Ánh Sáng Của Linh Hồn – Quyển IV

BOOK IV. – ILLUMINATION—GIÁC NGỘ

a. Consciousness and form.

a. Tâm thức và hình thể.

b. Union or at-one-ment.

b. Hợp nhất hay nhất quán.

Topic: Isolated unity. [373]

Chủ đề: Nhất như tự tại.

1. The higher and lower siddhis (or powers) are gained by incarnation, or by drugs, words of power, intense desire or by meditation.

1. Có thể đạt được các siddhi (quyền năng) cao và thấp bằng cách nhập thế, hay dùng thuốc, dùng các quyền lực từ, với ý muốn mạnh mẽ hoặc qua tham thiền.

2. The transfer of the consciousness from a lower vehicle into a higher is part of the great creative and evolutionary process.

2. Việc chuyển tâm thức từ một thể thấp vào một thể cao là một phần của diễn trình tiến hóa và sáng tạo vĩ đại.

3. The practices and methods are not the true cause of the transfer of consciousness but they serve to remove obstacles, just as the husbandman prepares his ground for sowing.

3. Những cách thực hành và phương pháp không phải là nguyên nhân thực sự của việc chuyển di tâm thức. Chúng chỉ nhằm loại bỏ các trở ngại, như người nông dân làm đất để gieo hạt vậy.

4. The “I am” consciousness is responsible for the creation of the organs through which the sense of individuality is enjoyed.

4. Nhận thức “Tôi là” tạo nên các cơ quan mà qua đó ý thức về cá tính được thể nghiệm.

5. Consciousness is one, yet produces the varied forms of the many.

5. Tâm thức vốn duy nhất, nhưng những gì nó tạo nên thì thiên hình vạn trạng.

6. Among the forms which consciousness assumes, only that which is the result of meditation is free from latent karma.

6. Trong số các hình thể mà tâm thức khoác lấy, chỉ hình thể nào là kết quả của tham thiền mới thoát khỏi nghiệp quả ẩn tàng.

7. The activities of the liberated soul are free from the pairs of opposites. Those of other people are of three kinds.

7. Các hoạt động của linh hồn giải thoát không còn vướng vào các cặp đối cực. Hoạt động của những người khác thì gồm ba loại.

8. From these three kinds of karma emerge those forms which are necessary for the fruition of the effects.

8. Từ ba loại nghiệp nói trên, nảy sinh các hình thể cần cho việc tạo quả.

9. There is identity of relation between memory and the effect-producing cause, even when separated by species, time and place.

9. Có sự liên hệ đồng nhất giữa ký ức và cái nguyên nhân tạo nên hậu quả, cho dù chúng bị tách biệt bởi dòng loài, thời gian và địa điểm.

10. Desire to live being eternal, these mind-created forms are without known beginning. [374]

10. Lòng ham sống vốn vĩnh cửu, không thể biết được lúc khởi đầu của những hình thể này do cái trí tạo ra. [374]

11. These forms being created and held together through desire, the basic cause, personality, the effective result, mental vitality or the will to live, and the support of the outward going life or object, when these cease to attract then the forms cease likewise to be.

11. Những hình thể này, được tạo ra và tập hợp lại qua sự ham muốn, là cái nguyên nhân căn bản, qua phàm tính, là cái hậu quả thực sự, qua sức sống của cái trí hay là ý chí muốn sống, được hỗ trợ bởi sự sống hướng ngoại hay đối tượng. Khi những điều vừa kể không còn hấp dẫn, thì các thể nói trên cũng không tồn tại.

12. The past and the present exist in reality. The form assumed in the time concept of the present is the result of developed characteristics and holds latent seeds of future quality.

12. Quá khứ và hiện tại hiện tồn trong thực tại. Hình thể có được trong khái niệm thời gian của hiện tại là kết quả của những đặc tính đã phát triển. Trong đó có ẩn tàng những chủng tử của phẩm tính tương lai.

13. The characteristics, whether latent or potent, partake of the nature of the three gunas (qualities of matter).

13. Các đặc trưng, dù tiềm ẩn hay biểu lộ, đều có tính chất của ba guna (ba đặc tính của vật chất).

14. The manifestation of the objective form is due to the one-pointedness of the effect-producing cause (the unification of the modifications of the chitta or mind stuff).

14. Sự biểu hiện của hình thể bên ngoài là do sự hội tụ của cái nguyên nhân tạo quả (tổng hợp các biến thái của chitta hay trí tuệ chất).

15. These two, consciousness and form, are distinct and separate; though forms may be similar, the consciousness may function on differing levels of being.

15. Hai cái vừa kể, tâm thức và hình thể, thì phân biệt và riêng biệt. Dù hình thể khả dĩ tương tự, tâm thức có thể hoạt động trên những cấp sinh hoạt khác nhau.

16. The many modifications of the one mind produce the diverse forms, which depend for existence upon those many mind impulses.

16. Nhiều biến thái của trí tuệ duy nhất tạo nên những hình thể khác nhau. Chúng tồn tại tùy thuộc vào các xung lực trí tuệ vừa kể.

17. These forms are cognized or not, according to the qualities latent in the perceiving consciousness.

17. Những hình thể này được nhận biết hay không, là tùy theo các phẩm tính ẩn tàng trong cái tâm nhận thức.

18. The Lord of the mind, the perceiver, is ever aware of the constantly active mind stuff, the effect-producing cause.

18. Vị Chúa của trí tuệ, là người nhận thức, bao giờ cũng biết đến cái trí tuệ chất đang hoạt động liên tục, là cái nguyên nhân tạo quả.

19. Because it can be seen or cognised it is apparent that the mind is not the source of illumination.

19. Vì chúng ta có thể thấy hay biết được nó, nên rõ ràng cái trí không phải là nguồn giác ngộ.

20. Neither can it know two objects simultaneously, itself and that which is external to itself.

20. Nó cũng không thể đồng thời biết hai đối tượng, chính nó và những gì ở ngoài nó.

21. If knowledge of the mind (chitta) by a remoter mind is postulated, an infinite number of knowers must be inferred, and the sequence of memory reactions would tend to infinite confusion.

21. Nếu mặc nhiên công nhận rằng cái trí (chitta) có thể được biết [375] bởi một cái trí khác ở xa cách nó, thì tất phải có vô số thực thể hiểu biết, và trình tự các phản ứng của ký ức hẳn sẽ bị vô cùng lẫn lộn.

22. When the spiritual intelligence which stands alone and freed from objects, reflects itself in the mind stuff, then comes awareness of the Self.

22. Khi sự thông tuệ tinh thần, vốn độc lập và thoát khỏi mọi đối tượng, tự phản ánh trong trí tuệ chất, bấy giờ hành giả trực thức được chân ngã.

23. Then the mind stuff, reflecting both the knower and the knowable, becomes omniscient. [375]

23. Bấy giờ, trí tuệ chất phản ánh cả người tri thức và cái được hiểu biết, trở nên toàn tri. [375]

24. The mind stuff also, reflecting as it does an infinity of mind impressions, becomes the instrument of the Self and acts as a unifying agent.

24. Với khả năng phản ánh vô số ấn tượng của trí tuệ, trí tuệ chất cũng là khí cụ của Chân ngã, và có vai trò là tác nhân thống nhất.

25. The state of isolated unity (withdrawn into the true nature of the Self) is the reward of the man who can discriminate between the mind stuff and the Self, or spiritual man.

25. Trạng thái nhất như tự tại (thu tâm thức vào thực tính của Chân ngã) là phần thưởng cho những ai có thể phân biệt giữa trí tuệ chất và Chân ngã, hay con người tinh thần.

26. The mind then tends towards discrimination and increasing illumination as to the true nature of the one Self.

26. Bấy giờ cái trí có khả năng phân biện và ngày càng thấu ngộ thực tính của Chân ngã duy nhất.

27. Through force of habit, however, the mind will reflect other mental impressions and perceive objects of sensuous perception.

27. Tuy nhiên, do sức mạnh của thói quen, cái trí sẽ phản ánh các ấn tượng từ cõi trí và cảm nhận các đối tượng của nhận thức giác quan.

28. These reflections are of the nature of hindrances, and the method of their overcoming is the same.

28. Những phản ánh này có tính chất chướng ngại, thế nhưng phương pháp khắc phục chúng thì như nhau.

29. The man who develops non-attachment even in his aspiration after illumination and isolated unity, becomes aware, eventually, through practised discrimination, of the overshadowing cloud of spiritual knowledge.

29. Người đã phát triển hạnh buông xả, cho dù đối với khát vọng muốn được giác ngộ và được nhất như tự tại, rốt cuộc sẽ ý thức được nguồn hiểu biết tinh thần đang tuôn đổ xuống.

30. When this stage is reached then the hindrances and karma are overcome.

30. Đến giai đoạn này, các chướng ngại và nghiệp quả đã được vượt qua.

31. When, through the removal of the hindrances and the purification of all the sheaths, the totality of knowledge becomes available, naught further remains for the man to do.

31. Khi đã giải trừ chướng ngại và tinh luyện các thể, hành giả có toàn bộ hiểu biết, và không còn điều gì phải làm thêm.

32. The modifications of the mind stuff (or qualities of matter) through the inherent nature of the three gunas come to an end, for they have served their purpose.

32. Các biến thái của trí tuệ chất (hay đặc tính của vật chất), qua tính chất cố hữu của ba guna, nay chấm dứt, vì chúng đã phục vụ xong mục đích.

33. Time, which is the sequence of the modifications of the mind, likewise terminates, giving place to the Eternal Now.

33. Thời gian, vốn là trình tự các biến thái của thể trí, cũng chấm dứt, nhường chỗ cho Hiện tại Vĩnh cửu.

34. The state of isolated unity becomes possible when the three qualities of matter (the three gunas or potencies of nature) no longer exercise any hold over the Self. The pure spiritual consciousness withdraws into the One.

34. Có thể đạt đến trạng thái nhất như tự tại khi ba đặc tính của vật chất (là ba guna hay ba mãnh lực của thiên nhiên) không còn cầm giữ Chân ngã. Tâm thức tinh thần thuần khiết rút vào Đấng duy nhất.

THE YOGA SUTRAS OF PATANJALI

1. The higher and lower siddhis (or powers) are gained by incarnation, or by drugs, words of power, intense desire or by meditation.

1. Có thể đạt được các siddhi (quyền năng) cao và thấp bằng cách nhập thế, hay dùng thuốc, dùng các quyền lực từ, với ý muốn mạnh mẽ hoặc qua tham thiền.

We have now come to the fourth book in which the powers and the results gained by the practice of Raja Yoga are carried forward into group realization and it is seen that they produce universal consciousness and not simply self-consciousness. It seems the part of wisdom to protest here against the use of the words “cosmic consciousness” as untrue and misleading, for even the highest adept (note this term with care) is only gifted with solar consciousness and has no contact with that which is outside our solar system. The planetary Logoi (the seven Spirits before the Throne), and the Lords of Karma (the “four wheels” of Ezekiel) have a realization beyond that of our solar system. Lesser existences may sense it as a possibility but it is not yet part of their experience. [378]

Giờ đây chúng ta đến quyển bốn, bàn về cách nào để những quyền năng và kết quả đã đạt qua việc thực hành Raja Yoga được đưa vào nhận thức tập thể. Nhờ đó, chúng mang lại tâm thức đại đồng chứ không chỉ là tâm thức của cá nhân. Ở đây, chúng ta nên tránh dùng nhóm từ “tâm thức vũ trụ” vì không đúng thực và dễ gây nhầm lẫn. Bởi vì ngay cả một vị Chân sư trình độ cao nhất (thuật ngữ này được thận trọng sử dụng) cũng chỉ khai mở tâm thức của thái dương hệ, và chưa giao tiếp được với những gì ở bên ngoài thái dương hệ chúng ta. Các vị hành tinh Thượng Đế (bảy Tinh quân trước Ngôi Thượng Đế), và các vị Nghiệp quả Tinh quân (“bốn bánh xe” của Ezekiel) thì có tầm nhận thức vượt xa hơn thái dương hệ này. Những vị có trình độ thấp hơn có thể cảm nhận tâm thức này như một điều khả hữu, nhưng vẫn chưa thể nghiệm được. [378]

The powers gained fall into two main groups called:

Các quyền năng hoạch đắc gồm hai nhóm:

a. Lower psychic powers, the lower siddhis.

a. Các quyền năng loại thấp, hay siddhi bậc thấp.

b. Spiritual powers or the higher siddhis.

b. Các quyền năng tinh thần hay siddhi bậc cao.

The lower powers are the result of the consciousness of the animal soul in man being en rapport with the anima mundi or the soul of the world, the subjective side of all forms in the three worlds, of all bodies in the four kingdoms of nature. The higher powers are the result of the development of group consciousness, of the second aspect of divinity. They not only include the lesser powers but put a man en rapport with those existences and forms of life which are to be found in the spiritual realms, or, as the occultist would say, on those two planes which are beyond the three worlds, and which cover the entire scale of man’s evolution, human and superhuman.

Các quyền năng loại thấp là kết quả của ý thức hồn thú nơi mỗi người hòa hợp với anima mundi hay linh hồn của thế giới. Đó là phương diện nội tại của tất cả các hình tướng trong tam giới, của tất cả các cơ thể trong bốn trường tiến hóa của thiên nhiên. Các quyền năng cao siêu là kết quả của sự phát triển tâm thức tập thể, trạng thái thứ hai của thiên tính. Chúng không những bao gồm các quyền năng thấp, mà còn giúp hành giả giao tiếp với những vị và những hình thức sống trong các lĩnh vực tinh thần. Theo các huyền bí gia thì đây là hai cảnh giới cao siêu hơn tam giới. Chúng bao gồm cả phạm vi tiến hóa của con người, ở cấp nhân loại và siêu nhân loại.

The goal of the true aspirant is the unfoldment of these higher powers which can be covered by the terms direct knowledge, intuitive perception, spiritual insight, pure vision, the attainment of the wisdom. They are different from the lower powers, for they abrogate them. These latter are accurately described for us in Book III, Sutra 37:

Mục tiêu của người tìm đạo chân chính là khai mở các quyền năng cao siêu vừa kể. Chúng bao gồm sự hiểu biết trực tiếp, nhận thức trực giác, thấu hiểu tinh thần, thị kiến thuần khiết, và đạt được minh triết. Chúng khác với các quyền năng thấp, vì chúng loại bỏ các quyền năng thấp. Các quyền năng cao này được mô tả chính xác trong Quyển III, Câu 37:

“These powers are obstacles to the highest spiritual realization, but serve as magical powers in the objective worlds.”

“Các quyền năng này là chướng ngại đối với nhận thức tinh thần cao tột, nhưng được dùng như quyền năng huyền thuật ở những thế giới khách quan.”

These higher powers are inclusive and are distinguished by their accuracy and infallibility when rightly employed. Their working is as instantaneous [379] as a flash of light. The lower powers are fallible, the time element is present in its sequential sense and they are limited in their working. They form part of the great illusion and to the true aspirant constitute a limitation.

Các quyền năng cao siêu này có tính bao hàm, chính xác và không thể sai lầm khi được dùng đúng cách. Chúng tác động tức thời nhanh như ánh chớp [379]. Các quyền năng thấp thì có thể sai lầm, hàm chứa yếu tố thời gian vì xảy ra tuần tự, với tác động có giới hạn. Chúng là thành phần của đại ảo tưởng, và là sự hạn chế đối với người tìm đạo chân thành.

In the sutra we are considering, five means are given whereby the psychic powers are developed and it is interesting to note that we have in these words an instance of the fact that the Yoga Sutras can still be the study and teaching manual of even such advanced aspirants as the Masters of the Wisdom. These five methods are capable of application upon all the five planes of human evolution, which include the two higher planes whereon initiates of the Mysteries function.

Trong câu kinh chúng ta đang xem xét, có nêu ra năm phương tiện để phát triển thần thông. Điều thú vị cần lưu ý ở đây là sự thực cho thấy rằng Yoga Điển tắc vẫn có thể là vấn đề nghiên cứu và hướng dẫn giáo huấn cho ngay cả những người tìm đạo tiên tiến như các Chân sư minh triết. Năm phương pháp này có thể được áp dụng trên cả năm cảnh giới tiến hóa của nhân loại, bao gồm hai cảnh giới cao siêu mà các điểm đạo đồ của các Bí nhiệm đang hoạt động.

1. Incarnation

The physical plane method.

2. Drugs

The release of the astral consciousness.

3. Words of Power

Creation by speech, or the method of the mental plane.

4. Intense desire

The sublimation of aspiration or the method of the buddhic plane, the sphere of spiritual love.

5. Meditation

The method of the atmic plane, the sphere of spiritual will.

1. Nhập thế……………… Phương pháp ở cõi trần.

2. Dùng thuốc ………….. Khai mở tâm thức cảm dục.

3. Quyền lực từ………… Sáng tạo bằng lời nói, hoặc phương pháp của cõi trí.

4. Ý muốn mạnh mẽ…. Thăng hoa nguyện vọng hay là phương pháp của cõi bồ-đề, phạm vi bác ái tinh thần.

5. Tham thiền………….. Phương pháp của cõi atma, phạm vi ý chí tinh thần.

In this enumeration, it might be noted that just as intense desire of a spiritual kind is a sublimation of astral or emotional desire, so meditation, as practised by the initiates, is the sublimation of all the mental processes. Therefore the two final methods given as resulting in the unfoldment of the siddhis are the only ones that are practised by [380] initiates, being the synthesis and sublimation of the realizations achieved on the astral and mental planes.

Trong bảng kê ở trên, có thể lưu ý rằng ý muốn tinh thần mạnh mẽ là sự thăng hoa của ý muốn tình cảm hay dục vọng. Tương tự, việc hành thiền của điểm đạo đồ là sự thăng hoa của mọi tiến trình trí tuệ. Vì thế, hai phương pháp cuối được đưa ra, vốn dẫn đến việc khai mở các siddhi, là những phương pháp duy nhất được các điểm đạo đồ thực hành [380]. Chúng là tổng hợp và sự thăng hoa của các nhận thức đạt được trên cõi cảm dục và cõi trí.

It might, therefore, be observed that (for the seeker after truth) incarnation, intense desire and meditation are the three permissible methods, and the only ones to be practised; drugs and words of power or mantric incantations are the tools of black magic and concern the lower powers.

Vì thế, chúng ta có thể thấy rằng (đối với người tìm chân lý) việc nhập thế, ý muốn mãnh liệt và tham thiền là ba phương pháp được phép áp dụng, và là những phương pháp duy nhất được thực hành. Việc dùng thuốc và các quyền lực từ hay thần chú là công cụ của hắc thuật, và liên quan đến các quyền năng loại thấp.

The question might here be asked, is it not true that words of power and the use of incense form part of the ceremonies of initiation and therefore are used by initiates and aspirants. Certainly, but not in the sense understood here, or for the purpose of developing psychic powers. The Masters and their disciples use words of power in order to deal with the non-human existences, to invoke the aid of the angels, and to manipulate the building forces of nature, and they employ herbs and incenses in order to purify conditions, eliminate undesirable entities and so make it possible for those higher upon the ladder of evolution to make their presence felt. This is, however, a very different thing to their use in order to become psychic.

Ở đây khả dĩ có câu hỏi được đặt ra, phải chăng các quyền lực từ và việc dùng hương liệu là một phần trong các cuộc lễ điểm đạo, và vì thế chúng được các điểm đạo đồ và những người tìm đạo sử dụng. Chắc hẳn thế, nhưng không theo ý nghĩa nói trên hoặc với mục đích phát triển thần thông. Các Chân sư và đệ tử của các Ngài dùng những quyền lực từ để làm việc với các sinh linh không thuộc giới nhân loại, để yêu cầu các thiên thần trợ giúp, và nhằm vận dụng những lực lượng kiến tạo của thiên nhiên. Các Ngài cũng dùng những loại dược thảo và hương liệu để thanh tẩy một số tình trạng, và loại trừ các tinh linh bất hảo. Bằng cách đó, các sinh linh tiến hoá cao hơn mới có thể thị hiện. Tuy nhiên, đây là điều rất khác với việc dùng chúng để khai mở thần thông.

It is interesting to note here that the first cause producing the unfoldment of soul powers, whether higher or lower, is the great wheel of rebirth. This must ever be taken into account. Everyone is not yet at the stage where it is possible for him to unfold the powers of the soul. The soul aspect is still dormant for many because full experience and development of the lower nature has not yet [381] been undergone. The forty years’ wandering in the wilderness with the Tabernacle and the conquest of Canaan, had to precede the rule of the kings and the building of the Temple of Solomon. Lives must be passed before the body, or the Mother aspect, is so perfected that the Christ Child can be formed within the prepared vessel. It should also be remembered that the possession of the lower psychic powers is in many cases a symptom of a low stage of evolution and of the close association of their owner with the animal nature. This has to be outgrown before the higher powers can blossom forth.

Ở đây có điểm thú vị khi chúng ta biết rằng nguyên nhân đầu tiên giúp khai mở quyền năng của linh hồn, dù cao hay thấp, là vòng tái sinh vĩ đại. Đây là điểm bao giờ cũng cần phải xem xét. mọi người đều chưa đến giai đoạn họ có thể được khai mở các quyền năng của linh hồn [381]. Phương diện linh hồn vẫn còn ngủ yên đối với nhiều người, vì họ còn chưa trải qua đầy đủ kinh nghiệm và phát triển phàm tính. Bốn mươi năm lang thang trong hoang mạc với Thánh đường trong đó và chinh phục Vùng đất Hứa, phải có trước việc cai trị của các vị vua và xây dựng Ngôi đền Solomon. Phải trải qua nhiều kiếp sống trước khi cơ thể, hay là phương diện mẹ, được hoàn thiện đến mức Người Con Christ có thể được hình thành bên trong chỗ trú được dọn sẵn. Cần lưu ý rằng việc sở hữu các quyền năng tâm thông bậc thấp trong nhiều trường hợp chứng tỏ đương sự đang ở giai đoạn tiến hóa thấp kém. Nó cũng cho thấy y có kết hợp gần gũi với tính chất của loài thú. Phải vượt qua tình trạng này trước khi quyền năng cao siêu có thể bừng nở.

It is needless to point out that the use of alcohol and of drugs can and does release the astral consciousness, as also the practice of sex magic, but this is astralism pure and simple and with this the true student of Raja Yoga has naught to do. It is part of unfoldment on the left-hand Path. The gaining of the soul powers by intense desire (or fervent aspiration) and by meditation has been covered in the other books and need not be enlarged upon here.

Thiết tưởng không cần nêu rõ rằng việc dùng rượu và ma túy vẫn có thể làm phát lộ tâm thức cảm dục, tương tự như việc thực hành ma thuật tình dục. Thế nhưng tâm thức này chỉ đơn thuần là cảm dục tính, là điều mà người môn sinh Raja Yoga chân chính không hề dính dáng. Đó là một phần sự khai mở trên con đường bàn môn tả đạo. Việc đạt được các quyền năng của linh hồn do ý muốn mãnh liệt (nguyện vọng bừng cháy) và qua tham thiền đã được bàn trong các quyển kia, nên khỏi phải nói thêm ở đây.

2. The transfer of the consciousness from a lower vehicle into a higher is part of the great creative and evolutionary process.

2. Việc chuyển tâm thức từ một thể thấp vào một thể cao là một phần của diễn trình tiến hóa và sáng tạo vĩ đại.

This is a very free translation but conveys a clear interpretation of the truth to be grasped. The evolution of consciousness and the effect of that evolution upon the vehicles in which the conscious entity functions, is the sum total of the [382] processes of nature and from the standpoint of the intelligent human unit, three words cover the process and the result. These words are, transfer, transmutation, and transformation.

Đây là một câu dịch rất thoáng, nhưng lại là cách diễn giải rõ ràng về chân lý cần thấu hiểu. Sự tiến hóa của tâm thức và ảnh hưởng của việc tiến hóa ấy trên các thể mà sinh linh hữu thức đang hoạt động trong đó, là toàn bộ các tiến trình của thiên nhiên. [382] Và theo quan điểm của một người có trí thông minh, thì tiến trình và kết quả vừa kể được gói ghém trong ba từ, đó là chuyển di, siêu hóa và chuyển hóa.

One of the basic laws in occult development and in spiritual unfoldment is given in the words “As a man thinketh, so is he,” and to it one can link the oriental truism, “Energy follows thought” as an explanation. As a man changes his desires, so he changes himself; as he shifts his consciousness from one objective to another, so he alters himself, and this is true in all realms and states, higher or lower.

Một trong những định luật cơ bản trong cuộc phát triển huyền môn và khai mở tinh thần là “Người nào suy nghĩ điều gì thì trở thành điều đó.” Có thể giải thích định luật này với một chân lý hiển nhiên của phương Đông, “Năng lượng đi theo tư tưởng.” Khi một người thay đổi những điều ước muốn, thì y tự thay đổi. Khi y chuyển ý thức từ mục tiêu này sang mục tiêu khác, thì y tự biến đổi. Điều này đúng trong mọi phạm vi và trạng thái, dù cao hay thấp.

The effect of the transference of our conscious thinking state from a low objective to a high one produces a flow of energy of a vibratory quality equivalent to the higher objective. This produces a change or a mutation in the vestures of the thinking entity, and they become transmuted and brought to a condition where they are adequate to the thought or desire of the man. Carried to their conclusion, a transformation is produced, and the words of St. Paul become therefore clear: “Be ye therefore transformed by the renewing of your mind.”

Hiệu quả của việc chuyển trạng thái tư duy hữu thức của chúng ta từ một mục tiêu thấp thỏi đến một mục tiêu cao thượng hơn, tạo nên một dòng năng lượng có nhịp độ rung động tương đương với mục tiêu cao thượng vừa kể. Dòng năng lượng này làm thay đổi hay biến đổi các thể của người tư duy. Chúng được siêu hóa và tạo điều kiện thích hợp với tư tưởng và ý muốn của người đó. Kết cuộc là một sự chuyển hóa. Đến đây, chúng ta hiểu rõ lời của Thánh Paul: “Vì thế, bạn hãy chuyển hóa bằng cách đổi mới ý nghĩ của mình.”

Change your line of thought and you will change your nature. Desire that which is true and right, pure and holy, and your consciousness of these things will create out of the old a new vehicle or new man, an “instrument meet for use.”

Hãy thay đổi đường hướng tư tưởng, rồi bạn sẽ thay đổi tâm tính của mình. Bạn hãy muốn những gì chân thực và đúng đắn, thanh khiết và thánh thiện. Và ý thức của bạn về những điều đó sẽ từ cái cũ tạo nên một vận cụ mới hay con người mới, một “khí cụ thích hợp để sử dụng.”

This transfer, transmutation and eventual transformation is due to one of two methods: [383]

Sự chuyển di, siêu hóa và rốt cuộc là chuyển hóa nói trên được thực hiện theo một trong hai phương pháp: [383]

1. A slow method, that of repeated lives, experiences and physical incarnation until eventually the driving force of the evolutionary process brings a man, stage by stage, up the great ladder of evolution.

1. Phương pháp chậm rãi, qua những kiếp sống, trải nghiệm và nhập thế liên tiếp. Rốt cuộc sức thôi thúc của diễn trình tiến hóa đưa con người đi từng giai đoạn trên chiếc thang tiến hóa vĩ đại.

2. A more rapid process, wherein through such a system as outlined by Patanjali and as taught by all the custodians of the mysteries of religion, a man definitely takes himself in hand, and through conformity to the rules and the laws laid down, brings himself, by his own effort, to a state of spiritual unfoldment. It might be noted here that these three processes bring a man to that initiation called the Transfiguration.

2. một tiến trình nhanh chóng hơn, trong đó mỗi người thận trọng tự rèn luyện. Y theo một hệ thống như được Pa- tanjali phác họa, hoặc được giảng dạy bởi tất cả những vị đang gìn giữ các bí nhiệm của tôn giáo. Bằng cách tuân thủ các qui tắc và qui luật được ấn định, y tự nỗ lực tiến đến trình độ khai mở tinh thần. Có thể nói rằng ba tiến trình này đưa hành giả dến cuộc điểm đạo được gọi là sự Biến dung.

3. The practices and methods are not the true cause of the transfer of consciousness, but they serve to remove obstacles, just as the husbandman prepares his ground for sowing.

3. Những cách thực hành và phương pháp không phải là nguyên nhân thực sự của việc chuyển di tâm thức. chúng chỉ nhằm loại bỏ các trở ngại, như người nông dân làm đất để gieo hạt vậy.

This is one of the simplest and clearest of the sutras and needs but little comment.

Đây là một trong những câu kinh đơn giản nhất và rõ ràng nhất, nên chỉ cần chút ít nhận xét.

The practices refer primarily to:

Những cách thực hành chính yếu tức là:

1. The means for removing obstacles. (See Book I. Sutras 29 to 39.) This is affected, we are told earlier, by:

1. Các phương tiện để loại trừ chướng ngại. (Xem Quyển I. Các Câu 29 đến 39.) Như trước đây đã bàn, điều này được thực hiện bằng cách:

a. Steady application to a principle,

a. Bền lòng theo đúng nguyên tắc,

b. Sympathy with all beings,

b. Thiện cảm với cả chúng sinh,

c. Regulation of the prana or life-breath,

c. Điều hòa prana hay là hơi thở-sự sống,

d. Steadiness of the mind,

d. Định trí,

e. Meditation upon light,

e. Tham thiền về ánh sáng,

f. Purification of the lower nature,

f. Tinh luyện phàm tính,

g. The understanding of the dream state, [384]

g. Hiểu biết trạng thái giấc mơ,

h. The way of devotion.

h. Con đường sùng tín. [384]

2. The way of eliminating obstructions. (See Book II. Sutras 2 to 33.) These obstructions are eliminated by:

2. Phương cách loại trừ chướng ngại. (Xem Quyển II. Câu 2 đến 33.) Các chướng ngại này được loài trừ bằng cách:

a. An opposing mental attitude,

a. Có thái độ ngược lại trong trí,

b. Meditation,

b. Tham thiền,

c. The cultivation of right thought.

c. Vun bồi tư tưởng chân chánh.

They concern more specifically the life preparation for the true training in yoga practice, and when practiced, bring the entire lower nature into such a condition that the more drastic methods can produce rapid effects.

Chúng đặc biệt liên quan nhiều đến sự chuẩn bị cuộc sống cho việc rèn luyện thực sự trong thực hành yoga. Qua thực hành, chúng đưa trọn cả phàm tính vào điều kiện có thể áp dụng những phương pháp nghiêm nhặt hơn để mang lại hiệu quả nhanh chóng.

The methods refer to the eight means of yoga or union, enumerated as follows: the commandments, the rules, posture or attitude, right control of the life force, abstraction, attention, meditation and contemplation. (See Book II, Sutras 29 to 54, and Book III. Sutras 1 to 12.)

Các phương pháp tức là tám phương tiện của yoga hay hợp nhất, được kể ra như sau: các giới răn, các qui tắc, tư thế hay thái độ, kiểm soát sinh lực đúng cách, trừu tượng hóa, chú tâm, tham thiền và chiêm ngưỡng. (Xem Quyển II, các câu 29 đến 54, và Quyển III, các câu 1 đến 12.)

The Commandments, the Rules, posture or attitude, right control of the life force, abstraction, attention, meditation and contemplation.

Các giới răn, các qui tắc, tư thế hay thái độ, kiểm soát sinh lực đúng cách, trừu tượng hóa, chú tâm, tham thiền và chiêm ngưỡng.

It might be noted, therefore, that we could refer the practices more specifically to that stage in the life of the aspirant in which he is upon the probationary path, the path of purification, whilst the methods relate to the final stages of that path, and to the path of discipleship. When the practices and methods are followed they bring about certain changes within the forms occupied by the real or spiritual man, but are not the main cause of the transfer of his consciousness to the soul aspect and away from the body aspect. That great change is the result of certain causes, extraneous [385] to the body-nature, such as the divine origin of the man, the fact that the Christ or the soul consciousness is found latent within those forms, and the urge of the evolutionary process which carries the life of God within all forms onward into ever fuller expression. It should be remembered that as the one Life in Whom we live and move and have our being, moves on to greater achievement, so the cells and atoms in His body are correspondingly influenced, stimulated and developed.

Vì thế, có thể nói rằng việc thực hành có liên quan cụ thể hơn với giai đoạn sống của người chí nguyện khi y đang ở trên đường dự bị, tức là con đường tinh luyện. Trong khi đó, các phương pháp thì liên quan đến những giai đoạn cuối của con đường dự bị, và con đường đệ tử. Khi hành giả theo đúng những cách thực hành và các phương pháp, chúng sẽ mang lại một số thay đổi bên trong các thể được chân nhân hay con người tinh thần sử dụng. Thế nhưng chúng không phải là nguyên nhân chính của việc chuyển di tâm thức từ phương diện thân xác đến cấp độ linh hồn. Sự thay đổi quan trọng vừa kể là [385] kết quả của một số nguyên nhân, ở bên ngoài tính chất của cơ thể. Đó là nguồn gốc thiêng liêng của mỗi người. Đó là vì tâm thức Christ hay tâm thức của linh hồn vốn ẩn tàng bên trong các hình thể đó. Và sức thôi thúc của diễn trình tiến hóa đưa sự sống của Thượng Đế bên trong mọi hình hài sắc tướng tiếp tục tiến đến sự phát biểu ngày càng viên mãn hơn. Cũng cần lưu ý rằng khi Sự sống duy nhất, mà chúng ta sống, di chuyển và hiện tồn trong Ngài, tiến đến những thành tựu lớn lao hơn, thì các tế bào và nguyên tử trong cơ thể của Ngài cũng được ảnh hưởng, kích thích và phát triển tương ứng.

4. The “I am” consciousness is responsible for the creation of the organs through which the sense of individuality is enjoyed.

4. Nhận thức “Tôi là” tạo nên các cơ quan mà qua đó ý thức về cá tính được thể nghiệm.

Here we have the key to manifestation itself and the reason for all appearances. Just as long as the consciousness of any entity (solar, planetary or human) is outward going towards objects of desire, towards sentient existence, towards individual experience, and towards the life of sensuous perception and enjoyment, just so long will the vehicles or organs be created whereby desire can be satisfied, materialized existence can be enjoyed, and objects perceived. This is the great illusion by which consciousness is glamoured, and as long as the glamour exerts any power, just so long will the Law of Rebirth bring the outward-going consciousness into manifestation upon the plane of materiality. It is the will-to-be and desire for existence that swings outward into the light both the cosmic Christ, functioning [386] on the material plane through the medium of the solar system, and the individual Christ, functioning through the medium of the human form.

Đây là điểm then chốt của chính cuộc biểu hiện và là lý do của mọi sự xuất lộ. Ngày nào tâm thức của một sinh linh (thuộc thái dương, hành tinh hay con người) còn hướng ngoại, nhắm đến những mục tiêu mong muốn, cuộc sống hữu tình và đời sống có nhận thức và thụ hưởng giác quan, thì bấy giờ các phương tiện hay cơ quan sẽ được tạo ra để thỏa mãn điều mong muốn, hưởng thụ đời sống vật chất, và nhận thức các đối tượng. Đây là đại ảo tưởng mà tâm thức bị mê hoặc. Ngày nào ảo cảm này còn chi phối, thì ngày ấy Luật Tái sinh sẽ đưa tâm thức hướng ngoại đi vào cuộc biểu hiện trên cảnh giới vật chất. Chính ý chí muốn sống và ý muốn hiện hữu thôi thúc vị Christ vũ trụ ra ngoại giới, hoạt động trên cảnh giới vật chất [386] qua trung gian thái dương hệ. Đồng thời, nó cũng thúc đẩy vị Christ cá nhân, hoạt động qua phương tiện của hình thể con người.

In the early stages the “I am” consciousness creates forms of matter inadequate for the full expression of the divine powers. As evolution proceeds these forms become increasingly suitable until the “organs” created enable the spiritual man to enjoy the sense of individuality. When this stage is arrived at, there comes the great realization of illusion. The consciousness awakes to the fact that in form and sense perception, and in the outward going tendency, lie no real joy or pleasure, and there starts a new effort which is characterized by a gradual withdrawal of the outward-going tendency and an abstraction of the spirit from out of the form.

Trong các giai đoạn đầu, cái ý thức “Tôi là” tạo nên các thể vật chất chưa đủ điều kiện cho sự biểu lộ hoàn toàn của các năng lực thiêng liêng. Khi cuộc tiến hóa tiếp diễn, các thể này trở nên ngày càng thích hợp. Cứ thế, cho đến khi các “cơ quan” được tạo nên giúp con người tinh thần có thể cảm nhận được ý thức về cá tính. Đến giai đoạn này, sẽ có nhận thức quan trọng về ảo tưởng. Tâm thức biết được sự thực là trong hình thể và cảm nhận giác quan, và trong xu thế hướng ngoại, không hề có sự hoan hỉ hay niềm vui chân thật. Bấy giờ bắt đầu một cố gắng mới. Đó là việc từ từ rút lại cái xu thế hướng ngoại, và tinh thần dần dần thoát ra khỏi hình thể.

5. Consciousness is one, yet produces the varied forms of the many.

5. Tâm thức vốn duy nhất, nhưng những gì nó tạo nên thì thiên hình vạn trạng.

Here Patanjali lays down a basic formula which serves to explain not only the purpose and reason of manifestation itself but covers in one short phrase the state of being of God, man and atom. Behind all forms is found the one Life; within every atom (solar, planetary, human and elemental) is found the one sentient existence; back of objective nature, the sum total of all forms in all the kingdoms of nature is found the subjective reality which is essentially a unified whole or unity, producing the diversified many. [387] The homogeneous is the cause of the heterogeneous, unity produces diversity, the One is responsible for the many. This the student can appreciate more intelligently if he follows the golden rule which reveals the mystery of creation and studies himself. The microcosm reveals the nature of the macrocosm.

Ở đây Patanjali đề ra một công thức cơ bản. Công thức này không những giải thích cái mục đích và lý do của chính cuộc biểu hiện, mà chỉ một câu vắn gọn có thể bao gồm cả trạng thái sống của Thượng Đế, con người và hạt nguyên tử. Ẩn trong mọi hình hài sắc tướng có Sự sống duy nhất. Bên trong mọi hạt nguyên tử (thái dương, hành tinh, con người và loài tinh linh) có sự sống hữu tình duy nhất. Ẩn trong thế giới khách quan, bao gồm mọi hình hài sắc tướng trong tất cả các giới tiến hóa của thiên nhiên, có thực tại ẩn nội cốt yếu là một toàn thể hay đơn nguyên thống nhất, tạo nên vạn hữu thiên hình. Cái đồng nhất [387] là nguyên nhân của các biệt hóa. Cái đơn nhất tạo ra cái đa dạng. Cái Nhất bổn sản sinh ra cái vạn thù. Người môn sinh có thể thông hiểu điều này nhiều hơn nếu y lần theo cái qui tắc vàng khai thị bí nhiệm của sự sáng tạo, và tự nghiên cứu. Tiểu vũ trụ hé lộ cho thấy tính chất của đại vũ trụ.

He will find that he, the real or spiritual man, the thinker, or the one life in his tiny system, is responsible for the creation of his mental, emotional and physical bodies, his three lower aspects, the “shadow” of the Trinity, just as his spirit, soul and body are the reflections of the three divine aspects, Father, Son and Holy Spirit. He will find that he is responsible for the formation of all the organs in his body, and for all the cells of which they are composed and as he studies his problem more closely he will become aware that his consciousness and life pervades, and is therefore responsible for, myriads beyond number of tiny infinitesimal lives; that he is the cause of their aggregation into organs and forms, and the reason those forms are held in being. Gradually there dawns on him a true understanding of the significance of the words “made in the image of God.” His “consciousness is one and yet has produced the varied forms of the many” within his little cosmos, and what is true of him is true of his great prototype, the Heavenly Man, the planetary Logos, and true again of the prototype of his prototype, the Grand Man of the Heavens, the solar Logos, God in manifestation through the solar system. [388]

Y sẽ thấy mình là chân nhân hay con người tinh thần, người suy tưởng, hay là sự sống duy nhất trong hệ thống nhỏ bé của mình. Chính y có trách nhiệm tạo nên thể trí, thể tình cảm và thể hồng trần của mình. Đó là ba phương diện thấp, là “hình bóng” của Tam nguyên. Cũng giống như tinh thần, linh hồn và cơ thể là phản ảnh của ba trạng thái thiêng liêng: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Y sẽ thấy mình có trách nhiệm hình thành tất cả các cơ quan trong thân thể của mình, cũng như về tất cả các tế bào hợp thành những cơ quan đó. Khi nghiên cứu vấn đề này sâu xa hơn, y biết rằng tâm thức và sự sống của mình thấm nhuần tất cả. Vì thế, nó nuôi dưỡng hằng hà sa số sự sống vô cùng nhỏ bé. Do đó, y là nguyên nhân khiến chúng kết hợp thành các cơ quan và các thể, và cũng nhờ đó mà các thể vừa kể được sinh tồn. Về sau, y mới hiểu ra thực nghĩa của câu “được tạo ra theo hình ảnh của Thượng Đế.” Trong vũ trụ bé nhỏ của mình, “tâm thức của y là duy nhất, nhưng nó tạo ra vô vàn hình thể khác nhau.” Điều gì đúng với y thì cũng đúng với nguyên kiểu vĩ đại của y, là vị Thiên Nhân, là Đức hành tinh Thượng Đế. Nó lại cũng đúng với cái nguyên kiểu của nguyên kiểu của y. Đó là Đấng Đại Thiên Nhân, là Đức thái dương Thượng Đế, vị Thượng Đế biểu hiện qua thái dương hệ này. [388]

6. Among the forms which consciousness assumes, only that which is the result of meditation is free from latent karma.

6. Trong số các hình thể mà tâm thức khoác lấy, chỉ hình thể nào là kết quả của tham thiền mới thoát khỏi nghiệp quả ẩn tàng.

Forms are the result of desire. Meditation of the right kind is a purely mental process and into it desire enters not. Forms are the result of an outward-going urge or tendency. Meditation is the result of an inward-turning tendency, of the capacity to abstract the consciousness from form and substance and to centre it within itself.

Các hình thể đều là kết quả của ý muốn. Tham thiền đúng cách là một tiến trình thuần trí tuệ mà không có sự ham muốn xen vào. Các hình thể là kết quả của xu thế hay sức thôi thúc hướng ngoại. Tham thiền là kết quả của xu thế hướng nội, của khả năng rút tâm thức khỏi hình thể và vật chất rồi tập trung vào nội tâm.

Form is an effect produced by the love or desire nature of the conscious one; meditation is a producer of effects and relates to the will or life aspect of the spiritual man.

Hình thể là hiệu quả do sự mến thích hay tính chất ham muốn của phàm nhân hữu thức. Tham thiền mang lại những hiệu quả và liên quan đến ý chí hay phương diện sự sống của con người tinh thần.

Desire produces effects, and the organs of sentient consciousness then come inevitably the law of cause and effect, of karma, which governs the relation of form-consciousness, The meditation process, when rightly understood and carried on, necessitates the withdrawal of the consciousness of the spiritual man from all forms in the three worlds, and his abstraction from all sense perception and tendencies. Thus he stands at the moment of pure meditation free from that aspect of karma which deals with the producing of effects. Temporarily, he is so abstracted that his thought, perfectly concentrated and having no relation to aught in the three worlds, produces no outward-going vibration, relates to no form, affects no substance. When this concentrated meditation becomes a habit and is the normal daily attitude of his life, then the man becomes free from the law [389] of karma. He becomes aware then of the effects still remaining to be worked off, and learns to avoid the creation of new ones, initiating no actions which will “create organs” in the three worlds. He dwells on the plane of mind, persists in meditation, creates by an act of will and not through the helplessness of desire, and is a “free soul,” a master and a liberated man.

Sự ham muốn mang lại những hiệu quả, và các cơ quan của ý thức hữu tình. Rồi tất nhiên luật nhân quả, hay nghiệp quả, sẽ tác động, chi phối mối liên hệ giữa hình thể và tâm thức. Khi được hiểu và thực hành đúng, tham thiền cần có việc rút tâm thức của con người tinh thần ra khỏi tất cả các thể trong tam giới, và ra khỏi mọi cảm nhận và khuynh hướng của giác quan. Thế là, khi tham thiền tinh thuần, hành giả thoát khỏi phương diện của nghiệp quả vốn tạo nên các hậu quả. Tạm thời, y rút tâm thức lên cấp trừu tượng đến mức tư tưởng của mình hoàn toàn tập trung và không còn liên hệ đến bất cứ điều gì trong tam giới. Nó không có rung động nào hướng ngoại, không liên hệ đến bất cứ hình thể nào, hoặc ảnh hưởng đến một loại vật chất nào cả. Khi sự tham thiền tập trung này trở thành thói quen và là thái độ thường ngày trong cuộc sống của y, thì hành giả thoát khỏi luật nghiệp quả. Bấy giờ y biết được những hậu quả nào vẫn còn phải được thanh toán, và học cách tránh tạo ra những quả mới [389]. Y không phát khởi bất cứ hành động nào sẽ “tạo các cơ quan” trong tam giới. Y trụ vào cõi trí, thường xuyên trong tham thiền, sáng tạo qua tác động của ý chí chứ không qua tính cách vô vọng của ham muốn. Y nay là một “linh hồn tự do,” một vị chủ nhân và là người đã giải thoát.

7. The activities of the liberated soul are free from the pairs of opposites. Those of other people are of three kinds.

7. Các hoạt động của linh hồn giải thoát không còn vướng vào các cặp đối cực. hoạt động của những người khác thì gồm ba loại.

This sutra expresses the teaching in connection with the law of karma in such a strictly oriental manner as to confuse the western student considerably. An analysis of the significance of these words and a study of the commentary of the great teacher Vyasa may serve to elucidate the meaning. It should also be borne in mind that in the fourth book we are dealing with the exalted stages of consciousness reached by those who have followed the eight means of yoga and have experienced the effects of meditation, detailed in Book III. The yogi is now a liberated man, freed from form conditions and focussed in his consciousness outside the bounds of the three worlds of human endeavor. He has reached the realm of pure thought and can hold his consciousness untrammelled and free from desire. Therefore, though he formulates ideas and though he can carry on powerful meditations and though he can direct and control the “modifications of the thinking [390] principle,” he creates no conditions which can serve to draw him back into the vortex of lower plane existence. He is freed from karma and originates nothing and no effects can serve to attach him to the wheel of rebirth.

Câu kinh này nói về giáo huấn liên quan đến luật nghiệp quả theo cách hoàn toàn Đông phương. Vì thế mà người môn sinh Tây phương bị nhầm lẫn không ít. Việc phân tích ý nghĩa của các từ này và nghiên cứu phần luận giải của đại sư Vyasa có thể làm rõ nghĩa. Cũng cần lưu ý rằng trong Quyển IV chúng ta đang bàn đến các giai đoạn cao siêu của tâm thức. Đó là mức thành đạt của những người đã theo đúng tám phương tiện của yoga, và đã thể nghiệm được các kết quả của tham thiền, như nêu chi tiết trong Quyển III. Nhà yogi nay đã giải thoát, không còn bị hình thể trói buộc. Y tập trung tâm thức của mình bên ngoài phạm vi của tam giới nơi nhân loại đang phấn đấu. Y đã đến lĩnh vực của tư tưởng thuần khiết, với tâm thức tự do, không còn dục vọng. Vì thế, cho dù y có phát khởi các ý tưởng, cho dù y có thể tiến hành những phương pháp thiền mạnh mẽ, và cho dù y có thể lèo lái và điều khiển “các biến thái của nguyên khí tư duy,” [390] y vẫn không hề tạo nên những điều kiện nào có thể lôi kéo y trở về vùng xoáy của đời sống ở hạ giới. Y nay đã thoát khỏi nghiệp quả, và không tạo ra bất cứ điều gì hay hậu quả nào có thể gắn chặt mình vào vòng tái sinh.

Vyasa in his commentary points out that karma (or action) is of four kinds which are expressed for us as follows:

Trong phần luận giải của ông, Vyasa nêu rõ rằng nghiệp (hay hành động) gồm có bốn loại sau đây:

1. That type of activity which is evil, wicked and depraved. This is called black. This class of action is the product of the deepest ignorance, of the densest materiality, or of deliberate choice. Where it is the result of ignorance, the development of knowledge will gradually bring about a state of consciousness where this type of karma is no longer known. Where dense materiality produces what we call wrong action, the gradual development of the spiritual consciousness will change darkness to light and karma again is obviated. Where, however, it is the result of deliberate choice, or of preference for wrong action, in spite of knowledge and in defiance of the voice of the spiritual nature, then this type of karma leads to what the oriental occultist called “avitchi” or the eighth sphere,—a term synonymous with the Christian idea of the condition of being a lost soul. These cases are, however, exceedingly rare, and have relation to the left hand path, and the practice of black magic. Though this condition involves the severing of the highest principle (that of pure spirit from its two expressions, the soul and the body, or from the six lower principles), yet the life itself remains, and after the [391] destruction of the soul in avitchi, a fresh cycle of becoming will again be offered.

1. Loại hoạt động tà vạy, độc ác và đồi trụy. Loại này được gọi là đen. Đây là sản phẩm của tình trạng vô minh sâu nặng, của tính xu phụng vật chất thô kệch nhất, hoặc do cố ý chọn lựa. Khi nó là kết quả của vô minh, thì sự phát triển hiểu biết sẽ dần dần mang lại trạng thái tâm thức khiến loại nghiệp quả này tan biến. Khi có hành động gọi là sai quấy do quá ham mê vật chất, thì việc phát triển tâm thức tinh thần sẽ biến đổi bóng tối thành ánh sáng, và nghiệp quả cũng được tiêu trừ. Tuy nhiên, nếu đó là kết quả của việc cố ý chọn lựa, hoặc do thích làm quấy, dù vẫn biết điều đó là quấy và không đếm xỉa gì đến tiếng nói của lương tâm, thì loại nghiệp quả đó đưa đến tình trạng mà nhà huyền bí học phương Đông gọi là “a-tỳ” hay cõi thứ tám − đồng nghĩa với tình trạng mà người Thiên Chúa giáo gọi là mất linh hồn. Tuy nhiên, những trường hợp này hết sức hiếm hoi. Chúng chỉ liên quan đến con đường bàn môn tả đạo, và việc thực hành hắc thuật. Dù tình trạng này cắt đứt nguyên khí cao nhất (là nguyên khí tinh thần thuần khiết bị tách khỏi hai sự biểu lộ của nó là linh hồn và thân xác, hay là tách khỏi sáu nguyên khí dưới), [391] nhưng chính sự sống vẫn tồn tại. Sau khi linh hồn bị hủy diệt trong trạng thái a-tỳ, một chu kỳ sống mới sẽ được tái tục.

2. That type of activity which is neither all good nor all bad, which is spoken of as the black-white. It concerns the karmic activity of the average man, who is governed by the pairs of opposites, and whose life experience is characterized by a swinging back and forth between that which is kindly, harmless, and the result of love, and that which is harsh, harmful, and the result of hate. Vyasa says:

2. Loại hoạt động không hoàn toàn tốt hay hoàn toàn xấu, được gọi là đen-trắng. Nó liên quan đến hoạt động tạo nghiệp của người thường. Họ bị chi phối bởi các cặp đối cực. Kinh nghiệm sống của họ dao động giữa những gì tử tế, vô hại và kết quả của tình thương, và những gì tàn ác, độc hại, và kết quả của sự thù ghét. Vyasa nói:

“The black-white is brought about by external means, as in this, the vehicle of actions grows by means of causing pain to, or acting kindly towards others.”

“Hành động đen-trắng được thực hiện bằng các phương tiện bên ngoài. Nhờ đó, cái khí cụ hành động phát triển qua việc gây đau khổ cho kẻ khác, hoặc đối xử tử tế với họ.”

It becomes apparent therefore that the growth of the human unit and his record are dependent upon his attitude towards others and the effect he has upon them. Thus is the return to group consciousness brought about and thus is karma generated or offset. Thus, also, is the swing of the pendulum between these pairs of opposites gradually adjusted until the point of equilibrium is reached, and man acts rightly because the law of love or of the soul, directs from above, and not because either good or bad desire attract him on either hand.

Vì thế, sự tăng trưởng và thành tích của mỗi người tùy theo thái độ của y đối với người khác và ảnh hưởng của y đối với họ. Bằng cách đó y trở về với tâm thức tập thể, và vì đó mà y tạo ra hay hóa giải nghiệp quả. Cũng nhờ đó mà sự dao động giữa các cặp đối cực được điều chỉnh dần cho đến khi y đạt mức quân bình. Bấy giờ y hành động đúng đắn, vì luật yêu thương hay luật của linh hồn hướng dẫn từ cấp cao siêu. Y không còn bị lung lạc bởi ý muốn tốt hay xấu đưa đẩy y đến một trong hai thái cực. [392]

3. That type of activity which is called white. This is the type of living thought, and work, practised by the aspirant and the disciple. It characterizes the stage of the Path prior to liberation. Vyasa explains it thus: [392]

3. Loại hoạt động được gọi là trắng. Đây là những tư tưởng, và việc làm linh hoạt, là sở hành của người chí nguyện và người đệ tử. Chúng là đặc trưng của giai đoạn trên Đường Đạo trước khi được giải thoát. Vyasa giải thích:

“The white is of those who resort to the means of improvement, of study and meditation. This is dependent upon the mind alone. It does not depend upon external means, it is not, therefore, brought about by injuring others.”

“Hành động trắng là của những người còn dựa vào các phương tiện để cải tiến, học hỏi và tham thiền. Hành động này chỉ phụ thuộc vào cái trí. Nó không tùy theo các phương tiện bên ngoài. Vì thế, nó không có tính cách gây tổn thương cho người khác.”

It will be apparent now that these three types of karma have direct reference to:

Giờ đây, chúng ta thấy rõ rằng ba loại nghiệp nói trên có liên quan trực tiếp đến:

a. The plane of materiality………………..the physical plane.

a. Cõi vật chất…………………………….. cảnh giới hồng trần.

b. The plane of the pairs of opposites…the astral plane.

b. Cõi của các cặp đối cực …………….. cảnh giới cảm dục.

c. The plane of one-pointed thought……the mental plane.

c. Cõi của tư tưởng chuyên nhất ….. cảnh giới trí tuệ.

Those whose karma is white are those who, having made progress in balancing the pairs of opposites, are now engaged in the process of conscious intelligent emancipation of themselves from the three worlds. This they do through:

Những người có nghiệp quả trắng đang tiến tới trong cố gắng làm cân bằng các cặp đối cực. Nay họ đi vào tiến trình hữu ý tự giải thoát một cách khôn ngoan ra khỏi tam giới. Họ thực hiện điều này bằng cách:

a. Study, or mental development, through an appreciation of the law of evolution and an understanding of the nature of consciousness and its relation to matter on the one hand and to spirit on the other.

a. Học hỏi, nghiên cứu, hay là phát triển trí tuệ, qua việc đánh giá luật tiến hóa và thấu hiểu thực tính của tâm thức, và mối liên hệ của tâm thức một mặt là với vật chất và mặt khác là với tinh thần.

b. Meditation, or mind control and thus the creation of that mechanism which renders to the soul the control of the lower vehicles, and makes possible the revelation of the soul realm.

b. Tham thiền, hay là chế ngự cái trí. Từ đó họ tạo nên cơ chế để linh hồn chủ trị các hạ thể. Và nhờ đó mà hiển thị lĩnh vực của linh hồn.

c. Non-injury. No word, thought or deed brings harm to any form through which the life of God is expressing itself.

c. Không gây tổn hại. Không lời nói, tư tưởng hay hành động nào gây hại cho bất cứ hình thể nào mà qua đó sự sống của Thượng Đế đang tự phát biểu.

4. The final type of karma is described as neither black nor white. No karma of any kind is engendered; no effects are set up through causes initiated by the yogi that can serve to hold him to the form side of manifestation. Acting as he does from the standpoint of non-attachment, desiring [393] nothing for himself, his karma is nil, and his acts produce no effects upon himself.

4. Loại nghiệp quả cuối cùng được gọi là không đen không trắng. Không phát sinh bất cứ loại nghiệp quả nào. Không hậu quả nào được tạo ra do các nguyên nhân mà nhà yogi đã phát khởi có thể ràng buộc y vào phương diện hình thể của cuộc biểu hiện. Khi y hành động với tâm thái buông xả, không ham muốn điều gì cho chính mình, [393] thì y không tạo nghiệp cho mình, và những hành động của y không mang lại hậu quả cho chính y.  

8. From these three kinds of karma emerge those forms which are necessary for the fruition of effects.

8. Từ ba loại nghiệp nói trên, nảy sinh các hình thể cần cho việc tạo quả.

In every life, as it comes into physical manifestation, are latent those germs or seeds which must bear fruit, and it is these latent seeds which are the efficient cause of the appearance of the form. Those seeds have been sown at some time and must come to fruition. They are the causes or skandas which produce those bodies in which the effects are to work themselves out. They are the desires, impulses and obligations which keep a man upon the great wheel, which ever turning, carries a man down into physical plane existence, there to bring to fruition as many of those seeds, as under the law, he can handle or deal with in any one life. These are the subjective germs which produce the form in which they fructify, mature and come to completion. If the karmic seeds are black, the man will be grossly selfish, material, and inclined to the left hand path; if black-white, they will carry him into a form suitable for the working out of his obligations, of his debts, duties and interests and the fulfilling of his desires; if they are white they tend to build that body which is the final one to be destroyed, the causal body, the temple of Solomon, the karana sarira of the occultist. That body, at the final liberation, is itself destroyed and [394] naught then separates the man from his Father in Heaven, and nothing keeps him linked to the lower material plane.

Trong mọi sự sống biểu hiện ở cõi trần, có tiềm ẩn những mầm mống hay chủng tử phải tạo quả. Chính các chủng tử tiềm ẩn này là nguyên nhân thực sự khiến hình thể xuất hiện. Các chủng tử này đã được gieo vào một thời gian nào đó và phải tạo quả. Chúng là các nguyên nhân hay uẩn (skan- da) tạo nên các thể để cho quả tự biểu hiện trong đó. Chúng là những ham muốn, thôi thúc và ràng buộc giam giữ con người trong vòng luân hồi. Bánh xe này quay mãi, đưa y xuống cuộc sống ở cõi trần. Ở đó các chủng tử nói trên tạo quả theo định luật, nhiều đến mức mà y có thể chịu đựng hay xử lý trong một kiếp sống. Đây là những mầm mống nội tại, tạo nên hình thể, trong đó chúng kết quả, thành thục và hoàn tất. Nếu các chủng tử của nghiệp là đen, thì y sẽ hết sức ích kỷ, ham mê vật chất, và có khuynh hướng đi theo tả đạo. Nếu là đen-trắng, chúng sẽ đưa y vào một hình thể thích hợp để thanh toán các nghĩa vụ, nợ nần, nhiệm vụ, những mối quan tâm và thỏa mãn các ham muốn của mình. Nếu là trắng, chúng sẽ có khuynh hướng kiến tạo cái hình thể là thể cuối cùng sẽ bị hủy diệt. Đó là thể nguyên nhân, ngôi đền vua Solomon, hay là karana sarira theo thuật ngữ của nhà huyền bí học. Đến lúc giải thoát chung cuộc, chính thể này cũng bị tiêu hủy. Bấy giờ không còn gì ngăn cách hành giả với Cha của mình trên cõi Thiêng liêng. Không còn gì trói buộc y vào cõi giới vật chất thấp thỏi.

9, There is identity of relation between memory and effect producing cause, even when separated by species, time and place.

9. Có sự liên hệ đồng nhất giữa ký ức và cái nguyên nhân tạo nên hậu quả, cho dù chúng bị tách biệt bởi dòng loài, thời gian và địa điểm.

A paraphrase of the sutra might serve to elucidate, and might be expressed as follows: No matter what the race may have been, no matter in what continent, past or present, a life may have been passed, and no matter how distant that life may be or how many millenia of years may have elapsed, the memory remains with the ego or soul. In due time, under proper adjustment, every cause then initiated must inevitably work out into effects and those effects will appear, working out in some one life. Nothing can prevent it, nothing can stop it. Charles Johnston expresses it in his commentary in the following words: “In like manner, the same over-ruling selective power, which is a ray of the Higher Self, gathers together from different births and times and places those mind-images which are conformable, and may be grouped in the frame of a single life or a single event. Through this grouping, visible bodily conditions or outward circumstances are brought about, and by these the soul is taught and trained.

Có thể chuyển ngữ câu kinh này để làm rõ nghĩa như sau: dù một người đã ở trong giống dân nào, dù trước đây hay hiện nay người đó đã ở châu lục nào, và dù kiếp sống ấy có xa xôi đến đâu hoặc bao nhiêu ngàn năm đã trôi qua, ký ức đó vẫn còn trong chân ngã hay linh hồn. Đến đúng lúc, với sự điều chỉnh thích hợp, mọi nguyên nhân khi đã phát khởi tất phải thể hiện thành các hậu quả. Và những hậu quả đó sẽ xuất hiện, hay biểu lộ trong một kiếp sống nào đó. Không điều gì có thể ngăn cản, hay ngăn chặn nó được. Trong phần luận giải của ông, Charles Johnston nói như sau: “Theo cách tương tự, chính năng lực chọn lọc bao quát, vốn là một tia sáng của Chân ngã, gom lại với nhau từ những kiếp sống, thời gian, và nơi chốn khác nhau, các hình ảnh trong trí khả dĩ phù hợp. Chúng có thể được tập hợp trong chỉ một kiếp sống hoặc trong chỉ một sự kiện. Qua sự tập hợp này mà có những điều kiện thấy rõ trong thân xác, và những hoàn cảnh bên ngoài. Từ đó, linh hồn được giáo huấn và rèn luyện.

Just as the dynamic mind-images of desire ripen out in bodily conditions and circumstances, so the far more dynamic powers of aspiration, [395] wherein the soul reaches toward the Eternal, have their fruition in a finer world, building the vesture of the spiritual man.”

Những hình ảnh mạnh mẽ trong trí của dục vọng chín muồi thành những tình trạng trong cơ thể và hoàn cảnh sống. Tương tự, những năng lực mạnh mẽ hơn của nguyện vọng tinh thần, mà trong đó linh hồn [395] hướng đến cái Vĩnh cửu, cũng tạo quả trong một thế giới thanh cao hơn, hình thành lớp áo của con người tinh thần.”

10. Desire to live being eternal, these mind-created forms are without known beginning.

10. Lòng ham sống vốn vĩnh cửu, không thể biết được lúc khởi đầu của những hình thể này, vốn do cái trí tạo ra.

Another term which might be used in connection with the words “desire to live” is “the will to experience.” Inherent in the informing self-conscious lives of our system (those existences who are superhuman and human) is this desire to be, this longing to become, this urge to contact the unknown and the distant. The explanation of this urge, being cosmic and dependent upon the evolutionary standpoint of that great Life in whom we live and move and have our being and in Whose body every form is but a cell or atom, is impossible for us to comprehend. All that a man can do is to build the mechanism which will make this comprehension possible, and to develop those powers which will enable him to contact and thus be en rapport with that which lies both without and within him. When this becomes possible he awakes to the realization that those desires which drive and impel him to action, those longings which force him into varied activities are something which are not only personal and real, but which are also part of the activity of the whole of which he is a tiny part. He discovers that the stream of desire-impelled mind images which occupy his attention and form the motive power of his life are formulated by himself, [396] but are also part of a stream of cosmic mind images arising in the Universal Mind, as the result of the activity of that cosmic Thinker who functions as the Life of our solar system.

Có thể dùng một thuật ngữ khác thay cho “lòng ham sống” là “ý muốn trải nghiệm.” Các sinh linh tự thức có khoác hình thể trong thái dương hệ chúng ta (giới siêu nhân và giới nhân loại) đều có lòng ham sống vừa kể. Đây là sự khao khát muốn trở thành, là sức thôi thúc muốn tiếp xúc với những gì chưa biết và xa lạ. Ý nghĩa của sức thôi thúc này có tính cách vũ trụ và tùy thuộc vào quan điểm tiến hóa của Đấng cao cả mà trong cơ thể của Ngài chúng ta đang sống, di chuyển và hiện tồn. Trong đó, mọi hình thể đều chỉ như một tế bào hay nguyên tử. Vì thế chúng ta không thể hiểu được sức thôi thúc nói trên. Tất cả những gì mà mỗi người có thể làm là tạo nên một cơ cấu để có thể thấu hiểu được nó. Y cũng cần phát triển những năng lực để có thể giao tiếp và hòa hợp với những gì ở bên ngoài và ở nội tâm của mình. Khi có thể thực hiện được điều này, y bắt đầu nhận thức được rằng những ý muốn thôi thúc y hành động, những nỗi khao khát khiến y phải có những hoạt động khác nhau, thì không chỉ có tính cách cá nhân và hiện thực, mà cũng là thành phần trong sự vận hành của cái toàn thể mà y chỉ là một phần bé nhỏ trong đó. Y khám phá ra rằng chuỗi các hình ảnh trong trí do ý muốn thôi thúc được y chú ý và trở thành động cơ trong cuộc sống của mình là do chính y tạo nên. [396] Thế nhưng, chúng cũng là một phần trong chuỗi các hình tư tưởng vũ trụ, phát sinh từ Trí tuệ Vũ trụ. Chúng là kết quả sự hoạt động của Người suy tưởng cấp vũ trụ đang hoạt động với tư cách là Sự sống của thái dương hệ chúng ta.

Thus the truth and teaching which has been formulated in the three previous books is lifted from the realm of the personal and the individual, and becomes wider, broader and more general. For the human unit the mind images, the result of desire and of thought action are therefore without known beginning. They surround him on all sides, the stream of their activity beats upon him at all times and draws forth from him that response which bears witness to the existence of desire within himself.

Thế là những chân lý và giáo huấn đã được diễn đạt trong ba quyển trước, nay được nâng cao hơn phạm vi của cá nhân và cá thể, và trở nên rộng lớn hơn, và bao quát hơn. Vì thế, mỗi người đều thấy rằng các hình ảnh trong trí, vốn là kết quả của ý muốn và tác động của tư tưởng, thì không thể biết được khởi điểm. Chúng bao bọc y từ mọi phía, và luôn luôn tác động đến y. Chúng khiến y có sự đáp ứng, chứng tỏ rằng vốn có sự ham muốn ở trong y.

Therefore for him there must come two new activities; first, that of transmuting and transcending those desires and longings for sensuous perception which are found within himself, and secondly the task of insulating himself or isolating himself from the allure and influence of those greater streams of mind images which eternally exist. Thus only can he achieve the “condition of Isolated Unity” described in Book III. Sutra 50.

Thế nên, y phải có hai hoạt động mới. Trước hết, y phải siêu hóa và vượt lên khỏi những ham muốn và nỗi khao khát cảm nhận giác quan ở bên trong chính mình. Kế đó y phải tự bảo vệ hay giữ mình khỏi bị cám dỗ và ảnh hưởng bởi những chuỗi hình tư tưởng rộng lớn hơn, thường xuyên hiện hữu. Y chỉ có thể thực hiện điều đó khi đạt được “tâm thái Nhất như Tự tại” đã bàn trong Quyển III. Câu 50.

11. These forms, being created and held together through desire, the basic cause, personality, the effective result, mental vitality or the will to live, and the support of the outward-going life or object, when these cease to attract, then the forms cease likewise to be.

11. Những hình thể này, được tạo ra và tập hợp lại qua sự ham muốn, là cái nguyên nhân căn bản, qua phàm tính, là cái hậu quả thực sự, qua sức sống của cái trí hay là ý chí muốn sống, được hỗ trợ bởi sự sống hướng ngoại hay đối tượng. Khi những điều vừa kể không còn hấp dẫn, thì các thể nói trên cũng không tồn tại.

This sutra expresses a law of nature, and is so clear that but little explanation is needed. It [397] might be of value, however, if we analyzed briefly the teaching given here.

Câu kinh này phát biểu một định luật của thiên nhiên, và khá rõ ràng nên không cần giải thích nhiều. Tuy nhiên, [397] cũng nên phân tích vắn gọn về phần giáo huấn ở đây.

We learn that four factors contribute to the existence of mind-images, or the forms which come into being as the result of the desire nature.

Chúng ta biết rằng có bốn yếu tố góp phần tạo nên các hình ảnh của cái trí, hay là các hình thể sinh ra với tính cách là kết quả của bản chất ham muốn.

1. The basic cause………………….desire

1. Nguyên nhân căn bản………….sự ham muốn.

2. The effect or result……………….personality.

2. Hậu quả hay kết quả …………..phàm tính.

3. The will to live…………………….mental vitality.

3. Ý chí muốn sống………………….sức sống của cái trí.

4. The outward going life…………..the object.

4. Sự sống hướng ngoại……………đối tượng.

When the cause, desire, has produced its effect, the personality or form aspect of man, then as long as the will to live exists, so long will the form persist. It is kept in manifestation through mental vitality. This has been demonstrated time and again in the annals of medicine, for it has been proven that as long as the determination to live persists so will be the probable duration of the physical plane life, but that the moment that will is withdrawn, or the interest of the dweller in the body is no longer centered upon personality manifestation, death ensues and the disintegration of that mind-image, the body, takes place.

Khi nguyên nhân, là lòng ham muốn, đã tạo nên hậu quả của nó, là phàm tính, tức là phương diện hình thể của con người, thì bấy giờ ngày nào ý chí muốn sống còn tồn tại, hình thể ấy vẫn được duy trì. Nó được giữ cho biểu hiện qua sức sống của cái trí. Điều này đã được chứng tỏ biết bao lần trong lịch sử y khoa. Người ta thấy rằng ngày nào bệnh nhân còn quyết tâm muốn sống, thì khả dĩ thời gian sống ở cõi trần sẽ kéo dài. Thế nhưng, khi ý chí ấy bị rút lại, hoặc khi sinh linh trú ngụ trong cơ thể không còn tập trung chú ý vào việc biểu hiện qua phàm tính, thì sự chết xảy ra. Bấy giờ, cơ thể, là hình ảnh của cái trí, bèn tan rã.

It is interesting to note the occult meaning conveyed in the words “the support of the outward going life, or object” for it substantiates the occult teaching that the life stream passes downward from the originating cause and finds its object or final manifestation in the vital or etheric body which is the true substance of every form, and which constitutes the support or scaffold of the dense physical vehicle.

Ý nghĩa huyền bí của nhóm từ “được hỗ trợ bởi sự sống hướng ngoại, hay đối tượng” thật thú vị. Nó nói lên giáo huấn huyền môn về dòng sống tuôn xuống từ nguyên nhân phát khởi đến với đối tượng hay là sự biểu lộ cuối cùng của nó trong thể dĩ thái hay thể sinh lực. Thể này là thực chất của mọi hình thể, là giá đỡ hay chiếc giàn của thể xác.

These four factors can be well divided into [398] two groups or pairs of opposites, the cause and the effect, the will to be and the true form or object.

Bốn yếu tố kể trên cũng có thể được chia thành hai nhóm hay các cặp đối cực. [398] Đó là nguyên nhân và hậu quả, là ý chí sinh tồn và hình thể hay đối tượng thực sự.

For a long period in the evolutionary process the object or form-existence is the sole interest of the indweller, and the outward going life becomes the sole centre of attraction.

Trong một thời kỳ tiến hóa lâu dài, đối tượng hay sự hiện hữu của hình thể là mối quan tâm duy nhất của sự sống ẩn bên trong. Đồng thời, sự sống hướng ngoại cũng là tâm điểm hấp dẫn duy nhất.

But as the wheel turns and experience after experience is entered into, the desire nature reaches satiety and is satisfied, and little by little the formulating of mind images and the production of their effects come to an end. Form consequently ceases, objective manifestation is no longer sought after, and liberation from maya or illusion takes place.

Tuy nhiên, khi bánh xe tiến hóa xoay vần và các kinh nghiệm tích lũy, sự ham muốn dần dần được thỏa mãn. Sự biểu đạt của các hình ảnh trong trí và việc tạo quả của chúng cũng từ từ ngưng dứt. Bấy giờ, hình thể thôi hiện hữu, sự sống không còn tìm kiếm cuộc biểu hiện ở ngoại giới, và được giải thoát khỏi ảo ảnh hay ảo tưởng.

12. The past and the present exist in reality. The form assumed in the time concept of the present is the result of developed characteristics, and holds latent seeds of future quality.

12. Quá khứ và hiện tại hiện tồn trong thực tại. hình thể có được trong khái niệm thời gian của hiện tại là kết quả của những đặc tính đã phát triển. Trong đó có ẩn tàng những chủng tử của phẩm tính tương lai.

In this sutra the three aspects of the Eternal Now are formulated for us and it is seen that what we are today is the product of the past, and that what we shall be in the future is dependent upon the seeds either latent and hidden, or sown in the present life. That which has been sown in the past exists and nothing can arrest or stop those seeds from coming to fruition. They must bear fruit in this present life or be concealed until a more favorable soil and more suitable condition can cause them to germinate, unfold, grow and flower forth into the clear light of day. There [399] is nothing hidden or concealed which shall not be revealed nor anything secret which shall not be made known. The sowing of fresh seeds, and the originating of activities which must bear fruit at a later date is, however, a different matter and one more completely under the control of the man. By the practice of dispassion and of non-attachment, and by the strenuous control of the desire nature it becomes possible for the man to re-orient himself so that his attention is no longer attracted outward by the stream of mind-images but is withdrawn, and fixed one-pointedly upon reality.

Câu kinh này đề cập đến ba phương diện của Hiện tại Vĩnh cửu. Chúng ta thấy rằng những gì mình có hiện nay là sản phẩm của quá khứ. Trong khi đó, những gì chúng ta sẽ có trong tương lai thì tùy thuộc vào các chủng tử ẩn giấu hay ẩn tàng, hoặc được gieo trồng trong hiện kiếp. Những gì ta đã gieo trong quá khứ thì nay vẫn còn, và không điều gì có thể ngăn chặn các chủng tử ấy trong tiến trình tạo quả. Chúng phải mang lại quả báo trong kiếp sống này, hoặc bị che lấp cho đến khi có được mảnh đất thích hợp hơn. Bấy giờ những điều kiện thích hợp hơn có thể giúp chúng nẩy mầm, khai mở, tăng trưởng và nở hoa trong cuộc sống thường nhật. Không điều gì [399] bị ẩn giấu hay che khuất mà sẽ không được bộc lộ. Không điều gì bí ẩn mà không được người ta biết đến về sau. Việc gieo trồng những hạt giống mới, và phát khởi các hoạt động tất phải tạo quả về sau. Tuy nhiên, đó là một vấn đề khác và nó hoàn toàn ở trong khả năng kiểm soát của mỗi người. Bằng cách thực hành hạnh vô dục và buông xả, và khi cố gắng kiểm soát các ham muốn, mỗi người có thể tự chuyển hướng. Nhờ đó sự chú ý của y không còn bị thu hút hướng ngoại bởi chuỗi các hình ảnh của cái trí. Bấy giờ nó được rút vào trong, và chuyên chú vào thực tại.

This is first attempted through the control of the vehicle of thought, the mind, and the conquest of the modifications of the thinking principle, and then the work of using that mechanism and its employment in right directions and for the achieving of knowledge of the soul-realm instead of the matter realm proceeds. Thus again liberation is brought about.

Đây là bước đầu cố gắng để kiểm soát cái trí là khí cụ của tư tưởng, nhằm chế ngự các biến thái của nguyên khí tư duy. Bấy giờ mới có thể tiến hành sử dụng thể trí, dùng nó đúng hướng, và để đạt sự hiểu biết về lĩnh vực của linh hồn thay vì cõi giới vật chất. Bằng cách đó, hành giả được giải thoát.

13. The characteristics, whether latent or potent, partake of the nature of the three gunas (the three qualities of matter).

13. Các đặc trưng, dù tiềm ẩn hay biểu lộ, đều có tính chất của ba guna (ba đặc tính của vật chất).

The characteristics are in reality the qualities, capacities and faculties which the man is manifesting or can manifest (given the right conditions). These are, as we have seen, the result or the effects of his entire past experience carried over the entire cycle of lives up to date. The product of the contacts, unfoldments and developments which have governed him from the earliest [400] dawn of his individuality until the present life-cycle, produce what he is and has, in the present. It must be borne in mind that all these factors which are summed up under the general title of “characteristics” are concerned with the form and its responsiveness to the indwelling spiritual life.

Các đặc trưng vừa kể thực sự là những phẩm tính, năng lực và khả năng mà mỗi người đang phát biểu hoặc có thể phát biểu (khi hội đủ điều kiện). Như chúng ta đã thấy, chúng là kết quả hay hậu quả của toàn bộ kinh nghiệm quá khứ của người ấy, được mang theo qua tất cả các kiếp sống cho đến ngày nay. [400] Hiện nay người ấy như thế nào, đang có những gì đều là sản phẩm của các giao tiếp, khai mở và phát triển vốn đã chi phối y từ khi có cá tính cho đến kiếp sống này. Cần lưu ý rằng tất cả những yếu tố kể trên được gọi chung là “các đặc trưng” vốn liên quan đến hình thể và khả năng ứng đáp của nó với sự sống tinh thần nội tại.

They are produced just as rapidly as the spiritual Indweller can set his impress upon the substance of those forms, bend them to his will, control and subject them. Form has certain vibratory activities of its own, inherent in its own nature. By identification with the form and utilization of it, the Indweller develops a dual set of characteristics. One set demonstrates in the form of the lower self and concerns the adaptability of the form to inner influence, and to outer environment. The other concerns tendencies, impulses and desires which tend to affect permanently the body of the higher, or causal Self. Hence these characteristics are in both cases concerned with the rhythm or gunas of matter.

Chúng được nhanh chóng tạo ra ngay khi Sự sống tinh thần nội tại có thể tạo ấn tượng trên chất liệu của các thể ấy, uốn nắn chúng theo ý muốn, điều khiển và chế ngự chúng. mỗi hình thể đều có những hoạt động với độ rung động riêng, do tính chất cố hữu của nó. Khi đồng hóa với thể đó và sử dụng nó, Sự sống bên trong phát triển hai nhóm đặc trưng. một nhóm biểu lộ trong thể của phàm ngã khi nó thích ứng với ảnh hưởng của nội tâm, và với môi trường bên ngoài. Nhóm kia liên quan đến các khuynh hướng, những sự thôi thúc và ý muốn nhằm vĩnh viễn ảnh hưởng đến thể của Chân ngã, hay là thể nguyên nhân. Vì thế các đặc trưng vừa kể trong cả hai trường hợp đều liên quan đến nhịp điệu hay các guna của vật chất.

It might be said that what we are is the product of the past and shows as the characteristics of the form of the personality. What we shall be in the next incarnation is decided by the ability of the true man to influence that personal self, bend it to the higher ends and raise its rate of vibration. Man is one thing when he enters into incarnation; he is another when he passes out of incarnation, for he is then the product of the past, plus the achievement of the present life, and that achievement under the great evolutionary urge inevitably has carried him forward towards [401] a sattvic or rhythmic, harmonious condition, and away from the tamasic condition of inertia, of immobility. This is achieved through the imposition of the characteristics of activity, the middle guna, and that which predominantly controls the outward-going activity and drives the man into sensuous experience.

Có thể nói rằng tình trạng của chúng ta hiện nay là sản phẩm của quá khứ, và biểu lộ các đặc trưng hình thể của phàm nhân. Tình trạng chúng ta sẽ có trong kiếp tới được quyết định bởi khả năng của chân nhân có thể ảnh hưởng được phàm ngã ấy, có thể uốn nắn nó theo những mục đích cao siêu và nâng cao độ rung động của nó đến đâu. Khi nhập thế mỗi người đều ở trong một tình trạng nào đó. Nhưng khi từ trần, y lại ở trong tình trạng khác. Bởi vì bấy giờ y là sản phẩm của quá khứ, cùng với những gì đạt được trong hiện kiếp. Dưới sự thôi thúc của cuộc tiến hóa vĩ đại, những thành đạt ấy giúp y tiến tới, [401] hướng đến sattva, tiết điệu, hay điều hòa, và không còn tình trạng tamas, trì trệ hay bất động. Y đạt được điều này nhờ áp dụng đặc trưng hoạt động, tức là guna trung gian. Đồng thời cũng áp dụng đặc trưng chủ yếu kiểm soát hoạt động hướng ngoại và những gì khiến y đi vào kinh nghiệm giác quan.

14. The manifestation of the objective form is due to the one-pointedness of the effect-producing cause (the unification of the modifications of the chitta or mind stuff).

14. Sự biểu hiện của hình thể bên ngoài là do sự hội tụ của cái nguyên nhân tạo quả (tổng hợp các biến thái của chitta hay trí tuệ chất).

The urge towards involution or towards form taking is so dominant and so one-pointedly the result of the egoic thought that it makes objective manifestation inevitable. The chitta or mind stuff (in the great process of form appropriation) is so thoroughly unified and the desire to experience through physical plane contacts is so dominant, that the many modifications of the mind are all turned towards the same object.

Sức thôi thúc tiến hóa giáng hạ hay là hướng đến việc khoác lấy hình thể, quá mạnh và kết quả tư tưởng của chân ngã tập trung đến mức sự biểu hiện khách quan là không thể tránh. Bấy giờ, chitta hay trí tuệ chất (trong tiến trình rộng lớn của việc chiếm hữu hình thể) trở nên hoàn toàn thống nhất. Ý muốn trải nghiệm qua các giao tiếp ở cõi trần cũng trở nên rất mạnh. Vì thế mà nhiều biến thái của cái trí đều được hướng đến cùng mục tiêu.

When the condition is reversed and the man on the physical plane effects his own liberation, it is also by the same method, one-pointedness and unification. The old commentary makes this clear in certain lines found in relation to the symbolism of the five-pointed star. They are as follows:

Khi tình trạng này được đảo ngược, và hành giả ở cõi trần thực hiện việc tự giải thoát, thì y cũng dùng chính phương pháp, sự nhất tâm và thống nhất vừa kể. Cổ luận có mấy dòng giải rõ vấn đề này theo ý nghĩa biểu tượng của ngôi sao năm cánh, như sau đây:

“The plunge is downward into matter. The point descends, darts through the watery sphere and pierces into that which looms inert, immobile, darkling, silent and remote. The point of fire and stone unite, and harmony and union on the downward path are reached. [402]

“Đây là sự giáng nhập vào vật chất. Tia lửa phóng hạ, xuyên qua môi trường nước, và thấu đến những gì có vẻ trì trệ, bất động, tối tăm, im lặng và tách biệt. Tia lửa kết hợp với đất đá, và đạt mức hợp nhất và hòa hợp trên con đường giáng hạ. [402]

“The flight is upward into spirit. The point ascends, lifting the two behind and reaching out the three and four towards that which lies behind the veil. The water fails to quench the point of fire; thus fire meets fire and blends. Harmony, union on the upward arc are reached. Thus shall the sun move northward.”

“Nay con đường hướng lên, quay về tinh thần. Tia lửa thăng thượng, nâng cái hai ở phía sau, ra khỏi ba và bốn, hướng về những gì ẩn sau bức màn che. Nước không thể làm cho tia lửa này lắng dịu. Thế rồi lửa gặp lửa và hòa hợp. Đã đạt sự điều hòa, hợp nhất trên cung thăng thượng. Từ đó, mặt trời di chuyển về hướng bắc.

15. These two, consciousness and form, are distinct and separate; though forms may be similar, the consciousness may function on differing levels of being.

15. Hai cái vừa kể, tâm thức và hình thể, thì phân biệt và riêng biệt. Dù hình thể khả dĩ tương tự, tâm thức có thể hoạt động trên những cấp sinh hoạt khác nhau.

This sutra should not be considered apart from the succeeding one, which predicates the fact of the one Mind, or the one Life being the potent cause of all differentiated lesser minds and lives. This must ever be realized. Three main thoughts therefore lie involved in this sutra.

Không nên xem xét câu kinh này tách rời với câu trên. Vì câu trên xác nhận sự thực về Trí tuệ duy nhất, hay Sự sống duy nhất. Đó là nguyên nhân chính yếu của tất cả các trí tuệ và sự sống khác đã biến phân ở cấp thấp hơn. Cần nhận thức rõ điều đó. Thế nên, trong câu kinh này có ba tư tưởng chính.

First, that there are two main lines of evolution, that which concerns matter and form, and that which concerns the soul, the consciousness aspect, the thinker in manifestation. For each of these the path of progress differs and each pursues its course. As has been noted, for a long period of time, the soul identifies itself with the form aspect and endeavors to follow the “Path of Death” for that is what the dark path is in fact to the thinker. Later, through strenuous effort, this identification ceases; the soul becomes aware of itself, and of its own path, or dharma, and follows then the way of light and of life. It should ever be borne in mind, however, that for the two aspects their own path is the right path and that the impulses which lie hidden in the physical vehicle [403] or in the astral body are not in themselves wrong. They became wrong from certain angles when twisted from their right use, and it was this realization that led the disciple in the Book of Job to cry out and say “I have perverted that which was right.” The two lines of development are separate and distinct, and this every aspirant has to learn.

Thứ nhất, có hai đường hướng tiến hóa chính. một đàng liên quan đến vật chất và hình thể. Đàng kia liên quan đến linh hồn, phương diện tâm thức, là người suy tưởng đang biểu hiện. mỗi đường hướng này có cách tiến bộ khác nhau, theo tiến trình riêng. Như trước đây đã bàn, qua thời gian lâu dài linh hồn tự đồng hóa với phương diện hình thể và cố gắng đi theo “Con đường của sự Chết.” Vì đối với người suy tưởng, đó là ý nghĩa của con đường tăm tối. Về sau, qua nỗ lực nhọc nhằn, sự đồng hóa này ngưng dứt. Linh hồn bắt đầu tự thức, và hiểu con đường, hay thiên chức, của mình, rồi đi theo đường lối của ánh sáng và sự sống. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng hai phương diện này đều theo đường lối đúng và riêng của chúng. Và chính các xung lực ẩn trong thể xác hoặc thể cảm dục thì chẳng có gì sai quấy cả. [403] Chúng trở nên sai quấy đến mức nào đó khi bị dùng sai. Đó là nhận thức khiến người đệ tử trong Sách Job kêu lên “Tôi đã đi lệch con đường chính.” Hai đường hướng phát triển này có tính cách khác biệt và riêng biệt. Đây là điều mà mọi người chí nguyện cần phải học.

When this is grasped, he seeks to aid the evolution of his forms in two ways; first by refusing to identify himself with them, and secondly, by stimulating them.

Khi hiểu được điều này, y tìm cách giúp các thể của mình tiến hóa bằng hai lối. một là không còn tự đồng hóa với chúng, và hai là kích thích chúng.

Through the bringing in of spiritual force, he will also realize the point in evolution at which his brothers stand, and cease to criticize them for what may be to him wrong action, but which is for them the natural activity of the form during the cycle wherein form and soul are identified and considered the same.

Khi sử dụng mãnh lực tinh thần, y cũng sẽ nhận thức được trình độ tiến hóa của người huynh đệ. Y không còn chỉ trích họ về điều mà đối với y là một hành động sai. Thế nhưng đối với họ đó là một hoạt động tự nhiên của hình thể trong chu kỳ mà hình thể và linh hồn được đồng hóa và xem như nhau.

The second main line of thought involved in Sutra 15 is more difficult to express. It lends colour and veracity to the contention of many thinkers that things exist and have form and activity only in so far as the mind of the thinker formulates them. In other words, that through the modifications of our own thinking principle we build our own world, and create our own environment. The inference, therefore, is that (given the one basic substance, spirit-matter) we weave it into forms by our own thought impulses. Others perceive that which we see, because some of the modifications of their minds are analogous to ours and their reactions and impulses are similar [404] in some respects. Yet no two people see an object in exactly the same way. “Things” or forms of matter do exist; they are created or in process of creation and for them some mind or minds are responsible. It becomes then a question as to who is responsible for the thought forms by which we are surrounded. Dvivedi’s commentary and translation leans more to this second line of thought than does the paraphrase of the Tibetan, and it is of profit to study it, for in the approach of many minds to a problem, its magnitude can be appreciated, idle and light conclusions are avoided, and approximation to truth becomes possible. The synthetic point of view is nearer to universal truth than is the specialized. He says: “Though things are similar, the cause of mind and things is distinct in consequence of the difference of minds.” “The preceding considerations establish, in an indirect manner, the existence of things as objects external to the mind. The Vijnanavadi-Buddhas who maintain that things are but the reflections of our thinking principle, would object to such a position. The objection could not bear examination, for the existence of things apart from the thinking principle is certain. Though there is, indeed, complete similarity among objects of the same class, still the way in which the objects affect the mind, and the way in which the mind is affected by them, are entirely distinct. Hence objects exist out of the thinking principle. Though objects are similar they are not presented to different minds in the same light, which shows [405] that they are apart from the mind. Again, we often hear more than one person saying that he has seen the same object as is seen by another. This would prove that though the object is one, the cognizers are many. This circumstance proves the distinction of the object and the mind. Again the seer and the sight, i. e., the mind and the object or the instrument of knowledge and the object of knowledge cannot be one and the same, for then all distinctive knowledge will be impossible, which, however, is absurd. To attempt a solution of this difficulty by saying that eternal vasana of the form of external objects is the cause of all our distinctive knowledge is useless, for that which has already spent itself cannot become the cause. Hence objective existence must be granted as independent of the subject. Nor should it be imagined how one substance (viz. Prakriti) could produce in this case all the multifarious differences of our experience, for the three gunas and their various combinations in different degrees are enough to account for all that. In the case of Yogins properly enlightened it is but proper that knowledge having produced in them supreme Vairagya they do not care for the gunas, which also assume a state of equilibrium and produce no effect.”

Đường hướng tư tưởng chính thứ hai bao gồm trong Câu 15 thì khó giải thích hơn. Nó xác nhận sự thật trong lời khẳng định của nhiều nhà tư tưởng khi họ cho rằng các sự vật chỉ hiện hữu và có hình thể cũng như hoạt động đến mức mà cái trí của người suy tưởng diễn đạt chúng. Nói cách khác, qua các biến thái của nguyên khí tư duy của mình, chúng ta tạo nên thế giới của riêng mình, và tạo nên môi trường sống của chính mình. Vì thế, có thể suy ra (với chất liệu cơ bản duy nhất, tinh thần-vật chất) rằng chúng ta dệt nó thành các hình thể bởi các xung lực tư tưởng của chính mình. Những người khác nhận thức được những điều chúng ta thấy, vì một số biến thái trong thể trí của họ cũng tương đồng với các biến thái đó của chúng ta. Đồng thời họ cũng có những phản ứng và sự thôi thúc tương tự trong một số phương diện. [404] Vậy mà không có hai người nào nhìn cùng một đối tượng theo cách hoàn toàn giống nhau. “Các sự vật” hay hình thể vật chất vẫn hiện hữu. Chúng được tạo ra hay đang trong tiến trình được tạo ra do một hay nhiều cái trí. Từ đó có câu hỏi ai đã tạo nên những hình tư tưởng đang bao quanh chúng ta. Phần luận giải và chuyển dịch của Dvivedi thiên về đường hướng thứ hai này của tư tưởng hơn là cách chuyển ngữ của Chân sư Tây Tạng, vì thế mà cần nên nghiên cứu. Bởi vì khảo hướng của nhiều người về một vấn đề, sẽ giúp lượng giá được tầm vóc của nó, tránh được những kết luận vội vàng, hời hợt, và có thể tiếp cận với chân lý nhiều hơn. Quan điểm tổng hợp thì gần gũi với chân lý phổ quát hơn là cái nhìn chuyên biệt. Ông nói: “Dù các sự vật có tương tự nhau, nguyên nhân của hoạt động trí tuệ và các sự vật vốn khác nhau do những dị biệt trong trí tuệ mọi người. “một cách gián tiếp, những điều xem xét nói trên trên cho thấy rằng các sự vật hiện hữu như những đối tượng ở bên ngoài cái trí. Những người theo trường phái Duy thức thì cho rằng các sự vật chẳng qua là phản ảnh của nguyên khí tư duy trong chúng ta. Chắc hẳn họ sẽ phản đối nhận xét vừa rồi. Sự phản đối này không thể đứng vững qua khảo sát, vì chắc chắn là các sự vật vốn hiện hữu bên ngoài nguyên khí tư duy. Thực vậy, dù các vật thể cùng loại có hoàn toàn giống nhau, cách chúng ảnh hưởng đến cái trí, và cách mà cái trí chịu ảnh hưởng của chúng vẫn hoàn toàn khác biệt. Do đó, các vật thể vốn hiện hữu bên ngoài nguyên khí tư duy. Dù các vật thể có giống nhau, những người có trí tuệ khác nhau sẽ không nhận biết chúng như nhau. Điều này cho thấy rằng chúng riêng biệt với cái trí. Ngoài ra, chúng ta cũng thường nghe nhiều người nói rằng người này thấy cùng một vật như người kia đã thấy. Điều này chứng tỏ rằng dù có một vật thể duy nhất, vẫn có nhiều người nhận biết được nó. Trường hợp này cho thấy sự khác biệt giữa vật thể ấy và cái trí. [405] Hơn nữa, người tri kiến và sự tri kiến, tức là cái trí và đối tượng, hay là khí cụ của sự hiểu biết và đối tượng của hiểu biết cũng không thể là một và duy nhất. Vì nếu như thế, thì không thể có những sự hiểu biết khác nhau. Tất nhiên, đây là điều vô lý. Nếu cố gắng giải thích nan đề này bằng cách nói rằng các tập khí, hay thói quen cũ, vốn có trong hình thể của các ngoại vật là nguyên nhân của tất cả các hiểu biết khác biệt giữa chúng ta, thì cũng vô ích. Bởi vì những gì đã tự tàn lụi thì không thể trở thành nguyên nhân. Do đó, phải xem sự hiện hữu khách quan là độc lập với chủ thể. Trong trường hợp này, cũng không nên tưởng tượng cách nào mà chất liệu duy nhất (tức là Prakriti hay vật chất nguyên thủy) có thể tạo nên vô số khác biệt trong kinh nghiệm của chúng ta. Bởi vì ba guna và những kết hợp trong mọi cấp độ khác nhau của chúng cũng đủ giải thích được lý do. Trong trường hợp các nhà yogi đã giác ngộ, thì chính sự hiểu biết đó đã mang lại trong họ hạnh vô dục và sự từ bỏ hết sức cao siêu. Vì thế, họ không còn bận tâm đến các guna, và đạt đến trạng thái quân bình, nên không tạo quả.”

The third line of thought deals more specifically with the realization aspect, or with the condition of awareness of the indwelling thinker and is therefore of immediate practical value to the student of Raja Yoga. It involves certain questions which might be expressed as follows: [406]

Dòng tư tưởng thứ ba nghiên cứu nhiều hơn về phương diện nhận thức, hay là tình trạng ý thức của người suy tưởng ở nội tâm. Vì thế nó thực sự hữu ích cho các môn sinh Raja Yoga. Nó bao gồm một số câu hỏi có thể đặt ra sau đây: [406]

1. On what level of being or of realization (for the thought is identical to the occult student) do I function?

1. Tôi đang hoạt động ở cấp độ nào của cuộc sống và nhận thức (vì tư tưởng chứng tỏ trình độ của người môn sinh huyền bí)?

2. Do I identify myself with the form or with the soul?

2. Tôi tự đồng hóa với hình thể hay đồng nhất với linh hồn?

3. Which path am I following, the high way of the soul, or the low way of matter?

3. Tôi đang đi theo con đường nào, con đường cao cả của linh hồn hay con đường thấp kém của vật chất?

4. Am I in a transition period, wherein my realization is being transferred from the lower to the higher consciousness?

4. Có phải tôi đang ở giai đoạn chuyển tiếp, trong đó nhận thức của tôi đang chuyển từ tâm thức cấp thấp lên cấp cao hơn?

5. Though in the body, is it just my instrument, and am I awake on another plane of awareness?

5. Dù tôi đang ở trong thân xác, có phải nó chỉ là khí cụ của tôi, và tôi đang tỉnh thức trên một cảnh giới khác của ý thức?

These, and similar questions are of profound value to the aspirant, if asked sincerely and he builds and creates his own environment served truthfully, as in the presence of God and of the Master.

Những câu hỏi này và những câu hỏi tương tự đều rất có giá trị đối với người tìm đạo, nếu được đặt ra một cách thành thực và trả lời một cách đúng thực, như khi y đang đứng trước Thượng Đế và Chân sư.

16. The many modifications of the one mind produce the diverse forms, which depend for existence upon those many mind impulses.

16. Nhiều biến thái của trí tuệ duy nhất tạo nên những hình thể khác nhau. chúng tồn tại tùy thuộc vào các xung lực trí tuệ vừa kể.

In these words, the whole concept is swung out of the realm of the particular into the kingdom of universals. We are brought face to face with cosmic and solar impulses and the smallness and littleness of our individual problem becomes apparent. Every form in manifestation is the result of God’s thought; every objective vehicle through which the life impulses of the universe flow is produced and kept in objective manifestation through the steady flow of thought currents emanating from one stupendous cosmic thinker. His mysterious ways, His secret hidden plan, the [407] great purpose towards which He is working in this solar system, is as yet not apparent to man. However, as man’s capacity to think in large terms, as his power to visualize the past as a whole, and to unify what knowledge he has of the life of God as it works through the kingdoms of nature, and as his understanding of the nature of consciousness grows, the will of God (based on loving activity) will become apparent.

Trong câu kinh này, trọn cả khái niệm của nó được đưa ra khỏi lĩnh vực của những gì cá biệt, đi vào thế giới của các yếu tố đại đồng. Chúng ta đối diện với những xung lực cấp thái dương và vũ trụ. Và từ đó, thấy rõ những vấn đề của cá nhân mình thật là bé nhỏ làm sao. mọi hình thể đang biểu hiện đều là kết quả tư tưởng của Thượng Đế. mọi phương tiện trong thế giới khách quan mà qua đó các xung lực của dòng sống của vũ trụ đang tuôn chảy đều được tạo ra và giữ trong cuộc biểu hiện khách quan nhờ những dòng tư tưởng liên tục phát xuất từ người suy tưởng duy nhất và vĩ đại ở cấp vũ trụ. Con người vẫn còn chưa biết rõ những đường lối bí nhiệm của Ngài, kế hoạch ẩn tàng và bí mật của Ngài, [407] và mục đích lớn lao mà Ngài nhắm đến khi đang hoạt động trong thái dương hệ này. Tuy nhiên, con người ngày càng phát triển năng lực suy tư trong phạm vi rộng lớn. Y dần dần có khả năng hình dung quá khứ như một toàn thể. Y cũng sẽ có khả năng tổng hợp những hiểu biết của mình về sự sống của Thượng Đế đang hoạt động xuyên qua các giới tiến hóa của thiên nhiên. Và y sẽ thấu hiểu tính chất của tâm thức. Bấy giờ y sẽ hiểu rõ ý chí của Thượng Đế (đặt trên hoạt động yêu thương).

The clue to the how and the why lies in man’s comprehension of his own mental activities. An appreciation of God’s great thought form, a solar system and its maintenance, will grow as man comprehends his own thought forms and the way he builds and creates his own environment and colours his own life. He constructs his own worlds by the power of his mental processes and the modifications of that fragment of the universal thinking principle which he has appropriated for his own use.

Khi hiểu được các hoạt động trí tuệ của mình, y sẽ biết được manh mối để thấu đáo các vấn đề nói trên. Khi lượng giá hình tư tưởng vĩ đại của Thượng Đế, là thái dương hệ và việc duy trì hệ thống này, người ta sẽ hiểu được các hình tư tưởng của chính mình. Y cũng hiểu được bằng cách nào mình xây dựng và tạo nên môi trường sống của mình và tô điểm cuộc đời của riêng mình. Y kiến tạo thế giới của chính mình bằng năng lực của các tiến trình trí tuệ và những biến thái của một mảnh nhỏ thuộc nguyên khí tư duy vũ trụ mà y sở hữu để sử dụng.

The solar Logos, God, let it be remembered, is the sum total of every state of consciousness or awareness. Man,—humanity as a whole, or an individual unit—is part of that total. The many minds, from the mind of the atom (recognized by science) to the mind of God Himself, through all grades of thinkers and stages of awareness, are responsible for every form found in our system. As we work from the infinitely small to the infinitely great, from the microcosm to the macrocosm, a gradually expanding state of consciousness and a steadily increasing condition of awareness becomes apparent. In this scale of development [408] three outstanding types of forms are found, as the result of mind;

Cần lưu ý rằng Đức Thái dương Thượng Đế bao gồm mọi trạng thái tâm thức hay ý thức. Con người, − cả nhân loại, hay một cá nhân − đều là thành phần của cái toàn thể ấy. Vô số thể trí, từ cái trí của hạt nguyên tử (được khoa học nhận biết) đến trí tuệ của chính Thượng Đế, qua tất cả các đẳng cấp những người suy tưởng và các giai đoạn ý thức, đều là nguyên do sản sinh mọi hình thể có trong thái dương hệ chúng ta. Khi nghiên cứu từ cái vô cùng nhỏ đến cái vô cùng lớn, từ tiểu vũ trụ đến đại vũ trụ, trạng thái tâm thức của chúng ta từ từ rộng mở, và tình trạng ý thức của mình ngày càng liên tục tăng cường rõ rệt. Trong sự phát triển tuần tự này [408] có ba loại hình thể chính được phát sinh nhờ trí tuệ:

1. The form of the atom, the true microcosm.

1. Hình thể của hạt nguyên tử, thực sự là tiểu vũ trụ.

2. The form of man, the macrocosm for all the subhuman kingdom.

2. Hình thể của con người, là đại vũ trụ đối với tất cả các giới tiến hóa kém nhân loại.

3. The form of God, a solar system, the macrocosm for man and all the superhuman stages.

3. Hình thể của Thượng Đế, một thái dương hệ, là đại vũ trụ đối với con người và tất cả các giai đoạn tiến hóa hạ đẳng.

All these forms, with all intermediate forms are dependent upon some life, endowed with the capacity to think, and through thought impulse to modify and influence sentient substance, and build it into forms.

Tất cả các hình thể nói trên, với các dạng trung gian đều tùy thuộc vào một sự sống nào đó, được phú cho năng lực tư duy. Và qua xung lực của tư tưởng sự sống ấy biến đổi và ảnh hưởng đến vật chất có tri cảm, và dùng nó tạo nên các hình hài, sắc tướng.

17. These forms are cognized or not, according to the qualities latent in the perceiving consciousness.

17. Những hình thể này được nhận biết hay không, là tùy theo các phẩm tính ẩn tàng trong cái tâm nhận thức.

This has been translated most ably by Charles Johnston in the words:

Câu kinh này được Charles Johnston dịch rất hay như sau:

“An object is perceived or it is not perceived, according as the mind is, or is not, tinged with the colour of the object.”

“một vật thể được nhận thức hay không là tùy theo cái trí đã có nhuốm màu sắc của nó hay chưa.”

We see what we are ourselves; we become aware of that in other forms which is developed in ourselves. We fail to see aspects of life because as yet in ourselves, those aspects are undeveloped and latent. To illustrate: we fail to see the divine in our brother because as yet the divine in ourselves is uncontacted and unknown; the form aspect and its limitations are developed in us and the soul is so hidden that we only become aware of the form of our brother, and fail to see his soul. The moment we contact our own soul and live by its light we see the soul of our brother, [409] become aware of his light and our entire approach to him is changed.

Chúng ta thấy những gì mà mình đang có. Chúng ta ý thức được những gì trong các hình thể khác mà chúng ta đã phát triển. Chúng ta không thấy được một số khía cạnh trong đời sống, vì trong chúng ta các khía cạnh ấy còn ẩn tàng và chưa phát triển. Ví dụ như, chúng ta không thấy được phẩm tính thiêng liêng trong tâm người huynh đệ của mình, vì ta chưa giao tiếp và biết được thiên tính ấy nơi mình. Phương diện hình thể và các giới hạn của nó đã phát triển trong chúng ta, và linh hồn còn tiềm ẩn đến mức chúng ta chỉ ý thức được hình thể của người huynh đệ mà không thấy được linh hồn của họ. Ngày nào chúng ta tiếp xúc với linh hồn của mình, và sống trong ánh sáng của linh hồn, thì bấy giờ ta sẽ thấy được linh hồn của người huynh đệ. Chúng ta sẽ ý thức được ánh sáng [409] của họ, và hoàn toàn thay đổi cách tiếp cận với họ.

Herein lies the clue to our limitations. Herein lies the promise of our success. Latent faculty, when developed, will reveal to us a new world. The hidden powers of the soul when brought to full expression will make us aware of a new world and reveal to us a scheme of life and a kingdom of being hitherto negated by us, because not seen. Hence the need for every investigator of the mysteries of existence to bring to his search his full equipment, and hence the necessity therefore for this process of soul unfoldment to be carried forward and potential faculties to be developed if the truth in its fullness is ever to be realized.

Đây là manh mối các hạn chế của chúng ta. Đây cũng là triển vọng thành công của chúng ta. Các quan năng ẩn tàng, khi được phát triển, sẽ hé lộ cho ta thấy một thế giới mới. Các quyền năng tiềm ẩn của linh hồn khi phát biểu viên mãn sẽ giúp ta ý thức được thế giới mới, một lối sống mới và vương quốc mới. Những cái đó từ trước đến nay chúng ta phủ nhận vì không thể thấy. Thế nên, những ai khảo cứu các bí nhiệm của đời sống đều cần được trang bị đầy đủ cho cuộc tìm kiếm của mình. Do đó mà cần thực hiện tiến trình này để khai mở linh hồn và phát triển các quan năng ẩn tàng, nếu họ muốn nhận thức chân lý đến mức viên mãn.

18. The Lord of the mind, the perceiver, is ever aware of the constantly active mind stuff, the effect-producing cause.

18. Vị chúa của trí tuệ, là người nhận thức, bao giờ cũng biết đến cái trí tuệ chất đang hoạt động liên tục, là cái nguyên nhân tạo quả.

We have in this sutra a statement which is the key to effective and safe meditation work. The one who meditates is the soul, the ego, and his work is a positive activity, not a negative state or condition. Much of the work done under the name of meditation is dangerous and useless, because that which seeks control is the man on the physical plane, and his endeavour is concentrated on the attainment of brain stillness. He seeks to quiet the brain cells, and render them negative, quiescent and receptive. True meditation, however, concerns the soul and the mind; the receptivity of the brain is an automatic reaction to the higher condition. In Raja Yoga, therefore, contact [410] with the true man, the ego, and the power to “still the modifications of the thinking principle” must precede all brain activity and responsiveness. The Lord of the mind is ever awake, ever aware of the tendency of the mind to respond to force currents, produced by thought or desire; he therefore watches every emanation of force issuing from him, and controls every thought and impulse so that only those streams of energy and those impulses originate with him which are in line with the purpose held constantly in view, and in pursuance of the group plan.

Trong câu kinh này có nói lên điều then chốt để hành thiền an toàn và hiệu quả. Người tham thiền là linh hồn, là chân ngã. Công việc của linh hồn là hoạt động tích cực, chứ không phải là tình trạng tiêu cực. Phần lớn những điều được làm dưới danh nghĩa tham thiền đều nguy hiểm và vô ích. Bởi vì tác nhân tìm cách điều khiển tiến trình lại là phàm nhân ở cõi trần. Y đang cố gắng tập trung nhằm đạt được sự yên tĩnh của não bộ. Y tìm cách làm cho các tế bào não yên lặng, khiến chúng trở nên tiêu cực, im lặng và thụ cảm. Tuy nhiên, tham thiền đích thực thì liên quan đến linh hồn và thể trí. Sự thụ cảm của não bộ là phản ứng tự động đối với điều kiện ở cấp cao hơn. Vì thế, trong Raja Yoga, việc giao tiếp với chân nhân, [410] chân ngã, và năng lực “làm yên lặng các biến thái của nguyên khí tư duy” phải có trước mọi hoạt động và ứng đáp của não bộ. Vị Chúa của cái trí bao giờ cũng tỉnh thức, bao giờ cũng ý thức được khuynh hướng của cái trí ứng đáp với các dòng mãnh lực, được tạo ra do tư tưởng hay dục vọng. Vì thế người trông chừng mọi sự phóng phát mãnh lực từ chính mình, và kiểm soát mọi tư tưởng và sức thôi thúc. Do đó, người chỉ cho phát ra những dòng năng lượng và các xung lực nào phù hợp với mục đích đang được liên tục nhắm đến, và đúng với kế hoạch của tập thể.

It must never be forgotten that all egos work in group formation and under the direct control of those Thinkers who embody the divine logoic thought. The work every aspirant, therefore, seeks to do is to bring the brain consciousness in line with that thought which reaches him via his own soul-consciousness, and in the consummation of this, the divine plan is gradually worked out into manifestation on the physical plane.

Bao giờ cũng cần lưu ý rằng tất cả các chân ngã đều làm việc trong hình thức nhóm, và dưới sự điều hành trực tiếp của những Người suy tưởng thể hiện ý tưởng thiêng liêng của Thượng Đế. Vì thế, điều mà mọi người chí nguyện cần làm là khiến cho ý thức của não bộ phù hợp với tư tưởng đến với y qua tâm thức linh hồn của mình. Khi điều này được thành tựu, thiên cơ sẽ dần dần được biểu hiện ở cõi trần.

As each son of God brings the active mind stuff for which he is responsible into such a condition that it becomes responsive to divine thought, then will the plan of the ages be carried to a conclusion. No man need despair because of his seeming incompetence or apparent littleness for to each of us is entrusted some part of the plan and we must work it out; without our cooperation there comes delay and confusion. Sometimes there comes much trouble when a tiny part of a big mechanism refuses to function correctly. Frequently much adjustment is needed before the complete machine [411] can go forward successfully in its work, and in the realm of human cooperation an analogous situation is apt to occur.

Mỗi người con của Thượng Đế đều đưa trí tuệ chất năng động của mình vào điều kiện có thể ứng đáp với ý tưởng thiêng liêng. Nhờ đó, mà thiên cơ qua các thời đại được xúc tiến đến mức hoàn thành. Không ai nên cảm thấy thất vọng vì thấy mình có vẻ thiếu khả năng hay quá nhỏ bé. Bởi vì mỗi người trong chúng ta đều được giao phó cho một phần của thiên cơ, và chúng ta cần phải làm tròn phận sự của mình. Nếu chúng ta không hợp tác thì chắc hẳn sẽ có chậm trễ và xáo trộn. Đôi khi, có hư hỏng lớn xảy ra chỉ vì một bộ phận nhỏ trong cơ cấu rộng lớn không hoạt động đúng chức năng. Thường thì cần phải điều chỉnh rất nhiều trước [411] khi trọn cả guồng máy đó có thể tiếp tục vận hành tốt đẹp. Tình trạng tương tự cũng thường xảy ra trong phạm vi hợp tác của con người.

The constantly active mind stuff can respond to the lower vibration, emanating from the three-fold lower man and to the higher impulse, issuing from the soul, as the intermediary between spirit and matter. The soul is ever aware of this condition; man on the physical plane is blind to it or just awaking to the dual possibility. The work of the aspirant to union is to swing the mind stuff gradually and increasingly under the higher impulse and away from the lower vibration, until the responsiveness to the higher becomes a stable condition and the vibratory activity of the lower man fades and dies out.

Trí tuệ chất năng động liên tục và có thể ứng đáp với những rung động thấp độ phát xuất từ ba hạ thể phàm nhân, và với ảnh hưởng cao siêu phát xuất từ linh hồn, vốn là trung gian giữa tinh thần và vật chất. Linh hồn bao giờ cũng biết được tình trạng này. Trong khi đó phàm nhân ở cõi trần thì không hề biết, hoặc chỉ mới ý thức được rằng khả dĩ có tình trạng nhị nguyên. Công việc của người chí nguyện hướng đến hợp nhất là dần dần đưa trí tuệ chất vào ảnh hưởng cao siêu nhiều hơn và xa rời các rung động thấp. Rồi đến lúc sự ứng đáp với ảnh hưởng cao siêu trở nên ổn cố, và rung động của phàm nhân tàn lụi dần.

19. Because it can be seen or cognized, it is apparent that the mind is not the source of illumination.

19. Vì chúng ta có thể thấy hay biết được nó, nên rõ ràng cái trí không phải là nguồn giác ngộ.

This sutra and the two following give us a typical oriental approach to a very difficult problem, and this method of reasoning is not an easy one for western minds to grasp. In the six schools of Hindu philosophy this whole problem of the source of creation and of the nature of the mind is dissected and discussed and so completely covered that practically all our modern schools can be regarded as outgrowths or logical sequential results of the varied Hindu positions. The clue to the diversity of opinions on these two points may perhaps be found in the six types into which all human beings fall, for the seventh is but the synthesis [412] of them all and inclusive, not exclusive.

Câu kinh này và hai câu tiếp theo cho chúng ta khảo hướng tiêu biểu của Đông phương về một vấn đề rất khó khăn. Phương pháp suy luận này không phải dễ cho người tìm đạo Tây phương thấu hiểu. Trong sáu trường phái của triết học Ấn giáo, toàn bộ vấn đề về nguồn sáng tạo và bản chất của cái trí được phân tích và bàn thảo đến mức rốt ráo. Vì thế, thực tế có thể xem tất cả các trường phái hiện nay của chúng ta đều được triển khai từ các thành quả có trình tự logic của những luận điểm khác nhau trong Ấn giáo. Sở dĩ có rất nhiều ý kiến khác nhau về hai điểm nói trên có thể là do sáu hạng người trong toàn nhân loại. Vì hạng thứ bảy chỉ là tổng hợp [412] và bao gồm, chứ không loại trừ, tất cả các hạng kia.

In the Yoga Sutras, the mind is relegated simply to the position of an instrument, of an intermediary, of a sensitive plate, registering either that which pours into it from above or that which affects it from below. It has no personality of its own; it has no life or light of its own, except that which is inherent in all substance and therefore to be found in the atoms which constitute the mind stuff. These latter, being along the same evolutionary line as the rest of the lower nature, swell the tide of material forces which seeks to hold the soul prisoner, and constitute the great illusion.

Trong Yoga Điển tắc, cái trí chỉ được xem là một khí cụ, một phương tiện trung gian, một vật nhạy cảm. Nó ghi nhận những gì tuôn đổ vào nó từ cấp cao hoặc ảnh hưởng đến nó từ cấp thấp. Nó không có tự tính. Nó không có sự sống hay ánh sáng riêng biệt, ngoại trừ những gì cố hữu trong toàn thể vật chất, vì thế mà có trong các nguyên tử tạo thành trí tuệ chất. Các nguyên tử này đang đi theo đường hướng tiến hóa giáng hạ như những nguyên tử khác. Chúng tăng cường triều sóng các mãnh lực vật chất đang giam nhốt linh hồn, và tạo nên đại ảo tưởng.

The mind, therefore, can be cognized in two directions: first, it can be known, recognized and seen by the thinker, the soul on its own plane, and secondly, it can be seen and known as a vehicle of the man on the physical plane. For a long time man became that with which he identified himself to the exclusion of the true spiritual man, who can be known, contacted and obeyed once the mind is relegated to its rightful place as an instrument of knowledge.

Thế nên, chúng ta có thể thấy cái trí theo hai chiều hướng. Thứ nhất, người suy tưởng hay linh hồn trên cảnh giới của mình có thể thấy, biết và nhận thức được nó. Thứ hai, nó có thể là khí cụ của phàm nhân ở cõi trần. Trong thời gian lâu dài, phàm nhân trở thành những gì mà nó tự đồng hóa, mà xa rời chân ngã tinh thần. Chỉ đến khi cái trí được thấy đúng là một khí cụ để hiểu biết, thì bấy giờ phàm nhân mới có thể biết, giao tiếp và tuân phục chân ngã.

A physical plane analogy may help here. The eye is one of our major senses, that whereby we acquire knowledge, a medium through which we see. We, however, do not make the mistake of regarding the eye itself as a source of light and as that which produces revelation. We know it as an instrument which is responding to certain light vibrations whereby certain information is conveyed anent the physical plane to our brain, [413] that great receiving plate upon the physical plane. To the soul, the mind acts also as an eye or a window through which information comes, but is not itself the source of light or illumination.

Có thể lấy một ví dụ tương tự ở cõi trần. mắt là một trong các giác quan chính yếu của chúng ta. Nhờ nó chúng ta thu thập kiến thức, và thấy được mọi sự. Tuy nhiên, chúng ta không hề nhầm lẫn mà cho rằng mắt tự nó là một nguồn ánh sáng và nó mang lại sự khải thị. Chúng ta biết rằng nó chỉ là một dụng cụ ứng đáp với một số rung động của ánh sáng. [413] Từ đó những thông tin nhất định về cõi trần được chuyển đến não bộ, là trạm tiếp nhận quan trọng ở cõi trần. Đối với linh hồn, cái trí cũng đóng vai trò của mắt hay một cửa sổ để nhận thông tin qua đó. Thế nhưng chính nó không phải là nguồn ánh sáng hay giác ngộ.

It is interesting here to note that as the brain and the mind became coordinated, (as was first the case in Lemurian days) the sense of sight was simultaneously developed. As evolution proceeds, a higher coordination takes place, and the soul and the mind become at-oned. Then, that organ of subtle vision (the third eye) begins to function, and instead of mind, brain, and two eyes, another triplicity supersedes and we have soul, mind and the third eye. The brain, therefore, is not the source of illumination but becomes aware of the light of the soul and of what it reveals in the realm of the soul. The third eye simultaneously develops and admits its possessor into the secrets of the subtler realms in the three worlds, so that the brain receives illumination, information and knowledge from two directions; from the soul via the mind, and from the subtler planes in the three worlds via the third eye. It should be remembered here that the third eye reveals primarily the light to be found in the heart of every form of divine manifestation.

Điều thú vị cần lưu ý là khi não bộ và cái trí được phối hợp (lần đầu tiên vào thời kỳ Lemuria) thì thị giác cũng đồng thời phát triển. Theo dòng tiến hóa, một sự phối hợp cao hơn xảy ra, và linh hồn được nhất quán với cái trí. Bấy giờ, cơ quan thị giác tinh vi (là con mắt thứ ba) bắt đầu hoạt động. Trước đây chúng ta có bộ ba là cái trí, não bộ và đôi mắt thường, thì nay chúng được thay thế bởi bộ ba gồm linh hồn, cái trí và con mắt thứ ba. Vì thế, não bộ không phải là nguồn giác ngộ. Nó dần dần ý thức được ánh sáng của linh hồn và những gì mà ánh sáng ấy làm hiển lộ trong lĩnh vực của linh hồn. Con mắt thứ ba cũng đồng thời phát triển và giúp người sở hữu nó thấy được những điều bí ẩn của các lĩnh vực tế vi trong tam giới. Do đó, não bộ nhận được ánh sáng khai ngộ, các thông tin và hiểu biết từ hai chiều hướng. Từ linh hồn, qua thể trí, và từ những cõi tế vi trong tam giới, qua con mắt thứ ba. Ở đây cần ghi nhớ rằng con mắt thứ ba chủ yếu làm hiển lộ ánh sáng có trong tâm của mọi hình thể biểu hiện thiêng liêng.

20. Neither can it know two objects simultaneously, itself and that which is external to itself.

20. Nó cũng không thể đồng thời biết hai đối tượng, chính nó và những gì ở ngoài nó.

None of the sheaths through which the soul functions has self-knowledge; they are only the channels through which knowledge is gained and [414] life experience undergone. The mind does not know itself, for that would predicate self-consciousness, and therefore not having individual consciousness it is unable to say “this is I, myself, and this is external to me, and consequently the not-self.” It is simply another sense whereby information is gained and a further field of knowledge revealed. It is naught but an instrument, as said before, capable of a dual function, registering contacts from one of two directions and transmitting that knowledge to the brain from the soul or to the soul from the lower man. This must be meditated upon and the whole trend of one’s endeavor be to bring that instrument into such a condition that it can be used to the best possible advantage. This is what the three last means of yoga seek to do. As this has been covered earlier it is needless to enlarge upon this here.

Những lớp áo mà linh hồn hoạt động xuyên qua đó đều không tự biết được chúng. [414] Chúng chỉ là những phương tiện để thu thập kiến thức và nếm trải các kinh nghiệm sống. Cái trí không tự biết nó, vì nếu thế sẽ có nghĩa là nó tự ý thức. Do đó nó không có tâm thức cá tính và không thể nói “đây là tôi, chính tôi, và đây là cái bên ngoài tôi, và vì thế không phải là tôi.” Nó chỉ đơn thuần là một giác quan khác để thu thập thông tin và làm hiển lộ thêm một lĩnh vực hiểu biết. Nó không là gì khác hơn một khí cụ, như đã nói trên. Nó có thể thực hiện hai chức năng. Đó là ghi nhận các giao tiếp từ một trong hai chiều hướng, và chuyển sự hiểu biết đó đến não bộ từ linh hồn hoặc đến linh hồn từ phàm nhân. Cần phải suy ngẫm điều này, và hành giả phải cố gắng thế nào để tạo điều kiện cho khí cụ ấy được sử dụng một cách lợi ích nhất có thể. Đây là điều mà ba phương tiện cuối của yoga cố gắng thực hiện. Điều này đã được bàn ở phần trước nên ở đây không cần phải quảng diễn thêm.

21. If knowledge of the mind (chitta) by a remoter mind is postulated, an infinite number of knowers must be inferred, and the sequence of memory reactions would tend to infinite confusion.

21. Nếu mặc nhiên công nhận rằng cái trí (chitta) có thể được biết bởi một cái trí khác ở xa cách nó, thì tất phải có vô số thực thể hiểu biết, và trình tự các phản ứng của ký ức hẳn sẽ bị vô cùng lẫn lộn.

One of the explanations of the functions of the mind is to predicate its capacity to detach itself from itself and view itself as a thing apart. In this way, it becomes a confusion of detached parts, remote from each other and leading (as the idea is carried forward to a logical conclusion) to a chaotic condition. All this has risen from the refusal of orthodox thinkers along philosophical and mental [415] lines to admit the possibility of there being an entity, detached and apart from the mind who simply seeks to use it as a means to knowledge. The problem has arisen very largely from the fact that this thinker cannot be known until the mind is developed; he can be sensed and felt by the mystic and the devotee but knowledge of him (in the usual significance of the term) is not available until the instrument of knowledge, the mind, has been developed. Here is where Eastern knowledge comes in and clarifies the work so marvellously done by the mental and Christian scientists. They have emphasized the fact of mind, individual and universal, and our debt to them is great. The nature of mind, its purpose, control, its problems and processes are subjects of common discussion today whereas one hundred years ago this was not the case. But with it all, much confusion remains as the result of our modern tendency to deify the mind and to regard it as the one important factor. Eastern science comes to our rescue and says to us that back of the mind is the thinker, back of perception, the perceiver is to be found, and behind the object of observation lies the one who observes. This perceiver, thinker and observer is the immortal imperishable ego, the soul in contemplation.

Một trong những cách giải thích những chức năng của cái trí là cho rằng nó có thể tự tách rời chính nó và nhìn thấy nó như một vật khác. Nếu thế, sẽ có sự lẫn lộn của những phần tách rời nhau, xa cách nhau. Và tình trạng này sẽ trở nên hỗn loạn (khi ý tưởng này được tiếp tục theo một kết luận logic). Tất cả những điều vừa kể đã phát sinh từ việc các nhà tư tưởng thông thường theo những đường hướng triết học và trí tuệ từ chối, [415] không thừa nhận việc khả dĩ có một thực thể, riêng biệt và khác với thể trí, chỉ đơn thuần sử dụng nó như một phương tiện để hiểu biết. Vấn đề này đã phát sinh phần lớn là do người ta không thể biết người suy tưởng ở nội tâm nếu trí tuệ của họ chưa phát triển. Nhà thần bí và người sùng tín có thể cảm nhận và cảm thấy người suy tưởng. Thế nhưng, họ vẫn chưa hiểu biết được người (biết theo ý nghĩa thường dùng của từ này) nếu cái trí, là khí cụ để hiểu biết, nhân và của vũ trụ, và đóng góp của họ thật đáng ca ngợi. Ngày nay, mọi người đang bàn đến những vấn đề như tính chất của cái trí, mục đích của nó, cách chế ngự nó, những vấn đề và các tiến trình của nó. Trong thế kỷ trước, điều này chưa hề xảy ra. Thế nhưng, nói chung vẫn còn nhiều lẫn lộn vì hiện nay người ta có khuynh hướng tôn thờ cái trí và xem nó là nhân tố quan trọng duy nhất. Khoa học Đông phương cứu giúp chúng ta và cho chúng ta biết rằng ẩn phía sau cái trí là người suy tưởng; ẩn sau sự nhận thức là người nhận thức; và đằng sau đối tượng của sự quan sát có người quan sát. Người nhận thức, người suy tưởng và người quan sát này chính là chân ngã bất tử và bất hoại, là linh hồn đang nhập định.

22. When the spiritual intelligence, which stands alone and freed from objects, reflects itself in the mind stuff, then comes awareness of the self.

22. Khi sự thông tuệ tinh thần, vốn độc lập và thoát khỏi mọi đối tượng, tự phản ánh trong trí tuệ chất, bấy giờ hành giả trực thức được chân ngã.

This spiritual intelligence, which is the real [416] man, the Son of God, eternal in the Heavens, is known by many and varied names, according to the school of thought. The appended list of synonyms is of value to the student, for it gives him a broader vision and an inclusive understanding, revealing to him the fact that the Sons of God, revealed or unrevealed, are everywhere to be found.

Sự thông tuệ tinh thần này, vốn là chân nhân, người Con của Thượng Đế, [416] vĩnh cửu trong trong cõi thiêng liêng, được gọi với nhiều danh hiệu khác nhau, tùy theo trường phái tư tưởng. Danh sách các từ đồng nghĩa dưới đây sẽ hữu ích cho người môn sinh. Nhờ đó y có tầm nhìn rộng mở, khả năng thấu hiểu bao quát, thấy rõ sự kiện thực tế rằng những Người con của Thượng Đế vốn có ở khắp nơi, dù đã hiển lộ hay chưa.

The spiritual Intelligence.   The inner Ruler          The Word made Flesh.

The Soul.         The second aspect.    The AUM.

The self-conscious Entity    The second Person.   The Thinker.

The Christ.      God in incarnation.  The Observer, Perceiver.

The Self            The Son of Mind.        The Form builder.

The higher Self.          The divine Manasaputra.     Force.

The Son of God.          The Agnishvattva     The Dweller in the body.

Sự Thông tuệ Tinh thần.

Đấng Ngự trị ở nội tâm.

Linh từ Hiện thể.

Linh hồn.

Trạng thái thứ hai.

AUM.

Thực thê tự thức.

Ngôi hai.

Người suy tương.

Đấng Christ.

Thượng Đê nhập thế.

Người quan sát, Người nhận thức.

Chân ngã.

Người Con của Trí tuệ.

Người kiến tạo Hình thể.

Cái Ta cao siêu.

Vị Manasaputra thiêng liêng.

Mãnh lực.

Con của Thượng Đế.

Vị Agnishvattva.

Vị an trú trong cơ thể.

These and many other terms will be found scattered throughout the scriptures and literature of the world. In no book, however, is the nature of the soul, whether macrocosmic (the cosmic Christ), or microcosmic (the individual Christ), so wonderfully portrayed as in the Bhagavad Gita and in the three books, the Bhagavad Gita, the New Testament and the Yoga Sutras is contained a complete picture of the soul and its unfoldment.

Các thuật ngữ vừa kể và nhiều thuật ngữ khác được dùng rải rác trong tất cả các kinh điển và sách vở trên thế giới. Tuy nhiên, không nơi nào mà bản tính của linh hồn, dù ở cấp đại vũ trụ (Đấng Christ vũ trụ), hay cấp tiểu vũ trụ (Đấng Christ cá nhân), đã được minh họa một cách tuyệt diệu như trong Chí Tôn Ca. Đồng thời, trong ba tác phẩm, Chí Tôn Ca, Kinh Tân ước Yoga Điển tắc có nêu hình ảnh đầy đủ của linh hồn và sự khai mở của linh hồn.

23. Then the mind stuff, reflecting both the knower and the knowable, becomes omniscient.

23. Bấy giờ, trí tuệ chất phản ánh cả người tri thức và cái được hiểu biết, trở nên toàn tri.

This sutra is in the nature of a summation and emphasizes the fact that the mind, being stilled and quiescent through the practise of concentration [417] and meditation, becomes the reflector of “that which is above and of that which lies below.” It is the transmitter of the knowledge of the self to the physical brain of the man in incarnation, and the transmitter also of all that which the self knows and perceives. The field of knowledge is seen and known. The knower is also perceived, and the “perception of all objects” becomes possible. It becomes literally true, therefore, that for the yogin nothing remains hidden or unknown. Information on all subjects becomes possible to him, for he has an instrument which he can use to ascertain that which the soul knows concerning the Kingdom of God, the realm of spiritual truth. He can also enter into communication and convey to the soul that which is known to the man in physical incarnation. Thus the knower, the field of knowledge and knowledge itself are brought into conjunction and the medium of this union is the mind.

Câu kinh này có bản chất của một sự tổng kết và nhấn mạnh thực tế rằng thể trí, được làm tĩnh lặng và ổn định thông qua việc thực hành chuyên định [417] và tham thiền, trở thành bộ phản chiếu của “cái ở trên và cái nằm bên dưới”. Đó là phương tiện truyền tải tri thức của chân ngã đến bộ não thể xác của con người đang lâm phàm, và cũng là phương tiện truyền tải tất cả những gì chân ngã biết và nhận thức. Trường tri thức được nhìn thấy và được biết đến. Thức giả cũng được nhận ra, và “sự nhận thức về tất cả các đối tượng” trở nên khả thi. Do đó, theo nghĩa đen, đối với hành giả yoga không còn gì bị che giấu hoặc chưa được biết đến. Thông tin về mọi đề tài trở nên khả thi đối với vị ấy, vì vị ấy có một công cụ mà vị ấy có thể sử dụng để xác định điều mà linh hồn biết liên quan đến Thiên Giới, cõi chân lý tinh thần. Vị ấy cũng có thể thiết lập liên lạc và chuyển đến linh hồn điều mà con người ở trong hiện thân thể xác biết được. Như vậy, thức giả, trường tri thức và chính tri thức được kết hợp với nhau và phương tiện của sự hợp nhất này chính là thể trí.

This is one great stage upon the path of return, and though in due time the intuition will supersede the mind, and direct spiritual perception take the place of mental perception, yet this stage is an advanced and important one, and opens the door to direct illumination. Nothing need now hinder the downflow of spiritual force and wisdom into the brain, for the entire lower threefold man has been purified and dominated, and the physical, emotional and mental bodies form simply a channel for the divine light, and constitute the vehicle through which the life and love of God may manifest. [418]

Thế nhưng, giai đoạn này vẫn là một giai đoạn quan trọng ở trình độ cao. Nó mở ra cánh cửa của giác ngộ trực tiếp. Nay không điều gì có thể ngăn trở mãnh lực và minh triết tinh thần tuôn đổ vào não bộ. Vì trọn cả phàm nhân tam phân đều được tinh luyện và chế ngự. Thể xác, thể tình cảm và thể trí trở thành đơn thuần là đường dẫn truyền cho ánh sáng thiêng liêng, và là trung gian cho sự sống và nguồn bác ái của Thượng Đế biểu hiện. [418]

24. The mind stuff also, reflecting as it does an infinity of mind impressions, becomes the instrument of the Self and acts as a unifying agent.

24. Với khả năng phản ánh vô số ấn tượng của trí tuệ, trí tuệ chất cũng là khí cụ của chân ngã, và có vai trò là tác nhân thống nhất.

Nothing remains for the spiritual man to do in connection with this purified lower self but to learn to use his instrument, the mind, and through it the other two bodies are directed, controlled and utilized. Through the eight means of yoga his instrument has been discovered, developed and mastered and must now be brought into active use, and employed in three ways.

Chân ngã tinh thần không còn điều gì phải làm liên quan đến phàm ngã đã tinh luyện của mình, ngoài việc học cách sử dụng khí cụ của mình là thể trí. Qua thể trí, chân ngã điều khiển, kiểm soát và sử dụng hai thể kia. Qua tám phương tiện của yoga, khí cụ của chân ngã đã được khám phá, phát triển và chế ngự. Nay nó phải được tích cực sử dụng và vận dụng theo ba lối.

1. As a vehicle for the life of the soul.

1. Như một phương tiện cho sự sống của linh hồn.

2. In the service of the Hierarchy.

2. Trong công tác phụng sự Đại đoàn Chưởng giáo.

3. In cooperation with the plan of evolution.

3. Trong cố gắng hợp tác với thiên cơ tiến hóa. 

In Book I. Sutra 41, we find these words: “To him whose Vrittis (modifications of the substance of the mind) are entirely controlled there eventuates a state of identity with, and similarity to, that which is realized. The knower, knowledge and the field of knowledge become one, just as the crystal takes to itself the colours of that which is reflected in it.” This gives us a picture of what happens to the man who has mastered his instrument. He registers in his brain, via the mind, that which is true and real; he becomes aware of the nature of the ideal and bends every power which he possesses to the work of bringing that ideal into objective manifestation; he sees the vision of the kingdom of God as it will be in the latter days, and all that he has and is he renders up in order that the vision may be seen by all; [419] he knows the plan, for it is revealed to him in the “secret place upon the Mount of God,” and he cooperates with it intelligently upon the physical plane; he hears the Voice of the Silence and obeys its injunction, working steadily at the task of spiritual living in a world consecrated to things material.

Trong Quyển I. Câu 41, có nói: “Người đã hoàn toàn chế ngự các vritti (biến thái của chất liệu thể trí) rốt cuộc sẽ đi vào trạng thái đồng nhất với, và tương đồng với, những gì được y nhận thức. Người hiểu biết, sự hiểu biết và lĩnh vực hiểu biết trở thành một, giống như khối pha lê nhận màu sắc của những gì phản ánh trong nó.” Đây là hình ảnh cho thấy điều gì xảy ra nơi người đã làm chủ cái khí cụ của mình. Qua thể trí, y ghi nhận trong não bộ của mình những gì đúng và thực. Y ý thức được tính chất của điều lý tưởng và cố gắng hết sức mình để cho nó biểu hiện ở ngoại giới. Y thấy hình ảnh của Thiên giới như nó sẽ thị hiện về sau này. [419] Và y cố gắng hết sức mình để giúp mọi người thấy được hình ảnh đó. Y biết được thiên cơ, vì thiên cơ được khải thị cho y ở “nơi bí ẩn trên Đỉnh núi của Thượng Đế.” Và y cộng tác với thiên cơ một cách thông minh ở cõi trần. Y nghe Tiếng nói của Im lặng và tuân theo huấn thị đó. Y bền lòng làm việc với nhiệm vụ sống cuộc đời tinh thần, trong một thế giới đang xu phụng những điều vật chất.

All this is possible to the man who has stilled the versatile psychic nature and has mastered the kingly science of Raja Yoga.

Những ai đã bình ổn bản chất biến thiên, phóng túng của cái tâm, và đã thấu đáo khoa học ưu việt Raja Yoga, đều có thể làm tất cả những điều nói trên.

In the hidden literature of the adepts the following stanzas sum up the state of the man who has achieved, who is master and not servant, conqueror and not slave:

Trong văn khố còn giữ kín của các Chân sư có các đoạn sau đây tóm lược tình trạng của người đã thành tựu, đã là chủ nhân chứ không còn là tôi tớ, đã là người chinh phục và không còn thân phận nô lệ:

“The fivefold one hath entered into peace, yet walks our sphere. That which is dense and dark now shineth with a clear pure light, and radiance poureth from the seven sacred lotuses. He lighteneth the world, and irradiateth the nethermost place with fire divine.

“Người có năm trạng thái đã đi vào bình an, nhưng vẫn du hành trong bầu thế giới của chúng ta. Những gì thô kệch và đen tối thì nay chói rạng với ánh sáng thanh cao và thuần khiết, cùng vẻ rực rỡ, huy hoàng từ bảy hoa sen linh thánh. Y soi sáng thế giới, và dùng lửa thiêng chiếu rọi vào chốn âm ty.

That which hath hitherto been restless, wild as the ocean, turgid as the stormy sea, lies quiet and still. Limpid the waters of the lower life and fit to offer to the thirsty ones who, groping, cry of thirst.

Những gì vốn đã bất an, cuồng loạn như đại dương, trào dâng như biển khơi trong cơn bão tố, thì nay yên bình và tĩnh lặng. Những dòng nước của đời sống phàm trần nay trong trẻo và tốt lành cho những người đang lần mò, kêu gào trong cơn khao khát.

That which hath slain and veiled the Real for many lengthy aeons is itself slain, and with its death the separated life is ended. The One is seen. The Voice is heard. The Real is known, the Vision glimpsed. The fire of God leaps upward into a flame.

Những gì đã hủy diệt và che án Sự thực qua bao thời kỳ lâu dài, thì nay chính nó bị hủy diệt. Khi nó chết dứt, sự sống không còn bị chia rẽ. Đấng duy nhất hiển lộ. Tiếng nhiệm mầu trỗi lên. Sự thực phô bày, Viễn ảnh thoáng hiện. Lửa thiêng của Thượng Đế bừng lên thành ngọn lửa.

The darkest place receives the light. The dawn appears on earth. The dayspring from on high, sheds its bright beams in hell itself, and all is light and life.”

Nơi tối tăm nhất đón nhận ánh sáng. Trời đông tỏ rạng trên cõi trần gian. Ánh bình minh trên cao chiếu sáng chốn ngục tù, rồi tất cả là ánh sáng và sự sống.

Then before the liberated yogi a choice is placed. He faces a spiritual problem and its nature has been conveyed to us in the following fragment of an old esoteric catechism: [420]

Rồi một sự chọn lựa được đặt ra trước nhà yogi đã giải thoát. Y đối diện với một nan đề tinh thần mà tính chất đã được mô tả trong phần vấn đáp nội môn cổ xưa dưới đây: [420]

“What dost thou see, Oh! liberated one? Many who suffer, Master, who weep and cry for help.

“Bạn thấy gì, hỡi người đã giải thoát? Thưa Chân sư, biết bao kẻ còn đang đau khổ, khóc than và kêu xin cứu giúp.

What will thou do, Oh! man of peace? Return from whence I came.

Bạn sẽ làm gì, hỡi người đã đạt sự bình an? Trở lại nơi mà từ đó tôi đến đây.

Whence comest thou, Pilgrim divine? From the lowest depths of darkness, thence upwards into light.

Bạn từ đâu đến, hỡi Khách hành hương thiêng liêng? Từ nơi sâu thẳm, tối tăm, ở đó tôi tiến lên đi vào ánh sáng.

Where goest thou, Oh! Traveller upon the upward way? Back to the depths of darkness, away from the light of day.

Nay bạn đi đâu, hỡi Khách lữ hành trên đường hướng thượng? Trở lại những nơi sâu thẳm, tối tăm, cách xa ánh sáng của ban ngày.

Wherefore this step, Oh! Son of God? To gather those who stumble in the darkness and light their steps upon the path.

Bạn thực hiện điều này để làm chi, hỡi người Con của Thượng Đế? Để tìm kiếm những ai còn vấp ngã trong bóng tối và soi bước cho họ trên đường.

When is the term of service, Oh! Saviour of men? I know not, save that whilst one suffers I stay behind and serve.”

Vậy điều kiện của công tác phụng sự là gì, hỡi Người cứu trợ thế nhân? Tôi không biết, chỉ có điều khi còn một người đau khổ thì tôi còn ở lại và phục vụ.”

25. The state of isolated unity (withdrawn into the true nature of the Self) is the reward of the man who can discriminate between the mind stuff and the Self, or spiritual man.

25. Trạng thái nhất như tự tại (thu tâm thức vào thực tính của chân ngã) là phần thưởng cho những ai có thể phân biệt giữa trí tuệ chất và chân ngã, hay con người tinh thần.

This state of isolated unity must be regarded as the result of the attainment of a particular state of mind, rather than as a separative reaction.

Phải xem trạng thái nhất như tự tại vừa kể là kết quả của việc đạt đến một trạng thái trí tuệ đặc biệt, hơn là một phản ứng riêng rẽ.

All meditation work, all moments of reflection, all affirmative exercises, all hours of recollection of one’s true nature are means employed to detach the mind from the lower reactions and tendencies, and build in the habit of a constant realization of one’s true divine nature. When this realization is achieved, the need for such exercises ceases and one enters into one’s heritage. The isolation referred to is the detachment of the self from the field of knowledge, the involving of the refusal of the self to seek outward-going sensuous [421] experience and its standing firm in the state of spiritual being.

Mọi cố gắng hành thiền, mọi phút giây quán chiếu, mọi lối thực hành khẳng định, mọi sự hồi tưởng về chân tính của mình, tất cả đều là phương tiện được dùng để tách rời cái trí ra khỏi các phản ứng và khuynh hướng thấp thỏi. Khi nhận thức được điều này, hành giả không còn thấy cần những lối thực tập kể trên. Y đi vào di sản thiêng liêng của chính mình. [421] Sự tự tại được đề cập ở đây có nghĩa là chân ngã từ bỏ phạm vi hiểu biết, đồng thời không còn muốn hướng ngoại để tìm kiếm các kinh nghiệm giác quan. Nay chân ngã trụ vững trong sự sống tinh thần.

The man becomes conscious of himself as the knower and is no longer primarily concerned with the field of knowledge, as in the early stages of his unfoldment; neither is he engaged with knowledge itself, as during the stage of mental development either as an advanced man or as a disciple. He can discriminate between all three, and identifies himself henceforth neither with the field of knowledge, life in the three worlds through the medium of his three vehicles, and the five senses plus the mind, nor with the knowledge gained nor the experience undergone. He knows the self; he identifies himself with the true knower, and thus sees things as they are, dissociating himself entirely from the world of sensuous perception.

Hành giả tự biết mình là người tri thức, và không còn quan tâm chính yếu đến phạm vi hiểu biết, như trong các giai đoạn đầu khai mở của mình. Y cũng không còn quan tâm đến chính sự hiểu biết, như trong giai đoạn phát triển trí tuệ với tư cách người tiến hóa cao hay người đệ tử. Y có thể phân biệt giữa cả ba điều nói trên. Từ nay trở đi, y không còn tự đồng hóa với phạm vi hiểu biết, cuộc sống trong tam giới qua trung gian của ba hạ thể, và năm giác quan cùng với thể trí. Y không còn bận tâm đến những hiểu biết đã thu được hay kinh nghiệm đã nếm trải. Y biết chân ngã. Y tự đồng nhất với người tri thức đích thực, và từ đó thấy được thực tính của sự vật. Y hoàn toàn tách mình khỏi thế giới cảm nhận giác quan.

He does this, however, whilst functioning as a human being on earth. He participates in earth experience; he involves himself in human activities; he walks among men, eating and sleeping, working and living. Yet all the time he “is in the world, yet not of the world,” and of him it can be said as it was said of the Christ, “Who, being in the form of God, thought it not robbery to be equal with God: But made himself of no reputation, and took upon him the form of a servant, and was made in the likeness of men: And being found in fashion as a man, he humbled himself, and became obedient unto death, even the death of the cross.” (Phil. II. 6. 7. 8.) [422]

Tuy nhiên, y thực hiện điều này trong khi đang hoạt động như một người ở thế gian. Y tham dự vào các kinh nghiệm trần thế. Y tham gia các hoạt động của nhân loại. Y đi khắp nơi trong nhân quần xã hội, ăn và ngủ, làm việc và sống một cách bình thường. Thế nhưng, bao giờ y cũng “ở trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian.” Có thể nói về y như những lời đã nói về Đức Christ, “Người, ở trong hình thể của Thượng Đế, đã thấy không có gì là mạo phạm khi bình đẳng với Ngài: Nhưng không hề tạo danh tiếng cho mình, mà tự khoác lấy hình dạng của người tôi tớ, và hòa đồng với mọi người: Và sống với tư cách một con người, tỏ ra khiêm hạ, và tuân phục cho đến chết, dù là chết trên thập tự giá.” (Phil. II. 6. 7. 8.) [422]

He is at-one with the soul of all, but isolated off, separated from all that concerns the form or material nature. The next three sutras should be read as one, giving as they do a picture of the gradual growth of the spiritual nature in the man who has arrived at the state of discriminating detachment, and through utter dispassion, knows the meaning of isolated unity.

Người là một với linh hồn của tất cả, nhưng vẫn tự tại, không hề vướng bận đến những gì liên quan đến tính chất của hình thể hay vật chất. Nên đọc ba câu kinh tiếp theo dưới đây như một. Bởi vì chúng cho thấy sự tăng trưởng tuần tự của bản tính tinh thần trong người đã có khả năng buông xả qua phân biện, và nhờ hoàn toàn vô dục mà hiểu được ý nghĩa của tâm thái nhất như tự tại.

26, 27, 28. The mind then tends towards discrimination and increasing illumination as to the true nature of the one Self. Through force of habit, however, the mind will reflect other mental impressions and perceive objects of sensuous perception. These reflections are of the nature of hindrances and the method of their overcoming is the same.

26, 27, 28. Bấy giờ cái trí có khả năng phân biện và ngày càng thấu ngộ thực tính của chân ngã duy nhất. Tuy nhiên, do sức mạnh của thói quen, cái trí sẽ phản ánh các ấn tượng từ cõi trí và cảm nhận các đối tượng của nhận thức giác quan. những phản ánh này có tính chất  chướng ngại, thế nhưng phương pháp khắc phục chúng thì như nhau.

The right tendencies and rhythm having been set up, it becomes simply a question of steady perseverance, common sense and endurance. Unless the utmost vigilance is exerted, the old habits of mind will very easily reassert themselves, and even until the final initiation the aspirant must “watch and pray.” The rules which govern victory, the practices which bring success are the same for the advanced expert warrior and initiate as they are for the humblest neophyte. In Book II. the methods whereby the hindrances and obstacles could be overcome and negated are most carefully given and from the moment of stepping upon the probationary path until that high moment when the [423] last great initiation has been experienced, and the liberated man stands forth in the full light of day, these methods and modes of disciplined living must be adhered to unswervingly. This involves patience, the capacity to go on after failure, to persevere when success seems far away. This was well known to the great initiate, Paul, and was the cause of his injunction to the disciples he sought to help. “Stand therefore … and having done all, stand.” James gives us the same thought where he says “Behold we count them happy that endure.” It is the going on when the point of exhaustion has been reached, the taking of another step when the strength to do so seems gone, the holding steady when there seems nothing but defeat ahead, and the determination to endure whatever may be coming, when endurance has been taxed to the limit, which is the hallmark of disciples of every degree. To them goes out the clarion call of Paul:

Khi các khuynh hướng và tiết điệu đúng đắn đã được thiết lập, thì chỉ còn vấn đề bền chí, sử dụng lương tri và nhẫn nại. Nếu không hoàn toàn đề cao cảnh giác, các thói quen cũ của cái trí sẽ tái hiện rất dễ dàng. Vì thế, thậm chí cho đến cuộc điểm đạo cuối cùng người chí nguyện cũng phải “trông chừng và cầu nguyện.” Các qui tắc để chiến thắng, và những phương pháp thực hành để thành công đều như nhau cho người chiến sĩ tinh thông và tiến tiến, cũng như vị điểm đạo đồ và người tân đệ tử khiêm tốn nhất. Quyển II. đã trình bày rõ ràng, chi tiết về những phương pháp khắc phục và giải trừ các khó khăn, chướng ngại. Kể từ khi dấn bước lên con đường dự bị cho đến khi trải qua cuộc điểm đạo lớn cuối cùng, [423] được giải thoát và bước vào ánh sáng thanh thiên bạch nhật, bao giờ hành giả cũng phải tuân thủ các phương pháp và sống đúng giới luật như đã nói trên. Cố gắng này cần sự kiên nhẫn, cần khả năng tiếp tục đi tới sau khi thất bại, cần sự bền lòng vững chí khi sự thành công chừng như còn xa vời. Vị đại điểm đạo đồ, là Thánh Paul, biết điều này rất rõ. Do đó, ông trợ giúp các môn đệ với lời huấn thị “Thế nên, hãy đứng vững . . . và sau khi đã làm mọi sự, hãy đứng vững.” Thánh James cũng đưa ra ý tưởng đó khi ông nói “Thật là ân phước khi chúng ta bền chí và nhẫn nại.” Đó là vẫn tiếp tục đi tới khi đã đến mức mỏi mòn, kiệt sức. Đó là cố gắng tiến thêm một bước khi sức lực của đôi chân dường như đã hết. Đó là vẫn đứng vững khi chừng như phía trước không có gì khác hơn là thất bại. Đó là quyết tâm bền bỉ dù điều gì có thể xảy ra, khi khả năng chịu đựng đã đến giới hạn. Tất cả đều là dấu hiệu của người đệ tử ở mọi trình độ. Với họ, Thánh Paul có lời kêu gọi mạnh mẽ sau đây:

 “Stand therefore, having your loins girt about with truth, and having on the breastplate of righteousness;

“Vì thế, hãy đứng vững, với trang bị nơi mình là chân lý, và bộ áo giáp chính trực;

And your feet shed with the preparation of the gospel of peace;

Và đôi chân mang theo lời phúc âm về sự bằng an;

Above all, taking the shield of faith, wherewith ye shall be able to quench all the fiery darts of the wicked.

Trước hết, hãy giữ chiếc khiên của đức tin, nhờ đó bạn có thể vô hiệu hóa những mũi tên rực lửa của kẻ ác tâm.

And take the helmet of salvation, and the word of the Spirit, which is the word of God.” (Eph. VI. 14. 15. 16. 17.)

Hãy đội chiếc mũ cứu rỗi, và nghe theo lời nói của Tinh thần, vốn là lời của Thượng Đế.” (Eph. VI. 14. 15. 16. 17.)

The equally clear command of Krishna to Arjuna sounds out also:

Đức Krishna cũng ban huấn lệnh rõ ràng như thế đối với Arjuna:

“Having regard to thy duty, deign not to shrink back. For nothing is better for a warrior than a righteous [424] battle. And such a battle has come to thee of its own accord, a very door of heaven will be opened; happy the warriors … who find such a fight as this…. Therefore, arise, determined to do battle. Making equal good and ill fortune, gain and loss, victory and defeat, gird thyself for the fight.” (Gita II. 31. 32. 38. 37.)

“Trong khi chăm lo làm tròn nhiệm vụ, con đừng sợ hãi thối lui. Vì đối với người chiến sĩ thì không có điều gì tốt hơn là chiến đấu [424] với lòng chính trực. Và nay cuộc chiến ấy đã tự nó đến với con, một cánh cửa của thiên đường sẽ mở ra. Hạnh phúc thay cho người chiến sĩ nào . . . nhận thấy cuộc chiến ấy là như thế . . . Vì vậy, hãy đứng lên, và quyết tâm chiến đấu. Con hãy xem mọi sự đều như nhau, dù đó là cơ may hay vận rủi, được hay mất, chiến thắng hay thất bại, và tự trang bị sẵn sàng cho cuộc chiến.” (Chí Tôn Ca II. 31. 32. 38. 37.)

29. The man who develops non-attachment even in his aspiration after illumination and isolated unity becomes aware, eventually, of the overshadowing cloud of spiritual knowledge.

29. Người đã phát triển hạnh buông xả, cho dù đối với khát vọng muốn được giác ngộ và được nhất như tự tại, rốt cuộc sẽ ý thức được nguồn hiểu biết tinh thần đang tuôn đổ xuống.

It is difficult for the neophyte to be impersonal where his own spiritual unfoldment is concerned. Yet the very earnestness of his aspiration may serve as a hindrance, and one of the first things he has to learn is to go forward along the path, adhering to the rules, following the practices, employing the means and steadily fulfilling the law and at the same time to be occupied with the vision and with service and not with himself. It is so easy to be the victim of high desire and so busy with the reactions and emotions of the aspiring lower man that rapidly one is enmeshed afresh in the toils of the versatile psychic nature.

Thực khó cho người tân môn sinh giữ được lòng vô tư đối với sự khai mở tinh thần của riêng mình. Tuy nhiên, chính sự nồng nhiệt trong nguyện vọng của y cũng có thể gây chướng ngại. Vì thế, một trong những điều đầu tiên mà y phải học là tiến tới trên đường đạo, tuân thủ qui tắc, theo đúng các phương pháp thực hành, sử dụng các phương tiện, bền lòng tuân hành định luật, đồng thời chỉ chú tâm vào tầm nhìn tinh thần và công tác phụng sự, chứ không bận bịu gì đến cá nhân mình. Thật quá dễ dàng trở thành nạn nhân của sự ham muốn cấp cao, và vướng bận vào các phản ứng và xúc cảm của phàm nhân đang khát vọng. Điều đó khiến y mau lẹ và liên tục dính mắc vào cạm bẫy của tâm thái không ngừng biến đổi.

Non-attachment to all forms of sensuous perception, the high as well as the low, has to be developed.

Cần phải phát triển hạnh buông xả đối với mọi hình thức cảm nhận của giác quan, dù là cấp cao hay cấp thấp.

Many people, when they are transferring from the path of feeling and the devotional heart approach (the mystic line) on to the path of intellectual control,—the approach via the head, the occult method,—complain that the old moments of joy and bliss, experienced in meditation, [425] have gone. The system now followed seems arid, dry and unsatisfactory. But joy and peace are registrations of the emotional nature and in no way affect reality. It is immaterial from the standpoint of the soul whether its reflection, man in incarnation, is happy or not, blissful or sad, contented or in trouble. Only one thing matters, the attainment of soul contact, the arriving at union (conscious and intelligent) with the One. This union may work out in the physical plane consciousness as a sense of peace and joy; it must work out in increased capacity to serve the race and to serve it more efficiently. The feelings of the disciple are of small moment; his understanding and usefulness as a channel for spiritual force are of importance. It should be remembered that on the path neither our virtues nor our vices count (except in so far as we escape from the pairs of opposites). That alone counts which impels us forward on that path which “shineth more and more until the day be with us.” When a man can detach his eyes from all that concerns the physical, emotional and mental, and will raise his eyes and direct them away from himself, he will become aware of “the overshadowing cloud of spiritual knowledge,” or of the “raincloud of knowable things,” as it has also been translated.

Sẽ đến lúc có sự chuyển đổi từ (đường hướng của nhà thần bí) sử dụng xúc cảm và cái tâm sùng tín, sang phương pháp huyền môn, chế ngự cái trí hay là khảo hướng qua luân xa đầu. Bấy giờ có nhiều người than rằng họ đã mất đi những phút giây hỉ lạc mà trước đó họ đã thể nghiệm trong tham thiền. Những gì mà họ đang thực hành hiện nay thì dường như tẻ nhạt, khô khan và không thú vị. [425] Thế nhưng, sự an vui là các ghi nhận của tính chất tình cảm, và không hề ảnh hưởng gì đến thực tại. Theo quan điểm của linh hồn thì dù phản ảnh của nó, là phàm nhân đang nhập thế, có vui sướng hay không, hạnh phúc hay buồn khổ, hài lòng hay phiền não, cũng chẳng có gì quan trọng. Chỉ có điều duy nhất cần lưu ý là giao tiếp với linh hồn, và hợp nhất (một cách hữu thức và thông minh) với Chân thần. Sự hợp nhất này có thể biểu lộ trong tâm thức hồng trần như một cảm thức bình an và hoan hỉ. Thế nhưng, nó phải thể hiện thành năng lực phụng sự nhân loại ngày càng gia tăng và thêm hiệu quả. Người đệ tử có những xúc cảm thế nào thì không đáng kể. Chính sự biểu biết và hữu ích của y khi làm đường dẫn truyền cho mãnh lực tinh thần mới là điều quan trọng. Cần lưu ý rằng trên đường đạo các đức hạnh hay tật xấu của chúng ta đều không đáng kể (trừ việc nhờ đó mà chúng ta thoát khỏi sự chi phối của các cặp đối cực). Chỉ quan trọng là những gì giúp chúng ta tiến tới trên con đường “cứ mãi chói rạng cho đến ngày hoàn mãn.” Hành giả không nên bận tâm đến tất cả những điều liên quan đến thể xác, thể tình cảm và thể trí. Y cũng cần có tầm nhìn hướng thượng, không còn chú mục vào chính mình. Bấy giờ y sẽ ý thức được “nguồn hiểu biết tinh thần đang tuôn đổ xuống,” hay nói cách khác là “đám mây mang cơn mưa của những điều khả tri.”

Here we have, esoterically, and symbolically given, the indication that there lies before the initiate (advanced as he is) a still further progress, another veil to be penetrated. He has made a [426] great at-one-ment and has unified soul and body. He stands (as regards the three worlds) at the stage called that of isolated unity. But another union becomes possible, that of the soul, with the spirit. The Master must become the Christ and to do this the raincloud of spiritual knowledge must be reached, used and penetrated. What lies on the other side of that veil which hides the Father it is needless for us to consider. In our New Testament, when the Father communicated with the Christ, the voice issued out of a cloud. (See Matt. XVII.)

Về mặt nội môn, và theo ý nghĩa biểu tượng, ở đây chúng ta được báo cho biết rằng phía trước người điểm đạo đồ (dù đã đến trình độ cao) hãy còn có một bước tiến xa hơn, một bức màn che khác cần phải xuyên qua. [426] Y đã thực hiện được sự nhất quán quan trọng, và đã thống nhất linh hồn và hạ thể. Đối với tam giới, y đang trụ vững ở giai đoạn được gọi là nhất như tự tại. Nhưng nay khả dĩ có một sự hợp nhất khác, giữa linh hồn với tinh thần. Vị Chân sư phải trở thành Đấng Christ. muốn thế, Ngài phải đạt đến, sử dụng và xuyên qua đám mây mang cơn mưa kiến thức tinh thần. Chúng ta khỏi phải xét đến những gì ở bên kia bức màn che Đấng Cha lành. Kinh Tân ước có ghi, khi Đức Chúa Cha truyền thông với Đức Christ, tiếng nói phát ra từ một đám mây. (Xem matt. XVII.)

30. When this stage is reached then the hindrances and karma are overcome.

30. Đến giai đoạn này, các chướng ngại và nghiệp quả đã được vượt qua.

The two verses we have just studied have carried the aspirant on from the stage of adept to that of the Christ.

Hai câu chúng ta vừa nghiên cứu cho thấy người chí nguyện tiếp tục từ giai đoạn của vị chân sư đến trình độ của Đấng Christ.

All that hindered, veiled or prevented the full expression of the divine life has been overcome; all barriers are down, all obstacles removed. The wheel of rebirth has served its purpose and the spiritual unit which has entered into form, carrying with it potential powers and latent possibilities, has developed them to their full extent and unfolded the full flower of the soul. The law of cause and effect as it functions in the three worlds no longer controls the liberated soul; his individual karma comes to an end, and though he may still be subservient to group karma (planetary or solar), he himself has nothing to work [427] out nor does he initiate anything which can serve to bind him, by the chains of desire, to the three worlds. His state is summed up for us in the next sutra.

Tất cả những gì gây trở ngại, che lấp hay ngăn cản sự biểu lộ viên mãn của sự sống thiêng liêng đều đã được khắc phục. mọi rào cản đều bị san bằng, mọi trở ngại đều bị dẹp bỏ. Bánh xe luân hồi đã làm xong mục đích. Đơn vị sống tinh thần đã nhập vào hình thể, mang theo các quyền năng tiềm tàng và các khả năng ẩn tàng, đã phát triển chúng đến mức viên mãn, với đóa hoa linh hồn khai mở trọn vẹn. Luật nhân quả, vốn tác động trong tam giới, thì nay không còn chi phối linh hồn đã giải thoát. Nghiệp quả cá nhân của hành giả đã dứt. Dù có thể còn phục tùng cộng nghiệp (của hành tinh hoặc thái dương), chính y thì không có gì phải thanh toán. [427] Y cũng không phát khởi điều gì có thể trói buộc mình vào tam giới bởi xiềng xích của dục vọng. Tình trạng của y được tóm gọn trong câu kinh kế tiếp.

31. When, through the removal of hindrances and the purifications of the sheaths, the totality of knowledge becomes available, naught further remains for the man to do.

31. Khi đã giải trừ chướng ngại và tinh luyện các thể, hành giả có toàn bộ hiểu biết, và không còn điều gì phải làm thêm.

The dual work is accomplished. Those hindrances which are the result of ignorance, blindness, environment and activity have been done away with; the grossness of the sheaths has been corrected and because of this, and through following the means of yoga, all knowledge becomes available. The yogi is now aware of his essential omnipresence or that his soul is one with all souls and part therefore of the one essential unity, the one all-pervading life, the boundless immutable principle which is the cause of all manifestation. He is likewise omniscient, for all knowledge is his and all avenues of knowledge are open to him. He stands free of the field of knowledge, yet can function in it; he can utilize the instrument of knowledge and ascertain all that he seeks to know, but is himself centered in the consciousness of the knower. Neither space nor time can hold him, nor can the material form imprison him, and there comes for him the grand consummation given to us by Patanjali in his three concluding sutras: [428]

Hai công việc đã hoàn thành. Các chướng ngại do vô minh, mù quáng, do môi trường sống và hoạt động đã được giải trừ. Sự thô kệch của các thể đã được lọc sạch. Nhờ thế, và nhờ theo đúng các phương tiện của yoga, y có được mọi sự hiểu biết. Nhà yogi nay ý thức rằng trong tinh túy y vốn vô sở bất tại. Điều này có nghĩa là linh hồn của y là một với mọi linh hồn và là thành phần của cái nhất như tinh túy. Đó là sự sống duy nhất thấm nhuần tất cả, là nguyên khí vô biên và bất di bất dịch, là nguyên nhân của toàn cuộc biểu hiện. Y cũng toàn tri, vì đã hoạch đắc mọi sự hiểu biết, và mọi con đường của tri thức đều rộng mở cho y. Y hoàn toàn tự do đối với phạm vi hiểu biết, nhưng vẫn có thể hoạt động trong đó. Y có thể sử dụng cái khí cụ để hiểu biết và xác định tất cả những gì y muốn biết. Thế nhưng chính y thì tập trung vào tâm thức của người hiểu biết. Cả không gian và thời gian đều không thể cầm giữ y. Hình thể vật chất cũng không thể giam nhốt y. Y đạt sự tựu thành viên mãn trọng đại mà Patanjali mô tả trong ba câu kết của ông: [428]

“Sutra 32. The modifications of the mind stuff (or qualities of matter), through the inherent nature of the three gunas come to an end, for they have served their purpose.

“câu 32. các biến thái của trí tuệ chất (hay đặc tính của vật chất), qua tính chất cố hữu của ba guna, nay chấm dứt, vì chúng đã phục vụ xong mục đích.

Sutra 33. Time, which is the sequence of the modifications of the mind, likewise terminates, giving place to the Eternal Now.

câu 33. Thời gian, vốn là trình tự các biến thái của thể trí, cũng chấm dứt, nhường chỗ cho hiện tại Vĩnh cửu.

Sutra 34. The state of isolated unity becomes possible when the three qualities of matter (the three gunas or potencies of nature) no longer exercise any hold over the Self. The pure spiritual consciousness withdraws into the One.”

câu 34. có thể đạt đến trạng thái nhất như tự tại khi ba đặc tính của vật chất (là ba guna hay ba mãnh lực của thiên nhiên) không còn cầm giữ chân ngã. Tâm thức tinh thần thuần khiết rút vào Đấng duy nhất.

Scroll to Top