show us the Father”), “He that hath seen me hath seen the Father” (John XIV.). |
Chính linh hồn, chân ngã, con người tinh thần hữu thức, Đấng Christ ở nội tâm, đang trải nghiệm, nhập thế, và thực hiện sự biểu lộ thiêng liêng qua trung gian của hình thể. Khi qua kinh nghiệm này và đã đạt mức trưởng thành, chân ngã hiển lộ Đức Chúa Cha hay tinh thần. Điều này đúng với lời của Đức Christ “Những ai đã thấy ta tức là thấy Cha ta” (John XIV.), khi Ngài đáp lại yêu cầu của Philip “Thưa Chúa, xin cho chúng con thấy Đức Chúa Cha.” |
36. As the result of this experience and meditation, the higher hearing, touch, sight, taste and smell are developed, producing intuitional knowledge. |
36. Kết quả của kinh nghiệm và cố gắng tham thiền này là các cơ quan thính giác, xúc giác, thị giác, vị giác và khứu giác cấp cao được phát triển, mang lại sự hiểu biết trực giác. |
|
Through meditation the aspirant becomes aware of the counterparts of the five senses as they are found in the subtler realms, and through their awakening and conscious use he becomes able to function as freely on the inner planes as he does on the physical. He can then serve intelligently in those realms and cooperate with the great evolutionary scheme. |
Qua tham thiền, hành giả ngày càng ý thức được các đối ứng của năm giác quan trên những cảnh giới tế vi. Khi đánh thức và hữu ý sử dụng chúng, y có thể hoạt động tự do trong các lĩnh vực này như khi làm việc ở cõi trần. Bấy giờ, y có thể phụng sự trên các cảnh giới đó một cách thông minh, và hợp tác với hệ thống tiến hóa rộng lớn. |
|
The senses may be defined as those organs [323] whereby man becomes aware of his surroundings. In the animal these five senses exist, but the thinking correlating faculty is lacking. They demonstrate as group faculty, analogous to a racial instinct in the human kingdom. |
Có thể định nghĩa các giác quan là những cơ quan [323] mà nhờ đó con người ý thức được môi trường chung quanh mình. Trong loài vật, đã có năm giác quan này, nhưng chúng còn thiếu năng lực tương quan với tư duy. Các giác quan này biểu lộ như quan năng của bầy đàn, tương tự như bản năng chủng tộc trong giới nhân loại. |
|
Each of these five senses has a definite connection with one or other of the seven planes of manifestation, and has also a correspondence on all the planes. |
Mỗi một trong năm giác quan này đều liên kết rõ rệt với một trong bảy cảnh giới biểu hiện, và cũng có phần tương ứng trên tất cả các cảnh giới. |
|
Plane Sense |
Cảnh giới Giác quan |
|
1. Physical Hearing |
1. Hồng trần…Thính giác |
|
2. Astral Touch or feeling |
2. Cảm dục ……Xúc giác hay cảm giác |
|
3. Mental Sight |
3. Trí tuệ………..Thị giác |
|
4. Buddhic Taste |
4. Bồ-đề …………Vị giác |
|
5. Atmic Smell |
5. Atma…………Khứu giác |
|
A further tabulation taken from A Treatise on Cosmic Fire will serve to make clear the five different aspects of the five senses on the five planes, and for further information, the student is referred to that Treatise pages 186-202. |
Một bảng biểu khác lấy từ quyển Luận về Lửa Vũ trụ sẽ giải rõ hơn về năm khía cạnh khác nhau của năm giác quan trên năm cảnh giới. Để biết thêm chi tiết, người môn sinh nên tham khảo bộ Luận này, các trang 186-202. |
|
MICROCOSMIC SENSORY EVOLUTION |
|
Plane Sense Subplane |
|
Physical 1. Hearing 5th gaseous |
|
2. Touch, feeling 4th first etheric |
|
3. Sight 3rd super ethric |
|
4. Taste 2nd sub-atomic |
|
5. Smell 1st atomic |
|
Astral 1. Clairaudience 5th |
|
2. Psychometry 4th |
|
3. Clairvoyance 3rd |
|
4. Imagination 2nd |
|
5. Emotional idealism 1st [324] |
|
Mental 1. Higher clairaudience 7th | |
|
2. Planetary psychometry 6th | |
|
3. Higher clairvoyance 5th > Form |
|
4. Discrimination 4th | |
|
5. Spiritual discernment 3rd < |
|
Response to group | |
|
vibration 2nd > Formless |
|
Spiritual telepathy 1st | |
|
Buddhic 1. Comprehension 7th |
|
2. Healing 6th |
|
3. Divine vision 5th |
|
4. Intuition 4th |
|
5. Idealism 3rd |
|
Atmic 1. Beatitude 7th |
|
2. Active service 6th |
|
3. Realisation 5th |
|
4. Perfection 4th |
|
5. All knowledge 3rd |
|
In the following table the numbers one, two, three, four and five under each sense refer to the planes of manifestation as given in the first tabulation above. |
|
a. The First Sense…………Hearing. |
|
1. Physical hearing. |
|
2. Clairaudience. |
|
3. Higher clairaudience. |
|
4. Comprehension (of four sounds) |
|
5. Beatitude. |
|
b. The Second Sense…………Touch or feeling. |
|
1. Physical touch. |
|
2. Psychometry. |
|
3. Planetary psychometry. |
|
4. Healing. |
|
5. Active service. [325] |
|
c. The Third Sense…………Sight. |
|
1. Physical sight. |
|
2. Clairvoyance. |
|
3. Higher clairvoyance. |
|
4. Divine vision. |
|
5. Realisation. |
|
d. Fourth Sense…………Taste. |
|
1. Physical taste. |
|
2. Imagination. |
|
3. Discrimination. |
|
4. Intuition. |
|
5. Perfection. |
|
e. The Fifth Sense………Smell. |
|
1. Physical smell. |
|
2. Emotional idealism. |
|
3. Spiritual discernment. |
|
4. Idealism. |
|
5. All knowledge. |
37. These powers are obstacles to the highest spiritual realisation, but serve as magical powers in the objective worlds. |
37. các quyền năng này là chướng ngại đối với nhận thức tinh thần cao tột, nhưng được dùng như quyền năng huyền thuật trong những thế giới khách quan. |
|
One fact continuously emerges in this text book of spiritual development, and that is, that the psychic powers, higher and lower, are hindrances to the highest spiritual state and must be left behind by the man who can function freed from the three worlds altogether. This is a hard lesson for the aspirant to grasp. He Is apt to think that a tendency towards clairvoyance or clairaudience is indicative of progress and a sign that his practice of meditation is beginning to take effect. It might prove just the opposite and inevitably [326] will, should the aspirant be attracted by, or attached to, any of these forms of psychic faculty. An old Hindu writer says in connection with these powers: |
Trong giáo trình về phát triển tinh thần này, có một sự kiện được nêu lên liên tục: Các quyền năng thần thông, dù cao hay thấp, đều là chướng ngại đối với trạng thái tinh thần cao siêu nhất. Chúng phải bị bỏ lại sau lưng, khi hành giả có khả năng hoạt động tự do, thoát khỏi mọi ràng buộc của tam giới. Đây là bài học khó thuộc đối với người chí nguyện. Y thường nghĩ rằng có khuynh hướng phát triển nhãn thông hay nhĩ thông là dấu hiệu của sự tiến bộ, và cho thấy rằng việc hành thiền của y bắt đầu có hiệu quả. Sự thực có thể là ngược lại, nếu y bị hấp dẫn bởi, hoặc bám chặt vào một dạng nào đó của các quan năng thần thông này. một tác giả của Ấn giáo thời xưa có nói về các quyền năng này như sau: |
|
“A mind whose mind stuff is emergent thinks highly of these perfections, just as a man born in misery considers even a small bit of wealth a pile of wealth. But a yogin whose mind-stuff is concentrated must avoid these perfections, even when brought near to him. One who longs for the final goal of life, the absolute assuagement of the threefold anguish, how could he have any affection for those perfections which go counter to the attainment of that goal.” |
“Người mà trong trí nổi lên ý nghĩ đánh giá cao các quyền năng này, thì cũng giống như người sinh ra trong nghèo khó xem chút ít tài sản là một gia tài kếch sù. Thế nhưng, nhà yogi có trí tuệ tập trung phải tránh các quyền năng này, cho dù chúng được đưa đến cho y. Người chỉ muốn đạt mục tiêu tối hậu của cuộc sống, hoàn toàn giải thoát khỏi ba nỗi khổ đau, thì làm sao có thể mến thích các quyền năng đó, vì chúng gây trở ngại cho việc đạt đến mục tiêu tối hậu.” |
|
Dvivedi says: |
Dvivedi nói: |
|
“The occult powers described hitherto and to be described hereafter…serve as obstacles because they become the cause of distracting the mind by the various feelings they excite. But they are not quite useless inasmuch as they are great powers for good in moments when samadhi is suspended.” It is of value to the aspirant to know what these powers are, how to control them and not be controlled by them, and how to use them in the service of his brother and of the Hierarchy, but they must be regarded as instruments and be relegated to the form side. It must be realised that they are the qualities or capacities of the sheaths or the form aspect, otherwise they will assume undue importance, engross undue attention and prove stumbling blocks to the progress of soul unfoldment. [327] |
“Các quyền năng thần thông được mô tả từ trước đến nay, và sẽ được mô tả từ đây về sau . . . chỉ là các chướng ngại. Lý do là vì chúng làm cho cái trí bị xao lãng bởi những xúc cảm khác nhau mà chúng gợi lên. Thế nhưng, chúng không phải hoàn toàn vô dụng, vì chúng là những quyền lực lớn lao để hành thiện, trong những thời gian tạm ngừng samadhi.” Người chí nguyện cần nên biết thực chất của các quyền năng này. Y cần biết cách kiểm soát chúng chứ đừng để bị chúng chế ngự. Y cần biết cách sử dụng chúng để phụng sự huynh đệ của mình, và phụng sự Đại đoàn Chưởng giáo. Nhưng y phải xem chúng chỉ là những khí cụ và xếp chúng vào phương diện hình thể. Cần phải nhận thức rằng chúng là các đặc tính và năng lực của những lớp áo, hay khía cạnh hình thể. Nếu không, y sẽ coi trọng chúng và quan tâm đến chúng một cách không thích đáng. Vì thế, chúng sẽ trở thành chướng ngại, ngăn trở bước tiến trên đường khai mở linh hồn. [327] |
38. By liberation from the causes of bondage through their weakening, and by an understanding of the mode of transference (withdrawal or entrance), the mind stuff (or chitta) can enter another body. |
38. Nhờ thoát khỏi các nguyên nhân gây giam hãm bằng cách làm cho chúng suy yếu, và nhờ hiểu được phương thức chuyển di (nhập hoặc xuất), trí tuệ chất (hay chitta) có thể nhập vào một cơ thể khác. |
|
This entire science of Raja Yoga is based upon an understanding of the nature, purpose and function of the mind. The basic law of this science can be summed up in the words “energy follows thought” and the sequence of activity might be stated as follows: |
Trọn cả khoa Raja Yoga vốn dựa vào sự thấu hiểu bản chất, mục đích và chức năng của thể trí. Có thể tóm lược định luật cơ bản của khoa này bằng câu “năng lượng đi theo tư tưởng,” theo trình tự tác động sau đây: |
|
The thinker on his own plane formulates a thought embodying some purpose or some desire. The mind vibrates in response to this idea and simultaneously produces a corresponding reaction in the kamic, desire or emotional body. The energy body, the etheric sheath vibrates synchronously, and thereby the brain responds and energises the nerve-system throughout the dense physical body, so that the impulse of the thinker works out into physical plane activity. |
Người suy tưởng trên cảnh giới của mình phát khởi một ý tưởng với mục đích hay ý muốn nào đó. Thể trí rung động, ứng đáp với ý tưởng này và đồng thời tạo ra một phản ứng tương tự trong thể kama, tức là thể dục vọng hay tình cảm. Thể năng lượng, hay thể dĩ thái cũng rung động đồng bộ. Từ đó, não bộ đáp ứng và phát động hệ thần kinh trong toàn cơ thể. Nhờ thế mà ý muốn của người suy tưởng được thể hiện thành hoạt động ở cõi trần. |
|
There is a close connection between the mind and the nervous system so that we have an interesting triplicity, |
Có sự liên kết chặt chẽ giữa thể trí và hệ thần kinh, tạo thành một bộ ba sinh động, |
|
1. The mind, |
1. Thể trí, |
|
2. The brain, |
2. Não bộ, |
|
3. Nervous system, |
3. Hệ thần kinh, |
|
and this triplicity must be carefully borne in mind by the student of Raja Yoga in the initial stage of his work. Later a second triplicity will engross his attention, [328] |
và người môn sinh Raja Yoga cần ghi nhớ bộ ba này trong giai đoạn đầu thực hành. Về sau, y sẽ chú ý đến một bộ ba khác, [328] |
|
1. The thinker, |
1. Người suy tưởng, |
|
2. The mind, |
2. Thể trí, |
|
3. The brain, |
3. Não bộ, |
|
but this will be during the demonstration side of his work. |
nhưng bộ ba này cũng chỉ thuộc về phương diện biểu lộ trong công tác của y. |
|
It is through an understanding of the method of energising the nerves that the thinker can galvanise its instrument into activity during incarnation, and similarly produce trance, samadhi, or death. The same basic knowledge enables the adept to raise a dead body, as Christ did in Palestine, or occupy the vehicle of a disciple for purposes of service, as Christ occupied the body of the disciple Jesus. This knowledge and its use, we are told, is subject to the great law of karma, of cause and effect, and even the Christ Himself may not set the law aside in any case unless there is adequate “weakening” of the cause producing the bondage. |
Chính nhờ hiểu phương pháp dùng năng lượng tác động vào các dây thần kinh, mà người suy tưởng có thể đưa khí cụ của mình đi vào hoạt động trong thời gian nhập thế. Tương tự, người ấy cũng có thể tạo ra sự xuất thần, samadhi, hay sự chết. Chính kiến thức cơ bản này giúp một bậc toàn thông có thể làm cho người chết sống lại, như Đức Christ đã làm ở Palestine. Hoặc nhập vào cơ thể của một đệ tử với mục đích phụng sự, như Đức Christ đã nhập thể người đệ tử Jesus. Chúng ta được biết rằng, việc thấu hiểu và sử dụng kỹ thuật này chịu sự chi phối của đại luật nghiệp quả, hay luật nhân quả. Và ngay cả Đức Christ cũng không được phép trái với luật này trong bất cứ trường hợp nào, trừ phi cái nguyên nhân tạo nên sự giam hãm đã trở nên “suy yếu” đúng mức. |
39. By subjugation of the upward life (the udana) there is liberation from water, the thorny path, and mire, and the power of ascension is gained. |
39. Bằng cách chế ngự sự sống hướng thượng (udana), hành giả được tự do thoát khỏi ảnh hưởng của nước, đường đi chông gai, và bùn lầy, và có quyền năng khinh thân. |
|
Pervading the whole body is that sum total of nervous force, called by the Hindu, prana. It is controlled by the mind via the brain; it is the vitality which brings into activity the sense-organs and produces the outward-going life of the man; its medium of distribution is the nervous system through certain great distributing centres called plexi, or lotuses. The nerve ganglia known [329] to orthodox medicine, are the reflections or shadows of the more vital plexi. The student will not go far astray if he regards the sum total of prana in the human body as constituting the vital or etheric body. This etheric body is formed entirely of energy currents, and is the substratum of living substance which underlies the dense physical form. |
Thấm nhuần toàn cơ thể là sức mạnh thần kinh, mà người Ấn giáo gọi là prana. Sức mạnh này được cái trí kiểm soát qua não bộ. Đó chính là sinh lực khiến cho các giác quan đi vào hoạt động, và tạo nên cuộc sống hướng ngoại của con người. Nó được phân phối nhờ trung gian của hệ thần kinh, qua một số trung tâm phân phối chính gọi là tùng thần kinh, hay hoa sen. Các hạch thần kinh [329] đã biết trong y khoa chính thống, là phản ánh hay hình bóng của các trung tâm quan trọng hơn vừa kể. Người môn sinh sẽ không hiểu sai khi cho rằng toàn bộ prana trong cơ thể con người hợp thành thể sinh lực hay thể dĩ thái. Thể dĩ thái này được hình thành bởi toàn là các dòng năng lượng. Nó là cơ sở của chất liệu sống ẩn trong thể xác. |
|
One term applied to this energy is the “vital airs.” Prana is fivefold in its manifestation, thus corresponding to the five states of mind, the fifth principle and to the five modifications of the thinking principle. Prana in the solar system works out as the five great states of energy which we call planes, the medium of consciousness; these are: |
Có một thuật ngữ dùng cho năng lượng này là “sinh khí.” Prana có năm cấp biểu hiện, tương ứng với năm trạng thái của trí tuệ, nguyên khí thứ năm, và ứng với năm biến thái của nguyên khí tư duy. Prana trong thái dương hệ biểu hiện thành năm trạng thái chính đại của năng lượng được gọi là các cảnh giới, hay môi trường của tâm thức. Đó là: |
|
1. The atmic or spiritual plane, |
1. Cảnh giới atma hay tinh thần, |
|
2. The buddhic or intuitional plane, |
2. Cảnh giới bồ-đề hay trực giác, |
|
3. The mental plane, |
3. Cảnh giới trí tuệ, |
|
4. The emotional, astral or kamic plane, |
4. Cảnh giới tình cảm, cảm dục hay kama, |
|
5. The physical plane. |
5. Cảnh giới hồng trần. |
|
The five differentiations of prana in the human body are: |
Năm biến phân của prana trong cơ thể con người là: |
|
1. Prana, extending from the nose to the heart and having special relation to the mouth and speech, the heart and lungs. |
1. Prana, kéo dài từ mũi đến tim; đặc biệt liên quan đến miệng và lời nói, tim và phổi. |
|
2. Samana extends from the heart to the solar plexus; it concerns food and the nourishing of the body through the medium of food and drink and has a special relation to the stomach. |
2. Samana, kéo dài từ tim đến nhật tùng; liên quan đến thức ăn và việc nuôi dưỡng cơ thể bằng thức ăn và thức uống, cũng như đặc biệt liên quan đến dạ dày. |
|
3. Apana controls from the solar plexus to the soles of the feet; it concerns the organs of elimination, of rejection and of birth, thus having special [330] relation to the organs of generation and of elimination. |
3. Apana, chi phối từ nhật tùng đến lòng bàn chân; [330] đặc biệt liên quan đến các cơ quan bài tiết và sinh sản hay sinh dục. |
|
4. Vpana is found between the nose and the top of the head; it has a special relation to the brain, the nose and the eyes, and when properly controlled produces the coordination of the vital air~ and their correct handling. |
4. Upana ở khoảng giữa mũi và đỉnh đầu, đặc biệt liên quan đến não, mũi và mắt. Khi được chế ngự thích hợp, nó phối hợp các luồng sinh khí và vận dụng chúng đúng cách. |
|
5. Vyana is the term applied to the sum total of pranic energy as it is distributed evenly throughout the entire body. Its instruments are the thousands of nadis or nerves found in the body, and it has a peculiar definite connection with the blood channels, the veins and arteries. |
5. Vyana là thuật ngữ áp dụng cho toàn bộ năng lượng prana khi nó được phân bố đều trong toàn cơ thể. Vận cụ của nó là hàng ngàn từ lực đạo hay dây thần kinh trong cơ thể. Nó đặc biệt liên quan đến dòng máu, động mạch và tĩnh mạch. |
|
In this sutra we are told that by mastery of the fourth of these vital airs, certain definite results can be achieved and it will be interesting to note what they are. This mastery only becomes possible as the Raja Yoga system is understood and mastered, for it involves the capacity to function in the head and to control the entire nature from the point within the brain. When a man becomes polarised there, then the nervous force or energy found in the top of the head becomes active and through its correct control and through mastery of it, the right direction of the pranas of the body becomes possible and man reaches liberation; through it, noncontact in the three worlds is brought about. The language used is necessarily symbolic and its meaning must not be lost through a materializing of its real significance. Levitation, the power to walk on water, and ability to withstand the gravitational pull of the earth is its lowest and least important significance. [331] |
Trong câu kinh này có nói rằng khi chế ngự được loại sinh khí thứ tư kể trên, hành giả có thể đạt được một số kết quả nhất định. Thế nên cũng thú vị khi biết đó là những kết quả gì. Hành giả chỉ có thể đạt được sự chế ngự này khi đã hiểu rõ và thành thạo hệ thống Raja Yoga. Vì cần có hoạt động bên trong đầu, và điều khiển toàn cơ thể từ điểm trụ bên trong não bộ. Khi hành giả đã phân cực ở đó, thì mãnh lực hay năng lượng thần kinh ở đỉnh đầu sẽ trở nên linh hoạt. Bấy giờ, khi kiểm soát đúng và chế ngự được nó, hành giả có thể điều khiển các dòng prana trong cơ thể đúng cách và được tự do. Với sự tự do này, y không còn tiếp xúc trong tam giới. Tất nhiên, ngôn ngữ được dùng ở đây có tính biểu tượng. Vì thế, thực nghĩa sẽ mất đi nếu bị cụ thể hóa. Thuật khinh thân, quyền năng đi trên mặt nước, và khả năng vô hiệu hóa sức hút trọng lực của trái đất, đều là ý nghĩa thấp nhất và kém quan trọng nhất của câu này. [331] |
|
1. Freedom from water is a symbolic way of stating that the astral nature is subjugated and the great waters of illusion can no longer hold the emancipated soul. The energies of the solar plexus no longer dominate. |
1. Tự do đối với nước là lối nói biểu tượng cho thấy rằng bản chất cảm dục được chế ngự. Biển ảo cảm mênh mông không còn cầm giữ được linh hồn đã giải thoát. Năng lượng của luân xa nhật tùng không còn thống trị. |
|
2. Liberation from the thorny path refers to the path of physical life, and is nowhere more beautifully referred to than by the Christ in His parable of the Sowers, where some of the seed fell among thorns. The explanation is given that the thorns are the cares and troubles of worldly existence which succeed in choking the spiritual life and in veiling the true man for so long. The thorny path must lead to the northern path and that in turn to the Path of Initiation. In one of the old books in the Archives of the Lodge, are found these words: |
2. Thoát khỏi con đường chông gai chỉ về con đường của đời sống hồng trần. Con đường này được Đức Christ diễn tả một cách thi vị trong câu chuyện ngụ ngôn của Ngài về Người gieo hạt, khi một số hạt giống rơi lên bụi gai. Người ta giải thích rằng chông gai là những nỗi âu lo, phiền phức trong đời sống ở cõi trần. Chúng dễ dàng bóp nghẹt sự sống tinh thần và che lấp chân ngã trong thời gian hết sức lâu dài. Con đường chông gai phải đưa đến con đường hướng về phía bắc. Tức là hướng về Con đường Điểm đạo. Trong Văn khố của Huyền môn có một quyển cổ thư ghi những điều sau đây: |
|
“Let the seeker after truth escape from drowning and climb the river’s bank. Let him turn towards the northern star and on firm ground stand, his face directed towards the light. Then let the star lead.” |
“Người tìm chân lý hãy vượt thoát khỏi nạn chết chìm và leo lên bờ sông. Y hãy hướng về ngôi sao ở phương bắc và đứng trên nền đất vững vàng, quay mặt về ánh sáng. Hãy theo hướng dẫn của ngôi sao.” |
|
3. Liberation from the mire refers to that mixed nature of kama-manas, desire and lower mind, which causes the unique problem of humanity. It is a symbolic way also of referring to the great illusion which snares the pilgrim for so long. When the aspirant can walk in the light, having found the light (the Shekinah) within himself in the Holy of Holies, then the illusion is dissipated. It is of value to the student to trace the analogy between the three parts of Solomon’s Temple, and that of the “Temple of the Holy Spirit,” the human frame. [332] |
3. Thoát khỏi bùn lầy chỉ về tình chất pha trộn của ka- ma-manas, dục vọng và hạ trí. Chúng gây nên vấn đề khó khăn duy nhất của nhân loại. Đây cũng là lối nói biểu tượng chỉ về bức màn đại ảo tưởng đã khiến người khách hành hương bị sa vào cạm bẫy của chúng quá lâu. Khi người chí nguyện có thể tiến bước trong ánh sáng, đã tìm thấy ánh sáng (Shekinah) trong Thánh điện nội tâm của mình, thì ảo tưởng ấy bị xóa tan. Người môn sinh nên tìm hiểu sự tương đồng giữa ba phần của Ngôi đền Solomon với “Đền thờ Chúa Thánh Thần,” tức là cơ thể con người. [332] |
|
The outer court corresponds to those energies and their corresponding organs found below the diaphragm. The Holy Place is the centres and organs in the upper part of the body from the throat to the diaphragm. The Holy of Holies is the head where is the throne of God, the Mercy Seat, and the overshadowing glory. |
Sân ngoài tương ứng với các năng lượng và những cơ quan tương ứng của chúng ở bên dưới cơ hoành. Thánh đường là các luân xa và cơ quan ở phần trên của cơ thể từ cổ họng đến cơ hoành. Thánh điện là phần đầu, nơi có ngôi của Thượng Đế, Bảo tọa của Đấng Từ bi, và nguồn vinh quang bao trùm tất cả. |
|
When these three aspects of freedom have been gained and the man is no longer dominated by the water, the mire or physical plane life, then “the power of ascension” is gained and he can ascend into heaven at will. The Christ or spiritual man can stand upon the mountain of ascension, having passed through the four crises or points of control from the birth to the crucifixion. Thus the “udana” or upward life becomes the controlling factor and the downward life no longer dominates. |
Khi đã đạt được ba phương diện này của sự tự do, không còn bị chìm đắm trong nước, bùn lầy, hay đời sống ở cõi trần, hành giả có “quyền năng thăng thiên.” Bấy giờ, y có thể về cõi thiêng liêng tùy ý muốn. Đấng Christ hay là con người tinh thần có thể đứng trên đỉnh núi thăng thiên, vì Ngài đã trải qua bốn cuộc khủng hoảng hay bốn trình độ chế ngự, từ khi giáng sinh cho đến lúc chịu khổ hình thập tự. Thế nên, “udana” hay là cuộc sống hướng thượng trở thành yếu tố chế ngự, và đời sống đồi trụy không còn chi phối. |
40. Through subjugation of the samana, the spark becomes the flame. |
40. Nhờ chế ngự samana, tia lửa trở thành ngọn lửa. |
|
This sutra is one of the most beautiful in the book and the translation by Charles Johnston should here be noted: “By mastery of the binding life comes radiance.” Another interpretation might be “through control of samana the AUM (the Word of Glory) manifests.” Out of the heart are the issues of life, and the vital energy called samana controls the heart and the life breath through the lungs. When the body is purified and its energies rightly directed, and when rhythm is achieved, then a radiant life is seen. [333] |
Đây là một trong những câu đẹp nhất trong sách, và được Charles Johnston chuyển dịch: “Khi chế ngự được những gì ràng buộc, sự sống phát quang.” Cũng có thể dịch là “khi kiểm soát được samana thì AUM (hay Linh từ Vinh quang) biểu hiện.” Sự sống phát ra từ tim, và hơi thở của sự sống đi ngang qua phổi. Khi cơ thể được tinh luyện, các năng lượng của nó được vận chuyển đúng, và có tiết điệu, thì sự sống phóng quang. [333] |
|
This will work out literally and not simply metaphorically, for when the life currents are directed by the soul upon the throne, through the nerves and the blood channels, then only the purest atoms will be built into the body and the result will be a shining forth of light through the entire man. Not only will the head be radiating light so that the clairvoyant will see a halo or circle of brilliant colors, but all the body will be irradiated by the vibrant centres of electrical force distributed throughout the body. |
Điều này sẽ thực sự xảy ra, chứ không chỉ là lối nói ẩn dụ. Bởi vì, khi các dòng sinh lực được linh hồn ẩn ngự điều khiển, qua các dây thần kinh và mạch máu, thì chỉ có những nguyên tử thanh khiết nhất là được đưa vào cơ thể. Kết quả sẽ là ánh sáng chói rạng toàn thân. Không những phần đầu tỏa sáng khiến cho nhà nhãn thông thấy vòng hào quang gồm những màu sắc chói ngời, mà toàn cơ thể cũng được chiếu sáng bởi các trung tâm điện lực sinh động phân bố khắp cơ thể. |
41. By the means of one-pointed meditation upon the relationship between the akasha and sound, an organ for spiritual hearing will be developed. |
41. Bằng cách tham thiền chuyên nhất về mối liên hệ giữa akasha và âm thanh, cơ quan của thính giác tinh thần sẽ được phát triển. |
|
To understand this sutra, it is essential that certain relationships are comprehended—relationships between matter, the senses and the one who experiences. |
Để hiểu câu kinh này, nhất thiết phải thấu đáo được một số mối liên hệ − liên hệ giữa vật chất, các giác quan và người thể nghiệm. |
|
The Christian believes that “all things were made by the word of God.” The oriental believer holds that sound was the originating factor in the creative process and both teach that this word or sound is descriptive of the second Person of the divine Trinity. |
Người Thiên Chúa giáo tin rằng “mọi sự vật đều được tạo nên bởi linh từ của Thượng Đế.” Người tín hữu phương Đông thì cho rằng âm thanh là yếu tố phát khởi tiến trình sáng tạo. Và cả hai bên đều nói rằng linh từ hay âm thanh này được dùng để mô tả Ngôi thứ hai của Tam vị Nhất thể thiêng liêng. |
|
This sound or word threw into peculiar activity the matter of the solar system, and was preceded by the breath of the Father which started the original motion or vibration. |
Âm thanh hay linh từ này thôi thúc vật chất của thái dượng hệ đi vào hoạt động đặc thù. Trước đó là hơi thở của Đức Chúa Cha đã làm phát khởi sự chuyển động hay rung động đầu tiên. |
|
First, therefore, the breath (pneuma or spirit) impinging upon primordial substance and setting up a pulsation, a vibration, a rhythm. Then the [334] word or sound, causing the pulsating vibrating substance to take form or shape, and thus bringing about the incarnation of the second Person of the cosmic Trinity, the Son of God, the Macrocosm. |
Thế nên, trước hết hơi thở (của sự sống hay tinh thần) tác động lên vật chất nguyên thủy và tạo một nhịp đập, rung động, hay tiết điệu. [334] Kế đó là linh từ hay âm thanh, khiến cho vật chất khoác lấy hình thể hay hình dạng. Nhờ thế mà có sự lâm phàm của Ngôi hai trong Ba Ngôi vũ trụ, Người Con của Thượng Đế là Đại vũ trụ. |
|
This process eventuated in the seven planes of manifestation, the spheres wherein seven states of consciousness are possible. All of these are characterized by certain qualities and differentiated from each other by specific vibrating capacities and called by certain terms. |
Rốt cuộc tiến trình này tạo ra bảy cảnh giới biểu hiện, tức là các bầu thế giới mà trong đó bảy trạng thái tâm thức có thể phát triển. Tất cả các trạng thái tâm thức này đều có một số phẩm tính đặc trưng và phân biệt với nhau bởi các năng lực rung động riêng, và được gọi bằng những thuật ngữ nhất định. |
|
The following tabulation may prove useful if the student will bear in mind that the first triplicity of planes are those of divine manifestation and the lower triplicity constitute the reflection of that divine process and are the three planes of our normal experience. These two triplicities of God and man are connected by the middle plane of at-one-ment or union whereon God and man are made one. This is the Christ plane in Christian phraseology, the buddhic plane in the eastern terminology. |
Các bảng biểu dưới đây có thể hữu ích nếu người môn sinh lưu ý rằng ba cảnh giới đầu là các cảnh giới biểu hiện thiêng liêng. Trong khi đó, ba cảnh giới thấp là phản ánh của tiến trình thiêng liêng nói trên, và là ba cảnh giới mà chúng ta thường trải nghiệm. Hai bộ ba nói trên của Thượng Đế và con người được nối kết bởi cảnh giới trung gian, nhất quán hay hợp nhất, nơi mà Thượng Đế và con người là một. Đây là cõi của Đức Christ theo cách gọi của Thiên Chúa giáo, và là cõi bồ-đề nói theo thuật ngữ Đông phương. |
THE DIVINE PLANES.
|
Plane I. Logoic or divine |
The Sea of Fire |
God the Father |
Will. |
|
Plane II. Monadic |
The Akasha |
God the Son |
Love-Wisdom. |
|
Plane lII. Spiritual or atmic |
The Æther |
God the Holy Ghost. |
Active Intelligence. |
[335]
THE PLANE OF UNION OR ATONEMENT.
|
Plane IV. Christ or buddhic |
Air |
Union |
Harmony |
At-one-ment. |
|
Plane V. Mental |
Fire |
Reflection of the Sea of Fire |
Human will. |
|
Plane VI. Emotional or astral |
Astral Light |
Reflection of the Akasha |
Human love and desire. |
|
Plane VII. Physical |
Ether |
Reflection of the Æther |
Human activity. |
|
It will be apparent, however, that one gives the microcosmic standpoint, the other gives the macrocosmic, and as the aspirant is one who seeks to function as “free in the macrocosm” and to transcend his microcosmic limitations, it is the first category with which we will concern ourselves. |
Tuy nhiên, rõ ràng một cách thì trình bày theo quan điểm tiểu vũ trụ, trong khi cách kia theo quan điểm đại vũ trụ. Nhưng vì người chí nguyện là kẻ tìm cách hoạt động “tự do trong đại vũ trụ” và vượt lên khỏi các giới hạn tiểu vũ trụ của mình, nên chúng ta quan tâm nhiều hơn đến loạt trình bày thứ nhất. |
|
In considering this sutra and its clarification by an understanding of the nature of the planes, their symbols and substance, it becomes apparent that the man who understands the nature of the word and of the second aspect, arrives at the realization of hearing. |
Khi xem xét câu kinh này, chúng ta hiểu rõ nhờ biết được tính chất của các cảnh giới, biểu tượng và chất liệu của chúng. Đồng thời ta cũng thấy rõ rằng người nào hiểu được tính chất của linh từ và của trạng thái thứ hai, thì nhận thức được thế nào là thính giác tinh thần. |
|
This might also be grasped mystically by the aspirant when he realizes that when the voices of desire (astral voices or vibratory response to the second aspect of the reflection, the three lower planes) are superseded by the Voice of the Silence or of the Christ within, then the word or sound is known and the second aspect of divinity is contacted. |
Về mặt thần bí, người chí nguyện cũng nhận thức rằng khi tiếng nói của dục vọng (tiếng nói cảm dục hay ứng đáp rung động với phương diện thứ hai của cái phản ảnh trong ba cõi thấp) được thay thế bởi Tiếng nói của Im lặng hay của Đấng Christ nội tâm, thì bấy giờ hành giả biết được linh từ hay âm thanh, và giao tiếp với trạng thái thứ hai của thiên tính. |
|
1. The Akasha….The word….The sound….The second aspect in manifestation. |
1. Tiên thiên khí …Linh từ…… Âm thanh………Trạng thái thứ hai đang biểu hiện. |
|
2. The Astral Light..The voices of desire..The reflection of the second aspect. [337] |
2. Ánh sáng ……….. Cảm dục… Tiếng nói của dục vọng………..Phản ảnh của trạng thái thứ hai. |
|
There are many sounds to be heard on all the planes but on the physical is the greatest diversity. The aspirant has to develop the power to distinguish between: |
Có nhiều loại âm thanh sẽ được nghe thấy trên tất cả các cảnh giới. Thế nhưng, ở cõi trần âm thanh hết sức đa dạng. Hành giả phải phát triển khả năng phân biệt giữa: [337] |
|
1. The voices of earth……..physical, |
1. Tiếng nói của đất…. hồng trần, |
|
2. The voices of desire……astral, |
2. Tiếng nói của dục vọng …. cảm dục, |
|
3. The speech or formulated thoughts of the mind …..mental, |
3. Lời nói hay tư tưởng của cái trí được diễn đạt … trí tuệ, |
|
4. The still small voice of the Christ within……buddhic, |
4. Tiếng nói còn yếu ớt của Đấng Christ nội tâm…… bồ-đề, |
|
5. The sounds of the Gods……The creative words ………atmic, |
5. Âm thanh của Thượng Đế…Linh từ sáng tạo ….. atma, |
|
6. The word or sound…. The AUM… monadic, |
6. Linh từ hay âm thanh… .AUM …. chân thần, |
|
7. The breath …………logoic, |
7. Hơi thở…. Thượng Đế, |
|
and in these distinctions are symbolically conveyed the problem of correct hearing on the various planes and in the various states of consciousness. Only the true mystic and aspirant will comprehend the nature of these distinctions. |
và những sự phân biệt nói trên tiêu biểu cho vấn đề cần phải nghe đúng trên những cảnh giới khác nhau và trong những trạng thái tâm thức khác nhau. Chỉ có nhà thần bí và người chí nguyện thực sự mới hiểu được tính chất của các phân biệt nói trên. |
|
Just as all the substances of our manifested solar system are differentiations of the akasha, the first differentiation of the primordial stuff, so all these distinctions of sound are differentiations of the one sound; all are divine in time and space. But all have to be heard correctly and all lead eventually to and form in their totality the AUM, the Word of Glory, the Macrocosmic Word. |
Tất cả các loại vật chất trong thái dương hệ biểu hiện của chúng ta đều là những biến phân của tiên thiên khí, − vốn là biến phân đầu tiên của chất liệu nguyên thủy. Tương tự, tất cả các phân biệt nói trên của âm thanh đều là biến phân của âm thanh duy nhất. Tất cả đều thiêng liêng trong thời gian và không gian. Nhưng hành giả cần phải nghe tất cả những biến phân này một cách đúng đắn. Vì rốt cuộc tất cả đều qui về và hợp thành AUM, Linh từ Vinh quang, Linh từ của Đại vũ trụ. |
|
With the student of Raja Yoga, however, there are three main voices or sounds with which he is temporarily concerned: |
Tuy nhiên, với người môn sinh Raja Yoga, có ba tiếng nói hay âm thanh chính mà tạm thời y cần quan tâm: |
|
1. The speech of the Earth, so as to rightly use it, |
1. Lời nói của Địa cầu, để sử dụng nó đúng cách, |
|
2. The Voice of the Silence, so as to hear it. This is the voice of his own inner God, the Christ, [338] |
2. Tiếng nói của Im lặng, để nghe được nó. Đây là tiếng nói Đấng Christ, Đức Thượng Đế ở nội tâm y, [338] |
|
3. The AUM, the Word of the Father, expressed through the Son, which will, when heard, put him in touch with the Word of God, incarnate in all nature. |
3. AUM, Linh từ của Đức Chúa Cha, được phát biểu qua Đức Chúa Con. Khi hành giả nghe được, Linh từ này sẽ giúp y tiếp xúc với Linh từ của Thượng Đế, ẩn tàng trong toàn thể thiên nhiên. |
|
When speech is rightly used and the sounds of earth can likewise be stilled, then the Voice of the Silence can be heard. It might be noted here that clairaudience is awareness of the voice of the great illusion and gives a man power to hear on the astral plane. This in its right place and when controlled from above through knowledge, opens the ear to certain aspects of divine expression in the three worlds. It is not the divine hearing referred to in the sutra. In Charles Johnston’s comments on this sutra, he covers the ground beautifully as follows: “The transfer of a word by telepathy is the simplest and earliest form of the ‘divine hearing’ of the spiritual man, as that power grows, and as, through perfectly concentrated meditation, the spiritual man comes into more complete mastery of it, he grows able to hear and clearly distinguish the speech of the great Companions, who counsel and comfort him on his way. They may speak to him either in wordless thoughts, or in perfectly definite words and sentences.” |
Khi hành giả có thể dùng đúng lời nói và đồng thời làm yên lặng các âm thanh của trần gian, bấy giờ y có thể nghe được Tiếng nói của Im lặng. Ở đây cần lưu ý rằng nhĩ thông là ý thức được tiếng nói của đại ảo tưởng và khả năng nghe trên cảnh giới cảm dục. Khả năng này có vai trò đúng đắn của nó. Khi nó được chế ngự từ cấp cao qua sự hiểu biết, thì thính giác có thể đón nhận một số phương diện biểu lộ thiêng liêng trong tam giới. Dù vậy, nó vẫn chưa phải là thính giác thiêng liêng nêu trong câu kinh này. Charles Johnston nhận xét về câu kinh này với những lời bàn rất hay: “Việc chuyển đạt lời nói qua thần giao cách cảm là dạng đơn giản nhất và sơ khởi nhất của ‘thính giác thiêng liêng’ thuộc con người tinh thần. Khi quyền năng này tăng trưởng, và qua tham thiền hoàn toàn tập trung, con người tinh thần ngày càng nắm vững quyền năng này, có thể nghe và phân biệt rõ tiếng nói của những Người bạn đồng hành cao cả. Họ hướng dẫn và khích lệ y trên đường tiến bộ. Họ có thể nói với y bằng tư tưởng không lời, hoặc bằng ngôn từ hoàn toàn xác định.” |
42. By one-pointed meditation upon the relationship existing between the body and the akasha, ascension out of matter (the three worlds) and power to travel in space is gained. |
42. Khi tham thiền chuyên nhất về mối liên hệ giữa cơ thể và tiên thiên khí, hành giả vượt ra khỏi vật chất (tam giới) và có quyền năng du hành trong không gian. |
|
The akasha is everywhere. In it we live and move and have our being. All is but one substance, [339] and in the human body are found the correspondences to the various differentiations. |
Chất tiên thiên khí có ở khắp nơi. Chúng ta sống, di chuyển và hiện tồn trong môi trường chất này. Tất cả đều chỉ là một chất liệu duy nhất [339]. Thế nên, trong cơ thể con người có những tương ứng với các biến phân khác nhau. |
|
When a man knows himself, and is aware of the relationship existing between the energies working through the seven centres and the seven states of matter and consciousness, then he is liberated and free and can contact at will and without time limitations all those states. There is a relation between one of the seven states of matter and one or other of the centres; through each one of the centres is the door to a certain plane of the planetary spheres. When the disciple has worked out into his life in correct realization the various means of yoga dealt with in the previous books, certain keys and knowledge, certain words and formulas, can be entrusted to him which will, through concentrated meditation give him the freedom of the heavens and the right to pass through certain gateways into the Kingdom of God. |
Khi hành giả tự biết mình, và biết được mối quan hệ hiện hữu giữa các năng lượng tác động qua bảy luân xa và bảy trạng thái vật chất và tâm thức, thì bấy giờ y được giải thoát, tự do và có thể tùy ý tiếp xúc với tất cả các trạng thái vừa kể mà không hề bị giới hạn thời gian. mỗi trạng thái trong bảy trạng thái của vật chất đều có liên hệ với một trong các luân xa. Qua mỗi luân xa là một cánh cửa đi vào một cảnh giới nhất định của các bầu hành tinh. Khi người đệ tử đã nhận thức đúng và thực hành trong cuộc sống các phương tiện khác nhau của yoga đã bàn trong các quyển trước, thì y có thể được tín nhiệm truyền thụ cho một số bí quyết và kiến thức, một số linh từ và công thức. Nhờ đó, qua hành thiền tập trung, y được tự do bước vào các cảnh giới thiêng liêng, và có quyền đi qua những lối vào Vương quốc của Thượng Đế. |
43. When that which veils the light is done away with, then comes the state of being called discarnate (or disembodied), freed from the modification of the thinking principle. This is the state of illumination. |
43. Khi màn che ánh sáng bị loại bỏ, hành giả hiện tồn trong trạng thái thoát trần (hay giải thể), không còn bị chi phối bởi biến thái của nguyên khí tư duy. Đây là trạng thái giác ngộ. |
|
Again, we have a free, rather than a literal translation, and in this the true sense of the archaic terms used is preserved instead of academic correctness. The reason for this will be apparent if certain well-known translations are given. They are correct translations but demonstrate [340] the ambiguity which is inevitable when a literal translation of the Sanskrit terms is used. |
Ở đây, chúng ta có thêm một câu dịch rất thoáng, hơn là theo nghĩa đen. Cách dịch này lại bảo tồn được thực nghĩa của các thuật ngữ cổ xưa, thay vì chỉ đúng theo lối từ chương. [340] Độc giả có thể thấy rõ lý do cần dịch theo cách này, khi so với một số bản dịch phổ biến khác. Đó là những bản dịch đúng, nhưng không thể tránh được ý nghĩa mơ hồ khi dịch các thuật ngữ Bắc Phạn theo nghĩa đen. |
|
“An outwardly unadjusted fluctuation is the great Discarnate; as a result of this the dwindling of the covering to the brightness.” Woods. |
“Dao động không điều chỉnh hướng ngoại là sự Thoát trần vĩ đại; kết quả là lớp màn che tiêu mòn dần, nhường chỗ cho sự chói rạng.” Woods. |
|
“The external modification (of the internal organ) . . . thoughtless is (called) the great incorporeal (modification); therefrom (results) the destruction of the obscuration of the illumination (of intellect).” Tatya. |
“Biến thái bên ngoài (của cơ quan nội tại) . . . phi tưởng (được gọi) là (biến thái) vô hình vĩ đại; từ đó (kết quả) là sự hủy diệt bức màn che ánh sáng chói rạng (của trí tuệ).” Tatya. |
|
Vivekananda expresses the sutra in the following terms: |
Vivekananda dịch câu này như sau: |
|
“By making sanyama on the real modifications of the mind, which are outside, called great disembodiedness, comes disappearance of the covering of light.” |
“Sự thực hành sanyama về các biến thái thực sự của cái trí, vốn ở bên ngoài, và được gọi là sự giải thể vĩ đại, làm tan biến bức màn che ánh sáng.” |
|
The great difficulties under which all translators labour is apparent from this and hence the frank paraphrasing of this passage. |
Đến đây, chúng ta thấy rõ rất nhiều nỗi khó khăn mà các dịch giả gặp phải. Vì thế mà cần phải chuyển ngữ câu kinh này trực tiếp theo nguyên nghĩa. |
|
There are two thoughts seeking expression in this sutra. One refers to the veil or covering which prevents the illumination of the mind, and the other to the state of realization which is achieved when a man has freed himself from this veil. That which covers up the light (the “bushel” referred to by the Christ in the New Testament) is the changing, fluctuating sheaths or bodies. When they are transmuted and transcended the light of God (the second divine aspect) can flood the lower man and he knows himself as he is. Illumination pours in and he knows himself as something different to the forms through which he is functioning. He is no longer centred, no [341] longer polarized in his forms, but is actually in a condition of disembodiedness. His consciousness is that of the man out of incarnation, of the true man on his own plane, the real discarnate thinker. St. Paul, as has been pointed out by several thinkers, had a touch of this state of being. He referred to it in these words: |
Có hai ý tưởng bao hàm trong câu này. một ý chỉ về bức màn che hay lớp phủ ngăn trở sự chói rạng của trí tuệ. Ý kia nói về trạng thái nhận thức của hành giả khi y đã thoát ra khỏi lớp màn che này. Những gì che phủ ánh sáng (mà Đức Christ gọi là “cái đấu” trong Kinh Tân ước) là những lớp áo hay các thể thường thay đổi và dao động. Khi hành giả siêu hóa và vượt lên khỏi chúng, thì ánh sáng của Thượng Đế (trạng thái thiêng liêng thứ hai) có thể tràn ngập phàm nhân, và y biết chân tính của mình. Ánh sáng giác ngộ tuôn tràn vào, và y biết mình khác với các thể mà xuyên qua đó y đang hoạt động. Y không còn tập trung vào bản thân. Y không còn bám trụ vào các thể của mình, [341] mà thực tế ở trong tình trạng giải thể. Nay y có tâm thức của người xuất thế, là chân nhân ở trên cảnh giới của mình, là người suy tưởng thoát trần thực sự. Nhiều nhà tư tưởng cho rằng Thánh Paul đã đạt đến trạng thái giác ngộ này. Ông đề cập đến nó như sau: |
|
“I knew a man in Christ above fourteen years ago (whether in the body I cannot tell, or whether out of the body I cannot tell; God knoweth); such an one caught up to the third heaven. And I knew such a man . . . how that he was caught up into paradise, and heard unspeakable words, which it is not lawful for a man to utter.” (I Cor. XII) |
“Tôi biết có người đã an trú trong Đấng Christ hơn mười bốn năm qua (không thể nói ở trong thân xác hay ở ngoài thân xác, vì chỉ có Thiên Chúa biết). Người ấy đã lên đến cõi trời thứ ba. Và tôi biết một người như thế . . . vì sao người ấy đã lên đến cõi thiên đàng, và nghe được những lời không tiếng mà một người thường không thể thốt ra.” (II Cor. XII.) |
|
This “third heaven” can be understood in two ways: first, as standing for the mental plane on which is the true home of the spiritual man, the thinker, or a more specific state to be understood as that found on the third or highest of the three abstract levels of the mental plane. |
Có hai cách để hiểu “cõi trời thứ ba” nói trên. Trước hết, nó tiêu biểu cho cõi trí, là gia hương của con người tinh thần, hay người suy tưởng. Hoặc cụ thể hơn, đó là cấp thứ ba hay cao nhất trong ba cấp trừu tượng của cõi trí. |
44. One-pointed meditation upon the five forms which every element takes, produces mastery over every element. These five forms are the gross nature, the elemental form, the quality, the pervasiveness and the basic purpose. |
44. Tham thiền nhất tâm về năm dạng của mọi nguyên tố, hành giả sẽ có khả năng chế ngự mọi nguyên tố. Năm dạng vừa kể là tính chất thô, dạng tinh hoa, phẩm tính, sự đều khắp và mục đích cơ bản. |
|
It should be remembered that this will have a dual reference, to the macrocosm and to the microcosm. It can refer to the five planes of monadic evolution, or to the five forms which every element [342] takes on each and every plane, bearing in mind that·this is the case as regards the mind apprehension and the modifications of the thinking principle, for mind is the fifth principle, and man is the five pointed star and therefore can (as man) achieve only a fivefold illumination. There are, however, two higher forms and two other modes of perception, i. e., the intuitional and spiritual realization. With these, however, the present sutra has not to do. The head centre is dual in itself and is composed of the centre between the eyebrows and the highest chakra, the thousand petalled lotus. |
Cần lưu ý rằng câu này có hai nghĩa, vừa cho đại vũ trụ và cho tiểu vũ trụ. Nó có thể chỉ về năm cảnh giới tiến hóa của chân thần, hoặc về năm dạng của mọi nguyên tố [342] trên mỗi và mọi cảnh giới. Cần lưu ý rằng điều này nói theo sự hiểu biết của trí tuệ và các biến thái của nguyên khí tư duy. Bởi vì trí tuệ là nguyên khí thứ năm, và con người là ngôi sao năm cánh. Vì thế, với tư cách con người chúng ta chỉ đạt được năm cấp bậc giác ngộ. Tuy nhiên, còn có hai thể cao siêu hơn, và hai phương cách nhận thức khác. Đó là nhận thức trực giác và nhận thức tinh thần. Thế nhưng, câu này không bàn đến hai cấp vừa kể. Luân xa đầu có hai phần gồm luân xa giữa hai chân mày và luân xa ở đỉnh đầu, hay là hoa sen ngàn cánh. |
|
The study and understanding of this sutra would result in the complete equipping of the white occultist for all forms of magical work. Students must remember that this does not refer to the elements as we have them, but has relation to the elemental substance out of which all gross forms are made. According to the Ageless Wisdom there are five grades of substance having certain qualities. These five grades of substance form the five planes of monadic evolution; they compose the five vibratory spheres in which man and superhuman man are found. These five planes have each an outstanding quality, of which the five physical senses are the correspondence. |
Khi nghiên cứu và thấu hiểu câu kinh này, nhà huyền bí học chánh đạo sẽ được trang bị đầy đủ tất cả các dạng công tác huyền thuật. Các môn sinh phải ghi nhớ rằng câu này không nói về các nguyên tố như chúng ta biết. Nó liên quan đến tinh hoa chất mà từ đó tất cả các thể thô kệch hơn được tạo thành. Theo khoa minh triết Ngàn đời, có năm cấp vật chất với những đặc tính nhất định. Đây là năm cấp vật chất hình thành năm cảnh giới tiến hóa của chân thần. Chúng gồm có năm lĩnh vực rung động, mà trong đó con người và các siêu nhân đang hoạt động. mỗi một trong năm cảnh giới này đều có đặc tính nổi bật, mà tương ứng là năm giác quan trong thể xác. |
|
Plane |
Nature |
Sense |
Centre |
|
Earth |
Physical |
Smell |
Base of spine |
|
Astral |
Emotional |
Taste |
Solar Plexus |
|
Manasic |
Mental |
Sight |
Head |
|
Buddhic |
Intuitional |
Touch |
Heart |
|
Atmic |
Spiritual |
Sound |
Throat |
|
Cảnh giới |
Tính chất |
Giác quan |
Luân xa |
|
Hồng trần |
Vật thể |
Khứu giác |
Chót xương sống |
|
Cảm dục |
Tình cảm |
Vị giác |
Nhật tùng |
|
Trí tuệ |
Trí tuệ |
Thị giác |
Đầu |
|
Bồ-đề |
Trực giác |
Xúc giác |
Tim |
|
Atma |
Tinh thần |
Âm thanh |
Cổ họng |
|
[343] |
|
|
As pointed out in A Treatise on Cosmic Fire, these senses and their correspondences are dependent upon the point in evolution of the man, just as H. P. Blavatsky stated in connection with the enumeration of the principles. |
Như đã nêu trong bộ Luận về Lửa Vũ trụ, [343] các giác quan này và những phần tương ứng của chúng đều tùy theo trình độ tiến hóa của mỗi người. |
|
The above sutra therefore can be applied to the mastery of each plane as well as to the mastery of elements composing that plane. It has reference to the mastery and utilization of all the subtler sheaths through which a man contacts a plane or peculiar rate of vibration. |
Điều này giống như những gì H. P. Blavatsky đã nói khi kể ra các nguyên khí. Vì thế, câu kinh nói trên có thể được áp dụng cho việc chế ngự mỗi cảnh giới cũng như chế ngự các thành tố tạo nên cảnh giới đó. Nó liên quan đến việc chế ngự và sử dụng tất cả các thể thanh mà qua đó hành giả tiếp xúc với một cảnh giới hoặc một nhịp độ rung động đặc biệt. |
|
Ganganatha Jha in his able commentary says: “The specific qualities, sound and the rest belonging to the earth, together with the properties of shape and the rest, are named ‘gross.’ This is the first form of the elements. The second form is their respective generic characteristic: Shape for the earth, viscidity for the water, heat for fire, velocity for air and omnipresence for the akasa. The specific forms for these generic ones are sound and the rest.” He gives a translation of this forty-fourth sutra which is analogous to all the others with the exception of Johnston’s, and which runs as follows: |
Trong phần luận giải thông thạo của ông, Ganganatha Jha viết: “Những đặc tính, âm thanh riêng và những cái khác thuộc về đất, cùng với các tính chất về hình dáng và những tính chất tương tự, đều được gọi là ‘thô.’ Đây là dạng thứ nhất của các nguyên tố. Dạng thứ hai là đặc trưng chung của từng loại: Hình dáng của đất, tính nhớt của nước, nhiệt của lửa, sự linh động của không khí, và sự hiện diện khắp nơi của tiên thiên khí. Những dạng riêng cho các loại nói chung kể trên là âm thanh và những cái khác.” Trừ bản dịch của Johnston, ông dịch câu kinh bốn mươi bốn này cũng giống các dịch giả khác, như sau: |
|
“Mastery over the elements, from the sanyama with the reference to grossness, character, subtlety, concomitance and usefulness.” |
“Hành giả chế ngự được các nguyên tố, qua thực hành sanyama về sự thô kệch, đặc tính, sự tinh tế, sự xảy ra đồng thời và sự hữu ích.” |
|
1. Crossness, gross nature. |
1. Sự thô kệch, tính thô thiển. |
|
Sound and the other senses as they show forth on the physical plane. We must bear in mind that this plane is the gross summation of all the others. Spirit is matter at its lowest point. |
Âm thanh và các ý nghĩa khác khi chúng biểu lộ ở cõi trần. Chúng ta cần lưu ý rằng cảnh giới này là toàn bộ phần thô của tất cả những cái khác. Tinh thần là vật chất ở mức biểu lộ thấp nhất của nó. |
|
2. Character, elemental form. [344] |
2. Đặc tính, dạng tinh hoa. [344] |
|
The nature of the specific characteristics of the elements. |
Tính chất đặc trưng riêng của các nguyên tố. |
|
3. Subtlety, or quality. |
3. Sự tinh tế, hay phẩm tính. |
|
The basic atomic substance of any one element. That which produces its phenomenal effect. It is that which lies back of all sense perception, and of all the five senses. Another word for this “subtle” form is tanmatra. |
Chất liệu nguyên tử cơ bản của bất cứ nguyên tố nào. Cái tạo ra hiệu quả của nó về mặt hiện tượng. Đó là những gì ẩn trong toàn bộ nhận thức giác quan, và của cả năm giác quan. một từ khác dùng cho dạng “tinh tế” này là tanmatra. |
|
4. Concomitance, or pervasiveness. |
4. Sự xảy ra đồng thời hoặc hiện diện khắp nơi. |
|
This is the all-pervasive nature of every element; its inherence. It is the sum total of the three gunas, tamas, rajas and sattva. Every element according to its place in the manifested scheme is characterised by inertia, activity or rhythm. It is inherent in substance. Only the rate of vibration differs. There is the correspondence to every element on every plane. |
Đây là tính cách phổ biến của mọi nguyên tố; là tính cố hữu của nó. Nó bao gồm cả ba guna tức là tamas, rajas và sattva. Tùy theo vị trí của nó trong cuộc biểu hiện, mỗi nguyên tố đều có đặc trưng là trì trệ, năng hoạt hay tiết điệu. Nó vốn có trong vật chất. Chỉ khác về tần số rung động. Có sự tương ứng với mọi nguyên tố trên mọi cảnh giới. |
|
5. Usefulness, or basic purpose. |
5. Sự hữu ích, hay mục đích cơ bản. |
|
This is the right use of every element in the great work of evolution. It is literally the power hidden in every atom of substance which drives it on (through all the kingdoms of Nature) to self expression, and enables it to perform its work in time and space and to proceed towards eventual fruition. |
Đây là công dụng đúng của mọi nguyên tố trong cuộc tiến hóa vĩ đại. Thực sự đó là năng lượng ẩn trong mọi nguyên tử vật chất. Nó thôi thúc nguyên tử ấy tiếp tục phát triển (qua tất cả các trường tiến hóa trong Thiên nhiên) đến mức tự phát biểu. Nhờ đó nó làm tròn nhiệm vụ trong thời gian và không gian, và tiến đến thành quả cuối cùng. |
|
When, through concentrated meditation upon the five distinctive forms of all the elements, the knower has arrived at a knowledge of all their qualities, characteristics and nature, he can then cooperate intelligently in the plan and become a white magician. For the majority it is as yet only possible for us to arrive at three of the forms, and this is touched upon in Light on the Path in [345] the words: “Inquire of the earth, the air and the water, of the secrets they hold for you. The development of your inner sense will enable you to do this.” |
Qua tham thiền tập trung về năm dạng khác nhau của tất cả các nguyên tố, hành giả biết được tất cả các đặc tính, đặc trưng và tính chất của chúng. Bấy giờ, y có thể hợp tác một cách thông minh với thiên cơ, và trở thành nhà chánh thuật. Đối với đa số mọi người, chúng ta chỉ có thể bàn đến ba trong số các dạng nói trên. Như trong quyển Ánh sáng trên Đường Đạo [345] có ghi: “Hãy hỏi đất, không khí và nước, các bí mật mà chúng gìn giữ cho con. Nhờ phát triển giác quan bên trong, con có thể hỏi.” |
45. Through this mastery, minuteness and the other siddhis (or powers) are attained, likewise bodily perfection and freedom from all hindrances. |
45. Qua cố gắng chế ngự này, hành giả đạt được sự cực vi và các siddhi (hay quyền năng) khác, cũng như sự hoàn hảo của thân xác và thoát khỏi mọi chướng ngại. |
|
Towards the close of each of these three books on Raja Yoga, there comes a sutra summing up results and giving a vision of that which is possible to the faithful intelligent aspirant. They are as follows: |
Gần đến cuối của mỗi quyển trong ba quyển này về Raja Yoga, có một câu kinh tổng kết các kết quả và đưa ra hình ảnh mà người chí nguyện thông minh và thuần thành khả dĩ thành tựu. Như sau đây: |
|
“Thus his realization extends from the infinitely small to the infinitely great, and from annu (the atom or speck) to atma (or spirit) his knowledge is perfected.” (Book I. Sutra 40.) |
“Bằng cách đó, nhận thức của hành giả mở rộng từ cái vô cùng nhỏ đến cái vô cùng lớn, và y hiểu biết đầy đủ từ annu (hạt nguyên tử hay vi trần) đến atma (hay tinh thần).” (Quyển I. Câu 40.) |
|
“As a result of these means there follows the complete subjugation of the sense organs.” (Book II. Sutra 55.) |
“Kết quả của sự thực hành các phương tiện nói trên là các giác quan được hoàn toàn chế ngự.” (Quyển II. Câu 55.) |
|
“Through this mastery minuteness and the other siddhis (or powers) are attained, likewise bodily perfection and freedom from all hindrances.” (Book III. Sutra 45.) |
“Qua cố gắng chế ngự này, hành giả đạt được sự cực vi và các siddhi (hay quyền năng) khác, cũng như sự hoàn hảo của thân xác và thoát khỏi mọi chướng ngại.” (Quyển III. Câu 45.) |
|
It will be seen from this how, first there is the attaining of the vision and the inner realization of God; then the complete subjugation of the lower nature and the control of the senses and their organs so that the realization becomes fact in physical plane experience, and there comes the manifestation of that control by the display of certain powers. [346] |
Từ trích dẫn này chúng ta thấy rằng trước hết là cố gắng đạt được tầm nhìn tinh thần và nhận thức nội tâm về Thượng Đế. Kế đến là hoàn toàn chế ngự phàm tính và kiểm soát các giác quan cùng các cơ phận của chúng, nhờ thế mà nhận thức nói trên trở thành hiện thực trong kinh nghiệm ở cõi trần. Từ đó, sự chế ngự vừa kể biểu hiện và hiển thị một số quyền năng. [346] |
|
The entire fourth book deals with the great consummation growing out of the three above results, producing: |
Trọn cả quyển bốn bàn về thành tựu lớn lao phát triển từ ba kết quả nói trên, mang lại: |
|
1. Cessation of sorrow and toil. (Sutra 30.) |
1. Sự chấm dứt những nỗi khổ đau và khó nhọc. (Câu 30.) |
|
2. Attainment of infinite knowledge. (Sutra 31.) |
2. Đạt được sự hiểu biết vô hạn. (Câu 31.) |
|
3. Eternity entered. (Sutra 33.) |
3. Đi vào vĩnh cửu. (Câu 33.) |
|
4. Return of consciousness to its centre. (Sutra 34.) |
4. Tâm thức trở về trung tâm của nó. (Câu 34.) |
|
In connection with the sutra which is our present consideration, the eight siddhis or psychic powers are frequently called the eight perfections and with the two others make up the ten of perfection as it concerns the lower man. These powers are: |
Nói về câu kinh hiện chúng ta đang xét, tám siddhi hay quyền năng thần thông thường được gọi là tám sự hoàn thiện. Cùng với hai cái khác nữa, chúng hợp thành mười sự hoàn thiện của phàm nhân. Các quyền năng này là: |
|
1. Minuteness . . . anima. This is the power which the yogi possesses to become as small as an atom, to identify himself with the smallest part of the universe, knowing the self in that atom to be one with himself. This is due to the fact that the anima mundi, or soul of the world, is universally spread throughout all aspects of divine life. |
1. Sự thu nhỏ . . . anima. Đây là quyền năng giúp nhà yogi có thể trở thành nhỏ như một hạt nguyên tử. Y có thể tự đồng nhất với cái cực nhỏ trong vũ trụ, biết cái ngã trong vi tử ấy là một với mình. Lý do là vì anima mundi, hay linh hồn thế giới, vốn thấm nhuần khắp mọi phương diện của sự sống thiêng liêng. |
|
2. Magnitude . . . mahima. This is the power to expand one’s consciousness and thus enter into the greater whole as well as into the lesser part. |
2. Sự phóng đại . . . mahima. Đây là quyền năng giúp hành giả mở rộng tâm thức để nhập vào cái toàn thể vĩ đại, cũng như nhập vào những vật thể nhỏ hơn. |
|
3. Gravity . . . garima. This concerns weight and mass and deals with the law of gravity which is an aspect of the Law of Attraction. |
3. Trọng lực . . . garima. Quyền năng này liên quan đến trọng lượng và khối lượng. Nó vận dụng luật trọng trường, vốn là một khía cạnh của Luật Hấp dẫn. |
|
4. Lightness . . . Laghima. This is the power underlying the phenomenon of levitation. It is the capacity of the adept to offset the attractive [347] force of the planet and to leave the earth. It is the opposite to the third siddhi. |
4. Sự thanh nhẹ . . . laghima. Đây là quyền năng tạo nên hiện tượng khinh thân. Bậc toàn thông có năng lực hóa giải hấp lực của hành tinh và rời địa cầu. Quyền năng này ngược lại với siddhi thứ ba. [347] |
|
5. The attainment of the objective . . . prapti. This is the capacity of the yogin to achieve his goal, to extend his realization to any locality, to reach anything or any place he desires. It will be apparent that this will have an application on all the planes in the three worlds, as indeed all the siddhis have. |
5. Đạt được mục tiêu . . . prapti. Nhà yogi có năng lực đạt được mục tiêu của mình. Y mở rộng nhận thức đến bất cứ địa điểm, bất cứ vật gì hoặc nơi chốn nào tùy ý muốn. Rõ ràng quyền năng này được ứng dụng trên mọi cấp độ của tam giới như tất cả các siddhi khác. |
|
6. Irresistible will . . . prakamya. This is sometimes described as sovereignty, and it is that driving irresistible force found in every adept which bring about the fruition of his plans, the attainment of his desires, and the completion of his impulses. It is this quality which is the distinguishing characteristic of the black and the white magician alike. It necessarily demonstrates with greatest force on that plane in the three worlds which reflects the will aspect of divinity, the mental plane. All the elements obey this force of will as used by the yogin. |
6. Ý chí bất khả kháng . . . prakamya. Quyền năng này đôi khi được mô tả là quyền làm chủ. Đó là sức thôi thúc không thể đối kháng của các bậc toàn thông. Nhờ đó, các vị có thể hoàn thành kế hoạch, đạt được điều muốn có, và thành tựu các cố gắng của mình. Đây là đặc trưng của nhà hắc thuật cũng như nhà chánh thuật. Tất nhiên nó là lực cường mãnh nhất trên cõi trí, là cõi trong tam giới phản ánh trạng thái ý chí của thiên tính. Tất cả các nguyên tố đều tuân theo mãnh lực ý chí này khi nó được nhà yogi vận dụng. |
|
7. Creative power . . . isatva. This concerns the power of the adept to deal with the elements in their five forms and produce with them objective realities, and thus to create on the physical plane. |
7. Quyền năng sáng tạo . . . isatva. Đây là quyền năng của bậc toàn thông có thể xử lý các nguyên tố trong năm thể của mình. Các vị dùng chúng để tạo nên những điều thực tế ở ngoại giới, và bằng cách đó sáng tạo ở cõi trần. |
|
8. The power to command . . . vasitva. The magician as he controls the elemental forces of nature, utilizes this power and it is the basis of mantra yoga, the yoga of sound or of the creative word. Creative power, the seventh siddhi, concerns the elements and their vitalizing, so that they become “effective causes;” this siddhi, the [348] eighth, concerns the power of the Word to drive the building forces of nature into coherent activity so that forms are produced. |
8. Quyền năng ra lệnh . . . vasitva. Nhà huyền thuật sử dụng quyền năng này để điều khiển các mãnh lực tinh linh trong thiên nhiên. Đây là cơ bản của khoa mantra yoga, tức là yoga về âm thanh hay các linh từ sáng tạo. Quyền năng thứ bảy là quyền năng sáng tạo, có liên quan đến các nguyên tố và việc làm sinh động chúng. Do đó, chúng trở thành “những nguyên nhân mang lại hiệu quả.” Siddhi thứ tám này [348] liên quan đến quyền năng của Linh từ. Nó thôi thúc các mãnh lực kiến tạo trong thiên nhiên hoạt động kết hợp để tạo nên hình hài, sắc tướng. |
|
When these eight powers are functioning, then the ninth, bodily perfection, results, for the adept can construct a vehicle adapted to his need, can do with it as he will and through its medium attain his objective. Finally, the tenth power will be seen in full manifestation and no form provides any hindrances or obstacles to the fruition of the yogin’s will. He is liberated from the form and its qualities. |
Khi tám quyền năng nói trên đi vào hoạt động, thì chúng mang lại quyền năng thứ chín, sự hoàn hảo của cơ thể. Bởi vì bậc toàn thông có thể kiến tạo một thể thích nghi với nhu cầu của mình, dùng nó làm việc như ý muốn, và dùng nó làm phương tiện để đạt mục tiêu. Cuối cùng, quyền năng thứ mười là sự biểu hiện trọn vẹn. Không hình thể nào gây chướng ngại hay trở ngại cho sự hoàn thành ý muốn của nhà yogi. Y được giải thoát khỏi hình thể và các đặc tính của nó. |
46. Symmetry of form, beauty of colour, strength and the compactness of the diamond, constitute bodily perfection. |
46. Sự hoàn thiện của cơ thể là hình thể cân đối, màu sắc tốt đẹp, sức mạnh và sự rắn chắc của kim cương. |
|
Though many commentators, give to this sutra a purely physical interpretation, a much wider concept is involved. In it we have pictured for us in carefully chosen terms (of which the English is but a paraphrase, lacking the expression fully to convey the idea) the condition of the third or form aspect through which the second or Christ aspect is manifesting. This third aspect is itself triple, yet forms one coherent whole and hence the use of four terms to express this lower personal self. The occultist never concerns himself with the dense physical vehicle. He considers the etheric body to be the true form and the dense as simply the material used to fill in the form. The etheric body is the true substantial form, the framework, the scaffolding, to which the dense [349] body necessarily conforms. This form must be symmetrical, or built truly according to number and design, and its basic distinction will be the geometrical exactness of its many units. The emotional or astral body is, as is well known, distinguished by its colourfulness, and according to the stage of unfoldment so will the colours be beautiful, clear and translucent, or ugly, dark and cloudy. The astral body of the adept is a thing of radiant loveliness, lacking all the colours of low vibration. Then the highest aspect of the personal self, the mental body will vibrate to the highest aspect of the spirit, which is will, power or strength—any of these words suffice. Strength, beauty and form, the reflections of power, love and activity, these are the characteristics of the body of manifestation of any son of God who has entered into his kingdom. Then the fourth expression conveys the idea of the unity, the coherence of the three, so that they function as a whole and not independently and separately. Man is thus the Three in One and the One in Three, as is his Father in Heaven, being “made in the image of God.” |
Dù nhiều nhà luận giải cho câu kinh này ý nghĩa hoàn toàn thuộc về thể chất, nó vẫn bao hàm một khái niệm rộng lớn hơn. Câu kinh này có những thuật ngữ được lựa chọn thận trọng (mà tiếng Anh không thể chuyển dịch được trọn vẹn ý nghĩa). Nó minh họa tình trạng của phương diện thứ ba hay phương diện hình thể mà qua đó phương diện thứ hai hay là trạng thái Christ biểu hiện. Chính phương diện thứ ba này cũng tam phân. Nhà huyền bí học không bao giờ bận tâm đến thể xác. Y xem thể dĩ thái mới chính là thể thực. Còn thể xác chỉ là vật chất được dùng để lấp đầy hình thể này. Thể dĩ thái là hình thể đích thực, là khuôn khổ, hay giàn giáo [349] mà thể xác cần được cấu tạo theo đó. Hình thể này phải cân đối, tức là kiến tạo thực sự đúng theo số học và thiết kế. Đặc điểm cơ bản của nó là độ chính xác về mặt hình học của nhiều thành phần trong đó. Như chúng ta biết, thể tình cảm hay thể cảm dục có đặc trưng là rất nhiều màu sắc. Tùy theo giai đoạn khai mở, những màu sắc đó có thể xinh xắn, trong suốt hay trong mờ, hoặc xấu xa, đen tối và vẩn đục. Thể cảm dục của một bậc hoàn thiện thì chói sáng và xinh đẹp, không còn bất cứ màu sắc nào có độ rung động thấp. Bấy giờ trạng thái cao nhất của phàm tính, là thể trí, sẽ rung động hòa nhịp với trạng thái cao nhất của tinh thần, là ý chí, quyền năng hoặc mãnh lực − một trong các từ này cũng đủ mô tả. Sức mạnh, mỹ lệ và hình thể là các phản ánh của quyền lực, tình thương và hoạt động. Đây là các đặc trưng trong thể biểu hiện của bất cứ người con nào của Thượng Đế đã bước vào vương quốc của Ngài. Bấy giờ sự hoàn thiện thứ tư hợp nhất và phối kết ba đặc trưng nói trên. Nhờ đó, chúng cùng tác động như một toàn thể, chứ không còn độc lập và riêng rẽ. Thế là hành giả trở thành Ba trong một và một trong Ba, như Đấng Cha lành của mình ở trên Trời. Y “được kiến tạo theo hình ảnh của Thượng Đế.” |
|
Two words are used by translators to convey this idea of compact cohering force, i. e., the diamond, and the thunderbolt. The human being who has taken the highest of all our planetary initiations is termed “the diamond-souled”—the man who can perfectly transmit the pure white light and yet reflect equally all the colours of the rainbow, the seven colours of the chromatic scale. His personality is here called by the same term [350] for it has become a transmitter of the inner light or radiance. |
Các dịch giả dùng hai từ kim cương và tia chớp để chuyển đạt ý tưởng về lực phối kết và vững chắc nói trên. Người đã đạt trình độ điểm đạo cao nhất trên hành tinh chúng ta được gọi là “linh hồn kim cương.” Người ấy có thể truyền chuyển ánh sáng trắng hoàn toàn tinh khiết, đồng thời vẫn phản ánh tất cả các màu của cầu vồng, tức là bảy màu của quang phổ. Ở đây, [350] phàm nhân của người này cũng được gọi là kim cương, vì nó đã trở thành phương tiện dẫn truyền ánh sáng hay là sự phóng quang của nội tâm. |
|
The term “thunderbolt” is equally expressive, conveying as it does the idea of electrical force. All that we can know of God or of man is the quality of his energy as it demonstrates in force and activity, hence in the Secret Doctrine, the highest aspect of divinity is called electric fire. |
Thuật ngữ “tia chớp” cũng rất có ý nghĩa, chính nó truyền đạt ý tưởng về điện lực. Tất cả những gì mà chúng ta biết về Thượng Đế hoặc con người là phẩm chất năng lượng của người ấy, bày tỏ qua sức mạnh và hoạt động. Vì thế, Giáo lý Bí nhiệm gọi trạng thái cao nhất của thiên tính là lửa điện. |
47. Mastery over the senses is brought about through concentrated meditation upon their nature, peculiar attributes, egoism, pervasiveness and useful purpose. |
47. Hành giả làm chủ các giác quan nhờ tham thiền tập trung vào tính chất, thuộc tính đặc thù, ngã thức, tính đều khắp, và mục đích hữu ích của chúng. |
|
Sutra 44, dealt very largely with objectivity and the nature of the five forms which every element assumes. This sutra concerns itself with that which is subjective, and with the subtle apparatus through which forms are contacted and likewise turned to specific purposes. We are dealing here with the indriyas, or senses, which are usually divided by Hindu philosophers into ten instead of five. They divide the five senses into two groups, those which we call the organs of sense, such as the eye, the nose, etc., and then the faculty which makes it possible for the eye to see and the nose to smell. |
Câu 44 đã bàn rất nhiều về tính biểu lộ khách quan của năm dạng mà mọi nguyên tố đều có. Câu kinh này thì bàn về tính cách chủ quan, và cái phương tiện tinh tế được dùng để tiếp xúc với các dạng đó cũng như dùng chúng cho những mục đích cụ thể. Ở đây, chúng ta bàn về các indriya, hay các giác quan, được các triết gia Ấn giáo chia thành mười, thay vì năm giác quan. Họ chia năm giác quan thành hai nhóm. một nhóm gọi là các cơ phận của giác quan như mắt, mũi, v.v. Và nhóm kia là các tính năng khiến cho mắt có thể thấy và mũi có thể ngữi. |
|
In considering the senses, the student studies them, therefore, in five connections and this likewise in relation to their counterparts on the astral and mental planes. The five divisions are as follows: |
Vì thế, xét về các giác quan, người môn sinh nghiên cứu chúng trong năm phương diện, và cũng xét đến các đối ứng của chúng trên cõi cảm dục và cõi trí. Đó là năm phương diện sau đây: |
|
1. Their nature. He studies each sense in its twofold condition, that of the external instrument [351] and the internal capacity of that instrument to respond to certain vibratory impacts. He knows why, for instance, the organ of sense called the eye vibrates to those impacts which produce the condition of sight, but fails to respond to those impacts which cause scent or smell. He discriminates therefore between the senses and learns thereby to follow a vibratory impulse back to its source along one or other of the five possible lines of approach, and this he does intelligently and not simply blindly. |
1. Tính chất của chúng. Y nghiên cứu mỗi giác quan trong điều kiện lưỡng phân. Tính chất của cái khí cụ bên ngoài, [351] và năng lực bên trong khí cụ đó để có thể ứng đáp với một số tác động hay rung động. Ví dụ như, y biết tại sao cơ phận của giác quan gọi là mắt rung động với các ảnh hưởng tạo ra tình trạng thấy, nhưng lại không ứng đáp với những tác động khiến y cảm nhận được các mùi. Vì thế, y phân biệt giữa các giác quan. Từ đó y học cách theo dõi một xung động ngược về nguồn của nó, theo một trong năm lối tiếp cận khả dĩ có. Y thực hiện điều này một cách thông minh, chứ không chỉ mù mờ. |
|
2. Their peculiar attributes. He studies then the quality of the senses, laying the emphasis not so much upon the particular sense concerned (this is covered above) as upon the peculiar attribute of the sense and of that to which it gives the key in the macrocosm. |
2. Thuộc tính đặc thù của chúng. Sau đó, y nghiên cứu đặc tính của các giác quan. Y không chú trọng nhiều đến giác quan đang xét (như đã bàn ở trên) mà chú ý đến thuộc tính đặc thù của nó, và những gì y biết được trong đại vũ trụ, khi dùng nó làm chìa khóa. |
|
3. Egoism, refers to the “I” making faculty which so predominantly distinguishes the human being and thus brings in the sixth sense, the mind, as the interpreter and synthesizer of the other five. It is the capacity of the human being to say “I see,” “I smell,”—a thing the animal cannot do. |
3. Ngã thức, chỉ về năng khiếu tạo nên cái “tôi” vốn rất rõ nét trong con người. Ngã thức này giúp giác quan thứ sáu, là cái trí, diễn giải và tổng hợp năm giác quan kia. Đây chính là năng lực khiến con người có thể nói “Tôi thấy,” “Tôi ngửi,” − một điều mà loài vật không thể làm. |
|
4. Pervasiveness. All the senses are capable of infinite extension and every sense when consciously followed and utilized can lead a man in three main directions: |
4. Tính đều khắp. Tất cả các giác quan đều có thể mở rộng vô hạn. mọi giác quan, khi được hữu thức theo dõi và sử dụng, đều có thể đưa hành giả đi theo ba chiều hướng chính: |
|
a. To the centre of all things, back to the heart of God, |
a. Đến tâm của vạn vật, trở về với tâm của Thượng Đế, |
|
b. Into close communication with his fellow man, putting him en rapport with him, when so desired, |
b. Liên thông trực tiếp với huynh đệ của mình, khiến họ hòa hợp với y, nếu y muốn, |
|
c. Into touch with all forms. [352] |
c. Giao tiếp với mọi hình hài, sắc tướng. [352] |
|
To the average man there is only that which he can hear, touch, see, taste and smell, only five ways in which he can know. There are only five responses possible to him as he contacts vibration of any kind and in our solar system there is naught else but vibrating energy, God in active motion. These five methods put him en rapport with the five elements and when this is realized, the infinite possibilities open to the aspirant, begin to appear. Later to the advanced man another and higher range of vibration opens up when he can use the mind itself, not only as the unifier of all the five senses but as a sixth sense also. This is the object of all Raja Yoga practice. Through the mind, the soul realm is cognized, just as through the senses the objective world was contacted. |
Đối với người bình thường, chỉ có những gì mà y có thể nghe, tiếp xúc, thấy, nếm và ngửi. Y chỉ có thể biết được sự vật theo năm cách vừa kể. Y chỉ có thể ứng đáp theo năm cách này khi giao tiếp với một loại rung động nào đó, và trong thái dương hệ chúng ta không có gì khác hơn là năng lượng đang rung động, là Thượng Đế đang chuyển động linh hoạt. Năm phương pháp này giúp y giao tiếp với năm nguyên tố. Khi nhận thức được như thế, người chí nguyện bắt đầu thấy những khả năng vô hạn mở ra cho y. Về sau, với người hành giả tiên tiến, một khoảng rung động khác cao siêu hơn mở ra, khi y có thể sử dụng chính cái trí. Y không chỉ dùng nó để thống nhất cả năm giác quan, mà còn với tính cách giác quan thứ sáu. Đây là mục tiêu của toàn bộ việc thực hành Raja Yoga. Qua cái trí, y biết được lĩnh vực của linh hồn, giống như khi y tiếp xúc với ngoại giới qua các giác quan. |
|
5. Useful purpose. When the relation of the five senses to the five elements is understood, and the Law of Vibration is studied and mastered, the adept can then turn to useful purposes all the powers of his nature. He not only can enter into communication with all parts of our planetary system but can also use discriminatingly and wisely all those parts of his own nature which are allied to, or correspondences of the nature of God as shown in the macrocosm. |
5. Mục đích hữu ích. Khi hiểu được mối liên hệ của năm giác quan với năm nguyên tố, đã nghiên cứu và thấu đáo Luật Rung động, bấy giờ bậc toàn thông có thể dùng tất cả các quyền năng nơi mình cho những mục đích hữu ích. Y có thể liên thông với mọi thành phần trong hệ thống hành tinh chúng ta. Ngoài ra, y còn có thể sử dụng một cách phân biện và khôn ngoan tất cả những gì nơi mình, vốn tương đồng hay tương ứng với bản tính của Thượng Đế biểu hiện trong đại vũ trụ. |
48. As a result of this perfection, there comes rapidity of action like that of mind, perception independent of the organs, and mastery over root substance. |
48. Kết quả của sự hoàn thiện này là khả năng hành động mau lẹ như cái trí, có nhận thức độc lập với các cơ quan, và vận dụng được chất liệu căn bản. |
|
We have been considering the many results of [353] the meditation process when carried forward to perfection and we are now reaching a climax. The seer has achieved the consummation of the alignment process. His triple personal self has been purified, adjusted and controlled. Each of the three bodies is vibrating in tune with the note of the ego or higher self, which in turn is in process of synchronizing with the Monad or divine self, the spirit on its own plane. The great “Son of Mind,” the thinker on the higher levels of the mental plane, is the dominating factor now, and the result of this domination is triple, each effect manifesting on all planes yet primarily on one or another. These results are: |
Chúng ta đã xem xét nhiều kết quả [353] của tiến trình tham thiền khi được thực hành đến mức hoàn hảo, và nay đã đạt tột đỉnh. Người tri kiến đã đến mức viên mãn của tiến trình chỉnh hợp. Phàm ngã tam phân của y đã được tinh luyện, điều chỉnh và chế ngự. mỗi một trong ba thể đều đang rung động hòa hợp với âm điệu của chân nhân hay chân ngã. Và chính chân ngã cũng đang trong tiến trình đồng bộ hóa với Chân thần, hay cái ngã thiêng liêng, là tinh thần trên cảnh giới của chính mình. Nay “Người con của Trí tuệ” cao cả, là người suy tưởng trên các cấp cao của cõi trí, đang thống ngự. Sự thống ngự này mang lại ba kết quả. mỗi kết quả đều biểu hiện trên mọi cảnh giới, nhưng chính yếu chỉ trên một trong các cảnh giới đó. Các kết quả này là: |
|
1. Rapidity of action like that of the mind. The term “swift as a thought” is frequently used when an expression of the intensest rapidity is required. In the yogin his acts on the physical plane are so synchronized with his thought processes, his decisions are so instantaneous and his ends so swiftly achieved that his physical plane life is characterized by a most startling activity and most amazing results. Of him it can be said in degree as is said of the Creator: “God meditated, visualized, spoke, and the worlds were made.” |
1. Hành động mau lẹ như cái trí. Câu “mau lẹ như tư tưởng” thường được dùng để chỉ những gì cần xảy ra hết sức nhanh chóng. Trong trường hợp nhà yogi, hành động của y ở cõi trần được đồng bộ hóa với tiến trình tư tưởng của mình, y quyết định gần như tức thời, và đạt mục tiêu mau lẹ đến đỗi cuộc sống của y ở cõi trần có những hoạt động hết sức bất ngờ, với kết quả gây kinh ngạc. Y có thể thực hiện đến mức nào đó như Đấng sáng tạo: “Thượng Đế tham thiền, hình dung, tuyên phán, và các bầu thế giới được tạo thành.” |
|
2. Perception independent of organs. The adept is not dependent upon the organs of sense for the acquiring of knowledge, nor is he dependent upon the sixth sense, the mind. |
2. Nhận thức độc lập với các cơ quan. Bậc toàn thông không tùy thuộc vào các cơ phận của giác quan để thu đạt kiến thức, và cũng không phụ thuộc vào giác quan thứ sáu, là cái trí. |
|
With him, the intuition has been developed into a usable instrument, and direct apprehension of all knowledge, independently of the reasoning faculty [354] or rationalizing mind is his privilege and right. The mind need no longer be used to apprehend reality, the senses need no longer be employed as mediums of contact. He will employ all six but in a different manner. The mind will be utilized as a transmitter to the brain of the wishes, and plans and purposes of the one Master, the Christ within; the five senses will be transmitters of different types of energy to the chosen objectives, and herein opens up a vast field of study for the interested investigator. The eye is one of the most potent transmitters of energy, and it was the knowledge of this in the olden days which gave rise to the belief anent the evil eye. There is much to be discovered concerning sight for this study will include not only physical vision, but the development of the third eye, clairvoyance, perfect spiritual vision and on up to that inconceivable mystery covered by the terms the “All-seeing Eye” and the “Eye of Shiva.” The hands are potent factors in all magical work of healing and utilization of the sense of touch is an esoteric science. The sublimation of the sense of hearing and its utilization to hear the Voice of the Silence, or the music of the spheres, is a department of occult teaching of the most profound kind and those adepts who have specialized in the science of sight, and the science of sound are some of the most erudite and advanced in the hierarchy. |
Với vị này, trực giác đã được phát triển thành một khí [354] cụ hữu dụng. Người có quyền và đặc quyền thấu đáo trực tiếp mọi sự hiểu biết, một cách độc lập với cái trí suy luận hay suy lý. Cái trí không còn cần được sử dụng để hiểu được thực tại. Các giác quan không còn cần được dùng để làm trung gian giao tiếp. Người sẽ dùng cả sáu giác quan này nhưng bằng cách khác. Thể trí sẽ được dùng để truyền đến não bộ những ý muốn, kế hoạch và mục đích của vị Chủ nhân duy nhất, là Đấng Christ ở nội tâm. Năm giác quan sẽ là phương tiện để truyền những loại năng lượng khác nhau đến các mục tiêu đã chọn. Đây là một lĩnh vực nghiên cứu rộng lớn cho nhà khảo cứu có quan tâm. mắt cũng là một trong những phương tiện truyền năng lượng rất mạnh. Chính vì hiểu biết này mà người xưa người ta mới có sự tin tưởng về con mắt độc. Có nhiều điều cần được khám phá về thị giác, vì vấn đề nghiên cứu này sẽ bao gồm không những cái thấy của thể chất mà còn gồm việc phát triển con mắt thứ ba, thông nhãn, nhãn quan tinh thần hoàn hảo, cứ thế cho đến điều bí nhiệm không thể hiểu về “Con mắt thấy Tất cả” và “Con mắt của Shiva.” Đôi bàn tay là yếu tố mạnh mẽ trong toàn bộ công tác trị liệu huyền thuật, và việc sử dụng xúc giác là một khoa nội môn. Việc thăng hoa thính giác và dùng nó để nghe Tiếng nói của Im lặng, âm nhạc của các bầu thế giới là một ngành giáo huấn huyền bí hết sức thâm sâu. Trong Đại đoàn Chưởng giáo, những vị trọn lành nào chuyên về khoa học thị giác và khoa học âm thanh là những vị uyên bác và tiên tiến nhất. |
|
The other senses are capable too of profound unfoldments, but they are peculiarly hidden in [355] the mysteries of initiation, and more anent them is not possible here. The three senses of hearing, touch and sight are the three characteristics of the three human races and the three planes in our three worlds. |
Những giác quan khác cũng đều có thể được khai mở sâu xa. Thế nhưng chúng được đặc biệt che giấu [355] trong các bí nhiệm điểm đạo, nên ở đây không thể bàn thêm về chúng. Ba giác quan thính giác, xúc giác và thị giác là ba đặc trưng của ba giống dân và tam giới của chúng ta. |
|
1. Hearing |
Lemurian |
Physical plane |
Ear |
Response to sound. |
|
2. Touch |
Atlantean |
Astral plane |
Skin |
Response to touch or vibration. |
|
3. Sight |
Aryan |
Mental body |
Eye |
Response to vision. |
|
This third sense primarily affects our race and hence the word of the prophet “Where there is no vision the people perish.” The development of sight and the achievement of spiritual insight is the great objective of our race, and the objective of all Raja Yoga work. This may be called “illumination” by the mystic or “pure vision” by the occultist but it is one and the same thing. |
Giác quan thứ ba này chủ yếu ảnh hưởng đến giống dân hiện nay. Vì thế mà có lời tiên tri “Ở đâu không có tầm nhìn tinh thần thì dân chúng tiêu vong.” Sự phát triển thị giác và đạt sự thấu hiểu tinh thần là mục tiêu chính đại của giống dân hiện nay, và cũng là mục tiêu của toàn bộ việc thực hành Raja Yoga. Có thể gọi điều này bằng từ “giác ngộ” của nhà thần bí, hoặc từ “tầm nhìn tinh thần thuần khiết” của nhà huyền bí học, nhưng cả hai đều đồng nghĩa. |
|
The two other senses are as yet veiled; their true significance will be unfolded in the sixth or seventh races which are to succeed ours, and their true relation is to the buddhic or intuitional and the atmic or spiritual planes. |
Hai giác quan còn lại vẫn còn bị che giấu; thực nghĩa của chúng sẽ được sáng tỏ trong giống dân thứ sáu hoặc thứ bảy tiếp theo giống dân hiện nay. Chúng sẽ thực sự liên quan đến cảnh giới bồ-đề hay trực giác và cảnh giới atma hay tinh thần. |
|
3. Mastery over root substance. This root substance is the pradhana and is sometimes called the root of all, primordial substance, and root matter. Rama Prasad in his translation and commentary has these words: “Mastery over the Pradhana means the power of control over all [356] the modifications of the Prakriti. These three attainments . . . are obtained by conquering the substantive appearance of the five instruments of sensation.” |
3. Vận dụng chất liệu nguyên thủy. Chất liệu nguyên thủy này là Pradhana. Đôi khi nó được gọi là cội rễ của tất cả, vật chất bản sơ và vật chất cơ bản. Trong phần chuyển dịch và bình giải của ông, Rama Prasad có nói: “Chế ngự được Prahana có nghĩa là quyền năng kiểm soát tất cả các biến thái của Prakriti. [356] Ba sự thành đạt này . . . có được nhờ chinh phục sự biểu hiện thực tế của năm khí cụ cảm giác.” |
|
It is interesting to note that these three attainments demonstrate: |
Điều thú vị là ba sự thành đạt kể trên cho thấy: |
|
a. The inability of matter and form to hold the yogi confined, |
a. Vật chất và hình thể không còn khả năng giam hãm nhà yogi, |
|
b. The powerlessness of substance to prevent the yogi cognizing any aspect of manifestation he desires, |
b. Vật chất không còn năng lực ngăn trở nhà yogi nhận biết bất cứ phương diện nào trong cuộc biểu hiện mà y muốn biết, |
|
c. The helplessness of matter to withstand the will of the yogi. |
c. Vật chất không thể nào cưỡng lại ý chí của nhà yogi. |
|
These three factors explain how it is that the adept can create at will and his freedom from the limitations of matter forms the basis of all white magic. |
Ba yếu tố vừa kể cho thấy lý do tại sao vị cao đồ có thể sáng tạo tùy ý muốn. Sự tự do của người đối với các giới hạn của vật chất là cơ sở của trọn cả khoa chánh thuật. |
|
It might be noted in conclusion that this capacity is in itself relative, for the adept is freed from limitation in the three worlds of human endeavour. The Master has perfect freedom of action in the three worlds plus the buddhic realm, whilst the Christ and those of similar initiation have this freedom in the five worlds of human evolution. |
Có thể kết luận rằng năng lực này có tính cách tương đối, vì vị cao đồ đã thoát khỏi mọi giới hạn trong tam giới của cuộc tiến hóa nhân loại. Vị Chân sư hoàn toàn tự do hành động trong tam giới cũng như cõi bồ-đề. Trong khi đó Đức Christ và các vị có cấp điểm đạo tương tự đạt được sự tự do này trong cả năm cảnh giới tiến hóa của nhân loại. |
49. The man who can discriminate between the soul and the spirit achieves supremacy over all conditions and becomes omniscient. |
49. Khi có thể phân biệt giữa linh hồn và tinh thần, hành giả thấu đáo được mọi điều kiện và trở nên toàn tri. |
|
The condition of the man who can do this has been well described in the comment of Charles Johnston on this sutra and the beauty of his [357] thought will be seen by the study of his words as follows: |
Tình trạng của người có thể thực hiện điều vừa kể được Charles Johnston mô tả trong phần ông bình luận câu kinh này, [357] với những ý tưởng và ngôn từ thi vị sau đây: |
|
“The spiritual man is enmeshed in the web of the emotions; desire, fear, ambition, passion; and impeded by the mental forms of separateness and materialism. When these meshes are sundered, these obstacles completely overcome, then the spiritual man stands forth in his own wide world, strong, mighty, wise. He uses divine powers, with a divine scope and energy, working together with divine Companions. To such a one it is said: ‘Thou art now a disciple, able to stand, able to hear, able to see, able to speak, thou hast conquered desire and attained to self-knowledge, thou hast seen thy soul in its bloom and recognized it, and heard the voice of the silence.'” |
“Con người tinh thần bị vướng mắc trong lưới tình cảm; ham muốn, sợ hãi, tham vọng, đam mê. Y cũng bị chướng ngại do những hình tư tưởng chia rẽ và tôn thờ vật chất. Khi những ràng buộc này bị loại bỏ, và những trở ngại này được hoàn toàn khắc phục, bấy giờ con người tinh thần trở nên tự tại trong thế giới rộng lớn của mình, mạnh mẽ, uy dũng, và minh triết. Người sử dụng các quyền năng thiêng liêng, trong phạm vi và năng lượng thiêng liêng, làm việc cùng các Đồng sự thiêng liêng. Những lời sau đây áp dụng cho người đó: “Nay con là một đệ tử, có khả năng đứng vững, có khả năng nghe, có khả năng thấy, có khả năng nói. Con đã chiến thắng dục vọng, và đạt sự tự tri. Con đã thấy hoa linh hồn bừng nở và nhận biết nó, và nghe tiếng nói của im lặng.’” |
|
The wonderful synthesis of the teaching is nowhere more apparent than in this sutra, for the point reached here is of a higher order again than the one referred to in Book II. Sutra 45, and intermediate to the condition mentioned there and that referred to in Book IV. Sutra 30 to 34. |
Câu kinh này rõ ràng có sự tổng hợp tuyệt vời của giáo huấn hơn các câu khác. Bởi vì trình độ đạt được ở đây cao siêu hơn những gì nói trong Quyển II, Câu 45. Nó là trung gian giữa trình độ nêu ở đó và trình độ được đề cập trong Quyển IV, Câu 30 đến 34. |
|
In Book I. Sutra 4, we find the true man entangled in the meshes of the psychic nature and the light in him veiled and hidden. By learning to discriminate between the true self and the lower personal self he disentangles himself, the light which is in him is seen and he is liberated. Having achieved liberation, developed the soul-powers and attained mastery, there opens up before him a still vaster and wider experience and realization. He can begin to expand his consciousness from the planetary to the solar, and group consciousness [358] can be developed into God consciousness. The first step towards this is stated in the sutra we are now considering, which is more fully dealt with and hinted at in the final book. The rules for this expansion are not given, for they concern the development of the Master and the unfoldment of the Christ into that higher state of being which is for Him possible, but the fourth book touches on the preparatory stages and hints at further possibilities. Here the first basic requirement is touched upon, discrimination between the soul, the Christ within and the spirit or Father aspect. Intelligent activity has been demonstrated, based upon an unfoldment of the love nature. With safety now the spirit or will aspect can be developed and power delivered into the hands of the Christ. |
Trong Quyển I, Câu 4, chúng ta thấy chân nhân bị trói buộc bởi các lưới rập trong tâm tính của mình, và ánh sáng trong y bị che án và che giấu. Khi học phân biện giữa chân ngã và phàm ngã thấp kém, y tự tháo gỡ mọi ràng buộc. Ánh sáng trong y bừng lên và y được tự do. Đã được giải thoát, đã phát triển các quyền năng của linh hồn và đạt sự tự chủ, y thấy mở ra những kinh nghiệm và nhận thức còn rộng lớn hơn nữa. Y có thể bắt đầu mở rộng tâm thức từ cấp hành tinh đến cấp thái dương. Tâm thức tập thể nơi y được phát triển thành tâm thức của Thượng Đế. [358] Bước đầu tiến đến sự phát triển này đã nêu trong câu kinh mà chúng ta đang xem xét, sẽ được luận bàn đầy đủ hơn trong quyển cuối. Các qui tắc để thực hiện sự mở mang tâm thức này chưa được đưa ra, vì chúng liên quan đến sự phát triển của vị Chân sư và sự khai mở của Đức Christ vào trạng thái sống cao siêu mà Ngài có thể thực hiện. Thế nhưng, quyển thứ tư có nói đến các giai đoạn chuẩn bị, với những ngụ ý về các khả năng cao hơn. Ở đây, yêu cầu cơ bản đầu tiên được đề cập. Đó là sự phân biệt giữa linh hồn, Đức Christ ở nội tâm và tinh thần hay là Đấng Cha lành. Hoạt động thông minh đã phát biểu, dựa vào sự khai mở tình thương. Nay tinh thần hay trạng thái ý chí có thể phát triển và được trao cho Đức Christ một cách an toàn. |
|
Three terms serve to throw light on this process of unfoldment. |
Ba thuật ngữ sau đây có thể soi sáng tiến trình khai mở này. |
|
The first great realization which the aspirant has to achieve is that of omnipresence; he has to realize his unity with all, and the oneness of his soul with all other souls. He has to find God in his own heart and in every form of life. Then, as an initiate, he arrives at omniscience or all-knowledge, and the Halls of Learning and of Wisdom render up to him their secrets. He becomes a Christ, a knower of all things, knowing what is in the heart of the Father and in the hearts of men. Finally, he can eventually achieve omnipotence or all-power, when the keys of Heaven will be handed to the Son of Man and all power will be his. [359] |
Nhận thức quan trọng đầu tiên là vô sở bất tại. Người môn sinh cần nhận thức được sự hợp nhất của mình với tất cả. Đồng thời y cần hiểu rằng linh hồn của mình và tất cả những linh hồn khác đều là một. Y phải tìm thấy Thượng Đế nơi tâm của mình và trong mọi hình thái của sự sống. Khi là một điểm đạo đồ, y trở nên toàn tri hay là hiểu biết tất cả. Bấy giờ, y được trao cho các bí mật của Phòng Học tập và Phòng minh triết. Y trở nên một vị Christ, một người hiểu biết mọi sự. Y hiểu những gì ở trong tâm của Đấng Cha lành, và trong tâm của con người. Cuối cùng, y đạt được sự toàn năng hay là có đủ mọi quyền năng. Người Con của Nhân loại nay được trao cho chìa khóa của cõi Thiêng liêng cùng với tất cả các quyền năng. [359] |
50. By a passionless attitude towards this attainment and towards all soul-powers, the one who is free from the seeds of bondage, attains the condition of isolated unity. |
50. Với thái độ không ham muốn sự thành đạt này và tất cả các quyền năng của linh hồn, người đã giải thoát khỏi các chủng tử của nô lệ, nay đi vào trạng thái nhất như tự tại. |
|
The isolated unity referred to here is that of complete separation from all form aspects and the achievement of spiritual Oneness. It is aloofness from the material consciousness and a living in the spiritual consciousness. It is harmony with the spirit and disharmony with matter. It involves identification with the Father in Heaven, and a true understanding of the word of the Master of all the Masters, “I and My Father are one.” A proper sense of values has been established and the powers which have been developed, and the perceptions which have been gained are seen as having in them the “seeds of bondage” and therefore with them the true yogin does not concern himself. At will and in service he will perceive that which is needed; at will and in service he will employ the occult powers, but he himself remains detached, and freed from all karmic limitations. |
Nhất như tự tại ở đây là tâm thái hoàn toàn buông xả mọi phương diện hình hài sắc tướng, và đạt được tính Duy nhất tinh thần. Hành giả không còn bận tâm đến ý thức vật chất và sống trong tâm thức tinh thần. Đó là sự hài hòa với tinh thần và không còn hòa điệu với vật chất. Đó là sự đồng nhất với Đấng Cha lành ở cõi Thiêng liêng. Nay hành giả thấu hiểu câu nói thốt ra từ vị Thầy của các Chân sư, “Ta và Cha Ta là một.” Nhà yogi chân chính đã phát triển ý thức giá trị đúng thực. Y thấy trong các quyền năng đã phát triển, và các nhận thức đã đạt, đều có ẩn “những chủng tử của sự nô lệ.” Vì thế, y không bận tâm về chúng. Trong phụng sự, y sẽ tùy ý nhận biết những gì cần thiết. Trong phụng sự, y sẽ tùy ý vận dụng các quyền năng huyền môn. Những chính y vẫn tự tại, không vướng bận gì đến các hạn chế nghiệp quả. |
51. There should be entire rejection of all allurements from all forms of being, even the celestial, for the recurrence of evil contacts remains possible. |
51. Cần hoàn toàn thản nhiên đối với mọi sự cám dỗ của mọi hình thái sống, cho dù là sống ở cõi trời, vì vẫn khả dĩ có sự tái diễn ảnh hưởng của điều ác. |
|
Rama Prasad’s translation is illuminating and should be quoted here. It runs as follows: |
Bản dịch của Rama Prasad rất sáng tỏ, và thiết tưởng nên trích dẫn ở đây: |
|
“When the presiding deities invite, there should [360] be no attachment and no smile of satisfaction, contact with the undesirable being again possible.” |
“Khi có sự mời gọi của các vị thần đang ngự trị, [360] không nên chiều theo với nụ cười hài lòng, vì hành giả có thể tiếp xúc lại với những gì bất hảo.” |
|
And Dvivedi’s interpretation gives still another angle: |
Và Dvivedi còn giải thích theo phương diện khác: |
|
“There should be entire distinction of pleasure or pride in the invitations by the powers of various places, for there is possibility of the repetition of evil.” |
“Cần phân biệt rõ niềm vui thú hoặc sự kiêu căng trong lời mời gọi của các quyền năng trên những cảnh giới khác nhau, vì có thể tái diễn những điều tà vạy.” |
|
The yogin or disciple has achieved his objective. He has (through dispassion and discrimination) freed himself from the trammels of form and stands free and liberated. But he needs to be on his guard for “Let him that thinketh he standeth take heed lest he fall.” Form life ever beckons, and the allurements of the great illusion are ever present. The emancipated soul must turn his eyes away from the invitation of the “presiding deities” (those lives who in the three worlds form the sum total of plane life) and fix them on those more spiritual aspects which constitute the life of God Himself. |
Nhà yogi hay người đệ tử đã đạt mục tiêu. Với hạnh vô dục và trí phân biện, y đã tự giải thoát khỏi các hạn chế của hình tướng và hoàn toàn tự do. Thế nhưng y cần phải đề phòng vì “Người nghĩ rằng mình đã đứng vững thì hãy thận trọng, đề phòng vấp ngã.” Cuộc sống hình thể bao giờ cũng mời gọi, và sự quyến rũ của đại ảo tưởng lúc nào cũng có sẵn. Linh hồn đã được giải thoát phải thản nhiên trước lời mời mọc của “các vị thần đang ngự trị” (là chúng sinh trong tam giới hợp thành toàn bộ cuộc sống trên mỗi cảnh giới). Y hãy chú tâm vào những phương diện tinh thần hơn, chính là sự sống của Thượng Đế. |
|
Even the realm of the soul itself, and the “Voice of the Gods,” as it is called, are seen to have latent in them the seeds of attachment; therefore, turning his back upon all that he has gained, and putting behind him all thought of the perfections achieved and the powers developed, the Son of God, the Christ in manifestation, again presses forward towards a higher goal. At every stage of the path, the injunction sounds forth: “Forgetting the things which are behind, press forward” (Phil: IV.), and every new initiation but marks [361] the commencement of a new cycle of endeavour. |
Ngay cả lĩnh vực của chính linh hồn, và cái gọi là “Tiếng nói của các vị Thần,” vẫn có ẩn trong đó những chủng tử của sự bám chấp. Vì thế, y phải quay lưng đối với tất cả những gì đã thu đạt, và bỏ lại mọi ý nghĩ về những sự hoàn thiện đã thành tựu và các quyền năng đã phát triển. một lần nữa, người Con của Thượng Đế, vị Christ đang biểu hiện, lại dấn bước hướng về mục tiêu cao cả hơn. Ở mỗi giai đoạn trên đường đạo, đều vang ra lời huấn thị: “Hãy quên đi những gì ở sau lưng, và tiến bước.” (Phil: IV.) Mọi cuộc điểm đạo mới [361] đều đánh dấu sự khởi đầu của chu kỳ cố gắng mới. |
|
Commentators upon this sutra point out that there are four classes of chelas or disciples. These are: |
Các nhà luận giải câu kinh này nói rằng có bốn hạng môn đồ hay đệ tử sau đây: |
|
1. Those whom the light is just beginning to illumine. They are called “observant of practice,” and are those who are just entering the Path. These are the probationers, the aspirants. |
1. Những người có ánh sáng chỉ vừa mới bừng lên. Họ được gọi là “người cần mẫn thực hành,” và là những người mới bước vào Đường Đạo. Đây là các đệ tử dự bị, những người chí nguyện. |
|
2. Those whose intuition is awakening and who demonstrate a corresponding development of psychic power. This is a stage of great danger for such disciples are apt to be allured by the possibilities of power which the possession of psychic faculty opens up. They are apt to be deluded and to consider that psychic power is an indication of spiritual growth and unfoldment. Such is not the case. |
2. Những người có trực giác đang thức động và tỏ ra có phát triển các quan năng thần thông tương ứng. Đây là giai đoạn hết sức nguy hiểm. Vì những người đệ tử này thường bị cám dỗ bởi những điều kiện khả dĩ có quyền năng mà việc sở hữu quan năng thần thông mở ra cho họ. Họ thường bị lừa gạt và cho rằng phép thần thông là dấu hiệu chứng tỏ sự tăng trưởng và khai mở tinh thần. Tuy nhiên, sự thực không phải vậy. |
|
3. Those disciples who have overcome all sense attractions and cannot be deluded by the form aspect in the three worlds. They have conquered the senses and are victors over the form nature. |
3. Những người đệ tử đã thắng phục tất cả các hấp dẫn của giác quan, và không hề bị lừa gạt bởi phương diện hình thể trong tam giới. Họ đã chinh phục được các giác quan và là người chiến thắng bản chất hình tướng. |
|
4. Those who have passed beyond all the above and who stand firm in the true spiritual consciousness. These are the illuminated ones, who have progressed through the seven stages of illumination. See Book II., Sutra 27. |
4. Những người đã vượt qua tất cả các chướng ngại nói trên, và đã trụ vững trong tâm thức tinh thần đích thực. Đây là những bậc giác ngộ, đã tiến qua bảy giai đoạn của sự khai ngộ. Xem Quyển II., Câu 27. |
|
If the student will here study Book III. Sutra 26, and the commentary upon it, he will gain some idea of the nature of these worlds of form and their presiding deities whose voices seek to lure the aspirant off the path into the realm of illusion. He will find it also of interest to contrast and compare the first four classes of spirits enumerated [362] there with these four types of disciples. Everything in the three worlds is a reflection of that which is found in the heavenly realms and much may be gained through a comprehension of the great Hermetic aphorism, “As above, so below.” That reflection is what constitutes evil; that reverse aspect of reality forms the great illusion, and with these the sons of God have no concern. It is evil where they are concerned but in no other sense. The forms of life in these worlds, and the lives animating those forms are good and right in themselves and are pursuing their own evolutionary path, but their immediate objective and their state of consciousness is not synchronized with that of the evolving disciple and therefore with them there must be no trafficking. |
Ở đây, người môn sinh nên nghiên cứu lại Câu 26 của Quyển III, và phần luận giải về nó. Y sẽ có được chút ý niệm về các thế giới của sắc tướng này và những vị thần đang ngự trị ở đó. Họ có những lời cám dỗ người chí nguyện rời khỏi đường đạo để đi vào lĩnh vực của ảo tưởng. Y cũng sẽ thấy hữu ích khi so sánh, đối chiếu bốn loại đầu của các tinh linh được kể ra trong [362] câu đó với bốn hạng đệ tử nêu ở đây. mọi sự vật trong tam giới là phản ảnh của những gì có trong các cảnh giới thiêng liêng. Vì thế, chúng ta có thể hiểu được nhiều điều, khi thấu đáo câu châm ngôn của Hermes, “Ở trên sao, ở dưới vậy.” Phản ảnh đó gồm những gì được gọi là điều ác. Chính cái khía cạnh trái ngược ấy của thực tại tạo nên đại ảo tưởng. Những người con của Thượng Đế không hề bận tâm đến các phản ánh đó. Phản ảnh đó chỉ trở nên tà vạy khi được họ quan tâm, chứ không vì lý do gì khác. Các hình thể của sự sống trong các cảnh giới này và những sinh linh khiến cho các hình thể ấy hoạt động vốn tốt đẹp và đúng đắn, vì chúng đang đi theo con đường tiến của riêng mình. Thế nhưng, mục tiêu và trạng thái ý thức của chúng hiện nay không đồng bộ với mục tiêu và tâm thức của người đệ tử. Do đó, y không nên dính líu gì đến chúng. |
52. Intuitive knowledge is developed through the use of the discriminative faculty when there is one-pointed concentration upon moments and their continuous succession. |
52. Hiểu biết trực giác phát triển nhờ dùng khả năng phân biện, khi hành giả chuyên chú vào những khoảnh khắc và sự tiếp diễn liên tục của chúng. |
|
It has been said that a complete understanding of the Law of Cycles would bring man to a high degree of initiation. This Law of Periodicity underlies all the processes of nature and its study would lead a man out of the world of objective effects into that of subjective causes. It has also been said that time itself is simply a succession of states of consciousness and this is true of an atom, a man or a God. It is this truth which underlies the great systems of mental science and Christian Science in the occident, and many of the [363] oriental philosophies. This sutra gives the key to the relation between matter and mind, or between substance and its informing soul, and this can be realized when the words of a Hindu commentator are considered. He says: |
Có lời giáo huấn rằng hoàn toàn thấu hiểu Luật Chu kỳ sẽ giúp hành giả đạt được cấp điểm đạo cao siêu. Luật Tuần hoàn này ẩn trong tất cả các tiến trình của thiên nhiên. Thế nên, khi nghiên cứu luật này chúng ta sẽ thoát ra khỏi thế giới của các hậu quả khách quan để bước vào thế giới của các nguyên nhân nội tại. Chúng ta cũng được biết rằng chính thời gian chỉ là một chuỗi các trạng thái tâm thức. Điều này đúng với một nguyên tử, một con người hay Thượng Đế. Chính chân lý này là nền tảng của các hệ thống quan trọng như khoa học trí tuệ và Khoa học Thiên Chúa giáo ở phương [363] Tây, và nhiều triết thuyết của phương Đông. Câu kinh này có chìa khóa để hiểu mối liên hệ giữa vật chất và trí tuệ, hoặc giữa thể chất và linh hồn ở trong đó. Chúng ta có thể nhận thức được điều này khi xét theo những lời của nhà luận giải Ấn giáo sau đây: |
|
“As an atom is a substance in which minuteness reaches its limit, so a moment is a division of time in which minuteness reaches its limit. Or a moment is that much of time which an atom takes in leaving the position in space it occupies and reaching the next point. The succession of moments is the non-cessation of the glow thereof.” |
“Như một nguyên tử là vật chất ở mức giới hạn tế vi, một khoảnh khắc cũng là sự phân chia thời gian đến mức giới hạn tế vi. Hoặc khoảnh khắc là khoảng thời gian mà một nguyên tử cần để rời vị trí hiện tại của nó trong không gian và đến điểm kế tiếp. Chuỗi các khoảnh khắc là sự bừng cháy của nó tiếp diễn liên tục.” |
|
When we can realize that an atom and a moment are one and the same, and that back of these lies the Realizer or Cognizer of both, we have got the clue to all states of consciousness itself, and to the nature of energy. We shall also have reached a true understanding of the Eternal Now, and a just appreciation of the significance of the past, the present, and the future. This, we are told here, can be gained by concentrated meditation upon time and its units. |
Khi chúng ta có thể nhận thức rằng một nguyên tử và một khoảnh khắc là một và là như nhau, và hiểu rằng ẩn trong cả hai là Người nhận thức và Người hiểu biết chúng, thì bấy giờ chúng ta nắm được manh mối về mọi trạng thái của chính tâm thức, và manh mối về bản chất của năng lượng. Bây giờ, chúng ta cũng sẽ thực hiểu thế nào là Hiện tại Vĩnh cửu. Từ đó, chúng ta thấu đáo ý nghĩa của quá khứ, hiện tại, và tương lai. Câu kinh này bảo rằng chúng ta có thể thấu hiểu điều này bằng cách tham thiền tập trung vào thời gian và các đơn vị thời gian. |
|
It might be appropriate here to point out that the various kinds of concentration dealt with in this third book are not applicable or appropriate to all types of aspirants. Men are found to exist in seven main types, with distinguishing characteristics and natures and with definite qualities predisposing them to certain definite aspects of the Path of Return. Certain types with mathematical bent and with a tendency to divine geometry and space and time concepts, will with wisdom follow the method of developing intuitive [364] knowledge, dealt with in this sutra; others will find it of great difficulty and would wisely turn to other forms of concentrated meditation. |
Ở đây cần lưu ý rằng những loại tập trung khác nhau nêu trong quyển thứ ba này không thể áp dụng hay thích hợp với tất cả các hạng người chí nguyện. Có bảy mẫu người chính, với các đặc trưng và tính chất khác biệt. Họ cũng có những phẩm tính cố hữu khiến họ đi theo một số phương diện rõ rệt trên Con đường Phản bổn Hoàn nguyên. một số mẫu người có khuynh hướng toán học, nhắm đến khoa hình học thiêng liêng và các khái niệm về không gian và thời gian. Với sự minh triết, họ theo phương pháp phát triển trực giác nêu trong câu kinh này. Những người khác nhận thấy phương [364] pháp này quá khó, và thấy rằng tốt hơn họ nên áp dụng những hình thức tham thiền tập trung khác. |
53. From this intuitive knowledge is born the capacity to distinguish (between all beings) and to cognize their genus, qualities and position in space. |
53. Từ sự hiểu biết trực giác này phát sinh khả năng phân biệt (giữa tất cả các chúng sinh) và biết được chủng loại, đặc tính và vị trí của họ trong không gian. |
|
The difficulty of this sutra will be obviated if a free paraphrase is here given. |
Câu kinh này sẽ không còn khó hiểu nếu được chuyển ngữ theo lối phóng khoáng sau đây. |
|
“Through the development of the intuition there will arise exact knowledge of the sources of the manifested life, of its characteristics or qualities, and of its location within the whole.” |
“Nhờ phát triển trực giác, hành giả sẽ biết chính xác nguồn của sự sống biểu hiện, đặc trưng hay đặc tính của nó, và vị trí của nó bên trong cái toàn thể.” |
|
Right through the Yoga Sutras it has been made apparent that the divine triplicities are everywhere to be found, and that every form ensouling a life (and there is naught else in manifestation) is to be known as: |
Qua bộ Yoga Điển tắc này, chúng ta thấy rõ rằng các bộ ba thiêng liêng vốn có ở khắp mọi nơi. Và chúng ta cũng thấy rằng mỗi hình thể đều có ẩn chứa một sự sống (chứ không có gì khác trong cuộc biểu hiện này). Cần hiểu đó là: |
|
1. Life. The life of God emanates·from its source in seven streams, emanations or “breaths,” and every form in the objective world is the expression of a life as breathed forth on one or other of these streams. The development of the intuition enables the seer to know the nature of the life atom. This is inferred in the word “genus.” The modern occultist might prefer the word “ray,” and the Christian “pneuma” or spirit, but the thought is one. |
1. Sự sống. Sự sống của Thượng Đế từ nguồn cội của mình phát ra thành bảy dòng năng lượng hay là “hơi thở.” mọi hình thể trong thế giới khách quan đều là phát biểu của một sự sống được thở ra trên một trong các dòng năng lượng nói trên. Khi phát triển trực giác, người tri kiến có thể biết được tính chất của nguyên tử sự sống. Tính chất này được suy diễn trong từ “giòng loài.” Nhà huyền bí học hiện nay có thể thích dùng từ “cung,” và người Thiên Chúa giáo gọi là “hơi thở của sự sống” hay tinh thần. Thế nhưng, chung qui ý tưởng vẫn là một. |
|
2. Consciousness or soul. All these living forms of divine life are conscious, even though all states of consciousness are not the same but range from the life of the atom of substance, limited [365] and circumscribed as it may be, to that of a solar Logos. The state of the conscious response of all forms to their environment, exoteric and unseen, produces the varying characteristics plus the distinction produced by: |
2. Tâm thức hay linh hồn. Tất cả các hình thể sinh động của sự sống thiêng liêng này đều hữu thức. Dù rằng mọi trạng thái tâm thức đều không giống nhau, chúng vẫn ở trong khoảng từ sự sống của một nguyên tử vật chất, vốn bị hạn chế [365] và bao bọc, đến sự sống của một vị thái dương Thượng Đế. Tình trạng ứng đáp hữu thức của mọi hình thể với môi [366] trường chung quanh chúng, ở cõi hữu hình và vô hình, khiến có những đặc trưng khác nhau cùng với sự phân biệt do: |
|
a. Ray, |
a. Cung, |
|
b. Plane of manifestation, |
b. Cảnh giới biểu hiện, |
|
c. Rate of vibration, |
c. Nhịp độ rung động, |
|
d. Point of development, |
d. Trình độ phát triển, |
|
and these characteristics form the quality referred to in the sutra. This is the subjective aspect in contradistinction to the objective and the essential. |
và các đặc trưng này là đặc tính nêu trong câu kinh. Đây là phương diện nội tại, khác với cái bên ngoài và cái tinh túy. |
|
3. Form or body. This is the exoteric aspect, that which emerges from the subjective as a result of spiritual urge. The position in space is that part of the body of the Heavenly Man in which any atom or form has its locale. Here it should be remembered that according to the occult student “space is an entity” (Secret Doctrine I. 583), and this entity is one and the same as the cosmic Christ, the “body of Christ,” referred to by St. Paul in I. Cor. XII. |
3. Hình thể hay cơ thể. Đây là phương diện ngoại tại, xuất lộ từ cái nội tại, do sự thôi thúc tinh thần. Vị trí trong không gian là phần trong cơ thể của vị Thiên Nhân mà một nguyên tử hay hình thể ở trong đó. Ở đây chúng ta cần lưu ý rằng theo giáo huấn huyền môn “không gian là một thực thể” (Giáo lý Bí nhiệm I. 583). Thực thể này là một và đồng nhất với Đấng Christ vũ trụ, là “cơ thể của Đấng Christ”, như được Thánh Paul đề cập trong I. Cor. XII. |
|
In this sutra, therefore, it is made apparent that the liberated yogi who has developed the intuition can know all things about all forms of life, and this involves a knowledge of: |
Vì thế, trong câu kinh này có nói rõ rằng nhà yogi đã giải thoát, đã phát triển trực giác, có thể hiểu biết mọi điều về mọi hình tướng của sự sống. Đây là sự hiểu biết về: |
|
1. Genus. |
2. Quality. |
3. Position in Space. |
|
Ray |
Character |
Place in body of Heavenly Man. |
|
Spirit |
Soul |
Body. |
|
Life aspect |
Consciousness |
Form. |
|
Essence |
Subjective nature |
Objective form. |
|
[366] |
|
|
Of this knower we can apply the words of the teacher whose works are found in the archives of the Lodge: |
Về người hiểu biết nói trên, chúng ta có thể áp dụng những lời sau đây của vị huấn sư có các tác phẩm lưu trữ trong văn khố của Huyền môn: |
|
“To him, standing before the Spark, the flame and the smoke are equally to be seen. |
“Đối với y, khi đứng trước Tia lửa, y thấy cả ngọn lửa và làn khói. |
|
To him, the shadow veils the reflection and yet the light is seen. |
Đối với y, hình bóng che án phản ảnh, nhưng y vẫn thấy ánh sáng. |
|
To him, the tangible but demonstrates the intangible, and both reveal the spirit, whilst form, color and number speak aloud the word of God.” |
Đối với y, cái hữu hình chỉ biểu lộ cái vô hình, và cả hai cùng hiển lộ tinh thần. Trong khi đó, hình thể, màu sắc và con số xướng lên linh từ của Thượng Đế.” |
54. This intuitive knowledge, which is the great Deliverer, is omnipresent and omniscient and includes the past, the present and the future in the Eternal Now. |
54. Sự hiểu biết trực giác này là Tác nhân hiển lộ quan trọng. nó có ở khắp nơi, toàn tri và gồm cả quá khứ, hiện tại và tương lai trong hiện tại Vĩnh cửu. |
|
The only part of this sutra which is not clear even to the superficial reader is the significance of the words Eternal Now, and these it is not possible to comprehend until soul-consciousness is developed. To say that time is a succession of states of consciousness and that the present is lost in the past instantaneously, and merged in the future as it is experienced, is of small avail to the average student. To say that there is a time when sight is lost in vision, when the sum total of life anticipations are realized in a moment of accomplishment and that this persists for ever, and to point to a state of consciousness in which there is no sequence of events and no succession of realizations is to speak in a language of mystery. Yet so it is and will be. When the aspirant has reached his goal he knows the true significance of his immortality and the true nature of his liberation. [367] Space and time become for him meaningless terms. The only true Reality is seen to be the great central life force, remaining unchanged and unmoved at the centre of the changing evanescent temporal forms. |
Phần duy nhất của câu kinh này không rõ ràng khi chỉ đọc thoáng qua, đó là ý nghĩa của các từ Hiện tại Vĩnh cửu. Thực ra, người ta không thể hiểu được các từ này nếu chưa phát triển tâm thức của linh hồn. Khi nói rằng thời gian là một chuỗi những trạng thái tâm thức, và nói rằng hiện tại lập tức trôi về quá khứ và hòa lẫn vào tương lai ngay khi trải nghiệm, thì người môn sinh trình độ trung bình cũng chẳng hiểu được bao nhiêu. Nếu nói rằng có một loại thời gian mà cái thấy chìm trong linh ảnh, khi toàn bộ các dự kiến trong đời đều được nhận thức trong một khoảnh khắc hoàn thành viên mãn, và nói rằng khoảnh khắc ấy trở thành thiên thu, và khi nêu lên một trạng thái tâm thức mà trong đó không hề có trình tự các sự kiện và không hề có chuỗi các nhận thức, thì đó tức là nói theo ngôn ngữ bí nhiệm. Ấy vậy, nó lại là thế và sẽ là như thế. Khi người chí nguyện tiến đến mục tiêu, y thực sự hiểu rằng mình vốn bất tử, và hiểu thực nghĩa của giải thoát. Đối với y, không gian và thời gian trở thành những từ vô nghĩa. [367] Y thấy Thực tại duy nhất là mãnh lực của sự sống vĩ đại ở trung tâm, không hề thay đổi và bất di bất dịch ở tâm điểm các hình thể tạm thời, luôn biến đổi và chóng tàn phai. |
|
“I am,” says the human unit and regards himself as the self, and identifies himself with the changing form. Time and space are for him the true realities. “I am That,” says the aspirant and seeks to know himself as he truly is, a living word, part of a cosmic phrase. For him space no longer exists; he knows himself as omnipresent. “I am That I am,” says the freed soul, the liberated man, the Christ. Neither time nor space exist for him, and omniscience and omnipresence are his distinctive qualities. |
Con người nói “Tôi là,” cho mình là phàm ngã, và tự đồng hóa với cái hình thể đang thay đổi. Y cho rằng thời gian và không gian là những điều thực tế. Người chí nguyện nói “Tôi là Cái Đó,” và tìm cách biết được chân tính của mình, một linh từ sống động, là thành phần của nhóm từ vũ trụ. Đối với y, không gian không còn hiện hữu. Y biết mình có khả năng hiện diện ở mọi nơi. Linh hồn đã được tự do, người đã giải thoát, Đấng Christ, thì nói “Tôi là Chân như.” Đối với người, cả thời gian và không gian đều không còn hiện hữu. Đặc tính rõ rệt của người là toàn tri và vô sở bất tại. |
|
In his comment upon this sutra, Charles Johnston quotes from St. Columba and says: |
Trong nhận xét của ông về câu kinh này, Charles John- ston trích dẫn lời sau đây của Thánh Columbia: |
|
“Some there are, though very few, to whom divine grace has granted this: that they can clearly and most distinctly see, at one and the same moment, as though under one ray of the sun, even the entire circuit of the whole world with its surroundings of ocean and sky, the innermost part of their mind being marvellously enlarged.” |
“Có một số người, dù rất ít, đã nhận được ân huệ thiêng liêng: họ có thể thấy hết sức rõ rệt ngay tức khắc và đồng thời, như trong tia nắng mặt trời, toàn thể thế giới với các đại dương và bầu trời bao bọc. Nơi thâm sâu nhất trong trí tuệ của họ đang rộng mở đến mức kỳ diệu phi thường.” |
|
It might be helpful also if the brief comment of Dvivedi were quoted here as it is well put, and the state of consciousness arrived at concisely summed up: |
Ở đây cũng nên trích dẫn lời bình giải vắn gọn và rất hay của Dvivedi về trạng thái tâm thức này, một cách súc tích như sau: |
|
“In aphorism XXXIII. of this section we have already described the nature of taroka-jnana—the knowledge that saves from the bonds of the world. The discriminative knowledge described [368] here results in taraka, the knowledge which is the end and aim of yoga. It relates to all objects from the pradhana (spirit-matter. A.B.) to the bhutas (elements. forms. A.B.), as also to all conditions of these objects. Moreover it produces knowledge of all things simultaneously, and is quite independent of the ordinary rules of cognition. Hence it is the highest knowledge which can be desired by the yogin, and it is a sure index of Kaivalya (state of absolute oneness. A. B.) to be described in the following aphorism as its result.” |
“Trong câu châm ngôn XXXIII của phần này, chúng ta đã mô tả tính chất của taroka-jnana − sự hiểu biết giúp chúng ta thoát khỏi những trói buộc của thế gian. Sự hiểu biết có phân biện được trình bày ở đây [368] đưa đến taraka, là sự hiểu biết cứu cánh và là mục tiêu của yoga. Nó liên quan đến mọi sự vật, từ pradhana (tinh thần-vật chất. A.B.) đến các bhuta (các nguyên tố, hình hài sắc tướng. A.B.), cũng như liên quan đến tất cả các tình trạng của những sự vật đó. Hơn thế nữa, nó còn mang lại sự hiểu biết về mọi sự việc cùng một lúc và hoàn toàn độc lập đối với các qui tắc thông thường của nhận thức. Thế nên, nó là sự hiểu biết cao nhất mà nhà yogi có thể hoạch đắc. Nó cũng là chỉ báo chắc chắn về Kaivalya (trạng thái duy nhất tuyệt đối. A.B.) với tính cách là kết quả của nó, sẽ được trình bày trong câu châm ngôn tiếp theo.” |
55. When the objective forms and the soul have reached a condition of equal purity, then is At-one-ment achieved and liberation results. |
55. Khi các ngoại thể và linh hồn đã đạt độ tinh khiết như nhau, bấy giờ có sự nhất quán đưa đến giải thoát. |
|
That which veils the light of the soul has been rendered pure, and thus the light of God streams forth. That which proved a hindrance and an obstacle to the full expression of divinity in manifestation has been so dealt with that now it serves as an adequate expression and means of service. The soul can now function freely and intelligently in the three worlds because complete unity has been reached between the lower and the higher man. |
Bức màn che ánh sáng của linh hồn đã trở nên tinh khiết, để cho ánh sáng của Thượng Đế chiếu xuyên qua. Những gì trước đây gây chướng ngại và trở ngại cho sự phát biểu trọn vẹn của thiên tính trong cuộc biểu hiện nay đã được khắc phục đến mức chúng được dùng cho sự biểu lộ viên mãn, và là phương tiện cho phụng sự. Giờ đây linh hồn có thể hoạt động tự do và sáng suốt trong tam giới. Bởi vì phàm ngã và chân ngã đã hoàn toàn hợp nhất. |
|
The soul and its vehicles form a unit and are at one; complete alignment of the bodies has been achieved and the Son of God can function freely on earth. Thus has the great objective been reached and through a following of the eight means of yoga the soul can manifest through the [369] lower threefold man, and in its turn form a medium of expression for the spirit. Matter has been brought into a state where its vibration can synchronise with that of the soul, and the result is that—for the first time—spirit can make its presence felt, for “matter is the vehicle for the manifestation of soul on this plane of experience and the soul is the vehicle for the manifestation of spirit on a higher turn of the spiral. These three are a trinity synthesized by life which pervades them all.” To the man who has achieved this there is no rebirth. He is free and liberated, and can say with full conscious realization of the significance of the words: |
Linh hồn và các hạ thể trở thành một đơn vị duy nhất. Các thể đã hoàn toàn chỉnh hợp, và người Con của Thượng Đế có thể hoạt động tự do ở cõi trần. Thế là mục tiêu trọng đại đã đạt. [369] Nhờ theo đúng tám phương tiện của yoga, linh hồn có thể biểu hiện qua phàm nhân với ba hạ thể. Và nay linh hồn trở thành phương tiện phát biểu cho tinh thần. Thể chất đã được nâng cao tần số rung đến mức đồng bộ với tần số của linh hồn. Kết quả là lần đầu tiên tinh thần có thể thị hiện. Bởi vì “vật chất là phương tiện cho linh hồn biểu hiện ở cõi trần, và linh hồn là phương tiện cho tinh thần biểu hiện trên cảnh giới cao siêu. Cả ba là tam vị nhất thể được tổng hợp bởi sự sống thấm nhuần tất cả.” Người đã đến trình độ này không cần phải tái sinh. Y đã tự do và giải thoát, và có thể nói lên với nhận thức sáng tỏ và trọn vẹn về ý nghĩa của những lời sau đây: |
|
“My life (the lower physical life) is hid with Christ (the soul life) in God (the spirit).” (Col: III. 3.) |
“Cuộc sống của tôi (đời sống phàm trần) nay cùng với |