Chương 7— Chúng Tôi Du Hành Tới Ấn Độ

CHAPTER VII

Our Voyage to India— Chúng Tôi Du Hành Tới Ấn Độ.

Our interesting stay in Cairo was brought to an end by the news that our steamer, the British India s.s. Navarino, was due at Port Said on a certain date. Thither I was despatched as a kind of avant-courier, to make arrangements in advance for some special comforts for Madame Blavatsky who, with the rest of our little party, wished to avoid the canal, to have an extra day in Cairo, and to embark at Suez. This small errand I duly accomplished, and I think our Leader was fairly well satisfied with the accommodation provided, though of course it fell far short of the luxury of the larger modern vessels.

We had a full complement of passengers, and I suppose that both they and the officers were about the average crowd that one expects to meet on board an Eastern-bound boat. The Captain was perhaps a trifle unusual, for he was a very religious man, narrow and puritanical, and he not unnaturally regarded Madame with a stern disapproval which seemed strongly tinged with horror. His attitude towards our party was one of icy reserve, and during the whole voyage none of us exchanged more than a very few words with him. His officers, however, were more amenable, and I remember that Mrs. Oakley, who was an indefatigable propagandist, made friends with the third mate, Mr. Wadge, and succeeded in interesting him in Theosophy to some small extent, at any rate sufficiently to induce him to read one or two books, to attend one of our meetings at Adyar, and I think to correspond with her later.

Among the passengers were several missionaries, and they, with one exception, seemed distinctly disposed to regard us as emissaries of the Prince of Darkness. The exception was a young Wesleyan minister named Restorick, with whom I used to play deck-tennis; I found him quite friendly and reasonable, and willing to discuss without acrimony all kinds of religious matters. A very different type was an earnest but quite uneducated missionary from America, named Daniel Smith, who made no secret of the fact that he had been a bricklayer, but found the hard work and the exposure too severe for his health, and so, as he put it, the Lord had called him to preach the gospel to the heathen.

Perhaps because of his ignorance, he was apt to be aggressive, and used frequently to engage in arguments with Madame Blavatsky which were a source of great amusement to the passengers. I am afraid that our Leader took a kind of impish pleasure in entangling him in his talk and inducing him to commit himself to the most impossible theological statements. She knew the Bible far better than he did, and would constantly quote unexpected and little-known texts which drew from him the indignant protest: “That’s not in the Bible! I’m sure that’s not in the Bible!”

Then Madame Blavatsky would turn to me with deadly composure:

“Leadbeater, fetch my Bible from my cabin!” and would proceed to confound him with chapter and verse. Once he was so ill-advised as to rejoin: “Well, anyhow, I’m sure it’s not in my copy!” But the ripple of amusement which ran round among the audience warned him to avoid such a rash assertion in the future.

As we were crossing the Indian Ocean I remember walking the deck with Madame Blavatsky early one morning in all the glory of a tropical sunrise, when this worthy missionary appeared at the top of the staircase, and she at once hailed him with the words:

“Now, Mr. Smith! Look round you! See the calm shining sea, and the lovely colours! See how good your God is! Surely on such a glorious morning as this you can’t tell me that I am going to be burnt in hell for ever and ever!”

I must do the Rev. Daniel the justice to admit that he blushed deeply and looked very uncomfortable, but he stuck manfully to his guns, and replied with an evident effort:

“Well, I’m very sorry, ma’am, but I guess you will!”

Naturally Madame Blavatsky’s brilliant and powerful personality impressed itself upon the whole company, officers and passengers alike (always excepting the Captain) and whenever she chose to show herself upon deck in good weather she speedily gathered round her a kind of court of interested auditors, who asked her questions upon all sorts of subjects, and listened fascinated to her stories of experience and adventure in out-of-the-way corners of the world. At night especially they asked always for tales of the weird and supernatural, which she told so well and with such gruesome realism that her audience shuddered with delightful thrills of horror—but I noticed that they had a distinct tendency to herd together afterwards, and that none would adventure into a dark passage alone!

The Navarino was not exactly an ocean greyhound, but at long last we reached Colombo, where Colonel Olcott met us and introduced me to the leading members of the Buddhist Theosophical Society there. It was a previous generation of workers, and I suppose hardly any of the Sinhalese gentlemen who were prominent among us then are still upholding the Society’s flag on the physical plane. I remember especially the old Mohandiram (an important city official), Mr. William de Abrew (father of the well-known Mr. Peter de Abrew, who has worked so loyally for us for so many years), Mr. Don Carolis of Mutwal, Mr. J. R. de Silva (whom for some reason the Colonel always nick-named the Doctor, though that was not his profession), Mr. C. P. Gunawardana (then the Secretary of our Colombo Branch), Mr. N. S. Fernando, Mr. Wijiasekara, Mr. Hendrik de Silva, and others whose names elude me now, though their faces are still clear in my mind’s eye. After all, it is forty-six years ago, more than half of a long life-time!

Việc chúng tôi lưu ngụ lại một cách thú vị ở Cairo đã chấm dứt khi có tin chiếc tàu thủy của chúng tôi là chiếc Navarino của hãng Anh Ấn vào một ngày nào đấy sẽ cập bến Port Said. Tôi được biệt phái tới đó là một loại tiền trạm để thu xếp trước một số tiện nghi đặc biệt cho bà Blavatsky; cùng với những người còn lại trong nhóm nho nhỏ chúng tôi; bà muốn tránh đi đường kênh đào để có thêm ngày giờ ở Cairo và cặp bến ở Suez. Tôi đã hoàn thành cái chuyến đi lang thang nhỏ này và tôi thiết tưởng vị Thủ lãnh của chúng ta ắt rất hài lòng với tiện nghi được cung cấp, mặc dù dĩ nhiên nó còn kém xa phương tiện xa xỉ trên những chiếc tàu lớn hiện đại.

Chúng tôi được bổ sung hành khách cho đầy tàu và tôi giả định rằng cả hành khách lẫn thuyền viên đều là cái đám đông bình thường mà người ta trông mong gặp gỡ trên bong một chuyến tàu Đông Phương. Thuyền trưởng có lẽ hơi bất thường, vì y là một người rất mộ đạo có đầu óc hẹp hòi theo thanh giáo cho nên tự nhiên là coi bà nghiêm khắc, không đồng ý với bà và có vẻ nhuốm nhiều màu sắc sợ hãi. Thái độ của y đối với nhóm chúng tôi rất dè dặt và lạnh lùng, trong trọn cả chuyến du hành thì không ai trong chúng tôi trao đổi với y nhiều hơn vài lời, song le đám thuyền viên thì dễ chịu hơn và tôi còn nhớ rằng bà Oakley vốn là nhà tuyên truyền không mệt mỏi đã kết bạn với thuyền phó thứ ba là ông Wadge và thành công khiến cho ông ta chú ý tới Thông Thiên Học trong một chừng mực nho nhỏ, dù sao đi nữa cũng đủ khiến cho ông đọc một hai quyển sách, đến dự một buổi họp của chúng tôi ở Adyar và tôi thiết tưởng sau này có thư từ qua lại với bà.

Trong đám hành khách có nhiều nhà truyền giáo và chỉ trừ một ngoại lệ, thì họ dường như rõ rệt có xu hướng coi chúng tôi là sứ giả của ông Hoàng Bóng Tối. Ngoại lệ này là một mục sư trẻ Wasley tên là Restorick mà tôi thường chơi quần vợt trên bong với ông; tôi thấy ông rất thân thiện và hợp lý phải chăng, sẵn lòng thảo luận một cách cay đắng về đủ loại vấn đề tôn giáo. Còn một loại hình khác hẳn là một nhà truyền giáo đầy tâm huyết nhưng hoàn toàn vô học, xuất phát từ nước Mỹ tên là Daniel Smith, ông này không giấu giếm sự thật ông đã từng là thợ hồ nhưng vì thấy công việc vất vả quá và công việc dãi nắng dầm mưa gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe của mình cho nên theo lời ông Chúa đã gọi ông đi rao giảng phúc âm cho dân ngoại.

Có lẽ vì dốt nát cho nên ông thường ưa hung hăng, thường dấn thân vào những cuộc cãi lý với bà Blavatsky, đây là một nguồn giải trí hấp dẫn cho đám hành khách. Tôi e rằng thủ lĩnh của chúng ta lấy làm khoái trí tinh nghịch khi dấn thân vào cuộc chuyện trò đó, và dẫn dụ ông ta phạm phải những phát biểu không thể có về mặt thần học. Bà biết rõ Kinh thánh nhiều hơn ông, cho nên thường xuyên trích dẫn những đoạn văn bất ngờ và ít ai biết khiến cho ông công phần phản đối: “Điều đó không có trong Kinh thánh! Tôi đoan chắc rằng nó không có trong Kình thánh!”.

Thế rồi bà Blavatsky quay sang tôi với một vẻ bình thản chết người: “Leadbeater, bạn đi vào phòng tôi lấy cuốn Kinh thánh của tôi ra đây”; thế rồi bà tiến hành làm cho ông ta rối mắt lên với các chương và câu kinh. Có một lần ông ta dại dột đến nỗi quặt lại rằng: “Được thôi! Dù sao đi nữa tôi cũng tin chắc rằng câu này không có trong bản Kinh thánh của tôi!” Nhưng đợt cười phá lên lan tràn khắp thính giả đã cảnh báo ông ta trong tương lai nên tránh một lời quả quyết táo bạo như vậy.

Khi chúng tôi băng qua Ấn Độ Dương, thì tôi còn nhớ vào một buổi sáng sớm tôi đang dạo bước trên bong tàu với bà Blavatsky trong buổi bình minh huy hoàng ở vùng nhiệt đới, thì nhà truyền giáo có giá trị ấy lại xuất hiện ngay trên cầu thang, thế là bà ngay tức khắc hoan nghênh ông ta bằng lời lẽ:

“Xem này ông Smith! Hãy nhìn quanh mình xem, hãy thưởng thức biển chói sáng bình minh với màu sắc dễ thương. Hãy xem Thiên Chúa của bạn tốt lành xiết bao. Chắc chắn vào một buổi sáng huy hoàng như thế này thì bạn không thể bảo tôi rằng tôi sắp bị đọa hỏa ngục đời đời!”

Tôi phải nói công bằng về vị giáo sĩ Daniel khi thừa nhận rằng ông ta đỏ bừng mặt và trông có vẻ rất bối rối, nhưng ông dũng cảm giữ vững lập trường và trả lời rõ rệt là cố gắng:

“Được thôi! Tôi xin lỗi bà, nhưng tôi đoán rằng bà sẽ bị đọa hỏa ngục đời đời”.

Tự nhiên là nhân cách chói sáng và huy dũng của bà Blavatsky gây ấn tượng cho toàn thể mọi người thuyền viên cũng như hành khách (luôn luôn là ngoại trừ ông thuyền trưởng) và bất cứ khi nào bà tự ý xuất hiện trên bong tàu vào lúc thời tiết tốt, thì ba nhanh chóng tụ tập xung quanh mình một đám đông thính giả quan tâm, hỏi bà nhiều thắc mắc về đủ thứ đề tài và say mê lắng nghe bà kể chuyện mình đã trải nghiệm và phiêu lưu ở những xó xỉnh ngoài luồng trên thế giới. Nhất là vào ban đêm, họ luôn luôn yêu cầu kể chuyện ma quái siêu nhiên, bà kể chuyện hay và sống động, hãi hùng thật sự đến nỗi thính giả rùng mình thích thú, vừa hồi hộp vừa lo sợ, nhưng tôi chú ý thấy họ rõ rệt có khuynh hướng sau đó tụ tập lại với nhau và chẳng ai dám đi một mình qua hành lang tối om. Tàu Navarino chính xác không phải là tàu đi đại dương, nhưng cuối cùng thì chúng tôi cũng tới Colombo, nơi Đại tá Olcott gặp chúng tôi và giới thiệu tôi với những hội viên lãnh đạo Hội Thông Thiên Học Phật giáo ở đó. Đấy là một thế hệ tiên phong những người làm việc và tôi giả định rằng hầu như không có bất kỳ nhà quí tộc Tích lan nào nổi bật trong chúng ta vào lúc ấy mà vẫn còn phất cao ngọn cờ của Hội trên cõi vật lý. Tôi còn nhớ đặc biệt là ông già Mohandiram (một viên chức đô thị quan trọng), ông William de Abrew (cha của ông Peter de Abrew nổi tiếng, vốn làm việc rất trung thành với chúng ta trong biết bao nhiêu năm), ông Don Carolis ở Mutwal, ông J. R. de Silva (vì một lý do nào đó Đại tá Olcott đặt cho ông biệt danh là bác sĩ, mặc dù nghề nghiệp của ông không phải như vậy), ông C. P. Gunawardana (lúc bây giờ là Thư ký ở Chi nhánh Colombo của chúng ta), ông N. S. Fernando, ông Wijiasekara, ông Hendrik de Silva và những người khác mà bây giờ tôi cũng chẳng nhớ tên, mặc dù tôi vẫn còn nhớ rõ khuôn mặt của họ. Xét cho cùng thì đã 46 năm rồi, hơn một nửa đời người dài dằng dặc còn gì nữa!

I Become a Buddhist— Tôi trở thành Phật tử.

Most important of all, I was presented to the great Buddhist leader and scholar, Hikkaduwe Sumangala Thero, High Priest of The Peak and of Galle, and Principal of the Widyodaya Monks’ College at Maradana—the most learned and highly respected of the leaders of the Southern Church of Buddhism.

On an earlier visit to the lovely island of Ceylon, both Colonel Olcott and Madame Blavatsky had made public profession of the Buddhist faith and been formally received into that religion; and now Madame Blavatsky asked me whether I was willing to follow their example in that respect. She strongly impressed upon me that if I took that step it must be entirely of my own motion and on my own responsibility, and that she had no wish to persuade me in the matter; but she thought that, as I was a Christian Priest, the open acceptance of a great Oriental religion would go far to convince both Hindus and Buddhists of my bona fides, and would enable me to be far more useful in working among them for our Masters.

I replied that I felt the very greatest reverence for the Lord Buddha and whole-heartedly accepted His teaching, and that I should feel it a great honour to enrol myself among His followers if I could do so without abjuring the Christian faith into which I had been baptized. She assured me that no such repudiation would be asked of me, and that there was no incompatibility between Buddhism and true Christianity, though no enlightened Buddhist would be likely to credit the crude theological dogmas which were usually preached by the missionaries. Buddhism, she said, was not a question of creed, but of life; I was not asked to accept any article of faith, but to try to live according to the precepts of the Lord.

To this I was of course entirely agreeable, so it was arranged that I should be presented to the High Priest for admission.

That very title of High Priest is something of a misnomer, though it was universally employed among us in speaking of Sumangala. In strict accuracy some such title as Chief Abbot would come nearer to the truth. There is in reality nothing like a Priesthood in Buddhism; there is no sacrifice to be offered, no public service to be led. The Brethren of the Yellow Robe, who are so picturesque a feature in the life of all Buddhist countries, are best described as monks, and the nearest that they come to leading a public service is when they “give pansil”, as it is called, to such of their people as ask for it; that is to say, they recite in Pali the sacred formula of the Three Refuges and the Five Precepts, by which all Buddhists are supposed to govern their lives, and the people obediently repeat the pledges which are dictated to them.

It is the recitation of this very same formula which constitutes the solemn admission to the Buddhist religion; it was this, therefore, that I had to repeat after the High Priest that day in the garden of his College. It is straightforward and simple, but far-reaching. We may say that it opens with an ascription of praise to the Lord Buddha:

I reverence the Blessed One, the Holy One, the Perfect in Wisdom.

Quan trọng hơn hết là tôi được giới thiệu với vị lãnh tụ và học giả vĩ đại Phật giáo Hikkaduwe Sumangala Thero, Hòa thượng ở Peak và Galle, Hiệu trưởng Trường Tu sĩ Widyodaya—đây là vị lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Nam truyền bác học nhất và được kính trọng nhiều nhất.

Và cuộc viếng thăm trước kia ở hòn đảo dễ thương là Tích lan, cả Đại tá Olcott lẫn bà Blavatsky đều công khai tuyên cáo đức tin Phật giáo và đã được chính thức cho gia nhập tôn giáo này, giờ đây bà Blavatsky hỏi tôi xem liệu tôi có sẵn lòng noi gương họ về phương diện ấy không. Bà nhấn mạnh với tôi rằng nếu tôi tiếp theo bước đó thì ấy là bước tiến và trách nhiệm hoàn toàn của chính tôi chứ bà không muốn thuyết phục tôi về vấn đề này; nhưng bà thiết tưởng rằng vì tôi là tu sĩ Kitô giáo cho nên việc công khai chấp nhận một tôn giáo lớn Á Đông ắt tiến xa tới mức thuyết phục cả tín đồ Ẩn Giáo lẫn tín đồ Phật giáo về lòng thành của tôi; và điều đó khiến cho tôi có thể hữu ích hơn nhiều khi làm việc cho các Chơn sư trong hàng ngũ tín đồ Ấn giáo và Phật giáo.

Tôi trả lời rằng tôi cảm thấy rất tôn kính Đức Phật và toàn tâm toàn ý chấp nhận giáo huấn của Ngài; tôi cảm thấy rất vinh hạnh được đăng ký làm tín đồ của Ngài nếu việc đó không khiến tôi phản bội đức tin Kitô giáo mà tôi đã từng được rửa tội nhập đạo. Bà quả quyết với tôi rằng, không yêu cầu tôi phải chối bỏ Kitô giáo và không có sự tương kỵ nào giữa Phật giáo với Kitô giáo chân chính, mặc dù không một Phật tử sáng suốt nào lại có thể tin vào những tín điều thần học thô thiển mà các nhà truyền giáo thường rao giảng. Bà bảo rằng Phật tử không phải là vấn đề tín điều mà là sinh hoạt; người ta không yêu cầu tôi chấp nhận bất cứ tín điều nào mà phải cố gắng sống theo những huấn điều của Đức Phật.

Dĩ nhiên tôi cảm thấy hoàn toàn dễ chịu, cho nên tôi dàn xếp để mình được giới thiệu với Hòa thượng cho nhập đạo.

Chính cái tước hiệu Hòa thượng ấy là việc gọi không đúng, mặc dù trong đám chúng tôi thường sử dụng tước hiệu này để nói về Sumangala. Nói cho thật chính xác thì một số tước hiệu như thế chẳng hạn như Tu viện trưởng có vẻ gần với sự thật hơn. Thực ra trong Phật giáo không có điều gì giống như tu sĩ, không cần phải hiến tế, không cần phải phụng sự công khai. Các Huynh đệ áo vàng vốn là một đặc điểm thi vị xiết bao trong sinh hoạt của mọi xứ Phật giáo được miêu tả tốt nhất là những tăng sĩ, và điều gần nhất khi họ phụng sự công khai chính cái gọi là truyền giới cho những người có nhu cầu; điều này có nghĩa là họ tụng đọc bằng tiếng Nam phạn công thức thiêng liêng về Tam qui và Ngũ giới mà mọi Phật Tử giả định phải tuân theo trong sinh hoạt, thế rồi thiên hạ ngoan ngoãn lập lại những lời thệ nguyện mà người ta đọc cho họ nghe.

Chính việc tuyên đọc cùng cái công thức đó tạo thành nghi lễ thiêng liêng để gia nhập Phật giáo; vì vậy tôi phải lập lại theo vị Hòa thượng công thức đó vào ngày lễ tại vườn của trường học của ông. Nó vốn thẳng thắn và đơn giản nhưng có tầm mức xa rộng. Chúng ta có thể nói rằng nó mở đầu bằng lời tán dương Đức Phật:

Con xin tôn kính Đức Thế Tôn, Đấng Thánh thiện, Toàn giác.

The Three Refuges—Tam Quy

This is repeated thrice, and then follows the Tisarana—commonly rendered “The Three Refuges”. That expression is however not an exact equivalent of the Pali word, which seems to mean much more nearly “a guide”. The nearest that we can come in English to the true meaning of this declaration is:

I take the Lord Buddha as my guide.

I take His Law as my guide.

I take His Order as my guide.

The word Dhamma (Sanskrit Dharma) which is usually translated “law”, really bears a much wider signification than that English term. It is not in the least a law or series of commandments ordained by the Lord Buddha; it is His statement of the universal laws under which the Universe exists, and consequently of the duties of men as part of that mighty scheme. It is in this sense that the expressions quoted above are employed by the Buddhist. In pronouncing the Tisarana he expresses his acceptance of Lord Buddha as his guide and teacher; his adherence to the doctrine which the Buddha taught and his recognition of the great order of Buddhist monks as the practised interpreters of the meaning of that doctrine.

This does not in the least imply the acceptance of the interpretation of any particular monk, but only that of the Order in the most catholic sense; he believes that interpretation to be accurate which is held by the entire Brotherhood in all places and at all times—thus closely approximating to the great Catholic declaration that that only should be believed which has been accepted semper, ubique et ab omnibus—always, everywhere and by everyone. But it would seem that in some cases at least a much wider connotation is attached to this idea of the Brotherhood, so that it is taken to include not only the Order as now existing on the physical plane, but the whole Order from the beginning, corresponding to the Christian theory of the Communion of Saints—perhaps even to the Great White Brotherhood itself.

Câu này được lặp lại ba lần, rồi sau đó là Tam qui (Tisarana) thường được gọi là “ba lần qui y”. Tuy nhiên dịch như vậy không tương đương chính xác với từ ngữ Nam phạn, dường như ngụ ý nhiều hơn mức là “hướng dẫn”. Cách dịch gần đúng nhất trong tiếng Anh và ý nghĩa chân chính của tuyên cáo này là như sau:

Con xin qui y Phật.

Con xin qui y Pháp.

Con xin qui y Tăng.

Từ ngữ Dhamma (tiếng Bắc phạn là Dharma) thường được dịch là “pháp”. Thực sự có một ý nghĩa riêng lớn hơn nhiều so với tục ngữ bằng tiếng Anh (law). Đó tuyệt nhiên không phải là một luật lệ hoặc một loạt những điều răn theo qui định của Đức Phật; đó là việc Ngài phát biểu về những định luật phổ quát mà Vũ trụ tồn tại theo đó; vì thế cho nên con người có những bổn phận là một phần của cơ cấu tổ chức hùng mạnh này. Chính theo ý nghĩa ấy mà những thành ngữ nêu trên được Phật tử sử dụng. Khi tuyên cáo Tam qui, Phật tử sẵn sàng chấp nhận Đức Phật là người hướng dẫn và dạy dỗ mình; y tuân theo giáo lý mà Đức Phật đã dạy dỗ và y công nhận dòng tu vĩ đại gồm các tăng sĩ Phật giáo là những người thực hành thuyết giải ý nghĩa của giáo lý.

Điều này tuyệt nhiên không hàm ý chấp nhận bất kỳ tăng sĩ đặc thù nào mà chỉ là chấp nhận Dòng tu theo ý nghĩa phổ quát nhất. Y tin rằng sự thuyết giải chỉ chính xác khi được chấp nhận bởi toàn thể tăng sĩ ở mọi lúc mọi nơi—như vậy bám rất sát với lời tuyên bố vĩ đại của Công giáo theo đó ta chỉ nên tin những gì đã được chấp nhận semper, ubique et ab omnibus—ở bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu và bởi bất cứ ai. Nhưng dường như là trong một số trường hợp ít ra cũng có một hàm ý rộng lớn hơn gắn liền với ý tưởng về Tình Huynh Đệ, tạo thành cộng đồng huynh đệ sao cho nó không chỉ bao hàm Dòng tu hiện nay đang tồn tại trên cõi vật lý, mà là trọn cả Dòng tu ngay từ đầu tương ứng với thuyết của Kitô giáo về sự Hiệp thông của các Thánh—có lẽ ngay cả Hiệp thông với chính Quần Tiên Hội nữa.

The Five Precepts—Ngũ Giới

Following immediately upon this declaration the Pancha Sila, commonly called “The Five Precepts”, are recited. Again “precepts” is hardly the right word, although it is a possible translation of sila; “pledges” comes much nearer the fact, though hardly permissible as a translation. These are often compared to the Ten Commandments of Judaism; but in reality they differ greatly in character and, though fewer in number, are much more comprehensive. They are as follows:

(1) I observe the precept to refrain from destruction of life.

(2) I observe the precept to refrain from taking that which is not mine.

(3) I observe the precept to refrain from unlawful sexual intercourse.

(4) I observe the precept to refrain from falsehood.

(5) I observe the precept to refrain from using intoxicating liquors or stupefying drugs.

It can hardly fail to strike the intelligent person that, as Colonel Olcott writes:

One who observes these strictly must escape from every cause productive of human misery, for if we study history we shall find that it has all sprung from one or another of these causes. The far-seeing wisdom of the Lord Buddha is most plainly shown in the first, third, and fifth, for the taking of life, sensuality and the use of intoxicants cause at least ninety-five per cent of the suffering among men.

It is interesting to notice how each of these precepts goes further than the corresponding Jewish commandment. Instead of being told to do no murder, we find ourselves enjoined to take no life whatever; instead of being commanded not to steal, we have the more far-reaching precept not to take that which does not belong to us, which would obviously cover the acceptance of praise not honestly due to us, and many another case quite outside of what is commonly called stealing. It will be observed also that the third of these precepts includes a great deal more than the seventh of the commandments of Moses, forbidding not only one particular type of unlawful intercourse, but all types. Instead of being forbidden to bear false witness in a court of law, we are enjoined to avoid falsehood altogether. I have often thought what a .good thing it would have been for all these European countries which have taken up the teachings of Christ if the legendary Moses had included in his decalogue the fifth of the Buddhist precepts—the instruction to touch no intoxicating liquor nor stupefying drugs. How much simpler would be all our essential problems if that commandment were observed in England and America as it is observed in Buddhist countries!

It is also very characteristic of the Buddhist faith that there is here no commandment “Thou shalt not do this or that”—no order given by a Deity or a teacher, but simply the quiet promise made by each man that he will refrain from certain actions which are obviously undesirable.

Tiếp ngay sau lời tuyên bố này là Ngũ giới (Pancha Sila), thường được gọi là “Năm Huấn điều được tụng đọc”. Lại nữa “huấn điều” hầu như cũng không đúng, mặc dù ta có thể dùng nó để dịch từ ngữ Sila; “lời thệ nguyện” gần đúng với sự thật hơn mặc dù hầu như không ai cho phép nó được dùng để dịch. Chúng thường được so sánh với Mười điều răn trong Do Thái giáo, nhưng thật ra chúng khác hẳn về tính cách và mặc dù có số lượng ít hơn nhưng lại bao quát hơn nhiều. Ngũ giới như sau:

(1) Tôi nguyện không sát sinh.

(2) Tôi nguyện không lấy cái gì không phải của mình.

(3) Tôi nguyện không tà dâm.

(4) Tôi nguyện không vọng ngữ.

(5) Tôi nguyện không sử dụng rượu gây say hoặc thuốc ma túy.

Hầu như là bất cứ người thông minh nào cũng chịu ấn tượng của nó, theo lời Đại tá Olcott viết:

Kẻ nào tuân theo những điều này nghiêm nhặt ắt thoát khỏi mọi nguyên nhân gây ra khốn khổ cho con người, bởi vì nếu chịu khó nghiên cứu lịch sử, chúng ta ắt thấy rằng sự Khốn Khổ của con người bắt nguồn từ một trong những nguyên nhân nêu trên. Minh triết nhìn xa trông rộng của Đức Phật được biểu hiện rành rành nhất qua giới điều thứ nhất, thứ ba và thứ năm, bởi vì sát sinh, tà dâm và dùng rượu hoặc thuốc gây say ít ra cũng là 95% nguyên nhân gây đau khổ cho loài người.

Thật thú vị mà lưu ý thấy rằng mỗi một trong những giới điều này tiến xa hơn điều răn tương ứng trong Do Thái giáo. Thay vì được bảo rằng không nên giết người, ta thấy mình được lệnh không sát sinh bất cứ sinh mệnh nào; thay vì được bảo không trôm cắp, chúng ta có giới điều có tầm mức xa rộng hơn là không lấy điều không thuộc về mình, đây rõ ràng là bao hàm cả sự chấp nhận lời khen đúng ra không dành cho ta và còn nhiều trường hợp khác nữa nằm ngoài tầm cái được gọi là trộm cắp. Ta cũng quan sát thấy rằng giới điều thứ ba bao gồm nhiều thứ hơn điều răn thứ bảy của Moise, chẳng những cấm một loại quan hệ bất hợp pháp đặc thù mà còn là mọi loại. Thay vì cấm làm chứng gian trước tòa án, ta được lệnh tránh hoàn toàn nói dối. Tôi thường nghĩ rắng thật là điều tốt nếu mọi xứ sở Âu Mỹ đã chấp nhận giáo huấn của đấng Kitô, nếu thánh Moise theo huyền thoại bao gồm trong mười điều răn của mình với điều thứ năm của Phật tử là huấn lệnh không được uống rượu gây say hoặc hút thuốc ma túy. Mọi vấn đề cốt lõi của ta rất đơn giản hơn nhiều nếu điều răn này được tuân thủ ở Anh và Mỹ giống như nó được tuân thủ ở các nước theo Phật giáo!

Đức tin của Phật giáo cũng có điều rất đặc trưng là ở đây không có điều răn “Con không được làm điều này điều kia”—không có mệnh lệnh của một Đấng thiêng liêng hoặc một đạo sư, mà chỉ là lời hứa âm thầm của mỗi người rằng mình sẽ không chọn theo một vài hành động rõ ràng là không đáng mong muốn.

The Chief Abbot Sumangala— Tu Viện Trưởng Sumangala

This, then, as I have said, is the formula which I had to recite after the High Priest Sumangala; and at the same time he gave me a short explanation of it and of what it implied. I remember also that before admitting me he asked me whether I fully understood the religion into which I had been born, pointing out that such birth was not by chance, and that I ought to be sure that I had duly learnt such lessons as it had to teach.

Even on this occasion of my first introduction to him was much impressed by the nobility, the courtesy and the obvious fairness of the High Priest; one felt at once that one was in the presence of a truly great man. I came to know much more of him later, as I was engaged for some years in educational work in Ceylon; and I always found him erudite, able and kindly, and not without a saving sense of humour.

Though it does not belong at this stage of my story, but to a period perhaps two years later, I will include at this point a little incident which seemed somewhat characteristic of him. As the Widyodaya College was not very far from what was then the principal railway station in Colombo and well within reach of the stream of sightseers who landed from the great mail steamers, the High-Priest had quite a number of European visitors, and more especially those who were interested in Oriental religions made a point of calling upon him.

I remember, for instance, that on one occasion the Professor of Sanskrit from a great European University appeared on the scene, and Sumangala joyously hailed him with a speech of welcome in Sanskrit, but was much surprised to find that the learned professor could not understand a word of it, since he had apparently never regarded Sanskrit as a spoken language at all! On the other hand when Sir Edwin Arnold came to Colombo he received a princely ovation; and in that case there was no disappointment, for he was not only able to understand and appreciate the loving welcome extended to him, but to reply to it in a long and fluent Sanskrit speech!

The special incident to which I have referred was of a slightly different character. In this case the visitor was a French scientist of considerable eminence, who came to see the Chief Abbot perhaps mainly out of curiosity, or perhaps to show courtesy to a learned man of whom he had heard something in Europe. This gentleman spoke with respect of the philosophy of the Lord Buddha, but deplored the fact that He had sometimes made indefensible statements on scientific subjects. The High Priest asked him to give an instance, and the Frenchman quoted an assertion that the earth rested upon water, the water in turn upon air, and the air upon empty space. Sumangala listened most politely, and said that he was of course fully aware of the wonderful discoveries of Western science, and was always very glad to learn anything that he could of them. And then he quite innocently enquired from the scientist what were the latest conclusions on that subject from the European point of view. He said:

“Now, if it were possible for us to bore straight down under our feet as we sit here, clear through to the other side of the earth, what should we find at the other end of that hole?”

The scientist considered for a few moments, and replied:

“Calculating roughly, I think we should come out in the Pacific Ocean.”

“Yes,” said the Chief Abbot with keen interest,

“and if we carried on through the ocean, what should we find next?”

“Well,” said the scientist, “of course we should come out into the atmosphere.”

“And if we pushed on through the atmosphere?”

“Well, then naturally we should arrive in interplanetary space.”

“Then,” said Sumangala meekly, “it seems that the conclusions of modern science do not after all differ greatly from those of the Lord Buddha!”

Như tôi có nói, thế rồi tới công thức mà tôi phải lập lại theo Hòa thượng Sumangala; đồng thời ngài giải thích ngắn gọn cho tôi về điều đó và hàm ý của nó. Tôi cũng nhớ rằng trước khi thu nhận tôi ngài có hỏi tôi liệu tôi có hiểu rõ cái tôn giáo mà tôi đã được sinh ra. nhập đạo, nêu rõ ràng việc sinh ra như vậy không phải là ngẫu nhiên và tôi phải tin chắc rằng tôi đã học những bài học như thế theo đúng như nó phải dạy cho tôi.

Ngay cả cái lần đầu tiên mà tôi có dịp được tiến cử cho ngài thì tôi chịu ấn tượng rất nhiều về tính cao thượng, nhã nhặn và hiển nhiên là công bằng của Hòa thượng; người ta cảm thấy ngay rằng hiện diện trước mắt mình quả thật là một vĩ nhân. Sau này tôi còn biết về ngài nhiều hơn nữa, khi tôi dấn thân học tập ở Tích lan trong vài năm, thì tôi luôn luôn thấy ngài bác học, có năng lực và tử tế, chưa kể có một óc hài hước giúp cứu chuộc người khác.

Mặc dù trong giai đoạn này thuộc câu chuyện của tôi, đó không phải là giai đoạn mà có lẽ phải hai năm sau mới xảy ra chuyện, nhưng ở chỗ này tôi cũng xin kể thêm một diễn biến nho nhỏ dường như khá đặc trưng đối với ngài. Bởi vì trường Widyodaya không ở cách quá xa so với trạm xe lửa chính lúc đó ở Colombo, và cũng trong tầm viếng thăm của những người khách đi viếng cảnh đổ bộ xuống từ chiếc tàu lớn chở thư, cho nên Hòa thượng có khá nhiều khách viếng thăm người Âu Mỹ, đặc biệt là những người chú ý tới tôn giáo Á Đông đều khiến ngài phải quan tâm.

Tôi còn nhớ chẳng hạn như có một dịp, vị giáo sư tiếng Bắc phạn ở một Đại học lớn ở Âu châu xuất hiện trên diễn đàn thì ngài Sumangala vui vẻ hoan nghênh ông bằng một diễn từ chào đón bằng tiếng Bắc phạn, nhưng ngài rất ngạc nhiên khi thấy rằng vị giáo sư học giả ấy không hiểu nổi một từ bằng tiếng Bắc phạn, bởi vì xét theo biểu kiến ông ta chưa bao giờ coi tiếng Bắc phạn là một ngôn ngữ nói. Mặt khác khi ngài Edwin Arnold tới Colombo, ngài được tán dương như một ông hoàng và trong trường hợp đó không có sự thất vọng vì ngài chẳng những có thể hiểu và trân trọng sự hoan nghênh ái hữu dành cho mình mà còn đáp từ bằng một bài tiếng Bắc phạn dài dòng và lưu loát.

Diễn biến đặc biệt mà tôi đề cập tới có tính cách hơi khác một chút. Trong trường hợp này thì khách viếng thăm là một nhà khoa học Pháp lỗi lạc, ông đến gặp Tu viện trưởng có lẽ chủ yếu là do tò mò hoặc có lẽ để bày tỏ sự nhã nhặn đối với một người có học mà ông đã từng nghe tiếng ở Âu châu. Nhà quí tộc này nói về triết lý của Đức Phật một cách tôn kính, nhưng phàn nàn sự thật là đôi khi Ngài có phát biểu về những đề tài khoa học mà người ta không thể biện hộ được. Hòa thượng yêu cầu ông đưa ra một ví dụ và người Pháp có trích dẫn một lời khẳng định cho rằng đất dựa trên nước, đến lượt nước dựa trên gió và gió dựa trên không gian trống rỗng. Sumangala lắng nghe một cách lịch sự nhất và bảo rằng dĩ nhiên ông biết rõ những phát minh kỳ diệu của khoa học Âu Mỹ và luôn luôn rất vui mừng học hỏi bất cứ điều gì có thể được. Thế rồi ông hoàn toàn ngây thơ hỏi nhà khoa học xem đâu là những kết luận mới nhất về đề tài này xét theo quan điểm Âu Mỹ. Ông bảo rằng:

“Bây giờ nếu chúng ta có thể đào thẳng xuống dưới chân mình ngay chỗ ta ngồi ở đây, xuyên suốt qua phía bên kia trái đất thì liệu ta ắt tìm thấy gì ở đầu bên kia cái lỗ đó?”.

Nhà khoa học suy nghĩ trong một lúc rồi trả lời:

“Nếu tính toán một cách thô thiển thì tôi thiết tưởng ta sẽ ra tới Thái Bình Dương”.

Tu viện trưởng trả lời một cách rất chú ý:

“Đúng vậy, và nếu ta tiếp tục đào xuyên qua đại dương thì liệu kế tiếp ta sẽ tìm thấy gì?”

Nhà khoa học trả lời:

“Được thôi, dĩ nhiên ta sẽ ra tới tận bầu khí quyển”.

Tu viện trưởng hỏi tiếp:

“Và nếu ta tiếp tục đi xuyên qua bầu khí quyển ?”

Nhà khoa học trả lời: “Được thôi, lúc bấy giờ tự nhiên ta sẽ đi tới không gian liên hành tinh”

Sumangala ôn tồn bảo: “Thế thì dường như những kết luận của khoa học hiện đại xét cho cùng không khác bao nhiêu với những kết luận của Đức Phật!”.

Landing at Madras— Đặt Chân Tới Madras

After a day or two in Colombo we resumed our voyage on the Navarino, and duly arrived at Madras, to find an uncomfortably heavy swell, which made our landing a distinctly unpleasant and even somewhat hazardous business. A breakwater had been erected some years previously, but had not proved strong enough to resist the seas raised by the monsoon, so that all that was left of it were a few scattered heaps of stone. Consequently we had to be taken off the ship in enormous boats of a very unusual type. The planks of which they were constructed seemed to be not nailed together in the ordinary way, but as it were stitched together with rope, so that there was a curious collapsibility about the sides; and we were told that this method of construction enabled them to resist the impact of the tremendous surf better than if they had been more rigid.

The boats were of great depth, and the rowers with their long paddles perched themselves somehow on the sides, the very gunwale of the boat, while the unfortunate passengers were dumped into the central hollow far below the feet of the rowers, in what would have been the hold of the craft if it had been decked. It will perhaps be understood that to descend into such a craft from a steamer which was rolling heavily in the open roads (for of course there was then nothing like a harbour) required great agility, and was indeed a decidedly dangerous feat, as the boat was sometimes level for a moment with the ship’s bulwarks and directly afterwards twenty or thirty feet below, for the seas were positively mountainous.

One had to jump at exactly the right moment, and one by one most of the passengers achieved it, though with a good deal of trepidation, mostly bundling ungracefully and ignominiously into the bottom of the boat. Obviously gymnastics of this sort were impossible for Madame Blavatsky, and the only alternative was to tie her carefully into a chair, and lower her by means of the ordinary cargo winch. I need hardly say that she did not appreciate this operation, and I think that her language on the occasion rather surprised even the hardened officers. She was, however, lowered and received with perfect safety, and though the process may have appeared undignified, I think some of the rest of us rather envied her.

Presently we were all safely in the boat, very wet but otherwise uninjured. We have to remember that Madame Blavatsky was returning to India to meet a mass of most wicked and slanderous charges which had been brought against her by the Madras Christian College missionaries, that these so-called missionaries had confidently predicted that she could never return to face these charges, and that consequently the Indian population regarded her as a hero and a martyr, and came down in their thousands to give her such an ovation as might have been accorded to a victorious general.

Sau một hai ngày ở Colombo, chúng tôi lại tiếp tục du hành trên tàu Navarino và đi thẳng tới Madras, thấy ở đó có một chỗ phình ra nặng nề khó chịu khiến cho việc đổ bộ của chúng tôi rõ rệt là không dễ chịu và thậm chí công việc khá phiêu lưu. Cách đây vài năm về trước, người ta đã dựng nên một cái đê chắn sóng nhưng nó tỏ ra không đủ mạnh để chống lại việc nước biển dâng lên do gió mùa, khiến cho mọi thứ còn lại chỉ là một vài đống đá rải rác. Vì thế cho nên chúng tôi phải ra khỏi tàu trong những chiếc thuyền khổng lồ thuộc một loại rất bất bình thường. Chúng được kiến tạo bằng những tấm ván dường như không được đóng đinh lại với nhau theo kiểu thông thường, mà có thể nói là được dây thừng khâu lại với nhau sao cho hai bên mạn sườn do rất dễ bị bung ra một cách kỳ lạ. Người ta bảo chúng tôi rằng cái phương pháp kiến tạo này khiến cho chúng tôi có thể chống lại tác động của đợt sóng ghê gớm tốt hơn mức nếu chúng quá cứng rắn.

Những chiếc thuyền có chiều sâu rất lớn và những người chèo thuyền có những mái chèo dài tụ tập ở một cách nào đó hai bên mạn sườn vốn là chủ yếu của con thuyền, trong khi những người hành khách bất hạnh bị nhồi nhét vào khoảng lõm ở trung tâm sâu bên dưới chân của người chèo thuyền nơi cái ắt là chỗ trước của con thuyền nếu nó có bong. Có lẽ ta phải hiểu rằng việc từ tàu thủy đi xuống một cái thuyền như thế vốn phải lăn nặng nề qua những con đường mở ngõ (bởi vì dĩ nhiên lúc đó không có gì giống như một hải cảng) đòi hỏi người ta phải rất nhanh nhẹn, và quả thật là một thành tích nguy hiểm vì đôi khi con thuyền ở mức nhất thời trên cầu tàu rồi trực tiếp sau đó dưới 20—30 bộ Anh vì biển cả rõ ràng là gập ghềnh như núi.

Người ta phải nhảy đúng lúc và từng người một thì hành khách đều nhảy được mặc dù rất sợ hãi; hầu hết co cụm lại một cách khó thương và nhục nhã ở dưới đáy thuyền. Hiển nhiên là bà Blavatsky không thể chơi trò thể thao thuộc loại này và phương án duy nhất là cột kỹ lưỡng bà vào một chiếc ghế dựa rồi dùng một cái tời vận chuyển hàng thông thường hạ thấp bà xuống thuyền. Tôi hầu như khỏi cần nói rằng bà không đánh giá cao thao tác này và tôi thiết tưởng rằng ngôn ngữ của bà trong dịp này gây ngạc nhiên khá nhiều ngay cả đối với những thuyền viên chai đá. Tuy nhiên bà cũng được hạ thấp xuống và đón tiếp một cách hoàn toàn an toàn, mặc dù qui trình này đã là không được đàng hoàng lắm, song tôi thiết tưởng một số những người còn lại trong chúng tôi khá ganh tị với bà.

Chẳng bao lâu sau tất cả chúng tôi đều xuống thuyền an toàn, ướt sũng,nhưng dù sao cũng không bị thương. Chúng ta phải nhớ rằng bà Blavatsky trở về Ấn Độ để gặp gỡ đương đầu với cả đám những lời buộc tội nói xấu và độc ác nhất mà những nhà truyền giáo Trường Kitô Madras nêu ra chống lại bà. Cái gọi là những nhà truyền giáo này đã tự tin tiên đoán rằng bà chẳng bao giờ có thể trở về để đương đầu với những lời buộc tội đó, vì thế cho nên dân Ấn Độ coi bà là một anh hùng và thánh tử vì đạo, ngàn người đã ùa xuống tung hô bà như thể nghi lễ dành cho một vị tướng khải hoàn.

Our Reception— Cuộc Đón Tiếp Chúng Tôi

The students of Pachiappa’s College were taking a very prominent part in the reception, apparently as a demonstration against the rival Madras Christian College; and it may have been they who were responsible for the appearance of a band of performers upon various weird Indian musical instruments, mostly, so far as I can remember, of the flute or flageolet order, though there were also some drums. Whoever was in charge of the proceedings made the fatal mistake of sending this band out to the ship in that terrible masuli boat, and as they were tossing about for at least twenty minutes in that boat in a very heavy sea while arrangements were being made to put Madame Blavatsky and other passengers on board, they were absolutely prostrate with sea-sickness, and instead of receiving our Leader with joyous strains as her chair swung down, they were simply lying groaning and helpless in the bottom of the boat.

We were brought alongside a pier on which we landed only with very great difficulty—in fact, some members of the band had to be lifted on shore by their friends. Along that pier ran a tramway-line, and there was a single and rather primitive car, which under ordinary circumstances was drawn by a horse; but about a dozen of the most enthusiastic students had harnessed themselves to this car, and insisted on drawing Madame Blavatsky to the shore in triumph amidst a huge cheering crowd. Quite a number of Europeans had also come down to see the fun, and were seated in their carriages at the end of the pier. I think that the Oakleys felt distinctly conspicuous and uncomfortable, and I must admit that I was a little embarrassed myself, as the whole proceeding was, to say the least of it, unconventional; but Madame Blavatsky accepted all this homage with great dignity as a matter of course, and indeed seemed rather to enjoy it.

A comical touch was added to the scene by the fact that the unhappy bandsmen, still desperately in the throes of mal-de-mer, were marshalled in front of the car and instructed to walk backwards before it, not only playing hard all the time, but bowing towards the car as they walked. Words fail me to describe that amazing pageant; if the reader’s imagination is sufficiently powerful he can perhaps make a mental picture of those heroic bandsmen, still green and staggering from seasickness, walking or rather stumbling backwards, bowing profoundly and constantly, but struggling nobly to bring out a few notes from their various instruments between the spasms of acute discomfort, and this weird procession tunnelling its way through a closely packed and wildly uproarious crowd, all waving flags and yelling at the top of their voices. That pier seemed very, very long, but at last we reached the shoreward end, and found that some sympathetic Maharaja had sent down a carriage to meet Madame, and to carry her off to Pachiappa’s Hall, where she was to receive an address of welcome from the students.

Học sinh Trường Pachiappa đóng vai trò rất nổi bật trong lễ đón tiếp, xét theo biểu kiến là biểu tình chống lại Trường đối lập Kitô Madras; có thể chính họ chịu trách nhiệm về sự xuất hiện của một đoàn người trình diễn đủ thứ nhạc cụ kỳ quặc của Ấn Độ, mà theo chỗ tôi nhớ thì hầu hết là sáo thổi ngang hoặc thổi dọc, mặc dù cũng có một số trống. Bất cứ ai chịu trách nhiệm về cuộc diễu hành này ắt phạm sai lầm chết người khi gửi đoàn người này ra tận tàu trong cái thuyền masuli khủng khiếp và vì họ bị quăng lên quật xuống ít nhất cũng 20 phút trên thuyền khi biển động trong khi người ta dàn xếp để đưa bà Blavatsky và những hành khách khác lên bờ, cho nên họ hoàn toàn bị mệt lả vì say sóng, thay vì tiếp đón người Lãnh đạo bằng thái độ vui vẻ khi ghế dựa của bà được đưa xuống thì họ chỉ biết nằm bò rên rỉ bơ vơ ở đáy thuyền.

Chúng tôi được đưa dọc theo một cầu tàu mà chúng tôi chỉ đổ bộ lên đó một cách rất khó khăn—thật vậy, một số thành viên của ban nhạc phải được bạn bè nhấc lên bờ. Dọc theo cầu tàu có một đường xe điện và có một xe cổ lỗ một toa trong hoàn cảnh bình thường được kéo bằng ngựa; nhưng vào khoảng một tá những học sinh nhiệt thành nhất đã bu lấy xe rồi khăng khăng kéo bà lên bờ trong sự hoan hô nồng nhiệt đắc thắng của đám đông. Có cả đám người Âu châu cũng xuống xem đám vui và ngồi trong xe ngựa của mình ở cuối cầu tàu. Tôi thiết tưởng rằng ông bà Oakley cảm thấy mình rõ rệt đang nổi bật và khó chịu. Tôi phải thừa nhận rằng bản thân tôi cũng hơi bối rối, bởi vì toàn thể đám rước ít ra cũng có thể nói là không theo qui ước, nhưng bà Blavatsky đón nhận sự vinh danh này với đầy đủ tư cách coi đó là vấn đề phẩm giá dĩ nhiên và quả thật có vẻ khá thú vị về nó.

Còn một nét hài hước thêm vào cho cảnh tượng đó, là ban nhạc bất hạnh vẫn còn tuyệt vọng vì bị say sóng phải xếp hàng trước cái xe và được lệnh đi lùi lại trước nó, chẳng những lúc nào cũng biểu diễn khó khăn mà còn phải cúi đầu hướng về cái xe khi bước đi. Tôi không tìm được lời lẽ để mô tả cái đám rước kỳ diệu ấy; nếu bạn đọc có óc tưởng tượng phong phú thì có lẽ y có thể hình dung ra ban nhạc dũng cảm này vẫn còn xanh mét và đi loạng choạng vì say sóng, mà lại bước đi hoặc nói cho đúng hơn là đi loạng choạng về phía sau, thường xuyên cúi đầu sâu xuống nhưng lại cao thượng phấn đấu trổi lên một vài nốt nhạc từ đủ thứ nhạc cụ giữa những cơn co giật khó chịu cấp tính; cái đám rước quái đản này đi xuyên qua một đám đông đặc nghẹt người hò reo như điên dại, tất cả đều phất cờ và rú lên hết mức. Cái cầu tàu có vẻ rất dài nhưng cuối cùng chúng tôi cũng tới đầu mút ở bờ biển và thấy một số vị Đại vương có thiện cảm đã gửi tới một xe ngựa để đón bà Blavatsky, rồi chở bà tới Sảnh đường Pachiappa nơi bà được học sinh đọc bài diễn văn chào mừng.

At Pachiappa’s Hall— Ở Sảnh Đường Pachiappa

We were hustled on to a platform, where Colonel Olcott and Madame Blavatsky were accommodated with two big arm-chairs. The hall was crowded to excess, and the tumultuous cheering made it quite impossible to speak for many minutes. Of course we were all loaded with garlands according to the kindly and picturesque Indian custom; and an attempt was made to read the address of welcome, though irrepressible outbursts of cheering made it difficult to follow it. Then the Colonel rose to reply on Madame Blavatsky’s behalf, and one might have hoped that his speech would be allowed to terminate the proceedings; but there were many other Indian brothers who wished to express their sympathy, and their flaming indignation at the atrocious wickedness of the missionaries.

There was an insistent demand for a speech from Madame Blavatsky herself, and though she did not usually speak in public she at last consented to do so on this especial occasion. Naturally she was received with thunders of applause, which lasted so long that she had to sit down again and wait until it was over. When at last she was allowed to speak, she began very well by saying how touched she was by this enthusiastic reception, and how it showed her what she had always known, that the people of India would not accept tamely these vile, cowardly, loathsome and utterly abominable slanders, circulated by these unspeakable—but here she became so vigorously adjectival that the Colonel hurriedly intervened, and somehow persuaded her to resume her seat, while he called upon an Indian member to offer a few remarks.

I remember especially .an exceedingly brilliant speech made by a young lawyer, Mr. Gyanendranath Chakravarti; I had had previously no idea whatever of the eloquence and faultless diction of the highly-educated Indian speaker. The proceedings at Pachiappa’s Hall seemed to me almost interminable, but eventually we were allowed to depart for Adyar, and I had my first glimpse of the Headquarters which I afterwards came to know so well, which even now seems to me more truly home than any other spot in the world. Here of course was yet another reception for Madame Blavatsky, and I think that even her iron determination must by this time have been approaching its limit, for the rest of us were almost too exhausted to be able to appreciate the wonderful scene.

Chúng tôi chen lấn nhau xuống tận cái bục nơi Đại tá Olcott và bà Blavatsky đã ngồi chễm chệ trong hai chiếc ghế bành có tay dài. Sảnh đường đặc nghẹt người quá mức và tiếng hoan hô ồn ào khiến cho người ta hoàn toàn không thể nói được trong nhiều phút. Dĩ nhiên là chúng tôi được choàng những vòng hoa theo phong tục tử tế và hoa hòe hoa sói của Ấn Độ, và người ta toan tính đọc diễn văn chào mừng mặc dù những đợt hò reo không ai kềm chế nỗi, khiến cho người ta khó lòng theo dõi được nó. Thế rồi Đại tá đứng lên trả lời nhân danh bà Blavatsky và người ta có thể hi vọng rằng diễn từ của ông được phép kết thúc buổi hội, nhưng có nhiều huynh đệ Ấn Độ khác muốn bày tỏ sự đồng cảm của mình và lòng căm phẫn bùng cháy của họ trước sự độc ác tàn bạo của đám người truyền giáo.

Người ta khăng khăng đòi hỏi chính bà Blavatsky đáp từ và mặc dù bà thường không nói trước công chúng, nhưng cuối cùng bà cũng đồng ý làm như vậy trong cái dịp đặc biệt này. Tự nhiên là bà Blavatsky được đón tiếp bằng những đợt vỗ tay vang như sấm kéo dài đến nỗi bà phải ngồi xuống trở lại chờ cho đến khi thiên hạ hết vỗ tay. Khi cuối cùng bà được phép ngỏ lời thì bà bắt đầu rất khéo bằng cách bảo rằng bà thật sự xúc động xiết bao trước sự đón tiếp nhiệt thành này, và điều đó cho thấy cái mà bà đã luôn luôn biết đó là nhân dân Ấn Độ không ngoan ngoãn chấp nhận những lời nói xấu hèn hạ, hèn nhát, ghê tởm và cực kỳ đáng khinh bỉ được lưu hành bởi những kẻ không biết nói làm sao. Nhưng ở đây bà dùng những hình dung từ mạnh mẽ đến nỗi Đại tá phải vội vã can thiệp, và bằng cách nào đấy thuyết phục bà ngồi xuống, trong khi ông yêu cầu một hội viên Ấn Độ đưa ra một vài nhận xét.

Tôi đặc biệt còn nhớ một diễn từ cực kỳ xuất sắc của một luật gia trẻ, ông Gyanendranath Chakravarti; trước đó tôi không hề có ý niệm gì về sự lưu loát và cách đọc tuyệt vời của diễn giả Ấn Độ có trình độ giáo dục cao. Cuộc họp ở Sảnh đường Pachiappa có vẻ hầu như là vô tận, nhưng rốt cuộc chúng tôi cũng được phép khởi hành đi Adyar, và lần đầu tiên tôi thoáng thấy được Tổng hành dinh mà sau này tôi biết rất rõ, thậm chí giờ đây đối với tôi còn có vẻ là ngôi nhà có thực hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Ở đây dĩ nhiên còn có một buổi đón tiếp khác dành cho bà Blavatsky, và tôi thiết tưởng rằng ngay cả quyết tâm sắt đá của bà cho đến lúc này cũng gần đạt tới giới hạn,vì những người còn lại trong chúng tôi hầu như quá kiệt sức cho nên không thể trân trọng cái cảnh tượng quá kỳ diệu ấy.

Leave a Comment

Scroll to Top