Chương 5 — Lá Thư Được Trả Lời

CHAPTER V

The Letter Answered—Lá Thư Được Trả Lời

it will be remembered that in a previous chapter I mentioned a letter which I had addressed to the Master Kuthumi, confiding it to a spirit named Ernest for delivery. I received a reply eventually—but not through Ernest and not until the very eve of Madame Blavatsky’s departure for India. The text of the Master’s letter to me will be found in Mr. Jinarājadāsa’s book Letters from the Masters of the Wisdom, p. 27. He told me that it was not necessary to be in India during the seven years of probation—that a chela could pass them anywhere. He warned me that as a Priest of the Christian Church I had a certain share in the collective karma of that body, and He distinctly intimated that there was much in that karma which was terribly evil. He suggested that I might go to Adyar for a few months, to see whether I could work with the Headquarters staff, and added the significant remark: “He who would shorten the years of probation has to make sacrifices for Theosophy.” His letter concluded with the words:

You ask me what rules you must observe during this time of probation, and how soon you might venture to hope that it could begin I answer: You have the making of your own future in your own hands, as shown above, and every day you may be weaving its woof. If I were to demand that you should do one thing or the other, instead of simply advising, I should be responsible for every effect that might flow from the step, and you acquire but a secondary merit. Think, and you will see that this is true. So cast the lot yourself into the lap of Justice, never fearing but that its response will be absolutely true. Chelaship is an educational as well as a probationary stage, and the chela alone can determine whether it shall end in adeptship or failure. Chelas, from a mistaken idea of our system, too often watch and wait for orders, wasting precious time which should be taken up with personal effort. Our cause needs missionaries, devotees, agents, even martyrs perhaps. But it cannot demand of any man to make himself either. So now choose and grasp your own destiny—and may our Lord’s the Tathagata’s memory aid you to decide for the best.[1]

I wished to say in answer to this that my circumstances were such that it would be impossible for me to come to Adyar for three months, and then return to the work in which I was then engaged; but that I was perfectly ready to throw up that work altogether, and to devote my life absolutely to His service. Ernest having so conspicuously failed me, I knew of no way to send this message to the Master but to take it to Madame Blavatsky, and as she was to leave England on the following day for India, I hastened up to London to see her.

It was with difficulty that I induced her to read the letter, as she said very decidedly that such communications were intended only for the recipient. I was obliged to insist, however, and at last she read it and asked me what I wished to say in reply. I answered to the above effect, and asked her how this information could be conveyed to the Master. She replied that He knew it already, referring of course to the exceedingly close relation in which she stood with Him, so that whatever was within her consciousness was also within His when He wished it.

She then told me to wait by her, and not to leave her on any account. She adhered absolutely to this condition, even making me accompany her into her bedroom when she went to put on her hat and, when a cab was required, declining to allow me to leave the room and go to the door to whistle for it. I could not at all understand the purpose of this at the time, but afterwards I realized that she wished me to be able to say that she had never been out of my sight for a moment between the time when she read my letter from the Master and my receipt of the reply to it. I remember as vividly as if it were yesterday how I rode with her in that hansom cab, and the bashful embarrassment that I felt, caused partly by the honour of doing so, and partly by my fear that I must be inconveniencing her horribly, for I was crushed side ways into a tiny corner of the seat, while her huge bulk weighed down her side of the vehicle, so that the springs were grinding all through the journey. Mr. and Mrs. Cooper-Oakley were to accompany her on the voyage to India, and it was to their house that I went with her very late that night—in fact, I believe it was after mid-night, so I really ought to say very early the next morning.

Các bạn ắt hẳn nhớ rằng trong một chương trước kia, tôi có đề cập tới một bức thư mà tôi gửi cho Chơn sư Kuthumi rồi giao nó cho một vong linh tên là Ernest chuyển dùm. Rốt cuộc tôi cũng nhận được thư hồi âm nhưng không phải thông qua Ernest mà chỉ mãi tới tận một ngày trước khi bà Blavatsky lên đường đi Ấn Độ. Nguyên bản bức thư của Chơn sư gửi cho tôi có ở trang 27 quyển sách Thư của các Chơn sư Minh Triết mà tác giả là ông Jinarajadasa. Chơn sư cho tôi biết rằng tôi không cần ở Ấn Độ trong vòng bảy năm dự bị và giai đoạn đó có thể diễn ra ở bất cứ nơi đâu. Ngài cảnh báo tôi rằng trên cương vị là một linh mục của Giáo hội Kitô, tôi có một phần chia nào đấy trong cộng nghiệp của đoàn thể đó và Ngài tiết lộ rõ rệt rằng nghiệp ấy có nhiều điều xấu ác ghê gớm. Ngài gợi ý rằng tôi có thể đi Adyar trong vòng vài tháng để xem liệu tôi có thể làm việc với giới chức sắc ở Tổng hành dinh hay chăng và Ngài còn nêu thêm một nhận xét có ý nghĩa: “Kẻ nào muốn rút ngắn thời gian dự bị thì phải hi sinh cho Thông Thiên Học”. Bức thư của Ngài kết thúc bằng những lời lẽ như sau: Con hỏi ta phải tuân theo những qui tắc nào trong thời gian dự bị và liệu con có dám hi vọng rằng chẳng bao lâu nữa nó sẽ bắt đầu; ta xin trả lời là con nắm giữ tương lai mình trong tay mình và trên kia ta có nói rằng mỗi ngày con sẽ dệt nên số phận của mình. Nếu ta đòi hỏi rằng con phải làm điều này điều kia thay vì chỉ khuyến cáo, thì ta ắt chịu trách nhiệm về mọi hậu quả có thể bắt nguồn từ bước đi đó, còn con chỉ được một công trạng thứ yếu thôi. Vậy con hãy suy nghĩ để xem đâu là điều chân thực. Con hãy đặt số phận của chính mình vào trong lòng Công lý, đừng bao giờ e sợ vì đáp ứng của Công lý hoàn toàn chân thực. Muốn làm đệ tử thì cũng mang tính giáo dục như giai đoạn làm đệ tử dự bị và chỉ có đệ tử thực thụ thôi mới quyết định liệu giai đoạn này chấm dứt bằng quả vị Chơn sư hay thất bại. Do một ý niệm sai lầm về hệ thống của chúng tôi, đệ tử thực thụ rất thường khi chực chờ mệnh lệnh, phí phạm thời gian quí báu lẽ ra nên được dùng cho sự tinh tấn cá nhân. Chính nghĩa của chúng tôi cần có những người truyền giáo, kẻ sùng tín, tác nhân đại diện, có lẽ ngay cả thánh tử vì đạo nữa. Nhưng nó không thể đòi hỏi bất cứ ai làm điều ấy. Vậy thì giờ đây con hãy chọn lựa và nắm vững số phận của chính mình—mong sao việc nhớ tới Đức Thế Tôn Như Lai sẽ giúp cho con quyết định được điều tốt nhất. 1[2] Tôi muốn nói để trả lời cho điều này là hoàn cảnh của tôi khiến tôi không thể tới Adyar lưu ngụ trong vòng ba tháng rồi trở lại làm việc ở cái chỗ mà lúc ấy tôi đã dấn thân vào; nhưng tôi hoàn toàn sẵn lòng vứt bỏ hết cái công việc đó và tận hiến trọn cả đời tôi để phụng sự Ngài. Ernest hiển nhiên là đã không đáp ứng được tôi, cho nên tôi không còn cách nào khác là gửi thông điệp cho Chơn sư phải nhờ bà Blavatsky chuyển dùm; và vì bà sắp phải rời nước Anh để rồi hôm sau lên đường đi Ấn Độ cho nên tôi vội vã tới Luân Đôn để gặp bà. Tôi thật khó khăn để dẫn dụ bà đọc bức thư, vì bà nói rất dứt khoát rằng việc giao tiếp như thế chỉ dự định dành cho người nhận thư. Song le, tôi bắt buộc phải năn nỉ và cuối cùng bà cũng đọc, rồi hỏi tôi xem tôi muốn được hồi âm ra sao. Tôi trả lời với nội dung nêu trên và hỏi bà xem thông tin như vậy có thể được chuyển tới Chơn sư như thế nào. Bà trả lời rằng Chơn sư đã biết nó rồi, dĩ nhiên bà đề cập tới mối quan hệ vô cùng mật thiết của bà đối với Ngài sao cho bất cứ điều gì có trong tâm thức bà cũng ở trong tâm thức Ngài khi Ngài muốn. Thế rồi bà bảo tôi hãy chờ bà, đừng bỏ mặc bà vì bất cứ lý do gì. Bà bám cứng lấy điều kiện đó, thậm chí bảo tôi đi theo bà vào tận phòng ngủ khi bà đi cất cái mũ và khi cần có một xe ngựa thì bà từ chối không để cho tôi rời phòng đi ra cửa huýt còi gọi xe. Vào lúc ấy tôi tự nhiên không thể hiểu được mục đích của điều này, nhưng sau đó tôi vỡ lẽ ra rằng bà muốn tôi có thể nói rằng bà chưa bao giờ ở ngoài tầm nhìn của tôi trong một lúc từ cái khi bà đọc thư của tôi cho đến khi tôi nhận được thư hồi âm của Chơn sư. Tôi còn nhớ như in trong óc rằng chuyện giống như mới ngày hôm qua việc tôi cùng với bà đi trên cái xe ngựa đó và tôi cảm thấy e thẹn bối rối, một phần là vì có vinh hạnh được đi với bà và một phần vì tôi e rằng mình gây nhiều điều bất tiện cho bà; ấy là vì tôi phải nép mình vào một cái góc nhỏ xíu, ngồi thu lu trong đó còn cái thân hình đồ sộ của bà ép phía bên kia thân của bà đè vào chiếc xe sao cho suốt cuộc hành trình lò xo cứ kêu kẻo kẹt mãi. Ông bà Coper Oakley cũng đi kèm theo bà trong cuộc hành trình tới Ấn Độ và chính là tôi phải đi với bà quả thật vào đêm rất khuya tới tận nhà của ông bà—tôi tin rằng đã sau nửa đêm—do đó tôi sẽ nói tới chuyện xảy ra rất sớm vào buổi sáng hôm sau.

My First Phenomenon— Hiện Tượng Lạ Đầu Tiên Của Tôi.

Even at that hour a number of devoted friends were gathered in Mrs. Oakley’s drawing-room to say farewell to Madame Blavatsky, who seated herself in an easy-chair by the fireside. She was talking brilliantly to those who were present, and rolling one of her eternal cigarettes, when suddenly her right hand was jerked out towards the fire in a very peculiar fashion, and lay palm upwards. She looked down at it in surprise, as I did myself, for I was standing close to her, leaning with an elbow on the mantel-piece: and several of us saw quite clearly a sort of whitish mist form in the palm of her hand and then condense into a piece of folded paper, which she at once handed to me, saying: “There is your answer.” Every one in the room crowded round, of course, but she sent me away outside to read it, saying that I must not let anyone see its contents. It was a very short note and ran as follows:

Since your intuition led you in the right direction and made you understand that it was my desire you should go to Adyar immediately, I may say more. The sooner you go the better. Do not lose one day more than you can help. Sail on the 5th, if possible. Join Upasika[3] at Alexandria. Let no one know that you are going, and may the blessing of our Lord and my poor blessing shield you from every evil in your new life.

Greeting to you, my new chela.

K. H.

Ngay cả vào cái giờ rất sớm ấy cũng có một số người bạn tận tụy tụ tập trong phòng khách của bà Oakley để tạm biệt bà Blavatsky, bản thân bà ngồi chễm chệ trong một chiếc ghế bành gần lò sưởi. Bà đang nói chuyện linh hoạt với những người có mặt và đang cuộn một điếu thuốc lá; thế rồi thình lình bàn tay phải của bà bị giật giật hướng về lò sưởi một cách rất đặc thù, lòng bàn tay ngửa lên. Bà kinh ngạc nhìn xuống, và cả tôi nữa vì tôi đang đứng gần kề bà, cùi tay dựa vào tấm che lò sưởi, nhiều người trong chúng tôi thấy rất rõ một loại hình dạng trắng mờ mờ như sương mù trong lòng bàn tay bà rồi nó ngưng tụ thành một mẩu giấy gấp lại; bà tức khắc đưa nó cho tôi bảo rằng: “Đây là thư hồi âm của bạn”. Dĩ nhiên mọi người trong phòng bu đông xúm lại, nhưng bà đẩy tôi ra bên ngoài đọc thơ và bảo rằng tôi không được cho bất cứ ai nhìn thấy nội dung của nó. Đó là một bức thư rất ngắn với nội dung như sau:

“Bởi vì trực giác của con đã đưa con đi đúng hướng và khiến con hiểu rằng chinh ta muốn con đi Adyar ngay tức khắc, cho nên ta có thể nói thêm nữa. Con càng đi sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Đừng để lỡ một ngày nhiều hơn mức con có thể chịu được. Nếu có thể được con nên lên tàu ngày thứ năm. Con sẽ gặp Upasika ở Alexandria [1]. Đừng để cho ai biết con lên đường và mong sao phước lành của Chúa và phước lành khiêm tốn của ta có thể che chở cho con tránh khỏi mọi điều xấu ác trong cuộc sống mới của con.

Thân chào, đệ tử mới của ta.

Marching Orders— Lệnh Lên Đường.

In occult matters to hear is to obey. Madame Blavatsky left London later on in the same day for Liverpool, where she boarded the s.s. Clan Drummond. Meantime I was bustling round to steamer offices trying to obtain a passage for myself. The P. and O. steamer which was to leave on the 5th had absolutely not a single vacant berth in any class, so I was reluctantly compelled to seek elsewhere. After many inquiries the only opportunity that offered itself was to take the Messageries Mari-times s.s. Erymanthe from Marseilles to Alexandria, and in order to do that I had to leave London on the night of the 4th. I hurried down to Hampshire to pack my goods and chattels and to make my final arrangements; and I may say that I did not go to bed until after I had left England! Mohini and Miss Francesca Arundale were at Charing Cross Station to see me depart and give me their earnest good wishes for the strange new life which was opening before me.

Trong những vấn đề huyền bí thì nghe lệnh là phải tuân lệnh. Bà Blavatsky sau này rời Luân Đôn vào cùng ngày ấy để đi Liverpool nơi bà đáp tàu thủy Clan Drummond. Trong khi đó tôi tíu tít quanh những phòng bán vé tàu thủy để ra sức có được chuyến đi cho chính mình. Tàu thủy P. và O. phải lên đường vào thứ năm không còn một chỗ trống nào ở bất cứ hạng nào, cho nên tôi miễn cưỡng bắt buộc phải tìm chỗ khác. Sau khi tôi dọ hỏi nhiều lần thì cơ hội duy nhất là phải đi tàu thủy Chuyển tin vào thời Maritimes tên là Erymanthe từ Marseiile tới Alexandria, và muốn làm như vậy tôi phải rời Luân Đôn vào đêm ngày mùng bốn. Tôi hối hả về Hampshire để chuẩn bị hành lý và dàn xếp cuối cùng, tôi có thể nói rằng tôi không đi ngủ cho đến tận khi tôi đã rời nước Anh! Mohini và cô Francesca Arundale tới tận Trạm Charing Cross để tiển tôi và tha thiết chúc lành cho tôi thượng lộ bình an với một cuộc sống mới kỳ lạ đang mở ra trước mắt mình.

In Quarantine— Bị Cách Ly.

I reached Marseilles in the ordinary course, only to find that there was supposed to be cholera in the town. I embarked upon the Erymanthe, and I remember that our voyage through the Mediterranean was rather rough. On that voyage I read Esoteric Buddhism for the tenth time; we were fairly thorough in our studies in those days. When we reached Alexandria I found, to my immense disgust, that because of that rumour of cholera at Marseilles the Egyptian authorities proposed to put us all in quarantine for five days. You may imagine my impatience, and my fear that the delay might cause me to miss Madame Blavatsky altogether. They would not allow us to stay in the town, but carried us off to some barracks at Ramleh, where they charged us £1 a day for very unsatisfactory accommodation. Of course we were all of us perfectly well, and we were fully persuaded that the whole affair was a farce, played simply in order to extract money from us; and the broad smiles of the Egyptian officials showed that they thoroughly appreciated the situation.

At our only point of communication with the outer world there was a very heavy double fence, the component parts of which were perhaps five yards apart. A sort of little wooden railway ran across from one of these fences to the other, and a box with a rope attached to each end of it was hauled backwards and forwards to bring in supplies from without or to deliver our letters and any articles which we might wish to buy. A large bowl of water was placed in the box and we were ordered to throw into it any coins with which we wanted to pay for our purchases, while letters which we sent out to be posted were stabbed in two or three places and rigorously fumigated. The proceedings were more than ridiculous, and we kept up an attitude of feebly joking with the attendants, insisting that when any change had to be sent across to us, it also should be thrown into the water!

By means of one of the mutilated letters I communicated with the British Consul and learnt from him that Madame Blavatsky and her party had duly arrived, but had gone on to Port Said, where they were awaiting me. As soon as we were released from durance vile I posted off to the Hotel Abbat to have a real bath and some decent food, and then proceeded to inquire as to transit to Port Said. There was no railway in those days, and I found that my next opportunity was again to take the steamer Erymanthe, which had also been detained in quarantine just as we had. We should certainly have been far more comfortable if they had had the sense to leave us on board her, but as we were passengers for Alexandria they would not do that; besides, in that case, the steamer instead of the Egyptian Government would have had our £1 a day!

Tôi tới Marseille theo lộ trình bình thường, chỉ có điều phát hiện ra rằng người ta giả định rằng ở thị trấn này đang có bệnh dịch tả. Tôi lên tàu Erymanthe và tôi còn nhớ hành trình vượt qua Địa trung hải khá gay go. Trong cuộc hành trình ấy, tôi đọc quyển Phật giáo Bí truyền đến lần thứ mười; chúng tôi đã nghiên cứu nó rất tỉ mỉ vào thời đó. Khi tới Alexandria tôi vô cùng kinh tởm khi phát hiện ra rằng vì có tin đồn Marseille có bệnh dịch tả, cho nên nhà cầm quyền Ai Cập có lệnh cách ly chúng tôi trong vòng năm ngày. Bạn có thể tưởng tượng tôi sốt ruột đến chừng nào vì e rằng sự chậm trễ có thể khiến tôi không gặp bà Blavatsky. Người ta không để cho chúng tôi ở thị trấn Alexandria mà đưa chúng tôi tới tận một vài trại lính ở Ramlech, nơi đó họ tính tiền chúng tôi một bảng Anh một ngày và cung cấp tiện nghi rất không thỏa đáng. Cố nhiên tất cả chúng tôi đều đang khỏe mạnh và tin chắc rằng toàn bộ vụ việc này chỉ là một trò hề được dàn dựng để móc túi chúng tôi, và nụ cười toe toét của các quan chức Ai Cập cho thấy rằng họ hoàn toàn lợi dụng tình huống đó. Ở cái nơi duy nhất mà chúng tôi có thể giao tiếp được với thế giới bên ngoài có một hàng rào kép mà bộ phận của nó có lẽ cách nhau năm thước Anh. Có một loại đường rầy nhỏ bằng gỗ chạy từ hàng rào này sang hàng rào kia với một cái hộp có một dây thừng cột vào mỗi bên để được kéo lên kéo xuống mang theo đồ tương tế từ bên ngoài, chuyển giao thư của chúng tôi và bất cứ đồ đạc nào mà chúng tôi muốn mua. Trong hộp có một bát nước lớn, chúng tôi được lệnh quẳng vào đó bất kỳ đồng tiền nào chúng tôi muốn trả để mua đồ, còn thư từ mà chúng tôi gửi ra cho bưu điện bị chọc thủng hai ba chỗ và bị xông khói tỉ mỉ. Chuyện như vậy thật quá lố bịch và chúng tôi cứ giữ một thái độ hơi diễu cợt với kẻ tham dự khi khăng khăng bảo rằng bất cứ lúc nào có sự thay đổi đến với chúng tôi thì hãy quẳng nó vào nước!

Nhờ vào một trong những bức thư bị cắt xén, tôi giao tiếp được với tòa lãnh sự Anh và được cho biết rằng bà Blavatsky cùng với đoàn tùy tùng đã đến rồi, nhưng lại đi tới Port Said và chờ chúng tôi ở đó. Ngay khi chúng tôi được phóng thích thì tôi bèn đi ngay tới khách sạn Abbat để tắm rửa thỏa thích và ăn uống thoải mái rồi mới tiến hành dò hỏi việc quá cảnh tới Port Said. Thời đó không có đường rầy xe lửa và tôi thấy cơ hội kế tiếp của mình lại là phải đi tàu thủy Erymanthe, nó cũng bị giữ lại cách ly giống như chúng tôi. Chúng tôi chắc chắn có được thoải mái hơn nhiều nếu người ta có ý thức để cho chúng tôi ở trên tàu, nhưng vì chúng tôi là hành khách đi tới Alexandria cho nên người ta không làm như vậy; vả lại nếu làm như thế thì trong trường hợp này tàu thủy—thay vì nhà cầm quyền Ai Cập—ắt thu được của chúng tôi mỗi ngày một bảng Anh.

We Meet Again— Chúng Tôi Gặp Lại Nhau

We sailed the same evening, and reached Port Said on the following morning, where Mr. A. J. Cooper-Oakley came off to meet me, and took me ashore to a hotel where I found Madame Blavatsky and Mrs. Oakley sitting on the veranda. Madame Blavatsky’s last word to me in London had been: “See that you do not fail me”; and now her greeting was: “Well, Leadbeater, so you have really come in spite of all difficulties.” I replied that of course I had come, and that when I made a promise I also made a point of keeping it; to which she answered only: “Good for you!” and then plunged into an animated discussion—all discussions in which Madame Blavatsky took part were invariably animated—which had evidently been interrupted by my arrival. Though she said no more than this, she was clearly pleased that I had come, and seemed to regard my presence in her retinue as a kind of card in the game which she had to play. She was returning to India expressly in order to refute the wicked slanders of the Christian College missionaries, and she appeared to consider that to bring back with her a clergyman of the Established Church who had abandoned a good position in that Church to become her enthusiastic pupil and follower was somehow an argument in her favour.

Cũng chiều hôm đó, chúng tôi lên đường và tới Port Said vào sáng ngày hôm sau, ông A. J. Cooper Oakley đến gặp tôi, đưa tôi lên bờ tới một khách sạn nơi tôi thấy bà Blavatsky và bà Oakley ngồi ở hàng hiên. Lời dặn dò cuối cùng của bà đối với tôi ở Luân Đôn là:

“Mong sao bạn không phụ lòng tôi” và bây giờ bà chào đón tôi như sau: “Tốt thôi! Leadbeater, vậy là bất chấp mọi khó khăn bạn đã thực sự đến đây”. Tôi trả lời rằng cố nhiên là tôi đến vì tôi đã hứa là tôi phải giữ lời; bà chỉ trả lời như sau: “Tốt cho bạn thôi!”; rồi lại đắm chìm vào cuộc thảo luận sinh động—bất cứ sự thảo luận nào có bà Blavatsky tham gia đều luôn luôn là sinh động—cuộc thảo luận này hiển nhiên là bị cắt đứt khi tôi tới. Mặc dù bà không nói gì nhiều hơn, thế nhưng rõ ràng là bà bằng lòng vì tôi đã tới và có vẻ coi sự có mặt của tôi tháp tùng bà là một loại quân bài trong ván bài mà bà phải chơi. Bà đang cấp tốc phải trở về Ấn Độ để bác bỏ những lời nói xấu độc ác của các nhà truyền giáo thuộc Trường Kitô giáo và bà có vẻ xét thấy việc mang theo một giáo sĩ thuộc Giáo hội đã xác lập—giáo sĩ này đã từ bỏ một địa vị bảnh chọe trong Giáo hội ấy để trở thành kẻ nhiệt tình theo học với bà—dù sao đi nữa việc đó cũng là một lập luận bênh vực cho bà.



  1. Mr. Jinarājadāsa adds the following note: “Our Lord’s the Tathagata’s memory,” is a most striking phrase, understood only many long years after the receipt of the letter. It refers to incidents in past lives of long ago, when C. W. L. had seen the Great Lord face to face. It is as if the Master tried in this manner to go behind the personality of C. W. L. direct to the Ego, in whose consciousness the great truths existed as matters of direct knowledge.



  2. Ông Jinarajadasa có thêm Chú thích sau đây: “Nhớ tới Đức Thế Tôn Như Lai” là một cụm từ nổi bật nhất mà chỉ nhiều năm dài sau khi nhận được bức thư, C. W. L. mới hiểu được nó. Nó đề cập tới những diễn biến trong các kiếp đã qua từ lâu rồi khi C. W. L. diện kiến Đức Thế Tôn mặt đối mặt. Dường như thể bằng cách này Chơn sư cố gắng đi lòn đằng sau phàm ngã của C. W. L. lên thẳng tới chơn ngã, trong đó tâm thức về những sự thật vĩ đại tồn tại dưới dạng kiến thức trực tiếp.




  3. Upasika means a disciple in a female body; our Masters often spoke of Madame Blavatsky by this title.


Leave a Comment

Scroll to Top