Chương 6— Một Sự Thay Đổi Đột Ngột

CHAPTER VI

An Abrupt Change— Một Sự Thay Đổi Đột Ngột

Our last chapter ended with my meeting with Madame Blavatsky at a hotel at Port Said, where I fondly expected that we might wait in peace until our steamer arrived. I did not know Madame Blavatsky as well then as I came to do later, or I should probably have felt less sanguine. I engaged a bedroom and hunted out a few score mosquitoes from inside the curtains of its bed, and was already looking forward with pleasure to the idea of settling down for the night. Soon after darkness fell, however, Madame Blavatsky had one of those sudden flashes of inspiration which so frequently came to her from the inner side of things. She usually attributed them to one or other of those whom she called the Brothers—a term under which she included not only some of the Masters but also a number of Their disciples. In this case the hint which she received completely upset all our plans, for she was instructed that instead of waiting quietly for our steamer we were to post off immediately to Cairo, where we should obtain some information that would be of great use to her in dealing with her treacherous servants, the Coulombs.

Chương vừa qua kết thúc với việc tôi gặp bà Blavatsky ở một khách sạn tại Port Said, ở đó tôi rất trông mong rằng chúng tôi có thể yên bình chờ đợi cho đến khi tàu thủy tới. Lúc bấy giờ tôi chưa biết rõ bà Blavatsky như sau này, cho nên có lẽ tôi đã chẳng cảm thấy lạc quan hơn. Tôi rút vào phòng ngủ rồi đuổi ra mấy chục con muỗi vo ve bên trong cái màn che giường của tôi và đã nhìn thấy phía trước khoái chí với ý tưởng đêm nay sẽ được ngủ yên. Song le, chẳng bao lâu sau khi trời tối sẩm thì bà Blavatsky lại có một tia chớp lóe đột ngột cảm hứng đến với bà từ nội giới. Bà thường gán chúng cho một trong các đấng mà bà gọi là các Huynh đệ—thuật ngữ bà dùng bao hàm chẳng những một số các Chơn sư mà còn là một số đệ tử Chơn sư nữa. Trong trường hợp này lời bóng gió mà bà nhận được làm đảo lộn hoàn toàn kế hoạch của chúng tôi, vì bà nhận được lệnh rằng thay vì im lặng chờ đợi tàu thủy, chúng tôi phải đi ngay tới Cairo nơi chúng tôi có được một thông tin nào đấy rất có ích lợi cho bà để đối phó với những kẻ giúp việc phản bội là Coulombs.

The Khedive’s Packet-Boat— Tàu Chở Thư Khedive.

In those days there was no railway running from Port Said, and the only way in which we could reach Cairo was by travelling down the Suez Canal as far as Ismailia, whence we could take train to the capital. The journey down the canal was performed in a tiny little steamer somewhat like a tug-boat, which was dignified with the name of the Khedive’s packet-boat. Every night it left Port Said at midnight and reached Ismailia in the early morning. In spite of its high-sounding name it was perhaps the dirtiest and least convenient craft which I have encountered; but of course we had to make the best of it. In the stern there was a little hutch about ten feet square which was called the general cabin, and out of that at the back opened a kind of cupboard which was labelled as the ladies’ room. It was, however, windowless, so that when the door was shut it was in perfect darkness. This we resigned to Madame Blavatsky.

Mr. Oakley, who was much fatigued and, I think, somewhat upset by the sudden change in our plans, threw himself down on a hard wooden seat at one side of the general cabin; while Mrs. Oakley and I, having regard to the army of enormous cockroaches which was already in full possession of both cabins, preferred to spend the night in walking up and down the few yards of open deck, which gave us about six steps each way as the limit of our promenade. We paused occasionally to glance in at Mr. Oakley, but he slept on peacefully, although absolutely covered by the loathsome creatures already mentioned—and others. Mrs. Oakley, who was a particularly fastidious person in ordinary life, was somewhat depressed—perhaps not unnaturally; so I did my best to comfort her with glowing pictures of the glory and beauty which I hoped were awaiting us in India.

This went on for some hours until the monotony was suddenly broken by pitiable cries from Madame Blavatsky in her cupboard. Mrs. Oakley at once dashed in bravely, facing the insect plague with only a momentary shudder; but she found Madame Blavatsky very ill. and in great pain, and vehemently demanding conveniences which on that squalid little tug-boat simply did not exist. Fortunately our next stop was at the village of Kantara—the place where the pilgrim-track from Cairo to Jerusalem crosses the canal; and we prevailed on the captain of our funereal craft to wait for us there for a few minutes. There was of course nothing in the nature of a gangway, nor even a wharf; but they produced from somewhere a plank—an ordinary builder’s plank, perhaps a foot in width, and Mr. Oakley and I had to carry our unfortunate leader ashore by that means. (Madame Blavatsky at that time weighed 245 pounds; I know because I weighed her myself on the butcher’s steel-yard on board the s.s. Navarino a few days later.)

You may imagine that it was nervous work, and Madame Blavatsky’s language on the occasion was more conspicuous for strength than suavity. But somehow or other the feat was achieved; we conveyed her safely ashore, and back again on board a little later—which was even a more serious undertaking, because of the pronounced upward slope of the plank. She was restored to her cubby-hole, and the heroic Mrs. Oakley sat beside her until she sank to sleep. I believe Mr. Oakley went to sleep again; but his wife, as soon as she could leave our leader, came and paced the deck with me until in the pale gold of the Egyptian morning we moored beside the wharf at Ismailia.

Vào thời đó không có đường rầy xe lửa xuất phát từ Port Said, và cách duy nhất mà chúng tôi có thể đi tới Cairo là đi xuống kinh đào Suez xa mãi tới tận Ismailia, rồi từ đó chúng tôi có thể đáp xe lửa đi về thủ đô. Cuộc hành trình đi xuống kinh đào được thực hiện trong một chiếc tàu thủy nhỏ xíu hơi giống như tàu kéo được vinh danh là tàu chở thư Khedive. Mỗi đêm nó rời Port Said vào lúc nửa đêm rồi tới Ismailia vào sáng sớm. Mặc dù có tên đao to búa lớn nhưng có lẽ nó là cái tàu dơ dáy nhất mà tôi đã từng gặp, nhưng cố nhiên chúng tôi phải tận dụng nó. Ở nơi trang nghiêm nhất có một cái lều nho nhỏ vào khoảng 10 bộ vuông mà chúng tôi gọi là cái phòng chính, rồi từ đó mở ra phía sau có một loại tủ đứng được gọi tên là căn phòng dành cho quí bà. Tuy nhiên nó không có cửa sổ, cho nên khi cửa ra vào đóng lại thì nó tối đen như mực. Chúng tôi dành phòng này cho bà Blavatsky.

Ông Oakley vốn quá mệt mỏi và tôi thiết tưởng là ông khá bị xáo trộn bởi việc đột nhiên thay đổi kế hoạch, cho nên buông mình xuống một cái ghế làm bằng gỗ cứng ở một bên của phòng chính, trong khi đó bà Oakley và tôi vì đã nhìn thấy đội quân khổng lồ những con gián đã chiếm đầy cả hai phòng cho nên đi đi lại lại qua đêm chỉ một vài thước Anh trên cái bong tàu lộ thiên, nó chỉ dành cho chúng tôi mỗi bước đi được sáu bước ở mỗi phía thì đã hết giới hạn của việc đi lại. Thỉnh thoảng chúng tôi ngừng lại liếc nhìn ông Oakley, nhưng ông vẫn ngủ ngon lành, mặc dù hoàn toàn bị bu kín bởi những con gián dễ sợ mà chúng tôi đã nói tới cũng như những con vật khác. Bà Oakley là một người đặc biệt khó tính trong sinh hoạt thường nhật khá nản chí, có lẽ cũng tự nhiên thôi; vì vậy tôi làm hết sức mình để an ủi bà bằng những bức tranh sáng lạn về sự huy hoàng và đẹp đẽ mà tôi hi vọng đang chờ đón chúng tôi ở Ấn Độ.

Chuyện này diễn tiến được vài tiếng đồng hồ cho đến khi sự tẻ nhạt ấy đột ngột bị phá vỡ bởi những tiếng kêu thảm thương của bà Blavatsky trong phòng riêng của bà. Bà Oakley ngay tức khắc dũng cảm xông vào đương đầu với một đám côn trùng mà chỉ tạm thời nhún vai, nhưng bà thấy bà Blavatsky rất yếu và rất đau đớn lớn tiếng yêu sách về tiện nghi, mà trên cái tàu kéo nho nhỏ chết tiệt này thì ở đâu ra mà có. May mắn thay trạm dừng kế tiếp của chúng tôi là ở tại làng Kantara—nơi mà chuyến tàu chở khách hành hương từ Cairo tới Jerusalem băng ngang qua kênh đào; chúng tôi lợi dụng vị thuyền trưởng của cái tàu ma quái ấy đang chờ đợi chúng tôi ở đó trong vài phút. Dĩ nhiên chẳng có gì mang bản chất là một cầu tàu hoặc thậm chí là bến tàu, nhưng ở đâu đó cũng có một tấm ván để leo lên cầu tàu, đó là một tấm ván xây dựng thông thường có lẽ rộng một bộ Anh; ông Oakley và tôi phải khiêng vị lãnh đạo bất hạnh của chúng ta lên bờ bằng phương tiện ấy (vào lúc đó bà cân nặng tới 245 cân Anh; tôi biết điều này vì tôi có cân bà trên cái cân của người bán thịt trên bong tàu thủy Navarino vài ngày sau đó).

Các bạn hãy tưởng tượng rằng đây là một chuyện căng thẳng xiết bao, ngôn ngữ của bà Blavatsky vào dịp này rõ rệt là đầy sức mạnh hơn là sự ngọt ngào. Nhưng bằng một cách nào đấy chúng tôi cũng thành tựu được chiến tích này và đưa bà lên bờ an toàn rồi trở lại bong tàu sau đó một chút—thậm chí đây còn là một việc nghiêm trọng hơn bởi vì tấm ván rõ rệt là dốc lên. Bà được đưa thẳng vào cái chỗ thoải mái của mình, còn bà Oakley dũng cảm ngồi kế bên bà cho đến khi bà ngủ thiếp đi. Tôi tin rằng ông Oakley cũng lại ngủ tiếp, còn vợ ông ngay khi có thể rời chỗ vị lãnh đạo của chúng ta bèn đi lại bước trên bong tàu cùng với chúng tôi cho đến khi có ánh sáng vàng lợt của buổi sáng ở Ai Cập, thì chúng tôi mới bỏ neo tại bến tàu ở Ismailia.

Ismailia

There was an interval of some hours before our train started, so it seemed reasonable to go to a hotel and have some breakfast. There were at that time two hotels in the town, and their respective touts were vehemently pressing their claims on the wharf. Mr. Oakley, who was supposed to be the business man of the party, made some sort of a bargain with one of them. Madame Blavatsky, though still looking pale, was able to come on shore and to walk slowly up and down the wharf, but she did not seem anxious for companionship, and in fact rather repelled it. We saw her exchange a few words with one or two officials and with the men from the hotels; and when a little later a dilapidated carriage drove up and we wished to start for the hotel, the two porters at once engaged in a savage fight over our luggage.

When we called on the station-master to interfere, it transpired that while Mr. Oakley had made an arrangement with one of these men Madame Blavatsky had meantime engaged the other, and naturally, as she spoke in Arabic, we had no inkling of this proceeding on her part until the time came for our departure. So we had to go to the hotel which she had chosen, and to pacify the other unfortunate man as well as we could. Matters were sorted out eventually, of course by bribing both parties to the quarrel, and at last we were allowed to depart in peace and partake of our breakfast. Poor Madame Blavatsky still suffered somewhat, and was evidently not in the best of humours; but she indignantly scouted the timid suggestion that we should spend a day at Ismailia in order that she might recover her strength. So in due course we took our places in the train.

Có một thời khoảng vài tiếng đồng hồ trước khi xe lửa của chúng tôi khởi hành, vì vậy dường như là hợp lý khi chúng tôi đi tới khách sạn và dùng bữa sáng. Vào lúc đó ở thị trấn này có hai khách sạn và đám cò khách sạn liếng thoắng mời gọi trên bến tàu. Ông Oakley mà chúng tôi giả định là doanh nhân trong đám người chúng tôi tiến hành mặc cả với một trong đám cò khách sạn. Bà Blavatsky mặc dù vẫn còn xanh mét đã có thể xuống bãi biển đi lò dò lên xuống bến tàu, nhưng bà có vẻ chẳng màng kết bạn với ai và thật ra ai thấy bà cũng dội. Chúng tôi thấy bà trao đổi vài lời với một hai viên chức và nhân viên khách sạn, khi một ít lâu sau có một chiếc xe ngựa rách nát chạy tới và chúng tôi muốn khởi hành đến khách sạn thì hai người đánh xe ngay tức khắc dấn thân vào một cuộc ẩu đả dã man để giành giật hành lý chúng tôi. Khi chúng tôi gọi ông trưởng trạm tới can thiệp thì mới vỡ lẽ ra rằng trong khi ông Oakley dàn xếp với một trong hai người khuân vác thì bà Blavatsky lại bắt mối người khác, và tự nhiên là vì bà nói tiếng Ả Rập cho nên chúng tôi chẳng biết gì về cuộc mặc cả của bà cho tới giờ lên đường. Vì vậy chúng tôi phải đi đến khách sạn mà bà đã chọn và vuốt ve tên cò bất hạnh kia đến mức tối đa. Rốt cuộc mọi vấn đề đều được giải quyết, dĩ nhiên bằng cách đút tiền cho cả đôi bên cãi nhau và cuối cùng chúng tôi cũng được phép khởi hành bình an để đi ăn sáng. Tội nghiệp bà Blavatsky vẫn còn hơi đau yếu và rõ rệt là tâm trạng không khá thoải mái lắm, nhưng bà công phẩn gạt bỏ khinh bỉ cái lời gợi ý rụt rè theo đó chúng tôi nên ở lại một ngày tại Ismailia để cho bà có thể phục hồi sức khỏe. Thế là sớm muộn gì chúng tôi cũng có chỗ ngồi trong chiếc xe lửa.

A Message— Một Thông Điệp

As the journey continued Madame Blavatsky gradually recovered her strength, and a little conversation arose; but it was distinctly coloured by the influence of the previous night, for our leader favoured us with the most gloomy prognostications of our future fate:

“Ah! you Europeans”, she said, “you think you are going to enter upon the path of occultism and pass triumphantly through all its troubles; you little know what is before you; you have not counted the wrecks by the wayside as I have. The Indians know what to expect, and they have already passed through tests and trials such as have never entered into your wildest dreams; but you, poor feeble things, what can you do?”

She continued these Cassandralike prophecies with a maddening monotony, but her audience was far too reverential to try to change the subject. We sat in the four corners of the compartment, Madame Blavatsky facing the engine, and Mr. Oakley sitting opposite to her with the resigned expression of an early Christian martyr; while Mrs. Oakley, weeping profusely, and with a face of ever-increasing horror, sat opposite to me. For myself, I had a sort of feeling like putting up an umbrella against a heavy shower, but I reflected that after all a good many other men had entered upon that path and had reached its goal, and it seemed to me that even if I could not reach it in this life I could at any rate lay a good foundation for the work of the next incarnation. Che sara, sara!

In those prehistoric days trains were usually lit by smoky oil lamps, and in the centre of the roof of each compartment there was a large round hole into which porters inserted these lamps as they ran along the roofs of the carriages. This being a day train, however, there was no lamp, and one could see the blue sky through the hole. It happened that Mr. Oakley and I were both leaning back in our respective corners, so that we both saw a repetition of the phenomenon which I have previously described as occurring in England; we saw a kind of ball of whitish mist forming in that hole, and a moment later it had condensed into a piece of folded paper, which fell to the floor of our compartment. I started forward, picked it up, and handed it at once to Madame Blavatsky, taking it for granted that any communication of this nature must be intended for her. She at once unfolded it and read it, and I saw a red flush appear upon her face.

“Umph,” she said, “that’s what I get for trying to warn you people of the troubles that lie before you,” and “she” threw the paper to me.

“May I read it?” I said, and her only reply was: “Why do you think I gave it to you?”

I read it and found it to be a note signed by the Master Kuthumi, suggesting very gently but quite decidedly that it was perhaps a pity, when she had with her some earnest and enthusiastic candidates, to give them so very gloomy a view of a path which, however difficult it might be, was destined eventually to lead them to joy unspeakable. And then the message concluded with a few words of kindly commendation addressed to each of us by name. I am sorry that I cannot be quite certain of the exact wording of that message, though I am sure that I have correctly reproduced its general tenor. The little sentence addressed personally to me was: “Tell Leadbeater that I am satisfied with his zeal and devotion.”

Khi cuộc du hành tiếp diễn thì bà Blavatsky dần dần phục hồi sức khỏe và bắt đầu nói chuyện một chút; những câu chuyện rõ rệt nhuốm màu sắc chịu ảnh hưởng của đêm hôm trước bởi vì vị lãnh đạo của chúng tôi đã đưa cho chúng tôi những lời tiên đoán u ám nhất về số phận tương lai của chúng tôi.

Bà bảo rằng: “Ôi những người Âu Mỹ các bạn, các bạn cứ tưởng rằng mình sắp bước vào con đường Huyền bí học rồi đắc thắng vượt qua những rắc rối của nó; các bạn chẳng biết bao nhiêu về những gì ở phía trước mắt mình; các bạn đâu phải gặp những khốn khổ dọc đường mà tôi đã gặp. Người Ấn Độ biết mình phải trông mong gì và họ đã trải qua những trắc nghiệm và thử thách mà bạn có nằm mơ cũng chẳng bao giờ nghĩ tới; còn các bạn là những sinh vật khốn khổ yếu đuối liệu các bạn có thể làm được gì?”

Bà tiếp tục những lời tiên tri này với một vẻ đơn điệu làm người ta phát điên lên, nhưng kẻ lắng nghe bà quá kính cẩn cho nên không dám đổi đề tài. Chúng tôi ngồi ở bốn góc của toa xe, bà Blavatsky đối diện với đầu máy, còn ông Oakley ngồi đối diện bà với vẻ cam chịu của một thánh tử vì đạo của Kitô hữu thời sơ khai; trong khi đó bà Oakley khóc sướt mướt với khuôn mặt càng ngày càng khiếp sợ thì ngồi đối diện với tôi. Về phần mình, tôi có cảm tưởng đang phải giương dù lên chống lại một cơn mưa rào, nhưng tôi hi vọng rằng xét cho cùng thì nhiều người khác đã bước vào con đường đó và đã đạt tới mục tiêu, cho nên dường như dẫu tôi không thể đạt được mục tiêu trong kiếp này thì dù sao đi nữa tôi cũng xây dựng một nền móng tốt cho công việc của kiếp sau.

Biết ra sao ngày sau! Vào cái thời tiền sử đó thì xe lửa thường được thắp sáng bằng những ngọn đèn dầu ám khói và ở giữa mái của mỗi toa xe có một lỗ tròn lớn mà những người phu xe nhét vào đó những chiếc đèn khi họ chạy dọc trên mái của những toa xe. Song le đây là xe lửa đang chạy ban ngày cho nên không có đèn và người ta có thể nhìn thấy bầu trời xanh qua cái lỗ hổng đó. Ngẫu nhiên là cả ông Oakley lẫn tôi đều đang dựa người vào cái góc của mình, cho nên cả hai chúng tôi đều thấy lập lại cái hiện tượng lạ mà tôi đã mô tả trước kia có diễn ra ở nước Anh; chúng tôi thấy một loại quả banh sương mù trăng trắng được hình thành trong cái lỗ ấy và một lúc sau nó ngưng tụ thành một mẩu giấy gấp lại rồi rơi xuống sàn trong toa xe của chúng tôi. Tôi tiến tới nhặt nó lên rồi giao nó ngay cho bà Blavatsky, coi như đương nhiên là bất kỳ sự giao tiếp nào có bản chất như vậy ắt phải dự tính dành cho bà. Bà ngay tức khắc giở nó ra đọc và tôi thấy khuôn mặt bà có vẻ đỏ bừng lên.

Bà bảo: “Ôi! Đây chính là điều mà tôi đã cố gắng cảnh báo quí bạn về những rắc rối đang chờ đợi trước mặt quí bạn”, rồi bà bà quẳng tờ giấy cho tôi. Tôi hỏi: “Liệu tôi có được phép đọc nó không?” thì bà chỉ trả lời rằng: “Tại sao bạn lại nghĩ tôi đưa nó cho bạn?”

Tôi đọc tờ giấy và thấy rằng đó là một bức thư ngắn do Chơn sư Kuthumi ký tên, gợi ý rất nhã nhặn nhưng hoàn toàn dứt khoát rằng có lẽ thật tội nghiệp khi bà có những ứng viên đầy nhiệt huyết và nhiệt thành mà lại vẽ ra cho người ta một viễn cảnh u ám như vậy về đường đạo, cho dù nó có thể khó khăn đến đâu đi nữa thì rốt cuộc nó ắt phải đưa người ta tới niềm vui khôn tả. Thế rồi thông điệp kết thúc bằng một vài lời lẽ khen ngợi tử tế đích danh mỗi người chúng tôi. Rất tiếc là tôi không thể hoàn toàn chắc chắn về lời lẽ chính xác trong thông điệp ấy, nhưng tôi tin chắc rằng tôi đã mô phỏng chính xác nội dung cơ bản của nó. Câu chuyện ngắn gọn dành cho cá nhân tôi là như sau: “Hãy cho Leadbeater biết rằng ta rất bằng lòng với nhiệt tình và lòng tận tụy sùng tín của y”.

A Little Dust—Một Chút Bụi Đất

I need hardly say that we were all much comforted and uplifted and filled with gratitude; but, though no rebuke could possibly have been more gently worded, it was evident that Madame Blavatsky did not altogether appreciate it. Before our conversation began she had been reading some book which she wished to review for The Theosophist, and she was still sitting with the book open upon her knee and the paper-knife in her hand. She now resumed her reading, stroking the dust of the desert (which came pouring in at the open window) off the pages of the book with her paper-knife as she read. When an especially vicious puff came in Mr. Oakley started forward and made a motion as if to close the window; but Madame Blavatsky looked up at him balefully, and said with unmeasured scorn: “You don’t mind a little dust, do you?” Poor Mr. Oakley shrank back into his corner like a snail into its shell, and not another word did our leader utter until we steamed into the station at Cairo. The dust certainly was rather trying, but after that one remark we thought it best to suffer it in silence. I remember that poor Mrs. Oakley was wearing one of those curious contrivances which ladies call a feather boa; and before we reached Cairo the whole thing was just a solid rope of sand, the feathers being indistinguishable.

Tôi hầu như không cần nói rằng chúng tôi đều cảm thấy an ủi, phấn khởi và đầy lòng biết ơn; nhưng mặc dù không có lời quở trách nào nhẹ nhàng hơn nữa, song hiển nhiên là bà

Blavatsky hoàn toàn đánh giá cao điều đó. Trước khi câu chuyện bắt đầu, bà đã đọc một quyển sách nào đấy mà bà muốn duyệt lại cho Tạp chí Nhà Thông Thiên Học và bà vẫn còn ngồi mở quyển sách ra đặt trên đầu gối, tay lăm lăm cầm con dao rọc giấy, giờ đây bà lại tiếp tục đọc và trong khi đọc thì dùng con dao rọc giấy phủi cát bụi sa mạc (nó ùa vào qua cửa sổ mở) ra khỏi những trang sách. Khi có một luồng gió đặc biệt độc hại ùa vào thì ông

Oakley tiến lên làm ra vẻ muốn đóng cửa sổ; nhưng bà Blavatsky nhìn ông kinh hãi rồi bảo bằng một giọng khinh thường không kềm chế: “Chẳng lẽ ông lại quan tâm tới một chút cát bụi đó sao?”. Ông Oakley khốn khổ co lại vào trong góc toa giống như con ốc rút mình vào trong vỏ, còn vị lãnh đạo của chúng ta không nói lời nào nữa cho tới khi đoàn tàu chúng tôi lừng lững tiến vào trạm Cairo. Đất bụi chắc chắn là khá thử thách, nhưng sau đó khi có nhận xét như vậy thì chúng tôi nghĩ tốt nhất là hãy âm thầm chịu đựng nó. Tôi còn nhớ rằng bà Oakley khốn khổ có mặc một trong những loại hàng hiệu mà quí bà gọi là con trăn có lông vũ; trước khi chúng tôi tới Cairo thì toàn bộ cái thứ ấy chỉ còn là một sợi dây cát bẩn thỉu không phân biệt được đám lông vũ nữa.

Another Abrupt Change— Một Sự Thay Đổi Đột Ngột Khác Nữa

At Cairo we engaged a carriage and drove as a matter of course to Shepheard’s Hotel, that being the usual resort of English people. It would seem that some thirty or forty other people had the same idea, for we found the great entrance-hall crowded, and everything in dire confusion. Our luggage, of which we had a considerable amount, had been piled upon the floor in the middle of the hall; and Madame Blavatsky sat upon it, while Mr. Oakley was trying to fight his way through the crowd to the clerk’s desk in order to engage rooms for us. He had barely succeeded in doing this—in fact, he was still struggling in the crowd on his way back to us—when she jumped up from her seat and called to him excitedly, telling him that we were not to stay at Shepheard’s at all, but instead were to make our way to the Hotel d’Orient, which had been kept by the Coulombs during their stay in Egypt—the suggestion being that in that house we could acquire a good deal of information which would be of use to Madame Blavatsky when she came to deal with them later.

Of course this caused the usual confusion; poor Mr. Oakley had to go back and countermand the rooms which he had engaged, and we made our way to the other hotel, which, though certainly less fashionable, proved comfortable enough. It was in the Ezbekieh Square, and we had some pleasant rooms looking out over the garden. We stayed there for several days, and the suggestion which had been made to Madame Blavatsky bore much fruit, as she was able to obtain from the present host and hostess of the hotel, and from some servants who had worked in the house for some years, numerous evidential details of unreliable and discreditable conduct on the part of the previous occupants.

Ở Cairo chúng tôi leo lên xe ngựa rồi dĩ nhiên đi tới khách sạn Shepheard, đó là nơi nghỉ dưỡng thông thường của người Anh. Dường như có khoảng 30—40 người khác cũng nghĩ như vậy, vì chúng tôi thấy đại sảnh đường tiếp tân đặc nghẹt người, mọi thứ thật là hỗn độn. Hành lý của chúng tôi có khá nhiều—cũng được chất đống trên sàn ở giữa sảnh đường; bà Blavatsky ngồi trên đó, còn ông Oakley mở đường đi xuyên qua đám đông tới bàn làm việc của viên chức để thuê phòng cho chúng tôi. Ông chỉ vừa mới thành công khi làm được như vậy—thực ra ông vẫn còn đang chen lẫn trong đám đông để tìm đường về phía chúng tôi—thì bà lại nhảy dựng lên từ chỗ ngồi và rối rít gọi ông bảo rằng chúng ta tuyệt nhiên không được lưu ngụ ở Shepheard, thay vào đó phải tìm đường đi tới khách sạn Phương Đông mà đám người Coulombs đã lưu ngụ ở đấy trong khi ở Ai Cập—điều này gợi ý rằng ở căn nhà đó chúng tôi có thể thu thập được nhiều thông tin mà bà Blavatsky cần dùng tới khi bà phải đối phó với họ sau này. Dĩ nhiên điều này lại gây ra sự bối rối như thông lệ, ông Oakley khốn khổ phải trở lại hủy lệnh đặt phòng, rồi chúng tôi tìm đường đi tới khách sạn khác mặc dù không mang tính thời thượng lắm, nhưng vẫn tỏ ra đủ tiện nghi đúng mức. Nó tọa lạc ở Quảng trường Ezbekich và chúng tôi có một số phòng dễ chịu nhìn ra vườn. Chúng tôi ở lại đó trong nhiều ngày và lời gợi ý mà bà Blavatsky nêu ra cũng có nhiều kết quả, bởi vì bà có thể thu thập được từ ông bà chủ khách sạn hiện nay cũng như một số nhân viên phục vụ trong tòa nhà ấy vài năm có được nhiều chi tiết làm bằng chứng về hạnh kiểm không đáng tin cậy của những người đã lưu ngụ ở đó trước kia.

An Elder Brother— Một Huynh trưởng.

It was in Madame Blavatsky’s room in that hotel that I first saw one of the members of the Brotherhood. While sitting on the floor at her feet, sorting out some papers for her, I was startled to see standing between us a man who had certainly not entered by the door, which was straight before me the whole time, and had not opened. I jumped up uttering a sharp exclamation of surprise, which caused Madame to laugh inordinately. She said banteringly:

“You will not go far on the path of occultism if you are so easily startled at a little thing like that.”

Then she presented me to the visitor, who proved to be he who is now the Master Djwal Kul, although he had not then taken the Initiation which made him an Adept.

Our stay in Egypt was in many ways a most remarkable experience, as Madame Blavatsky constantly told us much of the inner side of what we saw there. She had been in Egypt before, and was well acquainted with some of the officials, including the Prime Minister, Nubar Pasha, who very kindly invited us all to dinner. She also seemed to know quite intimately the Russian Consul, Monsieur Hitrovo, who was exceedingly kind and attentive to her, sending her every morning a great bouquet of lovely flowers, and treating her in every way as a lady of the highest distinction, as of course she really was in her own country. Also she introduced us to Monsieur Maspero, the Curator of the Boulak Museum, as it was then. I remember particularly how we went through the Museum with this gentleman and how Madame Blavatsky was able to give him a great mass of most interesting information about the various curiosities that were under his care.

Chính trong căn phòng của bà Blavatsky ở khách sạn đó mà lần đầu tiên tôi đã thấy một trong những thành viên của Quần Tiên Hội. Trong khi đang ngồi bệt trên sàn cạnh chân bà để lọc lựa một số tài liệu cho bà, tôi giật mình khi thấy đứng giữa chúng tôi là một người chắc chắn không bước vào qua cửa ra vào, vì lúc nào cửa cũng ở ngay trước mắt tôi và nó chưa được mở ra. Tôi nhảy nhổm lên, thốt ra một tiếng kêu sửng sốt, điều này khiến bà cười ngặt nghẽo và ôn tồn bảo: “Bạn ắt không đi xa được trên con đường Huyền bí học nếu bạn dễ dàng giật mình như vậy trước một chuyện lặt vặt như thế” . Rồi bà giới thiệu tôi với khách viếng thăm, vị này tỏ ra là đấng bây giờ là Chơn sư Djwal Kul, mặc dù vào lúc ấy ngài chưa trải qua cuộc Điểm đạo khiến ngài trở thành Chơn sư . Xét về nhiều mặt, việc chúng tôi lưu ngụ ở Ai Cập là một trải nghiệm đáng chú ý nhất, vì bà Blavatsky thường xuyên cho chúng tôi biết nhiều điều về khía cạnh nội giới của những gì mà chúng tôi thấy ở đó. Trước kia bà có ở Ai Cập và quen thuộc rất nhiều với một số quan chức bao gồm cả Thủ tướng Nubar Pasha. Ông này rất tử tế, mời tất cả chúng tôi dùng bữa tối. Bà có vẻ cũng quen thân với lãnh sự Nga, ông Hitrovo, ông vô cùng tử tế và quan tâm tới bà, sáng nào cũng gửi cho bà một bó hoa lớn với những đóa hoa dễ thương và xét về mọi mặt đối xử với bà như một mệnh phụ đẳng cấp cao nhất. Lẽ dĩ nhiên bà quả thật như vậy ở xứ sở của chính bà. Bà cũng giới thiệu chúng tôi với ông Maspero, là vị Quản thủ Viện bảo tàng Boulak vào lúc bấy giờ. Tôi còn nhớ đặc biệt chúng tôi đi tham quan hết Viện bảo tàng cùng với nhà quí tộc này và bà Blavatsky đã có thể cung cấp cho ông rất nhiều thông tin đáng chú ý nhất về đủ thứ món quí hiếm đang được ông quản lý.

A Gruesome Ceremony— Một nghi lễ dễ sợ

We saw many strange things, and it was of course an enormous advantage to us to have with us one who understood so well the Oriental customs, and could explain the meaning of much that without her we could not have comprehended. I remember one day we were looking out of the window of the hotel, when we saw a number of men, obviously Muhammadans, gather together in a circle in the garden of the Square, all facing inwards. After some preliminary mutterings they all began to go through a sort of exercise of extraordinary violence, raising their hands above their heads as high as they could reach, bending backwards as far as possible, and then swinging forwards until with the tips of their fingers they touched the ground in front of them; and each time they made that convulsive swing they all shouted in unison the name of God— “Al-lah-ha!”

This remarkable performance went on for about half-an-hour and then quite suddenly they all executed a left turn, so that, although still standing in a ring, they were one behind the other. Then each put his hands on the shoulders of the man in front of him, and they began to run round in that ring, all barking in unison exactly like dogs. This continued for perhaps five minutes, and then one of the men fell out of the circle and sank to the ground in a fit, struggling horribly and foaming at the mouth. In a few moments all the rest were in the same condition, and the scene was most hideous. After a little while one by one they seemed to recover, and sat up looking round in a dazed sort of way, and presently they helped one another to their feet and staggered away.

But the extraordinary thing was that all the passers-by in that crowded street took the whole thing as a matter of course, and no one even stopped to watch these men—still less to offer any assistance. Madame Blavatsky told us that they belonged to a certain sect which made a practice of such a performance, and that by means of it they believed themselves to become possessed by certain spirits from whom, while in that condition, they could obtain all sorts of useful information—such as, for example, where a buried treasure might be found—or that they could receive advice as to any difficulty in which they might happen to find themselves. She also described to us in the most gruesome manner the peculiarly ghastly and evil elemental creatures which they gathered round themselves by this abominable ceremony.

Chúng tôi chứng kiến nhiều điều kỳ lạ và dĩ nhiên chúng tôi được lợi ích rất nhiều vì có bên mình một người hiểu rất rõ phong tục Đông phương, và có thể giải thích ý nghĩa của nhiều điều mà nếu không có bà thì chúng tôi không thể hiểu được. Tôi nhớ có một ngày chúng tôi nhìn ra ngoài cửa sổ khách sạn thì thấy một số người gọi là tín đồ Hồi giáo tụ tập lại thành vòng tròn trong khu vườn của quãng trường, tất cả đều quay mặt vào bên trong. Sau khi thốt lên một vài lời lẩm bẩm mào đầu, tất cả những người này bắt đầu trải qua một loại thao tác bạo động phi thường, giơ tay lên trên đầu cao hết mức, uốn người ra phía sau tối đa, rồi lại nghiêng mình về phía trước cho đến khi đầu ngón tay chạm vào mặt đất trước mặt họ. Mỗi khi họ thực hiện sự uốn éo co giật ấy thì họ đều đồng thanh hô vang danh xưng của Thượng Đế—“Al-lah-ha!”. Màn trình diễn đáng chú ý này tiếp tục trong khoảng nửa tiếng đồng hồ, thế rồi hoàn toàn đột ngột tất cả lại xoay sang bên trái sao cho mặc dù vẫn còn đứng thành một vòng họ đã người này đứng sau người kia. Rồi mỗi người lại đặt tay lên vai của người trước mặt và họ bắt đầu chạy vòng vòng, tất cả đều đồng thanh sủa như những con chó. Điều này có lẽ tiếp tục trong vòng năm phút, thế rồi một trong những người ấy ngã lăn quay ra khỏi vòng, rớt xuống đất trong một cơn vật lộn khủng khiếp sùi bọt mép. Chỉ ít lâu sau tất cả những người còn lại cũng ở tình trạng giống như vậy và phong cảnh thật là dễ sợ, sau đó không lâu thì hết người này tới người kia có vẻ phục hồi, ngồi phắt lên nhìn quanh với một vẻ ngây dại và chẳng bao lâu sau họ giúp nhau đứng lên rồi lảo đảo đi mất.

Nhưng cái chuyện lạ thường là ở chỗ mọi người khách đi ngang qua đường phố đông đúc ấy đều coi toàn thể chuyện này là đương nhiên, thậm chí chẳng có ai ngừng lại để quan sát những người ấy chứ đừng nói chi tới việc đề nghị giúp đỡ. Bà Blavatsky bảo chúng tôi rằng, họ thuộc về một giáo phái nào đấy vốn đang thực hành một màn trình diễn như vậy và nhờ vào đó họ tin rằng mình sẽ được nhập xác bởi một vài tinh linh mà trong tình huống đó có thể thu thập được từ đám tinh linh ấy đủ thứ thông tin hữu ích—chẳng hạn như có thể tìm được một kho báu bị chôn giấu—hoặc họ có thể nhận được những lời khuyên về bất kỳ khó khăn nào mà họ ngẫu nhiên gặp phải. Bà cũng mô tả cho chúng tôi một cách ghê tởm nhất những tinh linh ngũ hành đặc biệt ma quái và gian tà tụ tập xung quanh qua cái nghi lễ dễ sợ ấy.

She Knew Arabic—Bà Biết Tiếng Á Rập

Madame Blavatsky understood Arabic, and she used to amuse us greatly by translating for our benefit the private remarks which were being made by the grave and dignified Arab merchants, as they sat talking to one another in the bazaar. After they had for some time been calling us Christian dogs, and speaking disrespectfully of our female relatives for many generations, she blandly asked them in their own language whether they thought that was the way in which a good son of the Prophet should speak of those from whom he hoped to gain much in the way of business. The men were always covered with confusion, not having expected that any European could possibly understand them.

Arabic, however, seems to have been the only Oriental language with which she was acquainted; she did not know Sanskrit, and many of the difficulties of our Theosophical terminology arise from the fact that in those days she would describe what she saw or knew, and then ask any Indian who happened to be near what was the Sanskrit name for it. Very often the gentleman who provided her with the term had not clearly understood what she meant; and even when he did, we must remember that she asked adherents of different schools of philosophy, and that each answered according to the shade of meaning applied to the term in his teaching.

Bà Blavatsky biết tiếng Ả Rập và bà thường làm cho chúng tôi vui vẻ rất nhiều bằng cách giúp cho chúng tôi những lời nhận xét riêng tư của đám thương nhân Ả Rập nghiêm trang và uy nghi khi họ ngồi tán gẫu với nhau ở chợ. Sau khi họ đã có lúc gọi chúng tôi là những con chó Kitô hữu, rồi nói bất kính về người quen thuộc trong nhiều thế hệ của chúng tôi đang mang xác nữ, thì bà nhã nhặn yêu cầu họ xem trong ngôn ngữ của chính họ liệu họ nghĩ ra sao đây có phải là cách thức của đứa con ngoan ngoãn của bậc đạo sư nói về những người mà y hi vọng thu lợi được nhiều qua việc buôn bán. Những người này luôn luôn tỏ ra lúng túng vì không trông mong rằng bất cứ người Âu Tây nào có thể hiểu được mình. Song le tiếng Ả Rập dường như là ngôn ngữ Đông Phương duy nhất mà bà quen biết. Bà không biết tiếng Bắc phạn và nhiều khó khăn trong kho thuật ngữ Thông Thiên Học của chúng ta bắt nguồn từ sự kiện vào thời đó bà muốn mô tả điều mà bà nhìn thấy hoặc biết, rồi kế đó hỏi bất cứ người Ấn Độ nào ngẫu nhiên ở gần bà xem y gọi cái đó bằng danh xưng Bắc phạn nào. Rất thường khi nhà quí tộc ấy cung cấp cho bà cái thuật ngữ mà không hiểu rõ lắm bà ngụ ý muốn nói gì; và ngay cả khi hiểu thì ta phải nhớ rằng bà hỏi những tín đồ thuộc các trường phái triết học khác nhau và mỗi người trả lời theo cái sắc thái ý nghĩa được áp dụng cho thuật ngữ này trong giáo huấn của mình.

Phenomena— Những Hiện Tượng Lạ.

Many curious phenomena were constantly taking place around her at this period. First, she was herself the most striking of all the phenomena, for her changes were protean. Sometimes the Masters Themselves used her body, and wrote or spoke directly through her. At other times when her ego was elsewhere engaged, one or other of two pupils of lower degree than herself would take the body, and there were even certain occasions when another woman used to be in charge—I think a Tibetan. I have myself frequently seen all these changes take place, and I have seen the new man who entered the body looking round to discover the condition of affairs into which he had come—trying to take up the thread of a conversation, for example. Yet with all this, she was in no sense of the word like an ordinary medium, for the true owner of the body stood more or less within reach all the time in full consciousness, and thoroughly understood what was going on.

These amazing changes led sometimes to the most extraordinary complications. The chela who was suddenly called in to occupy the body was of course ignorant of what had been said a few minutes before, and so was occasionally betrayed into what seemed bare-faced contradictions. I remember a story told to me later by a member of the Avenue Road household, which gives a good illustration of the difficulties we had to encounter. The narrator was a man of some legal experience, and was consequently usually deputed to act as representative of the household, or of Madame Blavatsky, when there was any business to be done with the lawyers.

Vào thời kỳ ấy có nhiều hiện tượng kỳ lạ thường xuyên diễn ra xung quanh bà. Trước hết bản thân bà là một điều nổi bật nhất trong mọi hiện tượng lạ vì bà cứ thay đổi liên tục. Có khi chính các Chơn sư mượn xác của bà, nói hoặc viết trực tiếp thông qua bà, cũng có khi chơn ngã của bà đang dấn thân nơi nào khác thì một hai đệ tử ở trình độ thấp hơn bà lại mượn xác bà, thậm chí có một số trường hợp có một phụ nữ khác thường phụ trách việc này mà tôi nghĩ đó là một người Tây Tạng. Bản thân tôi thường thấy mọi sự thay đổi này diễn ra và tôi đã chứng kiến cái người mới nhập vào xác bà ngó quanh quất để khám phá ra tình hình sự việc mà y vừa mới xen vào, chẳng hạn như cố gắng bắt kịp mạch lạc của câu chuyện. Thế nhưng cho dù mọi điều đó xảy ra, bà tuyệt nhiên không giống như một đồng từ thông thường theo nghĩa của từ này, vì chủ nhân ông thật sự của thể xác ít nhiều lúc này cũng có đầy đủ ý thức ở trong phạm vi gần đó và hoàn toàn hiểu rõ điều gì đang xảy ra. Những thay đổi kỳ diệu này thỉnh thoảng gây ra những điều phiền phức lạ thường nhất. Người đệ tử đột ngột được kêu gọi mượn xác bà dĩ nhiên chẳng biết gì về điều được nói ra trước đó vài phút, cho nên thỉnh thoảng lại bộc lộ điều có vẻ là trắng trợn nói ngược lại. Tôi còn nhớ một câu chuyện mà sau này một hội viên ở chủ hộ Đường Avenue kể lại cho tôi minh họa những khó khăn mà chúng tôi gặp phải. Người kể chuyện là người có kinh nghiệm về pháp lý và do đó thường là đại biểu thay mặt cho chủ hộ hoặc cho bà Blavatsky khi có bất cứ chuyện gì giao tiếp với các luật sư.

A Characteristic Experience— Một Trải Nghiệm Đặc Trưng

On a certain day some such business arose; I do not know its precise nature, but it involved the signing by Madame Blavatsky of several documents. Our member laid these documents before her, and endeavoured with a true legal sense of responsibility to explain them to her, but she did not seem to comprehend at all clearly, and indeed pushed the papers aside somewhat impatiently. Having, as he supposed, obtained all the necessary signatures, he withdrew and was about to start on his journey to the city; but, finding the weather colder than he expected, he decided to wear an overcoat, and ran upstairs to his room to fetch it.

Changing his papers from one pocket to another, he ran through them mechanically to see that all were there, and fortunately noticed that one of them was unsigned; so on his way downstairs he entered Madame Blavatsky’s room once more, saying:

“O, H. P. B., here is one of these papers which I have overlooked; will you please sign it?”

“What papers?” demanded Madame Blavatsky.

“Only one more of those which you signed a few minutes ago.”

“What do you mean? I have signed no papers,” she returned indignantly.

“But, H. P. B., here they are!” protested the mystified member; and he spread them out before her.

“O, I see!” she said, apparently mollified; “but what is their purport?”

Our friend repeated his explanations; and not only were they fully understood this time, but this Madame Blavatsky was a better man of business than he was, and asked him questions which he was unable to answer!

No wonder that strangers did not always quite grasp the situation!

I remember an occasion on which she bought in the scent-bazaar at Cairo a tiny bottle of attar of roses, for use in the shrine-room at Adyar, paying £2 for it. When we were sitting at lunch in the hotel half-an-hour afterwards, at a small table reserved for our party in an alcove, two English sovereigns fell out of space upon the table, and Madame Blavatsky explained that she had been told that she ought not to spend money upon Them in this way, as we should need every shilling that we had before we reached Adyar—a statement which certainly proved true.

At one time and another I have seen a good many of the phenomena which were so closely associated with Madame Blavatsky. I have seen her precipitate drawings and writings, and I have also seen her find a missing object by occult power. On several occasions I have seen letters fall out of the air in her presence; and I must also state that I have seen such a letter fall at the Headquarters at Adyar when she was six thousand miles away in England, and again that I myself have several times had the privilege of being employed by the Master to deliver just such letters after her departure from the physical plane.

In those early days of the Society messages and instructions from the Masters were frequent, and we lived at a level of splendid enthusiasm which those who have joined since Madame Blavatsky’s death can hardly imagine. Those of us who have had the inestimable privilege of direct touch with the Masters have naturally retained that enthusiasm, but it is not easy for us, whose powers are so much less than hers, fully to impart it to newer members. I have sometimes wondered, however, how many of our present-day members would have found themselves able to endure the somewhat severe but remarkably effective training through which she put her pupils; I can testify to certain radical changes which her drastic methods produced in me in a very short space of time—also to the fact that they have been permanent!

When I came into her hands I was just an ordinary lawn-tennis-playing curate—well-meaning and conscientious, I believe, but incredibly shy and retiring, with all the average Englishman’s horror of making himself conspicuous in any way or occupying a ridiculous position. After a few weeks of her treatment I had reached a stage in which I was absolutely hardened to ridicule, and did not care in the slightest degree what anybody thought of me. I mean that quite literally; it was not that I had learnt to endure disapproval stoically, in spite of internal anguish, but that I actually did not care what people thought or said of me, and indeed never considered that matter at all. And I have never cared since! I admit that her methods were drastic and distinctly unpleasant at the time, but there was no question as to their effectiveness.

Apart from the great Masters of Wisdom, I have never known any person from whom power so visibly radiated. Clever she certainly was; not a scholar in the ordinary sense of the word, yet, as I have already said, possessed of apparently inexhaustible stores of unusual knowledge on all sorts of out-of-the-way unexpected subjects. She was an indefatigable worker from early in the morning until late at night, and she expected everyone around her to share her enthusiasm and her marvellous endurance. She was always ready to sacrifice herself—and, for the matter of that, others also—for the sake of the cause, of the great work upon which she was engaged. Utter devotion to her Master and to His work was the dominant note of her life, and though now she wears a different body, that note still sounds out unchanged, and if she should ever be directed to come forth from her retirement and to take charge once more of the Society which she founded, we shall find it ringing in our ears as a clarion to call around her old friends and new, so that through all the ages that work shall still go on.

Vào một ngày nào đó có xuất hiện một doanh nghiệp giống như thế, tôi không biết bản chất chính xác của nó nhưng nó đòi hỏi bà Blavatsky phải ký nhiều tài liệu. Hội viên của chúng ta đặt những tài liệu này trước mặt bà và với một ý thức trách nhiệm pháp luật chân chính. Y cố gắng giải thích chúng cho bà nhưng bà có vẻ hoàn toàn không hiểu rõ và đẩy đám tài liệu sang bên một cách khá sốt ruột. Sau khi giả định rằng đã có được những chữ ký cần thiết, y rút lui và sắp sửa khởi hành đi lên thị trấn; nhưng vì thấy thời tiết lạnh hơn mức trông đợi cho nên y quyết định mặc một chiếc áo khoác ngoài và chạy lên cầu thang tới phòng mình để lấy áo.

Trong khi chuyển tài liệu từ túi này sang túi kia, y máy móc dở xem tất cả những gì có trong đó, và may mắn thay y chú ý thấy rằng có một tài liệu chưa được ký. Thế là trên đường xuống cầu thang y rẽ vào phòng bà Blavatsky, một lần nữa y bảo rằng:

“Ôi, H. P. B., đây là một tài liệu mà tôi đã bỏ sót, xin bà vui lòng ký vào nó?”

Bà Blavatsky hỏi: “Tài liệu gì?”

Y đáp: “Chỉ một tài liệu nữa mà bà vừa mới ký cách đây vài phút’.

Bà trả lại một cách công phẩn: “Ông muốn nói gì? Tôi đâu có ký tên tài liệu nào”.

Người hội viên bối rối phản đối: “Nhưng H. P. B., chúng đây này” và y trải những tài liệu ra trước mắt bà.

Bà nói và có vẻ là đã nguôi giận: “Ồ! Tôi hiểu rồi! Nhưng chúng có ý nghĩa gì?” Người bạn của chúng ta lập lại lời giải thích và chẳng những chúng được hiểu đầy đủ lần này, mà lần này bà còn là một doanh nhân giỏi hơn cả hội viên và hỏi y những câu y không thể trả lời được.

Chẳng lấy gì làm lạ là những người xa lạ đâu phải lúc nào cũng lĩnh hội được trọn cả tình hình.

Tôi nhớ có một dịp mà bà mua tại chợ hương liệu ở Cairo một bình nhỏ xíu chứa tinh dầu hoa hồng để dùng cho phòng thờ phụng ở Adyar và phải trả hai bảng Anh. Khi chúng tôi ngồi ăn trưa ở khách sạn, sau đó nửa tiếng đồng hồ nơi một bàn nhỏ dành cho nhóm chúng tôi ở góc tường thì hai đồng tiền vàng bảng Anh từ trên không rơi xuống bàn và bà Blavatsky giải thích rằng bà được cho biết bà không nên tiêu xài tiền bạc cho các ngài như thế này, vì chúng tôi cần mỗi xu Anh mà mình có được trước khi tới Adyar—đây là một phát biểu chắc chắn là tỏ ra đúng đắn.

Vào dịp này hay dịp khác, tôi có chứng kiến nhiều hiện tượng lạ có liên quan mật thiết tới bà Blavatsky. Tôi đã thấy bà phóng hiện những bức tranh và tài liệu viết tay, tôi cũng đã thấy bà dùng thần thông để tìm một vật bị mất. Có nhiều dịp tôi đã thấy những bức thư từ trên không rơi xuống khi có mặt bà, và tôi cũng phải xác nhận rằng tôi đã thấy một bức thư như thế rơi ở Tổng hành dinh Adyar khi bà đang ở nước Anh cách đó 6.000 dặm; và lại nữa, bản thân tôi nhiều lần có đặc quyền được sử dụng để giao những bức thư giống như thế sau khi bà từ trần.

Vào buổi ban đầu của Hội thì thường có các thông điệp và giáo huấn của các Chơn sư, chúng tôi sinh hoạt ở một mức nhiệt thành rực rỡ mà những người đã gia nhập Hội từ khi bà qua đời khó lòng có thể tưởng tượng được. Những người trong chúng tôi có đặc quyền vô giá là tiếp xúc trực tiếp với các Chơn sư, tự nhiên là còn giữ lại cái lòng nhiệt thành ấy, nhưng chúng tôi không có quyền năng được như bà cho nên không dễ gì truyền đạt nó cho các hội viên mới gia nhập. Thỉnh thoảng, song le tôi cũng thắc mắc chẳng biết có bao nhiêu hội viên ngày nay thấy mình có thể chịu đựng được sự rèn luyện khá nghiêm khắc nhưng rất hữu hiệu mà bà đặt ra cho các đệ tử; tôi xin chứng nhận một vài sự thay đổi triệt để mà những phương pháp khắc nghiệt của bà tạo ra nơi tôi trong một thời khoản rất ngắn cũng như sự thật là chúng có tác dụng lâu dài!

Khi tôi đến gặp bà, tôi chỉ là một cha xứ bình thường biết chơi quần vợt trên sân cỏ, có hảo ý và tôi tin là có lương tâm, nhưng vô cùng rụt rè e thẹn với mọi sự khiếp hãi của người Anh bình thường trước việc muốn cho mình nổi bật lên bằng bất cứ cách nào hoặc giữ một địa vị lố bịch. Sau vài tuần chịu sự đối xử của bà, tôi đã đạt tới trình độ hoàn toàn chai đá trước sự chế nhạo và tuyệt nhiên không bàn tới việc bất cứ ai nghĩ gì về mình. Tôi ngụ ý điều đó hoàn toàn theo xác nghĩa, không phải là tôi đã học được cách chịu đựng sự bất đồng một cách khắc kỷ bất chấp nỗi đau trong nội tâm, mà là tôi thật sự không màng tới điều người ta suy nghĩ hoặc nói về mình, và quả thật tuyệt nhiên chẳng bao giờ xét tới vấn đề đó. Và tôi chưa bao giờ màng tới nó từ đó trở đi. Tôi thừa nhận rằng phương pháp của bà rất quyết liệt và rõ rệt là khó chịu vào thời ấy, nhưng tính hữu hiệu của nó thì khỏi bàn.

Ngoại trừ các Chơn sư Minh triết, tôi chưa bao giờ biết tới ai có quyền năng rõ rệt tỏa ra như thế. Bà chắc chắn là khéo léo không phải theo nghĩa của một học giả bình thường, thế nhưng tôi đã từng nói rằng bà sở hữu một kho kiến thức hiển nhiên là vô tận và phi thường, và đủ thứ đề tài bất ngờ ngoài luồng. Bà là một người làm việc không mệt mỏi từ sáng tinh mơ cho tới đêm khuya; bà trông mong mọi người xung quanh mình cùng chia xẻ lòng nhiệt thành và sự nhẫn nhục tuyệt vời của mình. Bà hoàn toàn tận tụy, sùng tín với Sư phụ và công việc của Ngài, đó là nốt chủ âm của cuộc đời bà và mặc dù giờ đây bà đã khoác lấy một thân xác khác, nhưng nốt chủ âm ấy vẫn trổi lên không thay đổi, và nếu bà được lệnh ra khỏi nơi ẩn cư của mình để một lần nữa chịu trách nhiệm về cái Hội mà bà đã sáng lập, thì chúng ta ắt thấy vang lên trong tai mình tiếng kèn hiệu triệu những người bạn cũ và mới của bà sao cho công việc vẫn tiếp tục trải qua suốt mọi thời đại.

Leave a Comment

Scroll to Top