Luận Về Lửa Vũ Trụ – Semester S1 (3-134)

Tải xuống định dạng:

DOCXPDF
📘DOCX📕PDF

INTRODUCTION

[Commentary S1S1]

by Foster Bailey [v]

do Foster Bailey [v]

To the God Who is in the Fire and Who is in the waters;

Kính dâng lên Thượng đế, Đấng ngự trong Lửa và ngự trong các dòng nước;

To the God Who has suffused Himself through all the world;

Kính dâng lên Thượng đế, Đấng đã thấm nhuần chính Ngài xuyên khắp thế giới;

To the God Who is in summer plants and in the lords of the forest;

Kính dâng lên Thượng đế, Đấng ngự trong cây cỏ mùa hạ và trong các chúa tể của rừng già;

To that God be adoration, adoration.

Kính dâng lên Đấng ấy sự tôn thờ, tôn thờ.

Sh’vet Upanishad, II.17. [vi]

Sh’vet Upanishad, II.17. [vi]

The story of the many years of telepathic work by the Tibetan with Alice A. Bailey is revealed in her Unfinished Autobiography, published in 1951. This includes the circumstances of her first contact with him, on the physical plane, which took place in California in November 1919. Thirty years’ work was planned. When this had been accomplished, and within thirty days after that period, Mrs. Bailey gained her release from the limitations of the physical vehicle.

Câu chuyện về nhiều năm công tác viễn cảm của Chân sư Tây Tạng với Bà Alice A. Bailey được trình bày trong Tự Truyện Chưa Hoàn thành của Bà, xuất bản năm 1951. Sách ấy bao gồm hoàn cảnh lần tiếp xúc đầu tiên của Bà với Ngài trên cõi hồng trần, diễn ra vào tháng Mười Một năm 1919. Một chương trình công tác ba mươi năm đã được hoạch định. Khi công việc ấy hoàn tất, và trong vòng ba mươi ngày sau giai đoạn đó, Bà Bailey đã được giải thoát khỏi các giới hạn của vận cụ hồng trần.

The Autobiography also contains certain statements by the Tibetan in regard to his work and some information as to the reasons why it was undertaken. in the early stages the work involved careful attention to the physical plane conditions which might best help to make the telepathic process more successful. But during the latter years the technique was so perfected and the etheric mechanism of A.A.B. so skillfully attuned and adjusted that the whole process was practically effortless, and the reality and practical usefulness of telepathic interplay was demonstrated to an unique degree.

Tự Truyện cũng chứa đựng những phát biểu của Chân sư Tây Tạng liên quan đến công trình của Ngài, cùng một số thông tin về lý do vì sao công việc ấy được khởi sự. Trong các giai đoạn ban đầu, công việc đòi hỏi sự chú tâm kỹ lưỡng đến những điều kiện cõi hồng trần có thể giúp tiến trình viễn cảm thành công nhất. Nhưng về những năm sau, kỹ thuật đã được hoàn thiện đến mức cơ cấu dĩ thái của A.A.B. được chỉnh điệu và điều hợp hết sức khéo léo, khiến toàn bộ tiến trình hầu như không chút gắng sức, và hiện thực cùng tính hữu dụng thực tiễn của sự tương tác viễn cảm đã được chứng minh đến một mức độ độc nhất.

The spiritual truths dealt with involved in many cases the expression by the lower concrete mind (often with the insuperable restrictions of the English language) of abstract ideas and hitherto quite unknown concepts of spiritual realities. This unescapable limitation of truth has been frequently called to the attention of the readers of the books so produced but is all too often forgotten. Its constant remembrance will constitute in the years to come one of the chief factors in preventing the crystallization of the teaching from producing yet one more dogmatic sectarian cult.

Các chân lý tinh thần được đề cập đến, trong nhiều trường hợp, đòi hỏi hạ trí cụ thể diễn đạt các ý niệm trừu tượng và những khái niệm về các thực tại tinh thần trước đây hoàn toàn chưa hề biết đến, (thường vướng phải những hạn chế khó vượt qua của ngôn ngữ tiếng Anh). Hạn chế không thể tránh khỏi này của chân lý đã thường xuyên được nhắc nhở với độc giả của các bộ sách như thế, nhưng lại quá dễ bị lãng quên. Ghi nhớ điều đó một cách thường trực sẽ, trong những năm sắp tới, trở thành một trong những yếu tố chủ yếu ngăn cho giáo huấn bị kết tinh, khỏi tạo ra thêm một giáo phái giáo điều theo lối cục bộ bè phái nữa.

The present volume, A Treatise on Cosmic Fire, first published in 1925, was the third book jointly produced and carries inherent evidence that it will stand as the major and most far-reaching portion of the thirty-year teachings, notwithstanding the profundity and usefulness of the volumes published in the series [VII] entitled A Treatise on the Seven Rays or of any other of the books.

Tập sách hiện có, Luận về Lửa Vũ Trụ,  lần đầu xuất bản năm 1925, là cuốn thứ ba được đồng biên soạn và tự thân chứa đựng bằng chứng rằng nó sẽ đứng như phần chủ yếu và có tầm với xa nhất của chuỗi giáo huấn kéo dài ba mươi năm, bất chấp chiều sâu và tính hữu dụng của các tập trong bộ [VII] mang tựa Luận về Bảy Cung  hay những cuốn sách khác.

During the long course of the work the minds of the Tibetan and A.A.B. became so closely attuned that they were in effect—so far as much of the production of the teaching was concerned—a single joint projecting mechanism. Even to the end A.A.B. often spoke of her amazement at the glimpses she obtained through contact with the Tibetan’s mind, of limitless vistas of spiritual truths which she could not possibly have otherwise contacted, and often of a quality she could not possibly express. This experience was the basis of her often-proclaimed but frequently little-understood assertion that all the teachings she was aiding in producing was in fact only the A B C of esoteric knowledge, and that in the future she would gladly abandon any pronouncement in the present teaching, when she found better and more deeply esoteric teaching available. Clear and profound as the teaching actually is in the books published in her name, the truths imparted are so partial and subject to later revelation and expansion that this fact, if constantly remembered, will give us a second much-needed safeguard against that quality of the concrete mind which constantly tends to produce sectarianism.

Trong suốt tiến trình lâu dài của công việc, tâm trí của Chân sư Tây Tạng và A.A.B. đã được chỉnh hợp sát khít đến mức, xét về phương diện phần lớn công cuộc trước tác giáo huấn, họ là một cơ chế phóng chiếu chung duy nhất. Ngay đến cuối đời, A.A.B. thường bày tỏ sự kinh ngạc của Bà trước những thoáng nhìn mà Bà nhận được qua tiếp xúc với tâm trí của Chân sư Tây Tạng: những viễn cảnh vô hạn của các chân lý tinh thần mà Bà không thể nào đạt tới bằng cách khác, và thường là những phẩm chất mà Bà không thể nào diễn đạt nổi. Kinh nghiệm ấy là nền tảng cho lời xác quyết mà Bà thường công bố nhưng lại ít được thấu hiểu: rằng toàn bộ giáo huấn Bà phụ giúp truyền đạt thực ra chỉ là bảng A B C của tri thức huyền môn, và rằng trong tương lai Bà sẵn lòng từ bỏ bất kỳ khẳng định nào trong giáo huấn hiện tại khi Bà tìm được những giáo huấn huyền môn sâu xa và tốt hơn. Dù giáo huấn được công bố dưới tên Bà thật sáng rõ và thâm thúy, các chân lý truyền đạt vẫn còn rất bộ phận và sẽ còn chịu sự mặc khải và khai triển về sau, đến nỗi nếu thường xuyên ghi nhớ điều này, chúng ta sẽ có được một lá chắn thứ hai rất cần thiết chống lại phẩm tính của trí cụ thể vốn thường xu hướng tạo ra phe phái.

At the very beginning of the joint effort and after careful consideration it was decided between the Tibetan (D.K.) and A.A.B. that she as the working disciple on the outer plane should shoulder as much as possible of karmic responsibility on that plane, and that the teaching should go to the public over her signature. This involved the burden of leadership in the esoteric field and precipitated attack and condemnation from persons and organizations whose positions and activities were more Piscean and authoritarian.

Ngay từ đầu nỗ lực chung, sau khi cân nhắc thận trọng, Chân sư Tây Tạng (D.K.) và A.A.B. đã quyết định rằng, vì Bà là vị đệ tử đang làm việc trên ngoại giới, Bà nên gánh vác càng nhiều càng tốt trách nhiệm về nghiệp quả trên cõi ấy, và rằng giáo huấn sẽ đến với công chúng dưới chữ ký của Bà. Điều này kéo theo gánh nặng lãnh đạo trong lĩnh vực huyền môn và đã làm bùng phát công kích cùng lên án từ những cá nhân và tổ chức có lập trường và hoạt động mang sắc thái Song Ngư và tính chuyên quyền.

The entire platform upon which esoteric teaching stands before the public today has been liberated from the limitations and follies, of mystery, glamor, claim-making and impracticality, by the position taken by the Tibetan and A.A.B. The stand taken against dogmatic assertion has helped to establish a new era of mental freedom for the students of the progressively unfolding revelation of the Ageless Wisdom. [viii]

Toàn bộ nền tảng mà trên đó giáo huấn huyền môn đứng trước công chúng ngày nay đã được giải phóng khỏi những giới hạn và sự điên dại của bí ẩn, ảo cảm, tự xưng công trạng và tính phi thực tiễn, nhờ lập trường mà Chân sư Tây Tạng và A.A.B. đã chọn. Lập trường chống lại các xác quyết giáo điều đã góp phần thiết lập một kỷ nguyên mới của tự do trí tuệ cho các đạo sinh trong tiến trình mặc khải khai mở dần dần của Minh Triết Ngàn Đời. [viii]

The age-old method of arriving at truth by the process of accepting new authorities and comparing them with previously established doctrines, while of undoubted value in the training of the mind, is gradually being transcended. In its place is emerging in both the religious and philosophical worlds a new capacity to take a more scientific position. Spiritual teaching will be increasingly accepted as an hypothesis to be proved less by scholasticism, historical foundation and authority, and more by the results of its effect upon the life lived and its practical usefulness in solving the problems of humanity.

Phương pháp cổ xưa để đạt đến chân lý bằng cách tiếp nhận các uy quyền mới và so sánh chúng với những giáo điều sẵn có, tuy không thể phủ nhận giá trị trong việc rèn luyện trí năng, đang dần được vượt qua. Thay vào đó, cả trong thế giới tôn giáo lẫn triết học, một năng lực mới đang nổi lên: năng lực đảm nhận một lập trường khoa học hơn. Giáo huấn tinh thần sẽ ngày càng được thừa nhận như một giả thuyết cần được chứng nghiệm, ít bằng kinh viện, nền tảng sử tính và uy quyền, mà nhiều hơn bằng kết quả ảnh hưởng của nó đối với đời sống được sống, và bằng tính hữu dụng thực tiễn của nó trong việc giải quyết các vấn đề của nhân loại.

Heretofore, advanced esoteric teaching has almost invariably been obtainable only by the student’s acceptance of the authority of the teacher, varying degrees of personal obedience to that teacher and pledges of secrecy. As the new Aquarian dispensation progresses these limitations will disappear. The personal relation of the disciple to the Master remains, but already discipleship training has been attempted in Group formation. The record of one such experiment and attempt to use this new age method has been made available to the public in the book entitled Discipleship in the New Age, which gives the direct personal instructions by the Tibetan to a selected group.

Từ trước đến nay, giáo huấn huyền môn cao cấp hầu như chỉ có thể đạt được bằng việc đạo sinh chấp nhận uy quyền của vị thầy, ở các cấp độ vâng phục cá nhân khác nhau đối với vị thầy ấy, và những lời thệ giữ bí mật. Khi trật tự Bảo Bình mới tiến triển, các hạn chế này sẽ biến mất. Mối quan hệ cá nhân giữa đệ tử và Chân sư vẫn còn, nhưng việc huấn luyện đệ tử đã được thử nghiệm theo hình thức Nhóm. Bản ghi chép về một thực nghiệm như thế, và nỗ lực áp dụng phương pháp thời đại mới này, đã được công bố rộng rãi trong cuốn sách tựa Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên Mới,  vốn ghi lại các chỉ dẫn trực tiếp, mang tính cá nhân của Chân sư Tây Tạng gửi đến một nhóm được chọn.

In A Treatise on Cosmic Fire the Tibetan has given us what H. P. Blavatsky prophesied he would give, namely, the psychological key to the Cosmic Creation. H.P.B. stated that in the 20th century a disciple would come who would give the psychological key to her own monumental work The Secret Doctrine on which treatise the Tibetan worked with her; and Alice A. Bailey worked in complete recognition of her own task in this sequence.

Trong Luận về Lửa Vũ Trụ  Chân sư Tây Tạng đã ban cho chúng ta điều mà H. P. Blavatsky đã tiên báo Ngài sẽ ban, tức “chìa khóa tâm lý” của Sự Sáng Tạo Vũ Trụ. H.P.B. đã nói rằng trong thế kỷ XX sẽ có một đệ tử đến để trao “chìa khóa tâm lý” cho công trình vĩ đại của chính Bà là Giáo Lý Bí Nhiệm  —bộ luận mà Chân sư Tây Tạng đã cùng làm việc với Bà; và Alice A. Bailey đã làm việc với sự nhận thức trọn vẹn về phận sự của chính Bà trong chuỗi công việc này.

Tunbridge Wells, December 1950

Tunbridge Wells, Tháng Mười Hai 1950

Foster Bailey

Foster Bailey

[xii]

[xii]

Foreword

This “Treatise on Cosmic Fire” has a fivefold purpose in view:

“Luận về Lửa Vũ Trụ” này có năm mục đích chủ yếu:

– First, to provide a compact and skeleton outline of a scheme of cosmology, philosophy, and psychology which may perhaps be employed for a generation as a reference and a textbook, and may serve as a scaffolding upon which more detailed instruction may later be built, as the great tide of evolutionary teaching flows on.

– Thứ nhất, cung cấp một đề cương cô đọng và khung xương của một sơ đồ vũ trụ học, triết học và tâm lý học, có thể được dùng như sách tham khảo và giáo khoa trong một thế hệ, và có thể làm giàn giáo để xây dựng nên những chỉ dẫn chi tiết hơn về sau, khi làn triều vĩ đại của giáo huấn tiến hoá tiếp tục dâng lên.

– Secondly, to express that which is subjective in comprehensible terms, and to point out the next step forward in the understanding of the true psychology. It is an elucidation of the relation existing between Spirit and Matter, which relation demonstrates as consciousness. It will be found that the Treatise deals primarily with the aspect of mind, with consciousness and with the higher psychology, and less with matter as we know of it on the physical plane. The danger involved in giving out information concerning the various energies of atomic matter is too great, and the race as yet too selfish to be entrusted with these potencies. Man is already, through the able work of the scientists, discovering the needed knowledge with adequate rapidity. The emphasis in this book will be found to be laid upon those forces which are responsible for the objective manifestation of a solar Logos and of man, and only in the first section will indication be given as to the nature of those energies which are strictly confined to the physical plane.

– Thứ hai, diễn đạt cái vốn chủ quan bằng các thuật ngữ khả hiểu, và chỉ ra bước tiến tiếp theo trong sự thấu hiểu tâm lý học chân thực. Đây là sự khai giải mối quan hệ tồn tại giữa Tinh thần và Chất liệu, mối quan hệ vốn biểu lộ thành tâm thức.  Sẽ thấy rằng luận này bàn chủ yếu về phương diện thể trí, về tâm thức và về tâm lý học cao, và ít bàn về chất liệu như chúng ta biết ở cõi hồng trần. Nguy cơ tiềm ẩn khi công bố thông tin về các năng lượng khác nhau của chất liệu nguyên tử là quá lớn, và nhân loại hiện vẫn quá vị kỷ để có thể được trao quyền với những năng lực này. Con người, nhờ công trình hữu hiệu của các nhà khoa học, đang tự khám phá ra tri thức cần thiết với tốc độ đủ nhanh. Sự nhấn mạnh trong sách này sẽ đặt vào các lực chịu trách nhiệm cho sự biểu lộ khách quan của một Thái dương Thượng đế và của con người; và chỉ trong phần thứ nhất mới có gợi ý về bản chất của những năng lượng bị giới hạn nghiêm ngặt trong cõi hồng trần.

– Thirdly, to show the coherent development of all that is found within a solar system; to demonstrate that everything which exists evolves (from the lowest form of life at the densest point of concretion up to the highest and most tenuous manifestation) and that all forms are but the expression of a stupendous and divine Existence. This expression is caused by the blending of two divine aspects through the influence of a third, and produces the manifestation which we call a form, starting it upon its [xiii] evolutionary cycle in time and space. Thus is form brought to the point where it is an adequate medium for the demonstration of the nature of that which we call God.

– Thứ ba, cho thấy sự phát triển nhất quán của mọi sự trong một hệ mặt trời; chứng tỏ rằng mọi cái đang hiện hữu đều tiến hoá (từ dạng sống thấp nhất tại điểm đông đặc đậm đặc nhất cho đến biểu lộ cao nhất và vi tế nhất), và rằng mọi hình tướng chỉ là sự biểu lộ của một Hiện tồn thiêng liêng vĩ đại khôn lường. Biểu lộ ấy được gây nên bởi sự hòa trộn của hai Phương diện thiêng liêng dưới ảnh hưởng của Phương diện thứ ba, và tạo ra sự biểu lộ mà chúng ta gọi là một hình tướng, mở đầu cho chu kỳ tiến hoá của nó trong thời gian và không gian. Nhờ đó, hình tướng được đưa đến điểm trở thành một môi giới đủ thích đáng để phô bày bản tính của điều mà chúng ta gọi là Thượng đế. [xiii]

– Fourthly, to give practical information anent those focal points of energy which are found in the etheric bodies of the solar Logos, the macrocosm, and of man, the microcosm. As the etheric substratum which is the true substance underlying every tangible form is understood, certain great revolutions will be brought about in the domains of science, of medicine and of chemistry. The study of medicine, for instance, will eventually be taken up from a new angle, and its practice will be built upon a comprehension of the laws of radiation, of magnetic currents, and of the force centers found in men’s bodies and their relationship to the force centers and currents of the solar system.

– Thứ tư, cung cấp thông tin thực tiễn về những điểm hội tụ năng lượng được tìm thấy trong các thể dĩ thái của Thái dương Thượng đế, tức Đại thiên địa, và của con người, tức Tiểu thiên địa.  Khi nền tảng dĩ thái—chất liệu chân thực nằm dưới mọi hình tướng hữu hình—được thấu hiểu, một số cuộc cách mạng lớn sẽ được đưa đến trong các lĩnh vực khoa học, y học và hóa học. Việc học y, chẳng hạn, rồi sẽ được tiếp cận từ một góc nhìn mới, và việc ứng dụng sẽ được xây dựng trên sự thông hiểu các định luật về bức xạ, các dòng từ điện, và các luân xa được tìm thấy trong thân thể con người cùng mối liên hệ của chúng với các luân xa và dòng lưu năng của hệ mặt trời.

– Fifthly, to give some information, hitherto not exoterically imparted as to the place and work of those myriads of sentient lives who form the essence of objectivity; to indicate the nature of those Hierarchies of Existences who form out of their own substance all that is seen and known, and who are themselves Fire and the cause of all the heat, warmth, life and motion in the universe. In this way the action of Fire on Water, of Heat in Matter, whether macrocosmically or microcosmically considered, will be touched upon and some light thrown upon the Law of Cause and Effect (the Law of Karma) and its significance in the solar system.

– Thứ năm, cung cấp đôi điều, trước nay chưa truyền đạt ra ngoại môn, về vị trí và công việc của vô số sự sống có cảm giác cấu thành tinh chất của tính khách quan; chỉ thị bản tính của các Huyền Giai của các Hiện tồn, những Đấng dùng chính chất liệu của mình để tạo nên mọi điều được thấy và được biết, và Các Ngài tự thân là Lửa—nguyên nhân của mọi hơi nóng, ấm áp, sự sống và chuyển động trong vũ trụ. Bằng cách này, tác dụng của Lửa đối với Nước, của Nhiệt trong Chất liệu, dù xét theo đại thiên địa hay tiểu thiên địa, sẽ được chạm đến; đồng thời soi rọi phần nào lên Định luật Nhân Quả (Định luật Nghiệp quả) và ý nghĩa của nó trong hệ mặt trời.

To sum up the matter, the teaching in this book should tend to an expansion of consciousness, and should bring about a recognition of the adequacy, as a working basis, for both science and religion, of that interpretation of the processes of nature which has been formulated for us by the Master Minds of all time. It should tend to bring about a reaction in favor of a system of philosophy which will link both Spirit and matter, and demonstrate the essential unity of the scientific and religious idea. The two are at present somewhat divorced, and we are only just beginning to grope our intellectual way out of the depths of a materialistic interpretation. It must not be forgotten, however, that under the Law of Action and Reaction, the long period of materialistic thought has been a necessary one for humanity, because the mysticism of the Middle Ages had led [xiv] us too far in the opposite direction. We are now tending to a more balanced view, and it is hoped that this treatise may form part of the process through which equilibrium is attained.

Tóm lại, giáo huấn trong sách này nhằm dẫn đến sự mở rộng tâm thức, và đưa đến sự thừa nhận tính đầy đủ—như một nền tảng làm việc—cho cả khoa học và tôn giáo, của cách diễn giải các tiến trình của thiên nhiên vốn đã được các Trí Tuệ của muôn thời gầy dựng cho chúng ta. Nó sẽ thúc đẩy một phản ứng ủng hộ một hệ thống triết học liên kết cả Tinh thần và chất liệu, và chứng tỏ sự nhất thể cốt yếu của ý niệm khoa học và tôn giáo. Hiện nay hai bên phần nào ly cách, và chúng ta mới chỉ bắt đầu lần mò bằng trí năng để thoát ra khỏi vực sâu của một diễn giải thiên về vật chất. Tuy vậy, không được quên rằng, theo Định luật Tác động và Phản ứng, thời kỳ dài lâu của tư duy duy vật là cần thiết cho nhân loại, vì lối thần bí học thời Trung Cổ đã đưa [xiv] chúng ta đi quá xa sang hướng đối nghịch. Hiện chúng ta đang thiên về một cái nhìn quân bình hơn, và hy vọng rằng luận này có thể là một phần trong tiến trình nhờ đó sự quân bình được đạt đến.

In studying this treatise the student is asked to bear in mind certain things:

Khi học tập luận này, đạo sinh được thỉnh cầu ghi nhớ một vài điều:

a. That in dealing with these subjects we are concerned with the essence of that which is objective, with the subjective side of manifestation, and with the consideration of force and of energy. It is well nigh impossible to reduce such concepts to concrete formulas and to express them in such a way that they can be easily apprehended by the average man.

a. Rằng khi xử lý những chủ đề này, chúng ta liên quan đến tinh chất của cái khách quan, đến phương diện chủ quan của biểu lộ, và đến việc khảo xét mãnh lực và năng lượng. Hầu như bất khả để quy giản các ý niệm như vậy thành công thức cụ thể và diễn đạt chúng sao cho người thường có thể dễ dàng lĩnh hội.

b. That as we use words and phrases and speak in terms of modern language the whole subject necessarily becomes limited and dwarfed, and much of the truth is thereby lost.

b. Rằng khi chúng ta dùng ngôn từ và cụm từ và diễn tả bằng thuật ngữ của ngôn ngữ hiện đại, toàn bộ chủ đề tất yếu trở nên giới hạn và nhỏ hẹp, và như thế nhiều phần của chân lý bị đánh mất.

c. That all that is in this treatise is offered in no dogmatic spirit but simply as a contribution to the mass of thought upon the subject of world origins and to the data already accumulated as to the nature of man. The best that man can offer as a solution of the world problem must perforce take a dual form and will demonstrate through a life of active service, tending to amelioration of environal conditions, and through a formulation of some cosmological scheme or plan which will seek to account as much as may be for conditions as they are seen to exist. Arguing as men do at present from the basis of the known and the demonstrated and leaving untouched and unaccounted for, those deep seated causes which must be presumed to be producing the seen and known, all solutions as yet fail and will continue to fail in their objective.

c. Rằng mọi điều trong luận này không được dâng hiến với tinh thần giáo điều, mà chỉ như một đóng góp vào kho tư tưởng chung về đề tài nguồn gốc thế giới, và vào dữ liệu đã tích lũy liên quan đến bản tính của con người. Cái tốt nhất mà con người có thể dâng hiến như một giải pháp cho vấn đề thế giới buộc phải mang hình thức nhị phân và sẽ biểu hiện qua một đời sống phụng sự tích cực nhằm cải thiện các điều kiện môi sinh, đồng thời qua sự hình thành một mô hình hay kế đồ vũ trụ học tìm cách giải thích tối đa có thể được các điều kiện như chúng đang được nhìn thấy. Lý luận như con người đương thời vẫn làm—dựa trên cái đã biết và đã chứng minh, và bỏ mặc, không đả động đến, không tính đến những nguyên nhân ăn sâu vốn ắt hẳn đang sản sinh cái được thấy và được biết—mọi giải pháp cho đến nay đều thất bại, và sẽ còn tiếp tục thất bại trong mục tiêu của chúng.

d. That all attempts to formulate in words that which must be felt and lived in order to be truly comprehended must necessarily prove distressingly inadequate. All that can be said will be after all but the partial statements of the great veiled Truth, and must be offered to the reader and student as simply providing a working hypothesis, and a suggestive explanation. To the open-minded student and the man who keeps the recollection in his mind that the truth is progressively revealed, it will be apparent that the fullest expression of the truth possible at any one time will be seen later to be but a fragment of a whole, and [xv] later still be recognized to be only portions of a fact and thus in itself a distortion of the real.

d. Rằng mọi nỗ lực hình thành bằng lời điều vốn phải được cảm thụ và sống  thì mới thực sự thấu hiểu, tất nhiên sẽ tỏ ra thiếu sót đến phiền muộn. Mọi điều có thể nói rốt lại cũng chỉ là những phát biểu bộ phận về Chân lý vĩ đại còn che phủ, và phải được dâng đến độc giả và đạo sinh như chỉ cung ứng một giả thuyết làm việc và một lối giải thích gợi ý. Với đạo sinh cởi mở và người luôn ghi nhớ trong tâm rằng chân lý được mặc khải một cách tiến triển, sẽ hiện rõ rằng biểu đạt phong phú nhất khả hữu của chân lý ở bất kỳ thời điểm nào rồi về sau sẽ được thấy chỉ là một mảnh của toàn thể, và [xv] sau nữa sẽ được nhận ra chỉ là những phần của một sự kiện—do đó tự thân nó là một sự bóp méo của thực tại.

This treatise is put out in the hope that it may prove useful to all broadminded seekers after truth and of value to all investigators into the subjective Source of all that which is tangibly objective. It aims to provide a reasonably logical plan of systemic evolution and to indicate to man the part he must play as an atomic unit in a great and corporate Whole. This fragment of the Secret Doctrine, in the turning of the evolutionary wheel, goes out to the world making no claims as to its source, its infallibility or the correctness in detail of its statements.

Luận này được xuất bản với hy vọng nó có thể tỏ ra hữu ích cho mọi bậc tìm cầu chân lý có tầm nhìn rộng, và có giá trị cho mọi nhà khảo cứu về Nguồn chủ quan của tất cả những gì khách quan hữu hình. Nó nhằm cung cấp một kế đồ tương đối hợp lý về tiến hoá hệ thống, và chỉ thị cho con người phần việc y phải đảm nhận như một đơn vị nguyên tử trong một Toàn thể vĩ đại và có tính đoàn thể. Mảnh vỡ này của Giáo Lý Bí Nhiệm, theo vòng quay của bánh xe tiến hoá, được gửi đến thế giới mà không đưa ra bất kỳ yêu sách nào về nguồn gốc, tính vô ngộ hay sự chính xác chi li trong các phát biểu của nó.

No book gains anything from dogmatic claims or declarations as to the authoritative value of its source of inspiration. It should stand or fall solely on the basis of its own intrinsic worth, on the value of the suggestions made, and its power to foster the spiritual life and the intellectual apprehension of the reader. If this treatise has within it anything of truth and of reality, it will inevitably and unfailingly do its work, carry its message, and thus reach the hearts and minds of searchers everywhere. If it is of no value, and has no basis in fact, it will disappear and die, and most rightly so. All that is asked from the student of this treatise is a sympathetic approach, a willingness to consider the views put forth and that honesty and sincerity of thought which will tend to the development of the intuition, of spiritual diagnosis, and a discrimination which will lead to a rejection of the false and an appreciation of the true.

Không một cuốn sách nào được lợi lộc gì từ các xác quyết giáo điều hay những tuyên bố về giá trị uy quyền của nguồn cảm hứng. Nó nên đứng vững hay gục ngã chỉ dựa trên giá trị nội tại của chính nó, trên giá trị của những gợi ý được đưa ra, và năng lực nuôi dưỡng đời sống tinh thần cùng sự lĩnh hội bằng trí năng của độc giả. Nếu luận này hàm chứa trong nó bất kỳ điều gì của chân lý và hiện thực, nó sẽ tất yếu và chắc chắn làm tròn công việc của mình, chuyển tải thông điệp của mình, và như thế chạm đến trái tim và tâm trí của người tìm kiếm khắp nơi. Nếu nó vô giá trị và không có nền tảng trong thực tế, nó sẽ phai mờ và tiêu vong—mà như thế là đúng đắn. Điều duy nhất được thỉnh cầu nơi đạo sinh của luận này là một tiếp cận cảm thông, một thiện chí cân nhắc các quan điểm được đưa ra, và sự thành thật, chân chính trong tư tưởng—những điều sẽ thúc đẩy phát triển trực giác, năng lực chẩn đoán tinh thần, và óc phân biện dẫn đến sự loại bỏ điều giả dối và trân trọng điều chân thực.

The words of the Buddha most appropriately have their place here, and make a fitting conclusion to these preliminary remarks:

Lời của Đức Phật rất thích hợp được đặt ở đây, và là một kết từ xứng hợp cho những lời dẫn nhập này:

THE LORD BUDDHA HAS SAID

ĐỨC PHẬT DẠY RẰNG

that we must not believe in a thing said merely because it is said; nor traditions because they have been handed down from antiquity; nor rumors, as such; nor writings by sages, because sages wrote them; nor fancies that we may suspect to have been inspired in us by a Deva (that is, in presumed spiritual inspiration); nor from inferences drawn from some haphazard assumption we may have made; nor [XVI] because of what seems an analogical necessity; nor on the mere authority of our teachers or masters. But we are to believe when the writing, doctrine, or saying is corroborated by our own reason and consciousness. “For this,” says he in concluding, “I taught you not to believe merely because you have heard, but when you believed of your consciousness, then to act accordingly and abundantly.”

chúng ta không nên tin một điều chỉ vì nó được nói ra; cũng không nên tin truyền thống chỉ vì chúng được truyền lại từ thời cổ xưa; cũng không tin lời đồn, tự thân nó; cũng không tin các trước tác của hiền triết chỉ vì các hiền triết đã viết ra; cũng không tin những tưởng tưởng mà chúng ta ngờ rằng đã được một vị Thiên thần (tức là, cảm hứng tinh thần được cho là đã linh ứng) truyền vào chúng ta; cũng không tin những suy luận rút ra từ vài giả định ngẫu nhiên mà chúng ta có thể đã nêu; cũng không [ XVI ] vì cái dường như là một tất yếu do suy tỷ; cũng không vì uy quyền thuần tuý của các vị thầy hay bậc tôn sư của chúng ta. Nhưng chúng ta nên tin khi trước tác, học thuyết hay lời nói được chính lý trí và tâm thức của chúng ta xác chứng. “Vì điều này,” Ngài kết luận, “Ta dạy các ngươi đừng tin chỉ vì các ngươi đã nghe, mà khi các ngươi đã tin bằng tâm thức của mình, thì hãy hành động phù hợp và viên mãn.”

– Secret Doctrine III. 401

– Giáo Lý Bí Nhiệm III. 401

May this be the attitude of every reader of this “Treatise on Cosmic Fire.”

Ước mong đây là thái độ của mỗi độc giả “Luận về Lửa Vũ Trụ”.

– ALICE A. BAILEY

– ALICE A. BAILEY

Note: In the footnotes throughout this treatise “The Secret Doctrine” by H. P. Blavatsky is designated by the initials S. D. The page references are to the “Third Revised Edition.” [xvii]

Ghi chú: Trong các chú thích ở cuối trang xuyên suốt luận này, “Giáo Lý Bí Nhiệm” của H. P. Blavatsky được ký hiệu bằng chữ viết tắt S. D. Số trang tham chiếu là theo “Ấn bản Sửa chữa Lần thứ Ba.” [xvii]

Fire

Lửa

“What says the esoteric teaching with regard to Fire?”

“Giáo huấn huyền môn nói gì về Lửa?”

– Fire is the most perfect and unadulterated reflection, in Heaven as on earth, of the One Flame. It is life and death, the origin and the end of every material thing. It is divine Substance.”

– Lửa là phản ảnh tinh ròng và hoàn hảo nhất, trên Trời cũng như dưới đất, của Ngọn Lửa Duy Nhất. Lửa là sự sống và cái chết, là khởi nguyên và chung cuộc của mọi vật chất. Lửa là Chất liệu thiêng liêng.”

(Secret Doctrine I. 146)

(Giáo Lý Bí Nhiệm I. 146)

– Our earth and man (are) the products of the Three Fires.

– Trái Đất và con người của chúng ta là sản phẩm của Ba Lửa.

(Secret Doctrine, II. 258)

(Giáo Lý Bí Nhiệm, II. 258)

– Fire and flame destroy the body of an Arhat; their essence makes him immortal.

– Lửa và ngọn lửa hủy diệt thân xác của một A-la-hán; bản thể của chúng khiến vị ấy trở nên bất tử.

(Secret Doctrine I. 35)

(Giáo Lý Bí Nhiệm I. 35)

The Three Fires

Ba Lửa

I. The Internal Fire or Fire by Friction

I. Lửa Nội Tại hay Lửa do Ma Sát

There is heat internal and heat external in every atom, the breath of the Father (Spirit) and the breath (or heat) of the Mother (matter).

Có nhiệt nội và nhiệt ngoại trong mỗi nguyên tử, hơi thở của Cha (Tinh thần) và hơi thở (hay nhiệt) của Mẹ (chất liệu).

(Secret Doctrine I. 112)

( 112)

II. The Fire of Mind or Solar Fire

II. Lửa của Thể trí hay Lửa Thái dương

The fire of knowledge burns up all action on the plane of illusion, therefore those who have acquired it and are emancipated are called Fires.

Lửa của tri thức thiêu đốt mọi hành động trên cõi ảo tưởng; vì vậy, những ai đã lĩnh đắc nó và được giải thoát được gọi là Các Lửa.

(Secret Doctrine I. 114)

( 114)

III. The Fire of Spirit or Electric Fire

III. Lửa của Tinh thần hay Lửa điện

Lift up thy head, O Lanoo; dost thou see one, or countless lights above thee, burning in the dark midnight sky?

Ngẩng đầu lên, ôi Lanoo; ngươi thấy một, hay vô số ánh sáng trên đầu ngươi, cháy trong bầu trời đen thẳm?

I sense one Flame, O Gurudeva; I see countless undetached sparks shining in it.

Con cảm nhận Một Ngọn Lửa, ôi Gurudeva; con thấy vô số tia lửa chưa tách lìa sáng trong đó.

(Secret Doctrine I. 145) [xviii]

( 145) [xviii]

Contents

SECTION ONE—THE INTERNAL FIRES—FIRE BY FRICTION

Introductory Remarks

Division A. Of the Sheaths macrocosmic and microcosmic

Division B. The Personality Ray and the first fire

Division C. Prana and the etheric body

Division D. Kundalini and the spine

Division E. Motion on the physical and astral planes

1. In the Sheaths

2. In the Centers

Division F. The Law of Economy

SECTION TWO—THE FIRE OF MIND—SOLAR FIRE

Introductory Questions

Division A. The Nature of Manas or Mind

Division B. Manas as a cosmic, systemic and human factor

Division C. The Egoic Ray and solar fire

Division D. Thought elementals and fire elementals

Division E. Motion on the plane of mind

Division F. The Law of Attraction

SECTION THREE—THE FIRE OF SPIRIT—ELECTRIC FIRE

Division A. Certain basic fundamentals

Division B. The Nature of the seven cosmic paths

Division C. Seven esoteric stanzas

The above tabulation of the subjects dealt with in this treatise is of very real importance, for it forms the basis of that which we shall be considering. The total lack of a wider consciousness than the individual and the personal, acts as a bar to the true comprehension of things macrocosmic, but if the occult method is adhered to, if the Law of Correspondences is studied, and if we ever reason upward from the microcosm to the greater Whole, then glimpses will be caught of vast realms of realization and vistas of spiritual unfoldment will open up before us, undreamed of hitherto. [3]

Bảng kê trên về các chủ đề được đề cập trong luận này có ý nghĩa rất thiết thực, vì nó là nền tảng cho những gì chúng ta sẽ khảo cứu. Sự vắng mặt hoàn toàn của một tâm thức rộng lớn hơn bản ngã riêng tư và cá nhân đang là chướng ngại cho sự lĩnh hội chân thực các sự việc thuộc đại thiên địa; nhưng nếu bám sát phương pháp huyền môn, nếu khảo cứu định luật tương ứng, và nếu chúng ta luôn lý luận đi lên từ tiểu thiên địa đến Toàn Thể vĩ đại hơn, thì những thoáng nhìn sẽ bắt được của những cõi lĩnh hội mênh mông, và những viễn cảnh khai mở tinh thần chưa từng mơ tưởng trước đây sẽ hé mở trước chúng ta. [3]

Introductory Postulates

The teaching which is given in this Treatise on Cosmic Fire might be formulated in the following terms. These postulates are simply extensions of the three fundamentals to be found in the Proem in the first volume of the Secret Doctrine by H. P. Blavatsky (S.D., I, 42-44). Students are recommended to study them carefully; in this way their understanding of the Treatise will be greatly aided.

Giáo huấn được ban trong Luận về Lửa Vũ Trụ này có thể được diễn đạt như sau. Các tiên đề này chỉ là những sự mở rộng của ba nền tảng được tìm thấy trong Lời Tựa (Proem) của tập một Giáo Lý Bí Nhiệm  của H. P. Blavatsky (S.D., I, 42-44). Khuyến nghị đạo sinh hãy khảo cứu kỹ; như vậy, sự thấu hiểu của họ về Luận này sẽ được trợ giúp rất nhiều.

I. There is one Boundless Immutable Principle; one Absolute Reality which antecedes all manifested conditioned Being. It is beyond the range and reach of any human thought or expression.

I. Có một Nguyên Lý Vô Biên Bất Biến duy nhất; một Thực Tại Tuyệt Đối có trước mọi Hiện tồn biểu lộ và bị điều kiện hoá. Thực Tại ấy vượt ngoài tầm với và tầm với tới của mọi tư tưởng hay biểu đạt của con người.

The manifested Universe is contained within this Absolute Reality and is a conditioned symbol of it. In the totality of this manifested Universe, three aspects are to be conceived.

Vũ trụ biểu lộ được bao hàm trong Thực Tại Tuyệt Đối này và là một biểu tượng bị điều kiện của Thực Tại ấy. Trong toàn thể Vũ trụ biểu lộ này, cần quan niệm ba phương diện.

1. The First Cosmic Logos, impersonal and unmanifested, the precursor of the Manifested.

1. Đệ Nhất Thượng đế Vũ trụ, vô ngã và bất biểu lộ, tiền thân của Đấng Biểu lộ.

2. The Second Cosmic Logos, Spirit-Matter, Life, the Spirit of the Universe.

2. Đệ Nhị Thượng đế Vũ trụ, Tinh thần–Chất liệu, Sự sống, Linh Thần của Vũ trụ.

3. The Third Cosmic Logos, Cosmic Ideation, the Universal World-Soul.

3. Đệ Tam Thượng đế Vũ trụ, Tư tưởng Vũ trụ, Linh Hồn Thế Giới Phổ Quát.

From these basic creative principles, in successive gradations there issue in ordered sequence the numberless Universes comprising countless Manifesting Stars and Solar Systems.

Từ những nguyên lý sáng tạo căn bản này, qua các cấp bậc tiếp nối nhau, theo một trật tự tuần tự, phát sinh vô số Vũ trụ bao gồm vô kể các Ngôi Sao biểu lộ và các Hệ Mặt Trời.

Each Solar System is the manifestation of the energy and life of a great Cosmic Existence, Whom we call, for lack of a better term, a Solar Logos. [4]

Mỗi Hệ Mặt Trời là sự biểu lộ năng lượng và sự sống của một Hiện tồn Vũ trụ vĩ đại, Đấng mà vì thiếu một thuật ngữ tốt hơn, chúng ta gọi là một Thái dương Thượng đế. [4]

– This Solar Logos incarnates, or comes into manifestation, through the medium of a solar system.

Thái dương Thượng đế này lâm phàm, hay đi vào biểu lộ, qua trung gian một hệ mặt trời.

– This solar system is the body, or form, of this cosmic Life, and is itself triple.

Hệ mặt trời này là thân, hay hình tướng, của Sự Sống vũ trụ này, và tự thân nó là tam phân.

– This triple solar system can be described in terms of three aspects, or (as the Christian theology puts it) in terms of three Persons.

Hệ mặt trời tam phân này có thể được mô tả theo ba phương diện, hay (như thần học Kitô giáo nói) theo ba Ngôi.

ELECTRIC FIRE, or SPIRIT

LỬA ĐIỆN, hay TINH THẦN

1st Person—Father, Life, Will, Purpose, Positive energy.

Ngôi thứ nhất—Cha, Sự sống, Ý chí, Mục đích, Năng lượng dương.

SOLAR FIRE, or SOUL

LỬA THÁI DƯƠNG, hay LINH HỒN

2nd Person—Son, Consciousness, Love-Wisdom, Equilibrized energy.

Ngôi thứ hai—Con, Tâm thức, Bác Ái – Minh Triết, Năng lượng quân bình.

FIRE BY FRICTION (Body or Matter)

LỬA DO MA SÁT (Thân hay Chất liệu)

3rd Person—Holy Spirit, Form, Active Intelligence, Negative energy.

Ngôi thứ ba—Chúa Thánh Thần, Hình tướng, Trí tuệ Hoạt dụng, Năng lượng âm.

Each of these three is also triple in manifestation, making therefore

Mỗi trong ba phương diện này cũng tam phân trong biểu lộ, do vậy tạo thành

a. The nine Potencies or Emanations.

a. Chín Quyền năng hay Xuất lộ.

b. The nine Sephiroth.

b. Chín Sephiroth.

c. The nine Causes of Initiation.

c. Chín Nguyên nhân của Điểm đạo.

These, with the totality of manifestation or the Whole, produce the ten (10) of perfect manifestation, or the perfect MAN.

Những điều này, cùng với toàn thể của biểu lộ hay Toàn bộ, tạo nên con số mười (10) của sự biểu lộ hoàn mãn, hay NGƯỜI hoàn hảo.

These three aspects of the Whole are present in every form.

Ba phương diện này của Toàn Thể hiện diện trong mọi hình tướng.

a. The solar system is triple, manifesting through the three above mentioned.

a. Hệ mặt trời là tam phân, biểu lộ qua ba điều vừa nêu.

b. A human being is equally triple, manifesting as Spirit, Soul and Body, or Monad, Ego and Personality.

b. Con người cũng là tam phân, biểu lộ như Tinh thần, Linh hồn và Thể xác, hay Chân thần, Chân ngã và Phàm ngã.

c. The atom of the scientist is also triple, being composed of a positive nucleus, the negative electrons, and the totality of the outer [5] manifestation, the result of the relation of the other two.

c. Nguyên tử theo nhà khoa học cũng là tam phân, gồm một hạt nhân dương, các điện tử âm, và toàn bộ sự biểu lộ bên ngoài [5], là kết quả của mối tương quan của hai cái kia.

The three aspects of every form are interrelated and susceptible of intercourse, because

Ba phương diện của mọi hình tướng tương liên và có khả năng giao tiếp, vì

a. Energy is in motion and circulates.

a. Năng lượng ở trong chuyển động và lưu thông.

b. All forms in the solar system form part of the Whole, and are not isolated units.

b. Mọi hình tướng trong hệ mặt trời đều là bộ phận của Toàn Thể, và không phải những đơn vị cô lập.

c. This is the basis of brotherhood, of the communion of saints, and of astrology.

c. Đây là nền tảng của tình huynh đệ, của sự hiệp thông của các thánh, và của chiêm tinh học.

These three aspects of God, the solar Logos, and the Central Energy or Force (for the terms are occultly synonymous) demonstrate through seven centers of force,—three major centers and four minor. These seven centers of logoic Force are themselves so constituted that they form corporate Entities. They are known as

Ba phương diện này của Thượng đế, tức Thái dương Thượng đế và Năng lượng hay Mãnh lực Trung tâm (vì các thuật ngữ ấy theo huyền bí học là đồng nghĩa) biểu lộ qua bảy trung tâm mãnh lực — ba trung tâm chính và bốn trung tâm phụ. Bảy trung tâm của Lực logoic này tự thân được cấu thành sao cho chúng hình thành những Thực Thể tập thể. Chúng được biết là

a. The seven planetary Logoi.

a. Bảy Hành Tinh Thượng đế.

b. The seven Spirits before the Throne.

b. Bảy Thánh Linh trước Thánh Ngai.

c. The seven Rays.

c. Bảy cung.

d. The seven Heavenly Men.

d. Bảy Đấng Thiên Nhân.

The Seven Logoi embody seven types of differentiated force, and in this Treatise are known under the names of Lords of the Rays. The names of the Rays are

Bảy vị Thượng đế bao hàm bảy loại mãnh lực biến phân, và trong Luận này được biết dưới danh xưng các Đấng Chúa Tể của các Cung. Tên của các Cung là

Ray I—Ray of Will or Power—1st Aspect

Cung I—Cung của Ý Chí hay Quyền Lực—Phương diện thứ nhất

Ray II—Ray of Love-Wisdom—2nd Aspect

Cung II—Cung của Bác Ái – Minh Triết—Phương diện thứ hai

Ray III—Ray of Active Intelligence—3rd Aspect

Cung III—Cung của Trí tuệ Hoạt động—Phương diện thứ ba

(These are the major Rays.)

(Đây là các Cung chính.)

Ray IV—Ray of Harmony, Beauty and Art.

Cung IV—Cung của Hài hòa, Cái đẹp và Nghệ thuật.

Ray V—Ray of Concrete Knowledge or Science.

Cung V—Cung của Tri thức Cụ thể hay Khoa học.

Ray VI—Ray of Devotion or of Abstract Idealism.

Cung VI—Cung của Sùng tín hay Lý tưởng Trừu tượng.

Ray VII—Ray of Ceremonial Magic or Order.

Cung VII—Cung của Huyền thuật Nghi lễ hay Trật tự.

II. There is a basic law called the Law of Periodicity.

II. Có một định luật căn bản gọi là Định luật Chu kỳ.

1. This law governs all manifestation, whether it is the manifestation of a solar Logos through the [6] medium of a solar system, or the manifestation of a human being through the medium of a form. This law controls likewise in all the kingdoms of nature.

1. Định luật này cai quản mọi sự biểu lộ, dù là sự biểu lộ của một Thái dương Thượng đế qua [6] môi giới của một hệ mặt trời, hay sự biểu lộ của một con người qua môi giới của một hình tướng. Định luật này đồng thời chi phối trong tất cả các giới của thiên nhiên.

2. There are certain other laws in the system which are linked with this one; some of them are as follows:

2. Có một số định luật khác trong hệ thống liên kết với định luật này; một vài định luật như sau:

a. The Law of Economy—the law governing matter, the third aspect.

a. Định luật Tiết Kiệm — định luật cai quản chất liệu, phương diện thứ ba.

b. The Law of Attraction—the law governing soul, the second aspect.

b. Định luật Hấp dẫn — định luật cai quản linh hồn, phương diện thứ hai.

c. The Law of Synthesis—the law governing spirit, or the first aspect.

c. Định luật Tổng hợp — định luật cai quản tinh thần, tức phương diện thứ nhất.

3. These three are cosmic laws. There are seven systemic laws, which govern the manifestation of our solar Logos:

3. Ba định luật này là các định luật vũ trụ. Có bảy định luật hệ thống, cai quản sự biểu lộ của Thái dương Thượng đế của chúng ta:

a. The Law of Vibration.

a. Định luật Rung động.

b. The Law of Cohesion.

b. Định luật Kết hợp.

c. The Law of Disintegration.

c. Định luật Phân rã.

d. The Law of Magnetic Control.

d. Định luật Kiểm soát Từ tính.

e. The Law of Fixation.

e. Định luật Cố định.

f. The Law of Love.

f. Định luật Bác ái.

g. The Law of Sacrifice and Death.

g. Định luật Hy sinh và Chết.

4. Each of these Laws manifests primarily on one or other of the seven planes of the solar system.

4. Mỗi định luật trong số này chủ yếu biểu lộ trên một trong bảy cõi của hệ mặt trời.

5. Each law sweeps periodically into power and each plane has its period of manifestation and its period of obscuration.

5. Mỗi định luật định kỳ trỗi lên cầm quyền và mỗi cõi có thời kỳ biểu lộ và thời kỳ mờ khuất của nó.

6. Every manifested life has its three great cycles:

6. Mọi sự sống đã hiện lộ đều có ba chu kỳ lớn của nó:

Birth—Life—Death.

Sinh — Sống — Chết.

Appearance—growth—disappearance. [7]

Hiện ra — tăng trưởng — biến mất. [7]

Involution—evolution—obscuration.

Giáng hạ tiến hoá — thăng thượng tiến hoá — mờ khuất.

Inert motion—activity—rhythmic motion.

Chuyển động trơ — hoạt động — chuyển động nhịp nhàng.

Tamasic life—rajasic life—sattvic life.

Sự sống tamasic — sự sống rajasic — sự sống sattvic.

7. Knowledge of the cycles involves knowledge of number, sound and color.

7. Tri thức về các chu kỳ bao hàm tri thức về số, âm thanh và màu sắc.

8. Full knowledge of the mystery of the cycles is the possession only of the perfected adept.

8. Tri thức trọn vẹn về huyền nhiệm của các chu kỳ chỉ thuộc về vị chân sư đã viên mãn.

III. All souls are identical with the Oversoul.

III. Mọi linh hồn là đồng nhất với đại hồn.

1. The Logos of the solar system is the Macrocosm. Man is the Microcosm.

1. Thái dương Thượng đế là Đại thiên địa. Con người là Tiểu thiên địa.

2. Soul is an aspect of every form of life from a Logos to an atom.

2. Linh hồn là một phương diện của mọi dạng sự sống, từ một Thượng đế đến một nguyên tử.

3. This relationship between all souls and the Oversoul constitutes the basis for the scientific belief in Brotherhood. Brotherhood is a fact in nature, not an ideal.

3. Mối liên hệ này giữa mọi linh hồn và đại hồn cấu thành nền tảng cho niềm tin khoa học vào Tình huynh đệ. Tình huynh đệ là một sự kiện trong thiên nhiên, không phải một lý tưởng.

4. The Law of Correspondences will explain the details of this relationship. This Law of Correspondences or of Analogy is the interpretive law of the system, and explains God to man.

4. Định luật Tương ứng sẽ giải thích các chi tiết của mối liên hệ này. Định luật Tương ứng, hay Định luật Tương đồng, là định luật diễn giải của hệ thống, và giải thích Thượng đế cho con người.

5. Just as God is the Macrocosm for all the kingdoms in Nature, so man is the Macrocosm for all the subhuman kingdoms.

5. Cũng như Thượng đế là Đại thiên địa đối với mọi giới trong Thiên nhiên, con người là Đại thiên địa đối với mọi giới dưới nhân loại.

6. The goal for the evolution of the atom is self-consciousness as exemplified in the human kingdom.

6. Mục tiêu cho tiến hoá của nguyên tử là tự-tâm thức, như biểu hiện trong giới nhân loại.

The goal for the evolution of man is group consciousness, as exemplified by a planetary Logos. 2

Mục tiêu cho tiến hoá của con người là tâm thức nhóm, như được minh hoạ bởi một Hành Tinh Thượng đế. 2

The goal for the planetary Logos is God consciousness, as exemplified by the solar Logos.

Mục tiêu cho Hành Tinh Thượng đế là tâm thức Thượng đế, như được minh hoạ bởi Thái dương Thượng đế.

7. The solar Logos is the sumtotal of all the states of consciousness within the solar system. 3 [9]

7. Thái dương Thượng đế là tổng số của tất cả các trạng thái tâm thức trong phạm vi hệ mặt trời. 3 [9]

2 Ancient of Days. Daniel VII, pp. 13, 22.

2 Đấng Thái Cổ. Daniel VII, tr. 13, 22.

3 “We have all got into the habit of viewing the universe as a vast group of isolated bodies having very little connection with each other, while the fact is that the universe is one in its essence and many in its manifestations, descending from a homogeneity on the highest plane to more and more marked heterogeneity as it reaches the lowest planes.”—Some Thoughts on the Gita, p. 54.

3 “Chúng ta đều đã quen coi vũ trụ như một quần thể rộng lớn gồm các thể cô lập hầu như rất ít liên hệ với nhau, trong khi sự thật là vũ trụ là một trong bản thể của nó và là nhiều trong các biểu lộ của nó, từ một tính đồng nhất trên cõi cao nhất hạ dần xuống sự dị biệt ngày càng rõ nét khi nó đi tới các cõi thấp nhất.” — Some Thoughts on the Gita, tr. 54.

SECTION ONE—FIRE BY FRICTION—THE FIRE OF MATTER

[Commentary S1S2]

Introductory Remarks [35]

We purpose in these few introductory remarks to lay down the foundation for a “Treatise on Cosmic Fire,” and to consider the subject of fire both macrocosmically and microcosmically, thus dealing with it from the standpoint of the solar system, and of a human being. This will necessitate some preliminary technicalities which may seem at first perusal to be somewhat abstruse and complicated but which, when meditated upon and studied, may eventually prove illuminating and of an elucidating nature, and which also, when the mind has familiarized itself with some of the details, may come to be regarded as providing a logical hypothesis concerning the nature and origin of energy. We have elsewhere, in an earlier book, touched somewhat upon this matter, but we desire to recapitulate and in so doing to enlarge, thus laying down a broad foundation upon which the subject matter can be built up, and providing a general outline which will serve to show the limits of our discussion.

Chúng tôi dự định trong vài lời mở đầu này sẽ đặt nền tảng cho một “Luận thuyết về Lửa Vũ Trụ”, và xem xét đề tài lửa cả ở cấp độ đại thiên địa lẫn tiểu thiên địa, do đó khảo cứu nó từ quan điểm của Thái Dương Hệ và của con người. Điều này sẽ đòi hỏi một số khái niệm kỹ thuật sơ khởi có thể thoạt nhìn dường như hơi trừu tượng và phức tạp, nhưng khi được tham thiền và nghiên cứu, cuối cùng có thể tỏ ra soi sáng và có tính minh giải; và cũng có thể, khi trí tuệ đã làm quen với một số chi tiết, sẽ được xem như là cung cấp một giả thuyết hợp lý liên quan đến bản chất và nguồn gốc của năng lượng. Chúng tôi đã đề cập phần nào đến vấn đề này trong một quyển sách trước đó, nhưng chúng tôi mong muốn được nhắc lại và nhân đó mở rộng thêm, nhờ vậy đặt một nền tảng vững chắc để có thể xây dựng nội dung chủ đề, đồng thời đưa ra một đề cương tổng quát nhằm xác định phạm vi của cuộc khảo luận của chúng ta.

Let us, therefore, look at the subject macrocosmically and then trace the correspondence in the microcosm, or human being.

Do đó, chúng ta hãy xem xét đề tài này từ quan điểm đại thiên địa và rồi lần theo các sự tương ứng trong tiểu thiên địa, tức là con người.

I. Fire in the Macrocosm

In its essential nature Fire is threefold, but when in manifestation it can be seen as a fivefold demonstration, and be defined as follows: [38]

Về bản chất thiết yếu, Lửa là ba ngôi, nhưng khi biểu lộ thì có thể được nhìn nhận như một sự biểu hiện năm ngôi, và được định nghĩa như sau: [38]

1. Fire by friction, or internal vitalizing fire. These fires animate and vitalize the objective solar system. They are the sumtotal of logoic kundalini, when in full systemic activity.

1. Lửa do ma sát, hay lửa sinh lực nội tại. Những ngọn lửa này hoạt hóa và tiếp sinh lực cho Thái Dương Hệ khách quan. Chúng là tổng thể của kundalini của Logos, khi hoạt động đầy đủ trong toàn hệ.

2. Solar Fire, or cosmic mental fire. This is that portion of the cosmic mental plane which goes to the animation of the mental body of the Logos. This fire may be regarded as the sumtotal of the sparks of mind, the fires of the mental bodies and the animating principle of the evolving units of the human race in the three worlds.

2. Lửa Thái dương, hay lửa trí tuệ vũ trụ. Đây là phần thuộc cõi trí vũ trụ góp phần hoạt hóa thể trí của Logos. Ngọn lửa này có thể được xem là tổng thể các tia lửa của trí tuệ, các ngọn lửa của những thể trí và nguyên khí hoạt hóa của các đơn vị đang tiến hoá thuộc giống dân nhân loại trong ba cõi.

3. Electric Fire, or the logoic Flame Divine. This flame is the distinguishing mark of our Logos, and it is that which differentiates Him from all other Logoi; it is His dominant characteristic, and the sign of His place in cosmic evolution.

3. Lửa Điện, hay Ngọn Lửa Thiêng của Logos. Ngọn lửa này là dấu ấn phân biệt của Logos của chúng ta, và chính nó là điều phân biệt Ngài với tất cả các Đấng Logos khác; đó là đặc điểm chủ đạo của Ngài, và là dấu hiệu của vị trí Ngài trong tiến hóa vũ trụ.

This threefold fire may be expressed in ray terms as follows:

Ba ngọn lửa này có thể được biểu thị theo thuật ngữ cung như sau:

First, we have the animating fires of the solar system, which are the fires of the primordial ray of active intelligent matter; these constitute the energy of Brahma, the third aspect of the Logos. Next are to be found the fires of the divine Ray of Love-Wisdom, the ray of intelligent love, which constitutes the energy of the Vishnu aspect, the second aspect logoic.4 Finally are to be found [39] the fires of the cosmic mental plane, which are the fires of the cosmic ray of will. They might be described as the rays of intelligent will and are the manifestation of the first aspect logoic, the Mahadeva aspect.5 Therefore we have three cosmic rays manifesting:

Trước hết, chúng ta có các ngọn lửa hoạt hóa của Thái Dương Hệ, là các ngọn lửa của cung sơ khai của chất liệu thông tuệ linh hoạt; chúng cấu thành năng lượng của Brahma, khía cạnh thứ ba của Logos. Kế đến là các ngọn lửa của Cung Thiêng Liêng Bác Ái – Minh Triết, cung của tình thương thông tuệ, vốn cấu thành năng lượng của khía cạnh Vishnu, khía cạnh thứ hai của Logos. Cuối cùng là các ngọn lửa của cõi trí vũ trụ, là các ngọn lửa của cung ý chí vũ trụ. Chúng có thể được mô tả là các Tia của ý chí thông tuệ và là biểu hiện của khía cạnh thứ nhất của Logos, khía cạnh Mahadeva. Do đó, chúng ta có ba cung vũ trụ biểu lộ:

4 “That whereinto all enter, vishanti, is Vishnu; he who covers up, envelopes, surrounds, undertakes all, is Brahma; he who sleeps, shete, in everything, is Shiva. Shiva sleeps, lies hidden, in all and everything as the nexus, the bond, and this is the nature of desire. Vrinite signifies the envelopment, the covering with an envelope, the demarcation of the limiting bounds or the periphery, and so the formation or creation (of all forms); and this is action presided over by Brahma. Vishanti sarvani indicates that all things enter into It and It into all, and such is the Self, connected with cognition and Vishnu. The summation or totality of these is Mahavishnu.

4 “Cái mà trong đó mọi thứ đi vào, vishanti, là Vishnu; Đấng che phủ, bao bọc, ôm trọn, gánh vác mọi sự là Brahma; Đấng ngủ (shete) trong mọi vật là Shiva. Shiva ngủ, ẩn tàng trong mọi vật như là mối liên kết, sợi dây nối kết, và điều này là bản chất của dục vọng. Vrinite có nghĩa là bao bọc, che phủ bằng một lớp vỏ, định giới hạn bằng các ranh giới hay chu vi, và như thế là sự hình thành hay tạo tác (của mọi hình tướng); và điều này là hành động dưới sự chủ trị của Brahma. Vishanti sarvani chỉ rằng mọi vật đi vào Trong Đó và Trong Đó đi vào mọi vật, và như thế là Chân Ngã, liên kết với nhận thức và Vishnu. Tổng thể của những điều này là Mahavishnu.

“Mahavishnu, ‘the overlord of all this world-system, is described as the Ishvara, white-colored, four-armed, adorned with the conch, the discus, the mace, the lotus, the forest-wreath, and the kanstubha-gem, shining, vestured in blue and yellow, endless and imperishable in form, attributeless yet ensouling and underlying all attributes. Here, the epithet Ishvara indicates the rule; the four arms, the four activities of cognition, etc.; the white resplendence is the illumination of all things; the shankha, conch [39] or shell, indicates all sound, and the chakra, wheel or discus, all time, there being a connection between the two; gada, the (whirling) mace, is the spiral method of the procession of the world and the lotus-flower is the whole of that procession; the vana-mala, the wreath of forest flowers, indicates the stringing together of all things into unity and necessity; the nila-pit-ambara, blue and yellow vestures, are darkness and light; the kaustubha jewel indicates inseparable connection with all; Nirguna, attributeless, shows the presence of the nature of Negation; while saguna, attributeful, implies possession of name and form. The World-process (as embodied in our world-system) is the result of the ideation of Mahavishnu.”—Pranava-Vada, pp. 72-74, 94-95.

“Mahavishnu, ‘Đấng Chúa Tể của toàn hệ thống thế giới này,’ được mô tả là Ishvara, có màu trắng, bốn tay, được trang sức với tù và, bánh xe, chùy, hoa sen, vòng hoa rừng và viên bảo châu kaustubha, rực rỡ, mặc y phục màu xanh và vàng, có hình tướng vô tận và bất hoại, không thuộc tính nhưng thấm nhuần và làm nền tảng cho mọi thuộc tính. Ở đây, danh hiệu Ishvara chỉ sự cai quản; bốn cánh tay chỉ bốn hoạt động của nhận thức v.v.; ánh sáng trắng rực rỡ là sự soi sáng của mọi sự; shankha (tù và) chỉ mọi âm thanh, và chakra (bánh xe) chỉ toàn thể thời gian, bởi có mối liên hệ giữa hai thứ này; gada (chùy xoáy) là phương pháp xoáy trôn ốc của tiến trình thế giới và hoa sen là toàn thể tiến trình đó; vana-mala (vòng hoa rừng) chỉ sự xâu chuỗi mọi sự vào trong tính nhất thể và tất yếu; nila-pit-ambara (y phục màu xanh và vàng) là bóng tối và ánh sáng; viên ngọc kaustubha chỉ mối liên kết bất khả phân ly với mọi sự; nirguna, không thuộc tính, cho thấy bản chất của sự Phủ định; trong khi saguna, có thuộc tính, ngụ ý sự có tên và hình. Tiến trình Thế giới (như được thể hiện trong hệ thống thế giới của chúng ta) là kết quả của ý niệm hóa của Mahavishnu.” — Pranava-Vada, tr. 72–74, 94–95.

5 Mahadeva is literally “great Deva.” The term is frequently applied to the first Person of the manifested Trinity, to Shiva, the Destroyer aspect, the Creator.

5 Mahadeva nghĩa đen là “Đấng Đại Thiên.” Thuật ngữ này thường được áp dụng cho Ngôi Thứ Nhất trong Tam Vị Hiển Lộ, cho Shiva, khía cạnh Hủy Diệt hay Tạo Tác.

The Ray of intelligent activity. This is a ray of a very demonstrable glory, and of a higher point of development than the other two, being the product of an earlier mahakalpa, or a previous solar system.6 It embodies [40] the basic vibration of this solar system, and is its great internal fire, animating and vitalizing the whole, and penetrating from the center to the periphery. It is the cause of rotary motion, and therefore of the spheroidal form of all that exists.

Cung của hoạt động thông tuệ. Đây là một cung biểu lộ rất rõ ràng và đạt đến mức phát triển cao hơn hai cung còn lại, là kết quả của một mahakalpa trước, hay một Thái Dương Hệ trước. [40] Nó hàm chứa rung động cơ bản của Thái Dương Hệ này, là ngọn lửa nội tại vĩ đại của nó, hoạt hóa và tiếp sinh lực cho toàn thể hệ, xuyên suốt từ trung tâm đến chu vi. Nó là nguyên nhân của chuyển động xoay tròn, và vì thế tạo nên hình cầu của mọi vật tồn tại.

The Ray of intelligent love. This is the ray which embodies the highest vibration of which our solar Logos or Deity is capable in this present solar system. It is not yet vibrating adequately nor has it yet attained the peak of its activity. It is the basis of the cyclic spiral movement of the body logoic, and just as the Law of Economy is the law governing the internal fires of the system so the cosmic Law of Attraction and Repulsion is the basic law of this divine Ray.

Cung của tình thương thông tuệ. Đây là cung hàm chứa rung động cao nhất mà Thái Dương Logos hay Thượng Đế của chúng ta có thể đạt được trong Thái Dương Hệ hiện tại. Nó vẫn chưa rung động một cách đầy đủ, cũng chưa đạt đến đỉnh điểm của hoạt động. Nó là nền tảng của chuyển động xoắn ốc theo chu kỳ của thể logoic, và cũng như Định luật Tiết Kiệm là định luật chi phối các ngọn lửa nội tại của hệ, thì Định luật vũ trụ về Hút và Đẩy là định luật căn bản của Cung thiêng liêng này.

The Ray of intelligent will. Little as yet can be said about this ray. It is the ray of cosmic mind and in its evolution parallels that of cosmic love, but as yet its vibration is slower and its development more retarded. This is definitely and deliberately so, and is due to the underlying purpose and choice of the solar Logos, Who seeks on His high level (just as do His reflections, the sons of men) to achieve a more rounded out development, [41] and He therefore concentrates on the development of cosmic love in this greater cycle.

Cung của ý chí thông tuệ. Hiện nay rất ít điều có thể được nói về cung này. Đây là cung của trí tuệ vũ trụ và trong tiến trình phát triển của nó thì song hành với tình thương vũ trụ, nhưng hiện tại rung động của nó chậm hơn và sự phát triển của nó còn trì trệ hơn. Điều này là có chủ đích và được hoạch định, và là do Thiên Ý và lựa chọn của Thái Dương Logos, Đấng đang tìm cách (cũng như những hình ảnh phản chiếu của Ngài là những người con của nhân loại) để đạt được một sự phát triển toàn diện hơn. [41] Vì vậy Ngài tập trung vào sự phát triển của tình thương vũ trụ trong chu kỳ lớn này.

This ray is governed by the Law of Synthesis, and is the basis of the systemic movement which may be best described as that of driving forward through space, or forward progression. Little can be predicated anent this ray and its expression. It controls the movements of the entire ring-pass-not in connection with its cosmic center.7

Cung này được chi phối bởi Định luật Hợp Nhất, và là nền tảng của chuyển động toàn hệ, mà có thể được mô tả tốt nhất là sự thúc đẩy tiến về phía trước trong không gian, hay sự tiến hóa hướng thượng. Rất ít điều có thể được xác quyết về cung này và cách biểu hiện của nó. Nó kiểm soát các chuyển động của toàn thể vòng-giới-hạn trong mối liên hệ với trung tâm vũ trụ của nó.

6 “One day out of this long life of Brahma is called Kalpa; and a Kalpa is that portion of time which intervenes between one conjunction of all the planets on the horizon of Lanka, at the first point of Aries, and a subsequent similar conjunction. A Kalpa embraces the reign of fourteen Manus, and their sandhis (intervals); each Manu lying between two sandhis. Every Manu’s rule contains seventy-one Maha Yugas,—each Maha Yuga consists of four Yugas, viz., Krita, Treta, Dwapara, and Kali; and the length of each of these four Yugas is respectively as the numbers, 4, 3, 2 and 1.

The number of sidereal years embraced in the foregoing different periods are as follows:

Mortal years

360 days of mortals make a year

1

Krita Yuga contains

1,728,000

Treta Yuga contains

1,296,000

Dwapara Yuga contains

864,000

Kali Yuga contains

432,000

The total of the said four Yugas constitute a Maha Yuga

4,320,000

Seventy-one of such Maha Yugas form the period of the reign of one Manu

306,720,000

The reign of 14 Manus embraces the duration of 994 Maha Yugas, which is equal to

4,294,080,000

Add Sandhis, i.e., intervals between the reign of each Manu, which amount to 6 Maha Yugas, equal to

25,920,000

The total of these reigns and interregnums of 14 Manus, is 1,000 Maha Yugas, which constitute a Kalpa, i.e., one day of Brahma, equal to

4,320,000,000

As Brahma’s night is of equal duration, one day and night of Brahma will contain

8,640,000,000

360 of such days and nights make one year of Brahma, equal to

3,110,400,000,000

100 of such years constitute the whole period of Brahma’s age, ie., Maha Kalpa

311,040,000,000,000

That these figures are not fanciful, but are founded upon astronomical facts, has been demonstrated by Mr. Davis, in an essay in the Asiatic Researches; and this receives further corroboration from the geological investigations and calculations made by Dr. Hunt, formerly President of the Anthropological Society, and also in some respects from the researches made by Professor Huxley.

Great as the period of the Maha Kalpa seems to be, we are assured that thousands and thousands of millions of such Maha Kalpas have passed, and as many more are yet to come. (Vide Brahma-Vaivarta and Bhavishyre Puranas; and Linga Purana, ch. 171, verse 107, &c.) and this in plain language means that the Time past is infinite and the Time to come is equally infinite. The Universe is formed, dissolved, and reproduced, in an indeterminate succession (Bhagavad Gita, VIII, 19).—The Theosophist, Vol. VII, p. 11 15.

7 The term “ring-pass-not” is used in occult literature to denote the periphery of the sphere of influence of any central life force, and is applied equally to all atoms, from the atom of matter as dealt with by the physicist or chemist through the human and planetary atoms up to the great atom of a solar system. The ring-pass-not of the average human being is the spheroidal form of his mental body which extends considerably beyond the physical and enables him to function on the lower levels of the of the mental plane.

7 Thuật ngữ “vòng-giới-hạn” được sử dụng trong văn học huyền linh để chỉ chu vi của phạm vi ảnh hưởng của bất kỳ sinh lực trung tâm nào, và được áp dụng như nhau đối với mọi nguyên tử, từ nguyên tử vật chất được các nhà vật lý hay hóa học khảo cứu, cho đến nguyên tử nhân loại và hành tinh, cho đến đại nguyên tử là một Thái Dương Hệ. Vòng-giới-hạn của con người trung bình là hình cầu của thể trí y, vốn mở rộng đáng kể vượt ra ngoài thể xác và cho phép y hoạt động trên các phân cảnh thấp của cõi trí.

The (following) tabulation on page 42 may make the above ideas somewhat clearer.

Bảng phân loại (sau đây) ở trang 42 có thể giúp làm rõ hơn phần nào những ý tưởng ở trên.

Fire and the Aspects (Tabulation I)

Fire

Ray

Aspect

Expression

Law

Quality

1. Internal

Primordial

Intelligent

Activity

Rotary motion

Economy

Fire by friction.

2. Of Mind

Love

Intelligent

Love

Spiral cyclic

motion

Attraction

Solar Fire.

3. Divine Flame

Will

Intelligent

Will

Forward

Progression

Synthesis

Electric Fire.

These three expressions of the divine Life may be regarded as expressing the triple mode of manifestation. First, the objective or tangible universe; second, the subjective worlds or form; and thirdly, the spiritual aspect which is to be found at the heart of all.8

8

1.      The Primordial is the Ray and the direct emanation of the Sacred Four. (S. D., I, 115, 116)

2.      The Sacred Four are:

a.      Unity (Father—Mahadeva—1st Logos—Will—Spirit).

b.      Duality (Son—Vishnu—2nd Logos—Love-Wisdom).

c.       Trinity (Mother—Brahma—3rd Logos—Intelligent activity).

d.      Sacred Four (The united manifestation of the tree—Macrocosm).

3.      The manifested Quaternary and the seven Builders proceed from the Mother (S.D., I, 402)

a.      The seven Builders are the Manasaputras, the Mind-born sons of Brahma, the third aspect. (S. D., III, 540)

b.      They come into manifestation to develop the second aspect. (S. D., I., 108)

c.       Their method is objectivity

4.      The reawakened Energies sprang into space.

a.      They are the veiled synthesis (S. D., I, 362)

b.      They are the totality of manifestation (S. D., I, 470) 

They are precosmic (S. D., I, 152, 470) lane.

The internal fires that animate and vitalize shew themselves in a twofold manner: [42/43]

Các ngọn lửa nội tại hoạt hóa và tiếp sinh lực biểu lộ theo hai cách: [42/43] 

First as latent heat. This is the basis of rotary motion and the cause of the spheroidal coherent manifestation of all existence, from the logoic atom, the solar ring-pass-not, down to the minutest atom of the chemist or physicist.

Thứ nhất, như là nhiệt tiềm tàng. Đây là nền tảng của chuyển động xoay tròn và là nguyên nhân tạo ra biểu lộ hình cầu có tính kết kết của mọi tồn tại, từ nguyên tử của Logos, vòng-giới-hạn Thái Dương, cho đến nguyên tử nhỏ nhất mà nhà hóa học hay vật lý học khảo sát. 

Second, as active heat. This results in the activity and the driving forward of material evolution. On the highest plane the combination of these three factors (active heat, latent heat and the primordial substance which they animate) is known as the ‘sea of fire,’ of which akasha is the first differentiation of pregenetic matter. Akasha, in manifestation, expresses itself as Fohat, or divine Energy, and Fohat on the different planes is known as aether, air, fire, water, electricity, ether, prana and similar terms. 9, 10, 11 It is the sumtotal [44] of that which is active, animated, or vitalized, and of all that concerns itself with the adaptation of the form to the needs of the inner flame of life.

Thứ hai, như là nhiệt năng hoạt động. Điều này dẫn đến hoạt động và sự thúc đẩy tiến trình tiến hóa vật chất. Trên cõi cao nhất, sự kết hợp của ba yếu tố này (nhiệt năng hoạt động, nhiệt tiềm tàng và chất liệu sơ khai mà chúng hoạt hóa) được gọi là “biển lửa”, trong đó akasha là sự phân hóa đầu tiên của chất tiền-nguyên sinh. Akasha, khi biểu lộ, tự thể hiện như là Fohat, hay Năng lượng Thiêng liêng, và Fohat trên các cõi khác nhau được biết đến với các tên như aether, không khí, lửa, nước, điện, ether, prana và những thuật ngữ tương tự. [44] Nó là tổng thể của mọi điều gì đang hoạt động, được hoạt hóa hay tiếp sinh lực, và của mọi sự gì liên quan đến sự thích nghi của hình tướng theo nhu cầu của ngọn lửa nội tại của sự sống.

Homogeneous

Differentiated

1. Undifferentiated cosmic substance

1. Astral Light.

2. Primordial ether

2. Sea of fire.

3. Primordial electric entity

3. Electricity.

4. Akasha

4. Prakriti.

5. Super-astral light

5. Atomic matter.

6. Fiery serpent

6. The serpent of evil.

7. Mulaprakriti.

7. Ether, with its four divisions “air, fire, water earth”.

8. Pregenetic matter.

9 Akasha.  Definition S. D., II, 538

It is the synthesis of ether   S. D., I, 353, 354

It is the essence of ether       S. D., I, 366

It is primordial ether              S. D., I, 585

It is the third Logos in manifestation         S. D., I, 377

10 H. P. B., defines the Akasha in the following terms:  S. D., II, 538.  “Akasha the astral Light can be defined in a few words:  It is the Universal soul, the Matrix of the Universe, the Mysterium Magicum from which all that exists is born by separation or differentiation.  In the various occult books it is called by different terms and it would be of value perhaps if we enumerate some of them here:  There is one universal element with its differentiations.

11 Fohat is divine thought or energy (Shakti) as manifested on any plane of the cosmos.  It is the interplay between Spirit and matter.  The seven differentiations of Fohat are:

1. The Plane of divine life

Adi

2. The Plane of monadic life

Anupadaka

3. The Plane of Spirit

Atma

4. The Plane of the intuition

Buddhi

5. The Plane of mind

Mental

6. The Plane of desire

Astral

7. The Plane of density

Physical

—S. D. I, 105, 134, 135, 136.

It might here be useful to point out that magnetism is the effect of the divine ray in manifestation in the same sense that electricity is the manifested effect of the primordial ray of active intelligence. It would be well to ponder on this for it holds hid a mystery.

Sẽ hữu ích nếu chỉ ra rằng từ lực là kết quả của cung thiêng liêng khi biểu lộ, theo cùng một nghĩa mà điện là kết quả biểu lộ của cung sơ khai của trí tuệ linh hoạt. Sẽ rất đáng để chiêm nghiệm điều này vì nó ẩn chứa một huyền nhiệm.

The fires of the mental plane also demonstrate in a twofold manner:

Các ngọn lửa của cõi trí cũng biểu lộ theo hai cách:

– First, as the Fire of Mind, the basis of all expression and in one peculiar occult sense the sumtotal of existence. It provides the relation between the life and the form, between spirit and matter, and is the basis of consciousness itself.

• Thứ nhất, như là Lửa của Trí tuệ, nền tảng của mọi biểu hiện và, theo một nghĩa huyền linh đặc biệt, là tổng thể của tồn tại. Nó cung cấp mối liên kết giữa sự sống và hình tướng, giữa tinh thần và vật chất, và là nền tảng của chính tâm thức.

– Second, as the Elementals of Fire, or the sumtotal of the active expression of thought, showing itself through the medium of those entities who, in their very essence, are fire itself.

• Thứ hai, như là các Tinh linh của Lửa, hay tổng thể của biểu hiện năng động của tư tưởng, biểu lộ qua trung giới của những thực thể mà bản chất của chính chúng là lửa.

These dualities of expression make the four necessary factors in the logoic quaternary 12, or the lower nature of the Logos viewing His manifestation from one esoteric angle; esoterically, they are the sumtotal of the logoic quaternary, plus the logoic fifth principle, cosmic mind.

Những nhị nguyên biểu lộ này tạo nên bốn yếu tố thiết yếu trong bộ tứ logoic12, hay bản chất thấp của Logos khi quan sát sự biểu lộ của Ngài từ một góc độ nội môn; xét về mặt nội môn, chúng là tổng thể của bộ tứ logoic, cộng với nguyên khí thứ năm của Logos, tức là trí tuệ vũ trụ.

The divine spark does not as yet manifest (as do the other two fires) as a duality, though what lies hidden in a later cycle, evolution alone will disclose. This third fire, along with the other two, make the necessary five of logoic evolutionary development and by its perfected merging with the other two fires as the evolutionary process proceeds is seen the goal of logoic attainment for this greater cycle or period of this solar system. [45] When the primordial ray of intelligent activity, the divine ray of intelligent love, and the third cosmic ray of intelligent will meet, blend, merge, and blaze forth, the Logos will take His fifth initiation, thus completing one of His cycles. When the rotary, the forward, and the spiral cyclic movements are working in perfect synthesis then the desired vibration will have been reached. When the three Laws of Economy, of Attraction, and of Synthesis work with perfect adjustment to each other, then nature will perfectly display the needed functioning, and the correct adaptation of the material form to the indwelling spirit, of matter to life, and of consciousness to its vehicle.

Tia lửa thiêng vẫn chưa biểu lộ (như hai ngọn lửa kia) như một nhị nguyên, mặc dù điều gì đang ẩn tàng trong một chu kỳ sau này thì chỉ sự tiến hóa mới có thể tiết lộ. Ngọn lửa thứ ba này, cùng với hai ngọn lửa kia, tạo thành bộ năm thiết yếu của tiến hóa logoic; và qua sự dung hợp hoàn thiện của nó với hai ngọn lửa kia khi tiến trình tiến hóa tiếp diễn, ta sẽ thấy được mục tiêu của sự thành tựu logoic cho chu kỳ lớn hoặc giai đoạn của Thái Dương Hệ này. [45] Khi cung sơ khai của hoạt động thông tuệ, cung thiêng liêng của tình thương thông tuệ, và cung vũ trụ thứ ba của ý chí thông tuệ gặp nhau, hòa quyện, dung hợp và bừng cháy rực rỡ, Logos sẽ trải qua lần điểm đạo thứ năm của Ngài, nhờ vậy hoàn tất một chu kỳ của Ngài. Khi các chuyển động xoay tròn, tiến về phía trước và chu kỳ xoắn ốc hoạt động trong sự tổng hợp hoàn hảo thì rung động mong muốn sẽ đạt được. Khi ba Định luật Tiết Kiệm, Hút, và Hợp Nhất vận hành trong sự điều chỉnh hoàn hảo lẫn nhau, thì thiên nhiên sẽ thể hiện trọn vẹn sự vận hành cần thiết, và sự thích nghi đúng đắn của hình tướng vật chất với tinh thần ngự trị bên trong, của vật chất với sự sống, và của tâm thức với cỗ xe của nó.

12 The quaternary is composed of the four lower principles and the sheaths through which they manifest as a coherent unit, being held together during manifestation by the life force of the indwelling entity.

12Bộ tứ gồm bốn nguyên khí thấp cùng các lớp vỏ mà qua đó chúng biểu lộ như một đơn vị kết kết, được kết nối với nhau trong quá trình biểu lộ nhờ sinh lực của thực thể ngự trị bên trong.

II. Fire in the Microcosm [Commentary S1S3]

Let us briefly consider therefore the correspondence between the greater whole and the unit man and then block out our subject in detail and consider the sections into which it will be wise to divide it.

Chúng ta hãy tóm lược xem xét sự tương ứng giữa tổng thể lớn và đơn vị con người, rồi phác thảo chi tiết chủ đề của chúng ta và xem xét những phần nào nên được chia ra để nghiên cứu một cách khôn ngoan.

Fire in the Microcosm is likewise threefold in essence and fivefold in manifestation.

Lửa trong Tiểu thiên địa cũng là ba ngôi về bản chất và năm ngôi khi biểu lộ.

1. There is Internal Vitalizing Fire, which is the correspondence to fire by friction. This is the sumtotal of individual kundalini; it animates the corporeal frame and demonstrates also in the twofold manner:

1. Có Lửa Sinh Lực Nội Tại, tương ứng với lửa do ma sát. Đây là tổng thể của kundalini cá nhân; nó hoạt hóa thể xác và cũng biểu lộ theo hai cách:

– First, as latent heat which is the basis of life of the spheroidal cell, or atom, and of its rotary adjustment to all other cells.

– Thứ nhất, như là nhiệt tiềm tàng, vốn là nền tảng của sự sống trong tế bào hay nguyên tử hình cầu, và của sự điều chỉnh xoay tròn của nó đối với mọi tế bào khác.

– Second, as active heat or prana; this animates all, and is the driving force of the evolving form. It shows itself in the four ethers and in the gaseous state, and a correspondence is here found on the physical plane in connection with man to the Akasha and its fivefold manifestation on the plane of the solar system.

– Thứ hai, như là nhiệt năng hoạt động hay prana; nó hoạt hóa tất cả, và là lực thúc đẩy hình tướng đang tiến hóa. Nó biểu hiện qua bốn loại dĩ thái và trong trạng thái khí, và có một sự tương ứng được tìm thấy ở cõi trần nơi con người liên quan đến Akasha và sự biểu hiện năm ngôi của nó trên cõi của Thái Dương Hệ.

This fire is the basic vibration of the little system in which the monad or human spirit is the logos, and it [46] holds the personality or lower material man in objective manifestation thus permitting the spiritual unit to contact the plane of densest matter. It has its correspondence in the ray of intelligent activity and is controlled by the Law of Economy in one of its subdivisions, the Law of Adaptation in Time.

Ngọn lửa này là rung động nền tảng của tiểu hệ thống mà trong đó Chân thần hay tinh thần con người là logos, và nó [46] giữ cho phàm ngã hay con người vật chất thấp biểu lộ một cách khách quan, nhờ đó đơn vị tinh thần có thể tiếp xúc với cõi vật chất trọng trược nhất. Nó có sự tương ứng với cung của hoạt động thông tuệ và được chi phối bởi Định luật Tiết Kiệm trong một phân nhánh của nó, tức Định luật Thích Ứng Trong Thời Gian.

2. There is next the Fire or Spark of Mind which is the correspondence in man to solar fire. This constitutes the thinking self-conscious unit or the soul. This fire of mind is governed by the Law of Attraction as is its greater correspondence. Later we can enlarge on this. It is this spark of mind in man, manifesting as spiral cyclic activity, which leads to expansion and to his eventual return to the center of his system, the Monad—the origin and goal for the reincarnating Jiva or human being. As in the macrocosm this fire also manifests in a twofold manner.

2. Tiếp theo là Lửa hay Tia Lửa của Trí tuệ, vốn tương ứng trong con người với lửa Thái dương. Đây là thành phần tạo nên đơn vị tư duy có tự ý thức hay linh hồn. Ngọn lửa của trí tuệ này được điều khiển bởi Định luật Hút giống như sự tương ứng cao hơn của nó. Chúng ta sẽ khảo cứu thêm điều này sau. Chính tia lửa trí tuệ này trong con người, biểu lộ như hoạt động theo chu kỳ xoắn ốc, dẫn đến sự mở rộng và sự trở về cuối cùng của y về trung tâm hệ thống của mình, tức là Chân thần—nguồn gốc và cứu cánh của Jiva hay nhân hồn tái sinh.

It shows as that intelligent will which links the Monad or spirit with its lowest point of contact, the personality, functioning through a physical vehicle.

Cũng như trong đại thiên địa, ngọn lửa này cũng biểu lộ theo hai cách:

It likewise demonstrates, as yet imperfectly, as the vitalizing factor in the thought forms fabricated by the thinker. As yet but few thought forms, comparatively, can be said to be constructed by the center of consciousness, the thinker, the Ego. Few people as yet are in such close touch with their higher self, or Ego, that they can build the matter of the mental plane into a form which can be truly said to be an expression of the thoughts, purpose or desire of their Ego, functioning through the physical brain. Most of the thought forms at present in circulation may be said to be aggregations of matter, built into form with the aid of kama-manas (or of desire faintly tinged with mind producing thus an admixture of astral and mental matter, mostly astral), and largely due to reflex elemental action.

Nó biểu lộ như là ý chí thông tuệ nối kết Chân thần hay tinh thần với điểm tiếp xúc thấp nhất của nó, tức là phàm ngã, hoạt động thông qua một thể xác. Nó cũng biểu lộ—dù vẫn còn chưa hoàn thiện—như là yếu tố tiếp sinh lực cho các hình tư tưởng được tạo ra bởi người tư duy. Hiện nay chỉ có rất ít hình tư tưởng, tương đối mà nói, có thể được xem là do trung tâm ý thức, tức là người tư duy, tức là Chân ngã, tạo ra. Hiện tại, vẫn còn ít người tiếp xúc đủ mật thiết với Chân ngã hay Chân ngã cao của họ để có thể kiến tạo chất liệu cõi trí thành một hình tướng mà có thể thực sự được xem là biểu hiện của tư tưởng, mục đích hay ước vọng của Chân ngã họ, hoạt động thông qua bộ não thể xác. Phần lớn các hình tư tưởng hiện đang lưu hành có thể được xem là sự tập hợp của chất liệu, được kết hợp thành hình tướng với sự trợ giúp của kama-manas (hay của dục vọng được pha nhẹ với trí tuệ, từ đó tạo thành một hỗn hợp của chất liệu cảm dục và trí tuệ, chủ yếu là cảm dục), và phần lớn là do phản ứng của các tinh linh bản năng.

These dualities of expression are: [47]

Các nhị nguyên biểu lộ này là: [47]

1. Active fire or prana.

1. Lửa hoạt động hay prana.

Latent fire or bodily heat.

Lửa tiềm tàng hay nhiệt của cơ thể.

2. Mental energy in the mental body.

2. Năng lượng trí tuệ trong thể trí.

Purely mental thought forms, animated by self-engendered fire, or by the fifth principle, and therefore part of the sphere, or system of control, of the Monad.

Các hình tư tưởng thuần túy trí tuệ, được tiếp sinh lực bởi ngọn lửa tự tạo, hay bởi nguyên khí thứ năm, do đó thuộc về phạm vi hay hệ thống kiểm soát của Chân thần.

These form an esoteric quaternary which with the fifth factor, the divine spark of intelligent will, make the five of monadic manifestation—manifestation in this case connotating a purely subjective manifestation which is neither altogether spiritual nor altogether material.

Chúng tạo thành một bộ tứ nội môn mà cùng với yếu tố thứ năm, tia lửa thiêng liêng của ý chí thông tuệ, tạo thành bộ năm của biểu lộ Chân thần—trong trường hợp này, biểu lộ mang ý nghĩa hoàn toàn chủ quan, vốn không hoàn toàn thuộc tinh thần mà cũng không hoàn toàn thuộc vật chất.

3. Finally there is the Monadic Flame Divine. This embodies the highest vibration of which the Monad is capable, is governed by the Law of Synthesis, and is the cause of the forward progressive movement of the evolving Jiva.

3. Cuối cùng, có Thần Hỏa của Chân thần. Ngọn lửa này hàm chứa rung động cao nhất mà Chân thần có thể đạt tới, được chi phối bởi Định luật Hợp Nhất, và là nguyên nhân của chuyển động tiến hóa về phía trước của Jiva đang tiến hóa.

We now come, in due course, to the point of merging or to the end of manifestation, and to the consummation (viewing it monadically) of the great cycle or manvantara. What shall we therefore find? Just as in the macrocosm the blending of the three essential fires of the cosmos marked the point of logoic attainment, so, in the blending of the essential fires of the microcosm, do we arrive at the apotheosis of human attainment for this cycle.

Bây giờ, đến đúng thời điểm, chúng ta tiến đến điểm dung hợp hay đến sự chấm dứt của sự biểu lộ, và đến sự viên mãn (khi nhìn theo quan điểm Chân thần) của chu kỳ vĩ đại hay manvantara. Vậy, chúng ta sẽ thấy điều gì? Cũng như trong đại thiên địa, sự dung hợp của ba ngọn lửa thiết yếu của vũ trụ đánh dấu điểm thành tựu của Logos, thì trong sự dung hợp của các ngọn lửa thiết yếu của tiểu thiên địa, chúng ta đạt đến cao điểm của sự thành tựu con người trong chu kỳ này.

When the latent fire of the personality or lower self blends with the fire of mind, that of the higher self, and finally merges with the Divine Flame, then the man takes the fifth Initiation in this solar system, and has completed one of his greater cycles. 13 When the three blaze forth as one fire, liberation from matter, or from material form is achieved. Matter has been correctly adjusted to spirit, and finally the indwelling life slips forth out of its sheath which forms now only a channel for liberation.

Khi ngọn lửa tiềm tàng của phàm ngã hay cái tôi thấp dung hợp với lửa của trí tuệ, tức của cái tôi cao, và cuối cùng hòa nhập vào Thần Hỏa Thiêng Liêng, thì con người trải qua lần điểm đạo thứ năm trong Thái Dương Hệ này, và đã hoàn tất một trong các chu kỳ lớn của y13. Khi ba ngọn lửa cháy rực lên như một ngọn lửa duy nhất, thì sự giải thoát khỏi vật chất hay khỏi hình tướng vật chất được đạt đến. Vật chất đã được điều chỉnh đúng đắn theo tinh thần, và cuối cùng sự sống ngự trị bên trong thoát ra khỏi lớp vỏ bọc của nó, vốn giờ đây chỉ còn là một kênh dẫn cho sự giải thoát.

13 These terms, Lower Self, Higher Self, Divine Self, are apt to be confusing [48] until the student apprehends the various synonyms connected with them. The following table may be found helpful:

Father

Son

Spirit

Soul

Life

Consciousness

Monad

Ego

Divine Self

Higher Self

Spirit

Individuality

The Point

The Triad

Monad

Solar Angel

III. Fire in Manifestation

To continue our consideration of the fires which sustain the economy of the visible solar system, and of the visible objective human being, which produce evolutionary development, and which are the bases of all objective efflorescence, it must be noted that they demonstrate as the sumtotal of the vital life of a solar system, of a planet, of the entire constitution of active functioning man upon the physical plane, and of the atom of substance.

Để tiếp tục xem xét các ngọn lửa duy trì nền kinh tế của hệ mặt trời hữu hình, và của con người hữu hình khách quan, những ngọn lửa tạo ra sự phát triển tiến hoá, và là nền tảng của mọi sự nở rộ khách quan, cần lưu ý rằng chúng thể hiện tổng số sinh mệnh sống còn của một hệ mặt trời, của một hành tinh, của toàn bộ cấu trúc của con người đang hoạt động trên cõi trần, và của nguyên tử vật chất.

Speaking broadly we would say that the first fire deals entirely with:

Nói một cách tổng quát, chúng ta có thể nói rằng ngọn lửa thứ nhất đề cập hoàn toàn đến:

a. Activity of matter.

a. Hoạt động của vật chất.

b. The rotary motion of matter.

b. Chuyển động quay của vật chất.

c. The development of matter by the means of friction, under the law of Economy. H.P.B. touches on this in the Secret Doctrine. 14

c. Sự phát triển của vật chất bằng phương tiện ma sát, theo Định luật Tiết Kiệm. H.P.B. đề cập đến điều này trong Giáo Lý Bí Nhiệm. 14

The second fire, that from the cosmic mental plane, deals with:

Ngọn lửa thứ hai, từ cõi trí vũ trụ, đề cập đến:

a. The expression of the evolution of mind or manas.

a. Sự biểu hiện của sự tiến hóa của trí tuệ hoặc manas.

b. The vitality of the soul.

b. Sinh lực của linh hồn.

c. The evolutionary expression of the soul as it shows forth in the form of that elusive something which brings about the synthesis of matter. As the two merge by means of this active energizing factor, that which is termed consciousness appears. 15 As [49] the merging proceeds and the fires become more and more synthesized, that totality of manifestation which we regard as a conscious existence becomes ever more perfected.

c. Sự biểu hiện tiến hoá của linh hồn khi nó thể hiện dưới dạng một thứ gì đó khó nắm bắt, mang lại sự tổng hợp của vật chất. Khi cả hai hợp nhất bằng yếu tố năng lượng hoạt động này, thứ được gọi là tâm thức xuất hiện. 15 Khi [49] sự hợp nhất tiến triển và các ngọn lửa ngày càng được tổng hợp, toàn bộ sự biểu hiện mà chúng ta coi là một sự tồn tại có tâm thức ngày càng trở nên hoàn thiện hơn.

d. The operation of this fire under the Law of Attraction.

d. Sự vận hành của ngọn lửa này theo Định luật Hấp dẫn.

e. The subsequent result in the spiral-cyclic movement which we call, within the system, solar evolution, but which (from the standpoint of a cosmos) is the approximation of our system to its central point. This must be considered from the standpoint of time. 16

e. Kết quả tiếp theo trong chuyển động xoắn ốc tuần hoàn mà chúng ta gọi, trong hệ thống, là sự tiến hóa mặt trời, nhưng (từ quan điểm của vũ trụ) là sự xấp xỉ của hệ thống chúng ta đến điểm trung tâm của nó. Điều này phải được xem xét từ quan điểm của thời gian. 16

14 See S. D., I, 169, 562, 567, 569; II, 258, 390, 547, 551, 552.

14 Xem S. D., I, 169, 562, 567, 569; II, 258, 390, 547, 551, 552.

15 In the Study of Consciousness Mrs. Besant says (page 37): “Consciousness is the one reality, in the fullest sense of that much-used phrase; it follows from this that any reality found anywhere is drawn from consciousness. Hence, everything which is thought, is. That consciousness in which everything is, everything literally, “possible” as well as “actual”—actual being that which is thought of as existent by a separated consciousness in time and space, and possible all that which is not so being thought of at any period in time and any point in space—we call Absolute Consciousness. It is the All, the Eternal, the Infinite, the Changeless. Consciousness, thinking time and space, and of all forms as existing in them in succession and in places, is the Universal Consciousness, the One, called by the Hindu the Saguna Brahman—the Eternal with attributes—the Pratyag-Atma—the Inner Self; by the Parsi, Hormuzd; by the Mussulman, Allah. Consciousness dealing with a definite time, however long or short, with a definite space, however vast or restricted, is individual, that of a concrete Being, a Lord of many universes, or a universe or of any so-called portion of a universe, his portion and to him therefore a universe—these terms varying as to extent with the power of the consciousness; so much of the universal thought as a separate consciousness can completely think, i.e., on which he can impose his own reality, can think of as existing like himself, is his universe.”

15 Trong Nghiên Cứu về Tâm Thức, bà Besant nói (trang 37): “Tâm thức là thực tại duy nhất, theo nghĩa đầy đủ nhất của cụm từ được sử dụng nhiều này; từ đó suy ra rằng bất kỳ thực tại nào được tìm thấy ở bất kỳ đâu đều được rút ra từ tâm thức. Do đó, mọi thứ được suy nghĩ đều là. Tâm thức đó, trong đó mọi thứ đều có, mọi thứ theo nghĩa đen, “khả thi” cũng như “hiện thực” —hiện thực là những gì được nghĩ đến như tồn tại bởi một tâm thức tách biệt trong thời gian và không gian, và khả thi là tất cả những gì không được nghĩ đến như vậy tại bất kỳ thời điểm nào trong thời gian và bất kỳ điểm nào trong không gian—chúng ta gọi là Tâm Thức Tuyệt Đối. Đó là Tất Cả, Vĩnh Hằng, Vô Hạn, Bất Biến. Tâm thức, suy nghĩ về thời gian và không gian, và về tất cả các hình tướng như tồn tại trong chúng theo trình tự và địa điểm, là Tâm Thức Vũ Trụ, Duy Nhất, được người Hindu gọi là Saguna Brahman—Vĩnh Hằng với các thuộc tính—Pratyag-Atma—Bản Ngã Bên Trong; bởi người Parsi, Hormuzd; bởi người Hồi giáo, Allah. Tâm thức xử lý một thời gian xác định, dù dài hay ngắn, với một không gian xác định, dù rộng lớn hay hạn chế, là cá nhân, của một Bản Thể cụ thể, một Chúa Tể của nhiều vũ trụ, hoặc một vũ trụ hoặc bất kỳ phần nào được gọi là một vũ trụ, phần của y và do đó là một vũ trụ—những thuật ngữ này khác nhau về mức độ với sức mạnh của tâm thức; suy nghĩ vũ trụ nhiều như một tâm thức tách biệt có thể suy nghĩ hoàn toàn, tức là, mà y có thể áp đặt thực tại của chính mình, có thể nghĩ đến như tồn tại giống như y, là vũ trụ của y.”

16 Universal consciousness, manifesting as consciousness in time and space, as Mrs. Besant so ably expresses it, includes all forms of activity and spiral cyclic evolution from the standpoint of cosmic evolution, and in terms of absolute consciousness, may again be rotary.

16 Tâm thức vũ trụ, biểu hiện như tâm thức trong thời gian và không gian, như bà Besant diễn đạt một cách tài tình, bao gồm tất cả các hình thức hoạt động và sự tiến hóa xoắn ốc tuần hoàn từ quan điểm của sự tiến hóa vũ trụ, và theo các thuật ngữ của tâm thức tuyệt đối, có thể lại là chuyển động quay.

The third fire deals with:

Ngọn lửa thứ ba đề cập đến:

a. The evolution of spirit.

a. Sự tiến hóa của tinh thần.

b. Practically nothing can at this stage be communicated anent this evolution. The development of spirit can be only expressed as yet in terms of the evolution of matter, and only through the adequacy of the vehicle, and through the suitability of the sheath, the body or form, can the point of [50] spiritual development reached in any way be appraised. A word of warning should here be interpolated:

b. Trên thực tế, ở giai đoạn này, hầu như không thể truyền đạt bất cứ điều gì về sự tiến hóa này. Sự phát triển của tinh thần chỉ có thể được diễn đạt ở giai đoạn này theo sự tiến hóa của vật chất, và chỉ thông qua sự đầy đủ của phương tiện, và thông qua sự phù hợp của vỏ bọc, thân thể hoặc hình tướng, mới có thể đánh giá được điểm phát triển tinh thần [50] đã đạt được bằng bất kỳ cách nào. Một lời cảnh báo nên được chèn vào đây:

c. Just as it is not possible upon the physical plane for the physical vehicle fully to express the total point of development of the Ego or higher self, so it is not possible even for the Ego fully to sense and express the quality of spirit. Hence the utter impossibility for human consciousness justly to appraise the life of the spirit or Monad.

c. Cũng giống như không thể trên cõi trần để thể xác biểu đạt đầy đủ điểm phát triển toàn bộ của Chân Ngã hoặc bản ngã cao hơn, thì ngay cả Chân Ngã cũng không thể cảm nhận và biểu đạt đầy đủ phẩm tính của tinh thần. Do đó, con người hoàn toàn không thể đánh giá một cách công bằng sinh mệnh của tinh thần hoặc Chân Thần.

d. The working of the flame divine under the Law of Synthesis—a generic term which will be seen eventually to include the other two laws as subdivisions.

d. Sự vận hành của ngọn lửa thiêng liêng theo Định luật Tổng Hợp—một thuật ngữ chung mà cuối cùng sẽ được thấy bao gồm hai định luật kia như là các phân khu.

e. The subsequent result of forward progressive motion—a motion which is rotary, cyclic and progressive.

e. Kết quả tiếp theo của chuyển động tiến lên phía trước—một chuyển động quay, tuần hoàn và tiến bộ.

The whole matter dealt with in this Treatise concerns the subjective essence of the solar system, not primarily either the objective or spiritual aspect. It concerns the Entities who indwell the form, who demonstrate as animating factors through the medium of matter, and primarily through etheric matter; who are evolving a second faculty, the fire of mind, and who are essentially themselves points of fire, cast off through cosmic friction, produced by the turning of the cosmic wheel, swept into temporary limited manifestation and due eventually to return to their central cosmic center. They will return plus the results of evolutionary growth, and through assimilation they will have intensified their fundamental nature, and be spiritual fire plus the fire manasic.

Toàn bộ vấn đề được đề cập trong Luận văn này liên quan đến bản chất chủ quan của hệ mặt trời, không phải chủ yếu là khía cạnh khách quan hay tinh thần. Nó liên quan đến các Thực thể cư ngụ trong hình tướng, những người thể hiện như các yếu tố sinh động thông qua môi trường vật chất, và chủ yếu thông qua vật chất dĩ thái; những người đang phát triển một năng lực thứ hai, ngọn lửa của trí tuệ, và bản chất của họ là các điểm lửa, bị loại bỏ thông qua ma sát vũ trụ, được tạo ra bởi sự quay của bánh xe vũ trụ, bị cuốn vào sự biểu hiện tạm thời có giới hạn và cuối cùng sẽ trở về trung tâm vũ trụ trung tâm của họ. Họ sẽ trở về cộng với kết quả của sự phát triển thăng thượng tiến hoá, và thông qua sự đồng hóa, họ sẽ tăng cường bản chất nền tảng của mình, và là lửa tinh thần cộng với lửa trí tuệ.

The internal fire of matter is called in the Secret Doctrine “Fire by Friction.” It is an effect and not a cause, It is produced by the two fires of spirit and of mind (electric and solar fire) contacting each other through the medium of matter. This energy demonstrates in [51] matter itself as the internal fires of the sun, and of the planets and finds a reflection in the internal fires of man. Man is the Flame Divine and the fire of Mind brought into contact through the medium of substance or form. When evolution ends, the fire of matter is not cognizable. It persists only when the other two fires are associated, and it does not persist apart from substance itself.

Ngọn lửa nội tại của vật chất được gọi trong Giáo Lý Bí Nhiệm là “Lửa do Ma sát”. Nó là một hiệu ứng chứ không phải là một nguyên nhân. Nó được tạo ra bởi hai ngọn lửa của tinh thần và trí tuệ (lửa điện và lửa mặt trời) tiếp xúc với nhau thông qua môi trường vật chất. Năng lượng này thể hiện trong [51] chính vật chất như ngọn lửa nội tại của mặt trời, và của các hành tinh và tìm thấy sự phản ánh trong ngọn lửa nội tại của con người. Con người là Ngọn Lửa Thiêng Liêng và ngọn lửa của Trí Tuệ được tiếp xúc thông qua môi trường của chất liệu hoặc hình tướng. Khi sự tiến hóa kết thúc, ngọn lửa của vật chất không thể nhận biết được. Nó chỉ tồn tại khi hai ngọn lửa kia được kết hợp, và nó không tồn tại tách biệt khỏi chính chất liệu.

Let us now briefly recognize certain facts regarding fire in matter and let us take them in order, leaving time to elucidate their significance. First we might say that the internal fire being both latent and active, shows itself as the synthesis of the acknowledged fires of the system, and demonstrates, for instance, as solar radiation and inner planetary combustion. This subject has been somewhat covered by science, and is hidden in the mystery of physical plane electricity, which is an expression of the active internal fires of the system and of the planet just as inner combustion is an expression of the latent internal fires. These latter fires are to be found in the interior of each globe, and are the basis of all objective physical life.

Bây giờ chúng ta hãy nhận ra ngắn gọn một số sự kiện liên quan đến lửa trong vật chất và hãy lấy chúng theo thứ tự, dành thời gian để làm sáng tỏ ý nghĩa của chúng. Đầu tiên, chúng ta có thể nói rằng ngọn lửa nội tại vừa tiềm ẩn vừa hoạt động, thể hiện chính nó như là sự tổng hợp của các ngọn lửa được thừa nhận của hệ thống, và thể hiện, ví dụ, như bức xạ mặt trời và sự đốt cháy hành tinh bên trong. Chủ đề này đã được khoa học đề cập phần nào, và được ẩn giấu trong bí ẩn của điện trường vật lý, vốn là sự biểu hiện của ngọn lửa nội tại hoạt động của hệ thống và của hành tinh giống như sự đốt cháy bên trong là sự biểu hiện của ngọn lửa nội tại tiềm ẩn. Những ngọn lửa sau này được tìm thấy bên trong mỗi quả cầu, và là cơ sở của mọi sinh mệnh vật lý khách quan.

Secondly, we might note that the internal fires are the basis of life in the lower three kingdoms of nature, and in the fourth or human kingdom in connection with the two lower vehicles. The Fire of Mind, when blended with the internal fires, is the basis of life in the fourth kingdom, and united they control (partially now and later entirely) the lower threefold man or the personality; this control lasts up to the time of the first Initiation.

Thứ hai, chúng ta có thể lưu ý rằng ngọn lửa nội tại là cơ sở của sinh mệnh trong ba giới thấp của tự nhiên, và trong giới thứ tư hoặc giới nhân loại liên quan đến hai phương tiện thấp hơn. Ngọn Lửa của Trí Tuệ, khi được pha trộn với ngọn lửa nội tại, là cơ sở của sinh mệnh trong giới thứ tư, và khi hợp nhất, chúng kiểm soát (một phần bây giờ và sau này hoàn toàn) con người tam phân thấp hơn hoặc phàm ngã; sự kiểm soát này kéo dài cho đến thời điểm điểm đạo lần thứ nhất.

The fire of Spirit finally, when blended with the two other fires (which blending commences in man at the first initiation), forms a basis of spiritual life or existence. As evolution proceeds in the fifth or spiritual kingdom, these three fires blaze forth simultaneously, producing perfected consciousness. This blaze results in the final [52] purification of matter and its consequent adequacy; at the close of manifestation it brings about eventually the destruction of the form and its dissolution, and the termination of existence as understood on the lower planes. In terms of Buddhistic theology it produces annihilation; this involves, not loss of identity, but the cessation of objectivity and the escape of Spirit, plus mind, to its cosmic center. It has its analogy in the initiation at which the adept stands free from the limitations of matter in the three worlds.

Cuối cùng, ngọn lửa của Tinh Thần, khi được pha trộn với hai ngọn lửa kia (sự pha trộn này bắt đầu ở con người tại lần điểm đạo thứ nhất), tạo thành cơ sở của sinh mệnh hoặc sự tồn tại tinh thần. Khi sự tiến hóa tiến triển trong giới thứ năm hoặc giới tinh thần, ba ngọn lửa này bùng cháy đồng thời, tạo ra tâm thức hoàn thiện. Sự bùng cháy này dẫn đến sự thanh lọc cuối cùng của vật chất và sự đầy đủ tương ứng của nó; khi kết thúc sự biểu hiện, cuối cùng nó dẫn đến sự hủy diệt của hình tướng và sự tan rã của nó, và sự chấm dứt sự tồn tại như được hiểu trên các cõi thấp hơn. Theo thuật ngữ thần học Phật giáo, nó tạo ra sự tiêu diệt; điều này không liên quan đến sự mất đi bản sắc, mà là sự chấm dứt tính khách quan và sự thoát ra của Tinh Thần, cộng với trí tuệ, đến trung tâm vũ trụ của nó. Nó có sự tương tự trong lần điểm đạo mà Chân Sư đứng tự do khỏi những giới hạn của vật chất trong ba cõi giới.

The internal fires of the system, of the planet, and of man are threefold:

Ngọn lửa nội tại của hệ thống, của hành tinh và của con người có ba phần:

1. Interior fire at the center of the sphere, those inner furnaces which produce warmth. This is latent fire.

1. Lửa bên trong ở trung tâm của quả cầu, những lò nung bên trong tạo ra hơi ấm. Đây là lửa tiềm ẩn.

2. Radiatory fire. This type of fire might be expressed in terms of physical plane electricity, of light rays, and of etheric energy. This is active fire.

2. Lửa bức xạ. Loại lửa này có thể được diễn đạt theo thuật ngữ điện trường vật lý, Tia và năng lượng dĩ thái. Đây là lửa hoạt động.

3. Essential fire, or the fire elementals who are themselves the essence of fire. They are mainly divided into two groups:

3. Lửa bản chất, hoặc các tinh linh lửa, bản chất của chính họ là lửa. Chúng được chia thành hai nhóm chính:

a. Fire devas or evolutionary entities.

a. Các thiên thần lửa hoặc các thực thể thăng thượng tiến hoá.

b. Fire elementals or involutionary entities.

b. Các tinh linh lửa hoặc các thực thể giáng hạ tiến hoá.

Later we will elaborate on this when we consider the Fire of Mind and deal with the nature of the thought elementals. All these elementals and devas are under the control of the fire Lord, Agni. When considering Him and His kingdom the subject can be taken up at greater length.

Sau này chúng ta sẽ nói rõ hơn về điều này khi chúng ta xem xét Ngọn Lửa của Trí Tuệ và đề cập đến bản chất của các tinh linh tư tưởng. Tất cả các tinh linh và thiên thần này đều nằm dưới sự kiểm soát của Chúa Tể lửa, Agni. Khi xem xét Ngài và vương quốc của Ngài, chủ đề này có thể được đề cập chi tiết hơn.

We might here point out, however, that our first two statements concerning the internal fires, express the effect that the fire entities have upon their environment. Heat and radiation are other terms which might be applied in this sense. Each of these effects produces a [53] different class of phenomena. Latent fire causes the active growth of that in which it is embedded and causes that upward pushing which brings into manifestation all that is found in the kingdoms of nature. Radiatory fire causes the continued growth of that which has progressed, under the influence of latent fire, to a point receptive of the radiatory. Let us tabulate it thus:

Tuy nhiên, chúng ta có thể chỉ ra ở đây rằng hai tuyên bố đầu tiên của chúng ta liên quan đến ngọn lửa nội tại, thể hiện hiệu ứng mà các thực thể lửa có đối với môi trường của chúng. Nhiệt và bức xạ là những thuật ngữ khác có thể được áp dụng theo nghĩa này. Mỗi hiệu ứng này tạo ra một loại hiện tượng khác nhau. Lửa tiềm ẩn gây ra sự phát triển tích cực của những gì nó được nhúng vào và gây ra sự đẩy lên trên mang lại sự biểu hiện của tất cả những gì được tìm thấy trong các giới của tự nhiên. Lửa bức xạ gây ra sự phát triển liên tục của những gì đã tiến triển, dưới ảnh hưởng của lửa tiềm ẩn, đến một điểm có thể tiếp nhận bức xạ. Chúng ta hãy lập bảng như sau:

Systemic or Macrocosmic: The solar Logos or The Grand Man of the Heavens.

Hệ thống hoặc Đại thiên địa: Thái dương Thượng đế hoặc Đại Thiên Nhân của Các Tầng Trời.

Latent or interior fire produces the internal heat which makes the solar system productive of all forms of life. It is the inherent warmth that causes all fertilization, whether human, animal, or vegetable.

Lửa tiềm ẩn hoặc bên trong tạo ra nhiệt bên trong làm cho hệ mặt trời sản xuất ra tất cả các hình thức sinh mệnh. Đó là sự ấm áp vốn có gây ra tất cả sự thụ tinh, dù là con người, động vật hay thực vật.

Active or radiatory fire retains in life and causes the evolution of all that has evolved into objectivity by means of latent fire.

Lửa hoạt động hoặc bức xạ duy trì trong sinh mệnh và gây ra sự tiến hóa của tất cả những gì đã tiến hóa thành tính khách quan bằng phương tiện lửa tiềm ẩn.

Planetary, or the Heavenly Men:

Hành tinh, hoặc Các Đấng Thiên Nhân:

What is laid down anent the system, as a whole, can be predicated of all planets which in their nature reflect the Sun, their elder brother.

Những gì được đặt ra về hệ thống, nói chung, có thể được dự đoán về tất cả các hành tinh mà trong bản chất của chúng phản ánh Mặt trời, người anh cả của chúng.

Human, or the Microcosmic Man:

Con người, hoặc Tiểu thiên địa:

Human latent fire, the heat interior of the human frame causes production of other forms of life, such as:

Lửa tiềm ẩn của con người, nhiệt bên trong khung con người gây ra sự sản xuất các hình thức sinh mệnh khác, chẳng hạn như:

1. The physical body cells.

1. Các tế bào cơ thể vật lý.

2. Organisms nourished by the latent heat.

2. Các sinh vật được nuôi dưỡng bởi nhiệt tiềm ẩn.

3. The reproduction of itself in other human forms, the basis of the sex function.

3. Sự tái tạo chính nó trong các hình thức con người khác, cơ sở của chức năng giới tính.

Human radiatory, or active fire, is a factor as yet but little comprehended; it relates to the health aura and to that radiation from the etheric which makes a man a healer, and able to transmit active heat.

Lửa bức xạ của con người, hoặc lửa hoạt động, là một yếu tố mà hiện tại vẫn ít được hiểu; nó liên quan đến hào quang sức khỏe và bức xạ từ dĩ thái khiến một người trở thành người chữa lành, và có thể truyền nhiệt hoạt động.

It is necessary to differentiate between this radiation from the etheric, which is a radiation of prana, and magnetism, which is an emanation from a subtler body (usually the astral), and has to do with the manifestation of [54] the Divine Flame within the material sheaths. The Divine Flame is formed on the second plane, the monadic, and magnetism (which is a method of demonstrating radiatory fire) is therefore felt paramountly on the fourth and sixth planes, or through the buddhic and astral vehicles. These are, as we know, closely allied to the second plane. This distinction is of importance and should be carefully recognized.

Cần phân biệt giữa bức xạ này từ dĩ thái, vốn là bức xạ của prana, và từ tính, vốn là sự phát ra từ một cơ thể tinh tế hơn (thường là cảm dục), và liên quan đến sự biểu hiện của [54] Ngọn Lửa Thiêng Liêng bên trong các vỏ bọc vật chất. Ngọn Lửa Thiêng Liêng được hình thành trên cõi thứ hai, cõi chân thần, và do đó, từ tính (vốn là một phương pháp thể hiện lửa bức xạ) được cảm nhận chủ yếu trên cõi thứ tư và thứ sáu, hoặc thông qua các phương tiện bồ đề và cảm dục. Như chúng ta biết, chúng có mối liên hệ chặt chẽ với cõi thứ hai. Sự phân biệt này rất quan trọng và cần được nhận biết cẩn thận.

Having, therefore, made the above statements, we can proceed to take up somewhat in greater detail the interior fires of the systems, microcosmic and macrocosmic. [55]

Do đó, sau khi đưa ra những tuyên bố trên, chúng ta có thể tiến hành xem xét chi tiết hơn về ngọn lửa nội tại của các hệ thống, tiểu thiên địa và đại thiên địa. [55]

SECTION ONE—DIVISION A—THE INTERNAL FIRES OF THE SHEATHS

[Commentary S1S4]

I. The Three Channels for the Fire

From the very use of the term “sheath” it will be noted that we are considering those fires which manifest through the medium of those externalities, of those veils of substance which hide and conceal the inner Reality. We shall not here take up the subject of the sheaths on the higher planes, but simply deal with the fires that animate the three lower vehicles—the physical body in its two divisions (etheric and dense), the emotional or astral body, and the mental sheath. It is frequently overlooked by the casual student that both the astral and the mental bodies are material, and just as material in their own way, as is the dense physical body, and also that the substance of which they are composed is animated by a triple fire, as is the physical.

Từ chính việc sử dụng thuật ngữ “vỏ bọc”, có thể thấy rằng chúng ta đang xem xét những ngọn lửa thể hiện thông qua môi trường của những thứ bên ngoài đó, của những bức màn vật chất che giấu và che khuất Thực Tại bên trong. Chúng ta sẽ không đề cập đến chủ đề về các vỏ bọc trên các cõi cao hơn ở đây, mà chỉ đơn giản đề cập đến những ngọn lửa sinh động ba phương tiện thấp hơn—thể xác trong hai phân khu của nó (dĩ thái và trọng trược), thể cảm xúc hoặc thể cảm dục và vỏ bọc trí tuệ. Người học hời hợt thường bỏ qua việc cả thể cảm dục và thể trí đều là vật chất, và vật chất theo cách riêng của chúng, giống như thể xác trọng trược, và chất liệu cấu thành chúng cũng được sinh động bởi một ngọn lửa tam phân, giống như thể xác.

In the physical body we have the fires of the lower nature (the animal plane) centralized at the base of the spine. They are situated at a spot which stands in relation to the physical body as the physical sun to the solar system. This central point of heat radiates in all directions, using the spinal column as its main artery, but working in close connection with certain central ganglia, wherever located, and having a special association with the spleen. [56]

Trong thể xác, chúng ta có ngọn lửa của bản chất thấp hơn (cõi động vật) tập trung ở đáy cột sống. Chúng nằm ở một điểm có mối quan hệ với thể xác như mặt trời vật lý với hệ mặt trời. Điểm nhiệt trung tâm này tỏa ra theo mọi hướng, sử dụng cột sống làm động mạch chính, nhưng hoạt động chặt chẽ với các hạch trung tâm nhất định, dù chúng nằm ở đâu và có mối liên hệ đặc biệt với lá lách. [56]

A diagram of a solar system

[CHART I — EVOLUTION OF MATTER] [57]

[BIỂU ĐỒ I — TIẾN HÓA CỦA CHẤT LIỆU] [57]

In the etheric body, which is an exact replica of its denser counterpart, we have the organ of active or radiatory fire, and, as is well known, the vehicle of prana. Its function is to store up the rays of radiatory light and heat which are secured from the sun, and to transmit them, via the spleen, to all parts of the physical body. Hence in the future it will come to be recognized that the spine and the spleen are of the utmost importance to the physical well-being of man, and that when the spinal column is duly adjusted and aligned, and when the spleen is freed from congestion and in a healthy condition, there will be little trouble in the dense physical body. When the physical furnace burns brightly and when the fuel of the body (pranic rays) is adequately assimilated, the human frame will function as desired.

Trong thể dĩ thái, vốn là bản sao chính xác của bản sao trọng trược hơn của nó, chúng ta có cơ quan của lửa hoạt động hoặc bức xạ, và, như đã biết rõ, phương tiện của prana. Chức năng của nó là lưu trữ các tia và nhiệt bức xạ thu được từ mặt trời, và truyền chúng, qua lá lách, đến tất cả các bộ phận của cơ thể vật lý. Do đó, trong tương lai, người ta sẽ nhận ra rằng cột sống và lá lách có tầm quan trọng tối đa đối với sức khỏe thể chất của con người, và khi cột sống được điều chỉnh và chỉnh hợp đúng cách, và khi lá lách không bị tắc nghẽn và ở trong tình trạng khỏe mạnh, sẽ có ít vấn đề trong cơ thể vật lý trọng trược. Khi lò vật lý cháy sáng và khi nhiên liệu của cơ thể (tia prana) được đồng hóa đầy đủ, khung con người sẽ hoạt động như mong muốn.

The subject of the blending of these two fires, which is complete in a normal and healthy person, should engross the attention of the modern physician. He will then concern himself with the removal of nerve congestion or material congestion, so as to leave a free channel for the inner warmth. This blending, which is now a natural and usual growth in every human being, was one of the signs of attainment or of initiation in an earlier solar system. Just as initiation and liberation are marked in this solar system by the blending of the fires of the body, of the mind and of the Spirit, so in an earlier cycle attainment was marked by the blending of the latent fires of matter with the radiatory or active fires, and then their union with the fires of mind. In the earlier period the effects in manifestation of the divine Flame were so remote and deeply hidden as to be scarcely recognizable, though dimly there. Its correspondence can be seen in the animal kingdom, in which instinct holds the intuition in latency, [58] and the Spirit dimly over-shadows. Yet all is part of a divine whole.

Chủ đề về sự pha trộn của hai ngọn lửa này, hoàn chỉnh ở một người bình thường và khỏe mạnh, nên thu hút sự chú ý của bác sĩ hiện đại. Y sẽ quan tâm đến việc loại bỏ sự tắc nghẽn thần kinh hoặc tắc nghẽn vật chất, để lại một kênh tự do cho sự ấm áp bên trong. Sự pha trộn này, hiện là một sự phát triển tự nhiên và thông thường ở mỗi con người, là một trong những dấu hiệu của sự thành tựu hoặc điểm đạo trong một hệ mặt trời trước đó. Cũng giống như điểm đạo và giải thoát được đánh dấu trong hệ mặt trời này bằng sự pha trộn của ngọn lửa của cơ thể, của trí tuệ và của Tinh Thần, thì trong một chu kỳ trước đó, sự thành tựu được đánh dấu bằng sự pha trộn của ngọn lửa tiềm ẩn của vật chất với ngọn lửa bức xạ hoặc hoạt động, và sau đó là sự hợp nhất của chúng với ngọn lửa của trí tuệ. Trong giai đoạn trước đó, các hiệu ứng biểu hiện của Ngọn Lửa Thiêng Liêng rất xa xôi và ẩn sâu đến mức khó có thể nhận ra, mặc dù mờ mịt ở đó. Sự tương ứng của nó có thể được nhìn thấy trong giới động vật, trong đó bản năng giữ trực giác ở trạng thái tiềm ẩn, [58] và Tinh Thần mờ mịt phủ bóng. Tuy nhiên, tất cả đều là một phần của một tổng thể thiêng liêng.

The subject of the radiatory heat of the macrocosmic and microcosmic systems will be dealt with in detail in a later subdivision. Here we will only deal with the latent interior fire of the

Chủ đề về nhiệt bức xạ của hệ thống đại thiên địa và tiểu thiên địa sẽ được đề cập chi tiết trong một phân khu sau. Ở đây chúng ta sẽ chỉ đề cập đến lửa nội tại tiềm ẩn của

a. Sun.

a. Mặt trời.

a. Planet.

a. Hành tinh.

a. Man.

a. Con người.

a. Atom.

a. Nguyên tử.

We must remember that in both the astral and the mental sheaths there exist the counterparts of the centers as found in the physical body. These centers concern matter and its evolution. One fundamental statement can be laid down anent the internal fires of all these four (sun, planet, man, and atom):

Chúng ta phải nhớ rằng trong cả vỏ bọc cảm dục và trí tuệ đều tồn tại các đối tác của các trung tâm được tìm thấy trong cơ thể vật lý. Các trung tâm này liên quan đến vật chất và sự tiến hóa của nó. Một tuyên bố cơ bản có thể được đặt ra về ngọn lửa nội tại của cả bốn (mặt trời, hành tinh, con người và nguyên tử):

There exists in the Sun, in the planet, in man, and in the atom, a central point of heat, or (if I might use so limiting and inappropriate a term) a central cavern of fire, or nucleus of heat, and this central nucleus reaches the bounds of its sphere of influence, its ring-pass-not by means of a threefold channel.17

Tồn tại trong Mặt trời, trong hành tinh, trong con người và trong nguyên tử, một điểm nhiệt trung tâm, hoặc (nếu tôi có thể sử dụng một thuật ngữ hạn chế và không phù hợp như vậy) một hang lửa trung tâm, hoặc hạt nhân nhiệt, và hạt nhân trung tâm này đạt đến ranh giới của phạm vi ảnh hưởng của nó, vòng-giới-hạn của nó bằng một kênh tam phân.17

17 “The divine essence that, pervading the entire universe of millions of solar systems, is caught up by our sun and passed out in a manifested form to the utmost boundaries of our solar system, so that this manifested essence may be the basic soil of the growth, preservation and destruction of our worlds, that divine essence is simple Nadam of our yogic philosophy and that Nadam or OM subsequently manifests itself as seven streams. The unmanifested is manifested by or borne by the subsequent ramifications. These streams are the seven vowels or seven notes. These seven vowels and notes must have special correlations with the seven vedic metres, since in the Vishnu Purana, Parasara describes the vedic metres as the coursers of the solar essence.”—Some Thoughts on the Gita, p. 74.

17 “Bản chất thiêng liêng thấm nhuần toàn bộ vũ trụ gồm hàng triệu hệ mặt trời, được mặt trời của chúng ta nắm bắt và truyền ra dưới dạng biểu hiện đến ranh giới tột cùng của hệ mặt trời của chúng ta, để bản chất biểu hiện này có thể là nền tảng cơ bản cho sự tăng trưởng, bảo tồn và hủy diệt của thế giới chúng ta, bản chất thiêng liêng đó là Nadam đơn giản của triết lý yoga của chúng ta và Nadam hoặc OM đó sau đó tự biểu hiện thành bảy dòng. Cái không biểu hiện được biểu hiện bởi hoặc được mang bởi các nhánh tiếp theo. Các dòng này là bảy nguyên âm hoặc bảy nốt. Bảy nguyên âm và nốt này phải có mối tương quan đặc biệt với bảy mét Vệ Đà, vì trong Vishnu Purana, Parasara mô tả các mét Vệ Đà là những người chạy đua của bản chất mặt trời.”—Một số suy nghĩ về Gita, trang 74.

a. The Sun. Within the sun, right at its very heart, is a sea of fire or heat, but not a sea of flame. Herein may lie a distinction that perhaps will convey no meaning to some. It is the center of the sphere, and the point of fiercest internal burning, but has little relation to the flames or burning gases (whatever terms you care [59] to use) that are generally understood to exist whenever the sun is considered. It is the point of fiercest incandescence, and the objective sphere of fire is but the manifestation of that internal combustion. This central heat radiates its warmth to all parts of the system by means of a triple channel, or through its “Rays of Approach” which in their totality express to us the idea of “the heat of the sun.”

a. Mặt Trời. Bên trong mặt trời, ngay tại tâm của nó, là một biển lửa hoặc nhiệt, nhưng không phải là một biển ngọn lửa. Ở đây có thể có một sự khác biệt mà có lẽ sẽ không truyền đạt ý nghĩa gì cho một số người. Đó là trung tâm của quả cầu, và là điểm đốt cháy bên trong dữ dội nhất, nhưng ít liên quan đến ngọn lửa hoặc khí đốt (bất kỳ thuật ngữ nào bạn muốn sử dụng) thường được hiểu là tồn tại bất cứ khi nào mặt trời được xem xét. Đó là điểm phát sáng dữ dội nhất, và quả cầu lửa khách quan chỉ là sự biểu hiện của sự đốt cháy bên trong đó. Nhiệt trung tâm này tỏa nhiệt đến tất cả các bộ phận của hệ thống bằng một kênh tam phân, hoặc thông qua “Các Tia Tiếp Cận” của nó, mà tổng thể của chúng thể hiện cho chúng ta ý tưởng về “nhiệt của mặt trời”.

1. The akasha, itself vitalized matter, or substance animated by latent heat.

1. Akasha, bản thân nó là vật chất được sinh động, hoặc chất liệu được sinh động bởi nhiệt tiềm ẩn.

1. Electricity, substance of one polarity, and energized by one of the three aspects logoic. To express it more occultly, substance showing forth, the quality of the cosmic Lord Whose energy it is.

2. Điện, chất liệu của một cực tính, và được tiếp năng lượng bởi một trong ba khía cạnh Thượng đế. Để diễn đạt nó một cách huyền bí hơn, chất liệu thể hiện, phẩm tính của Chúa Tể vũ trụ mà năng lượng của Ngài là.

1. Light Rays of pranic aspect, some of which are being now recognized by the modern scientist. They are but aspects of the latent heat of the sun as it approaches the Earth by a particular line of least resistance.

3. Các Tia của khía cạnh prana, một số trong đó đang được nhà khoa học hiện đại nhận ra. Chúng chỉ là các khía cạnh của nhiệt tiềm ẩn của mặt trời khi nó tiếp cận Trái Đất theo một đường ít trở ngại nhất cụ thể.

When the term “channel or ray of approach” is used, it means approach from the center of solar radiation to the periphery. What is encountered during that approach—such as planetary bodies, for instance—will be affected by the akashic current, the electrical current, or the pranic current in some way, but all of these currents are only the internal fires of the system when viewed from some other point in universal, though not solar, space. It is, therefore, obvious that this matter of fire is as complex as that of the rays. The internal fires of the solar system become external and radiatory when considered from the standpoint of a planet, while the internal fires of the planet will affect a human being as radiation in exactly the same way as the pranic emanations of his etheric body affect another physical body as radiatory. The point to be grasped in all these [60] aspects is that one and all have to do with matter or substance, and not with mind or Spirit.

Khi thuật ngữ “kênh hoặc tia tiếp cận” được sử dụng, nó có nghĩa là tiếp cận từ trung tâm bức xạ mặt trời đến chu vi. Những gì gặp phải trong quá trình tiếp cận đó—chẳng hạn như các thiên thể hành tinh—sẽ bị ảnh hưởng bởi dòng akasha, dòng điện hoặc dòng prana theo một cách nào đó, nhưng tất cả các dòng này chỉ là ngọn lửa nội tại của hệ thống khi được nhìn từ một điểm khác trong không gian vũ trụ, mặc dù không phải là không gian mặt trời. Do đó, rõ ràng là vấn đề lửa này phức tạp như vấn đề các tia. Ngọn lửa nội tại của hệ mặt trời trở thành bên ngoài và bức xạ khi được xem xét từ quan điểm của một hành tinh, trong khi ngọn lửa nội tại của hành tinh sẽ ảnh hưởng đến một con người như bức xạ theo cách chính xác như sự phát ra prana của cơ thể dĩ thái của y ảnh hưởng đến một cơ thể vật lý khác như bức xạ. Điểm cần nắm bắt trong tất cả các khía cạnh này là tất cả đều liên quan đến vật chất hoặc chất liệu, chứ không phải trí tuệ hoặc Tinh Thần.

b. The Planet. Deep in the heart of the planet—such a planet as the Earth, for instance—are the internal fires that occupy the central sphere, or the caverns which—filled with incandescent burning—make life upon the globe possible at all. The internal fires of the moon are practically burnt out, and, therefore, she does not shine save through reflection, having no inner fire to blend and merge with light external. These inner fires of the earth can be seen functioning, as in the sun, through three main channels:

b. Hành Tinh. Sâu trong lòng hành tinh—chẳng hạn như Trái Đất—là ngọn lửa nội tại chiếm giữ quả cầu trung tâm, hoặc các hang động—được lấp đầy bởi sự đốt cháy phát sáng—làm cho sự sống trên quả cầu có thể xảy ra. Ngọn lửa nội tại của mặt trăng gần như đã bị đốt cháy hết, và do đó, nó không tỏa sáng ngoại trừ thông qua sự phản xạ, không có ngọn lửa bên trong để pha trộn và hợp nhất với ánh sáng bên ngoài. Những ngọn lửa bên trong của trái đất này có thể được nhìn thấy hoạt động, như trong mặt trời, thông qua ba kênh chính:

1. Productive substance, or the matter of the planet vitalized by heat. This heat and matter together act as the mother of all that germinates, and as the protector of all that dwells therein and thereon. This corresponds to the akasha, the active vitalized matter of the solar system, that nourishes all as does a mother.

1. Chất liệu sản xuất, hoặc vật chất của hành tinh được sinh động bởi nhiệt. Nhiệt và vật chất này cùng nhau hoạt động như người mẹ của tất cả những gì nảy mầm, và là người bảo vệ của tất cả những gì cư ngụ trong đó và trên đó. Điều này tương ứng với akasha, vật chất được sinh động hoạt động của hệ mặt trời, nuôi dưỡng tất cả như một người mẹ.

1. Electrical fluid, a fluid which is latent in the planet though as yet but little recognized. It is perhaps better expressed by the term “animal magnetism.” It is the distinctive quality of the atmosphere of a planet, or its electrical ring-pass-not. It is the opposite pole to the solar electrical fluid, and the contact of the two and their correct manipulation is the aim—perhaps unrealized—of all scientific endeavor at this time.

2. Chất lỏng điện, một chất lỏng tiềm ẩn trong hành tinh mặc dù cho đến nay vẫn ít được nhận biết. Nó có lẽ được diễn đạt tốt hơn bằng thuật ngữ “từ tính động vật”. Đó là phẩm tính đặc biệt của bầu khí quyển của một hành tinh, hoặc vòng-giới-hạn điện của nó. Đó là cực đối lập với chất lỏng điện mặt trời, và sự tiếp xúc của cả hai và sự thao túng chính xác của chúng là mục tiêu—có lẽ không được nhận ra—của mọi nỗ lực khoa học vào thời điểm này.

1. That emanation of the planet which we might term Planetary Prana. It is that which is referred to when one speaks of the health-giving qualities of Mother Nature, and which is back of the cry of the modern physician, when he wisely says “Back to the Earth.” It is the fluidic emanation of this prana which acts upon the physical body, though in this case not via the etheric body. It is [61] absorbed through the skin purely and the pores are its line of least resistance.

3. Sự phát ra của hành tinh mà chúng ta có thể gọi là Prana Hành Tinh. Đó là những gì được đề cập đến khi người ta nói về phẩm tính mang lại sức khỏe của Mẹ Thiên Nhiên, và là nền tảng của tiếng kêu của bác sĩ hiện đại, khi y nói một cách khôn ngoan “Trở về với Đất Mẹ”. Đó là sự phát ra dạng lỏng của prana này tác động lên cơ thể vật lý, mặc dù trong trường hợp này không thông qua cơ thể dĩ thái. Nó được hấp thụ qua da thuần túy và các lỗ chân lông là đường ít trở ngại nhất của nó.

c. The Man. At the base of the spine lie hid the fires of the human system, or the internal fires of the Microcosm. The center is located there, and from it the radiations go forth along the three channels, recognizable in the spine.

c. Con Người. Ở đáy cột sống ẩn giấu ngọn lửa của hệ thống con người, hoặc ngọn lửa nội tại của Tiểu thiên địa. Trung tâm nằm ở đó, và từ đó các bức xạ phát ra dọc theo ba kênh, có thể nhận ra trong cột sống.

1. Bodily warmth, the channel along which the heat radiates and which finds the goal of its attention to be the heating of the corporeal frame. This vitalization of the dense matter of the body finds its correspondence in the systemic akasha, and in planetary productive substance.

1. Sự ấm áp của cơ thể, kênh mà nhiệt bức xạ dọc theo và tìm thấy mục tiêu chú ý của nó là làm nóng khung cơ thể. Sự sinh động của vật chất trọng trược của cơ thể này tìm thấy sự tương ứng của nó trong akasha hệ thống, và trong chất liệu sản xuất hành tinh.

2. Nervous response. This is the vitalizing tenuous fluid which applies itself to the stimulation of the nervous centers, and which creates electrical response to contact between the nerves and the brain. It should now be more closely studied. It corresponds to systemic electricity, and to planetary electricity.

2. Phản ứng thần kinh. Đây là chất lỏng mỏng manh sinh động áp dụng chính nó để kích thích các trung tâm thần kinh, và tạo ra phản ứng điện với sự tiếp xúc giữa các dây thần kinh và não. Bây giờ nó nên được nghiên cứu kỹ hơn. Nó tương ứng với điện hệ thống, và điện hành tinh.

3. Pranic emanation. The emanation, via the etheric body, which corresponds in man to solar prana and to planetary prana. This demonstrates principally in the health aura and has naught to do with magnetic qualities, as generally interpreted when considering a personality, or man as a unit. I make this repetition as it is very necessary that no mental confusion exists between that magnetism which is a spiritual emanation and that which is purely animal.

3. Sự phát ra prana. Sự phát ra, thông qua cơ thể dĩ thái, tương ứng ở con người với prana mặt trời và prana hành tinh. Điều này thể hiện chủ yếu trong hào quang sức khỏe và không liên quan gì đến các phẩm tính từ tính, như thường được giải thích khi xem xét một phàm ngã, hoặc con người như một đơn vị. Tôi lặp lại điều này vì rất cần thiết để không có sự nhầm lẫn trí tuệ nào tồn tại giữa từ tính đó là sự phát ra tinh thần và từ tính thuần túy là động vật.

It might be wise here to point out that this triple manifestation of fire demonstrates in the astral and mental bodies likewise, having to do with the substance of those bodies. We might express this fire in its triple manifestation as the sumtotal of the essential fire, or life activity of the third Logos. It should be carefully borne [62] in mind that the manifestation of the work of the three Logoi is the expression of the mind of some cosmic Entity. In the same way, the seven planetary Entities, the seven Heavenly Men, are seven Logoi (likewise cosmic Beings) Who in Their totality form the Body of the threefold Logos. We have, therefore:

Có thể khôn ngoan ở đây để chỉ ra rằng sự biểu hiện tam phân này của lửa cũng thể hiện trong cơ thể cảm dục và trí tuệ, liên quan đến chất liệu của những cơ thể đó. Chúng ta có thể diễn đạt ngọn lửa này trong sự biểu hiện tam phân của nó như là tổng số của ngọn lửa bản chất, hoặc hoạt động sinh mệnh của Thượng đế Ngôi Ba. Cần cẩn thận ghi nhớ [62] rằng sự biểu hiện của công việc của ba Thượng đế là sự biểu hiện của trí tuệ của một Thực thể vũ trụ nào đó. Theo cách tương tự, bảy Thực thể hành tinh, bảy Đấng Thiên Nhân, là bảy Thượng đế (cũng là các Bản Thể vũ trụ) mà tổng thể của Họ tạo thành Thân Thể của Thượng đế tam phân. Do đó, chúng ta có:

1. The undifferentiated Logos—a cosmic Entity.

1. Thượng đế không biến phân—một Thực thể vũ trụ.

2. The Logos, threefold in manifestation:

2. Thượng đế, tam phân trong sự biểu hiện:

a. The cosmic Lord of Will Power.

a. Chúa Tể vũ trụ của Ý Chí Quyền Lực.

b. The cosmic Lord of Love and Wisdom.

b. Chúa Tể vũ trụ của Tình Thương và Minh Triết.

c. The cosmic Lord of Active Intelligence.

c. Chúa Tể vũ trụ của Trí Tuệ Tích Cực.

3. The triple Logos, sevenfold in manifestation., i.e. The seven planetary Logoi. 18, 19, 20 [63]

3. Thượng đế tam phân, thất phân trong sự biểu hiện., tức là. Bảy Thượng đế hành tinh. 18, 19, 20 [63]

Each of there cosmic Entities is, in His essential essence, Fire; each manifests as fire in a threefold manner. In point of time the cosmic Lord of active Intelligence, considered from the standpoint of cosmic evolution, is more evolved than His two Brothers. He is the life of matter, its latent internal Fire. His is the fire essence that lies at the heart of the Sun, of the planet, and of man’s material forms. He is the sumtotal of the Past.

Mỗi Thực thể vũ trụ này, trong bản chất thiết yếu của Ngài, là Lửa; mỗi Ngài biểu hiện như lửa theo cách tam phân. Theo quan điểm thời gian, Chúa Tể vũ trụ của Trí Tuệ tích cực, được xem xét từ quan điểm của sự tiến hóa vũ trụ, tiến hóa hơn hai Huynh Đệ của Ngài. Ngài là sinh mệnh của vật chất, Lửa nội tại tiềm ẩn của nó. Của Ngài là bản chất lửa nằm trong lòng Mặt Trời, hành tinh và các hình tướng vật chất của con người. Ngài là tổng số của Quá Khứ.

The Lord of Cosmic Love now seeks union with His Brother, and, in point of time, embodies all the Present. He is the sumtotal of all that is embodied; He is conscious Existence. He is the Son divine and His life and nature evolve through every existent form. The Lord of Cosmic Will holds hid the future within His plans and consciousness. They are all three the Sons of one Father, all three the aspects of the One God, all three are Spirit, all three are Soul, and all three are Rays emanating from one cosmic center. All three are substance, but in the past one Lord was the elder Son, in the present another Lord comes to the fore, and in the future still another. But this is so only in Time. From the standpoint of the Eternal Now, none is greater nor less than another, for the last shall be first, and the first last. Out of manifestation time is not, and freed from objectivity states of consciousness are not.

Chúa Tể của Tình Thương Vũ Trụ hiện đang tìm kiếm sự hợp nhất với Huynh Đệ của Ngài, và, theo quan điểm thời gian, thể hiện tất cả Hiện Tại. Ngài là tổng số của tất cả những gì được thể hiện; Ngài là Sự Tồn Tại có tâm thức. Ngài là Con Thiêng Liêng và sinh mệnh và bản chất của Ngài tiến hóa qua mọi hình tướng tồn tại. Chúa Tể của Ý Chí Vũ Trụ giữ ẩn tương lai trong các kế hoạch và tâm thức của Ngài. Cả ba Ngài đều là Con của một Cha, cả ba Ngài đều là các khía cạnh của một Thượng đế Duy nhất, cả ba Ngài đều là Tinh Thần, cả ba Ngài đều là Linh Hồn, và cả ba Ngài đều là các Tia phát ra từ một trung tâm vũ trụ. Cả ba Ngài đều là chất liệu, nhưng trong quá khứ một Chúa Tể là Con cả, trong hiện tại một Chúa Tể khác xuất hiện, và trong tương lai một Chúa Tể khác nữa. Nhưng điều này chỉ đúng trong Thời Gian. Từ quan điểm của Hiện Tại Vĩnh Cửu, không ai lớn hơn hay nhỏ hơn người khác, vì người cuối cùng sẽ là người đầu tiên, và người đầu tiên là người cuối cùng. Ngoài sự biểu hiện, thời gian không tồn tại, và được giải thoát khỏi tính khách quan, các trạng thái tâm thức không tồn tại.

18 T. Subba Rao says on page 20 of Esoteric Writings: As a general rule, whenever seven entities are mentioned in the ancient occult science of India in any connection whatsoever, you must suppose that those seven entities came into existence from three primary entities and that these three entities again are evolved out of a single entity or monad. To take a familiar example, the seven colored rays in the solar ray are evolved out of three primary colored rays; and the three primary colors coexist with the four secondary colors in the solar ray. Similarly the three primary entities which brought man into existence coexist in him with the four secondary entities which arose from different combinations of the three primary entities.”

18 T. Subba Rao nói ở trang 20 của Esoteric Writings: Theo quy luật chung, bất cứ khi nào bảy thực thể được đề cập trong khoa học huyền bí cổ đại của Ấn Độ trong bất kỳ mối liên hệ nào, bạn phải giả định rằng bảy thực thể đó xuất hiện từ ba thực thể chính và ba thực thể này lại được tiến hóa từ một thực thể duy nhất hoặc chân thần. Lấy một ví dụ quen thuộc, bảy tia màu trong tia mặt trời được tiến hóa từ ba tia màu chính; và ba màu chính cùng tồn tại với bốn màu phụ trong tia mặt trời. Tương tự, ba thực thể chính đã mang con người vào sự tồn tại cùng tồn tại trong y với bốn thực thể phụ phát sinh từ các tổ hợp khác nhau của ba thực thể chính.”

In Christian terminology these are the three Persons of the Trinity, and the seven Spirits which are before the Throne. Compare “Our God is a consuming fire.” Heb:12.29.

Theo thuật ngữ Kitô giáo, đây là ba Ngôi của Chúa Ba Ngôi, và bảy Tinh Thần trước Ngai vàng. So sánh “Vì Đức Chúa Trời chúng ta là đám lửa hay thiêu đốt.” Do Thái: 12.29.

19 “I have already said in speaking of this Logos, that it was quite possible that it was the Logos that appeared in the shape of the first Dhyan Chohan, or planetary Spirit, when the evolution of man was recommenced after the last period of inactivity on this planet, as stated in Mr. Sinnett’s book, Esoteric Buddhism, and after having set the evolutionary current in motion, retired to the spiritual plane congenial to its own nature, and has been watching since over the interests of humanity, and now and then appearing in connection with a human individuality for the good of mankind. Or you may look upon the Logos represented by Krishna as one belonging to the same class as the Logos which so appeared. In speaking of himself Krishna says, (chap. x, verse 6):

19 “Tôi đã nói khi nói về Thượng đế này, rằng rất có thể đó là Thượng đế xuất hiện dưới hình dạng Dhyan Chohan đầu tiên, hoặc Tinh Thần hành tinh, khi sự tiến hóa của con người được bắt đầu lại sau giai đoạn không hoạt động cuối cùng trên hành tinh này, như đã nêu trong cuốn sách của ông Sinnett, Phật Giáo Huyền Bí, và sau khi đã thiết lập dòng chảy tiến hóa, đã rút lui về cõi tinh thần phù hợp với bản chất của chính nó, và đã theo dõi kể từ đó về lợi ích của nhân loại, và thỉnh thoảng xuất hiện liên quan đến một cá nhân con người vì lợi ích của nhân loại. Hoặc bạn có thể coi Thượng đế được đại diện bởi Krishna là một người thuộc cùng đẳng cấp với Thượng đế đã xuất hiện như vậy. Khi nói về chính mình, Krishna nói, (chương x, câu 6):

“The seven great Rishis, the four preceding Manus, partaking of my nature were born from my mind: from them sprang, was (born) the human race and the world.”

“Bảy Rishis vĩ đại, bốn Manus trước đây, mang bản chất của ta, được sinh ra từ trí tuệ của ta: từ họ nảy sinh, (được sinh ra) loài người và thế giới.”

He speaks of the sapta Rishis and of the Manus as his manasaputras, or mind-born sons, which they would be if he was the so-called Prajapati, who appeared on this planet and commenced the work of evolution.”—The Theosophist, Vol. VIII, p. 443.

Ngài nói về sapta Rishis và Manus như là manasaputras của ngài, hoặc những người con sinh ra từ trí tuệ, họ sẽ là như vậy nếu ngài là cái gọi là Prajapati, người đã xuất hiện trên hành tinh này và bắt đầu công việc tiến hóa.”—The Theosophist, Quyển VIII, tr. 443.

20 The following tabulation should be borne in mind:

20 Bảng sau đây cần được ghi nhớ:

– Seven branch races make one subrace

– Bảy giống dân nhánh tạo thành một giống dân phụ

– Seven subraces make one root-race

– Bảy giống dân phụ tạo thành một giống dân gốc

– Seven root-races make one world period

– Bảy giống dân gốc tạo thành một giai đoạn thế giới

– Seven world periods make one round

– Bảy giai đoạn thế giới tạo thành một cuộc tuần hoàn

– Seven rounds make one chain period

– Bảy cuộc tuần hoàn tạo thành một giai đoạn dãy hành tinh

– Seven chain periods make one planetary scheme

– Bảy giai đoạn dãy hành tinh tạo thành một hệ hành tinh

– Ten planetary schemes make one solar system

– Mười hệ hành tinh tạo thành một hệ mặt trời

The fire of Spirit is the essential fire of the first Lord of Will plus the fire of the second Logos of Love. These two cosmic Entities blend, merge, and demonstrate as Soul, utilizing for purposes of manifestation the aid of the third Logos. The three fires blend and merge. In this fourth round and on this fourth globe of our planetary scheme, the fires of the third Logos of intelligent matter are fusing somewhat with the fires of cosmic [64] mind, showing as will or power, and animating the Thinker on all planes. The object of Their cooperation is the perfected manifestation of the cosmic Lord of Love. This should be pondered upon for it reveals a mystery.

Lửa của Tinh Thần là lửa bản chất của Chúa Tể Ý Chí thứ nhất cộng với lửa của Thượng đế Tình Thương thứ hai. Hai Thực thể vũ trụ này pha trộn, hợp nhất và thể hiện như Linh Hồn, sử dụng sự trợ giúp của Thượng đế thứ ba cho mục đích biểu hiện. Ba ngọn lửa pha trộn và hợp nhất. Trong cuộc tuần hoàn thứ tư này và trên quả cầu thứ tư này của hệ hành tinh của chúng ta, ngọn lửa của Thượng đế thứ ba của vật chất thông minh đang hợp nhất phần nào với ngọn lửa của trí tuệ vũ trụ [64], thể hiện như ý chí hoặc quyền lực, và sinh động Nhà Tư Tưởng trên tất cả các cõi. Mục đích hợp tác của Họ là sự biểu hiện hoàn thiện của Chúa Tể Tình Thương vũ trụ. Điều này nên được suy ngẫm vì nó tiết lộ một bí ẩn.

The blending of the three fires, the merging of the three Rays, and the cooperation of the three Logoi have in view (at this time and within this solar system) the development of the Essence of the cosmic Lord of Love, the second Person in the logoic trinity. Earlier it was not so, later it will not be, but now it is. When viewed from the cosmic mental plane these Three constitute the PERSONALITY OF THE LOGOS, and are seen functioning as one. Hence the secret (well recognized as fact, though not understood) of the excessive heat, occultly expressed, of the astral or central body of the triple personality. It animates and controls the physical body, and its desires hold sway in the majority of cases; it demonstrates in time and space the correspondence of the temporary union of spirit and matter, the fires of cosmic love and the fires of matter blended. A similar analogy is found in the heat apparent in this second solar system.

Sự pha trộn của ba ngọn lửa, sự hợp nhất của ba Tia, và sự hợp tác của ba Thượng đế có trong tầm nhìn (vào thời điểm này và trong hệ mặt trời này) sự phát triển của Bản Chất của Chúa Tể Tình Thương vũ trụ, Ngôi Thứ Hai trong chúa ba ngôi Thượng đế. Trước đó không phải vậy, sau này sẽ không phải vậy, nhưng bây giờ là vậy. Khi được nhìn từ cõi trí vũ trụ, Ba Ngài này tạo thành PHÀM NGÃ CỦA THƯỢNG ĐẾ, và được thấy hoạt động như một. Do đó, bí mật (được công nhận là sự thật, mặc dù không được hiểu) về nhiệt độ quá cao, được diễn đạt một cách huyền bí, của cơ thể cảm dục hoặc trung tâm của phàm ngã tam phân. Nó sinh động và kiểm soát cơ thể vật lý, và những ham muốn của nó nắm giữ quyền lực trong phần lớn các trường hợp; nó thể hiện trong thời gian và không gian sự tương ứng của sự hợp nhất tạm thời của tinh thần và vật chất, ngọn lửa của tình thương vũ trụ và ngọn lửa của vật chất pha trộn. Một sự tương tự tương tự được tìm thấy trong nhiệt độ rõ ràng trong hệ mặt trời thứ hai này.

d. The Atom. The inner fires of the atom can likewise be seen functioning along similar lines, their demonstration being already somewhat recognized by science. This being so there exists no necessity for further elaboration. 21 [65]

d. Nguyên tử. Ngọn lửa bên trong của nguyên tử cũng có thể được nhìn thấy hoạt động theo các đường tương tự, sự thể hiện của chúng đã được khoa học nhận ra phần nào. Vì vậy, không cần thiết phải giải thích thêm. 21 [65]

21 “It should be remembered that the mere scale does not matter, for greatness and smallness are essentially relative. The destiny of each atom is to create a brahmanda. Brahmandas like or smaller or larger than ours, held together by a sun, are present in every atom. Vishvas, great world-systems, exist in an atom, and atoms again exist in these vishvas. This is the significance of ‘many from one’; wherever we see the one we should recognize the many also, and conversely. After securing the ability of, and then actually, creating a brahmanda, the next step is the creation of a jagat, then a vishva, then a mahavishva and so on, till the status of mahavishnu is reached.”

21 “Cần nhớ rằng quy mô đơn thuần không quan trọng, vì sự vĩ đại và nhỏ bé về bản chất là tương đối. Định mệnh của mỗi nguyên tử là tạo ra một brahmanda. Brahmanda giống hoặc nhỏ hơn hoặc lớn hơn của chúng ta, được giữ lại với nhau bởi một mặt trời, có mặt trong mỗi nguyên tử. Vishvas, các hệ thống thế giới vĩ đại, tồn tại trong một nguyên tử, và các nguyên tử lại tồn tại trong những vishvas này. Đây là ý nghĩa của ‘nhiều từ một’; bất cứ nơi nào chúng ta thấy một, chúng ta cũng nên nhận ra nhiều, và ngược lại. Sau khi có được khả năng, và sau đó thực sự, tạo ra một brahmanda, bước tiếp theo là tạo ra một jagat, sau đó là một vishva, sau đó là một mahavishva, v.v., cho đến khi đạt được trạng thái mahavishnu

– Bhagavan Das in the Pranava Vada, p. 94.

—Bhagavan Das trong Pranava Vada, tr. 94.

II. Fire Elementals and Devas

We might now briefly consider the subject of the fire elementals and devas, and then deal with the relation of the Personality Ray to this internal fire of the system in its threefold manifestation.

Bây giời chúng ta có thể xem xét vắn tắt chủ đề về các hành khí của lửa và các thiên thần, sau đó đề cập đến mối quan hệ của Cung Phàm Ngã với ngọn lửa nội tại của hệ thống này trong sự biểu hiện tam phân của nó.

Certain facts are known in connection with the fire spirits (if so they may be termed). The fundamental fact that should here be emphasized is that AGNI, the Lord of Fire, rules over all the fire elementals and devas on the three planes of human evolution, the physical, the astral, and the mental, and rules over them not only on this planet, called the Earth, but on the three planes in all parts of the system. He is one of the seven Brothers (to use an expression familiar to students of the Secret Doctrine) Who each embody one of the seven principles, or Who are in Themselves the seven centers in the body of the cosmic Lord of Fire, called by H. P. B. “Fohat.” He is that active fiery Intelligence, Who is the basis of the internal fires of the solar system. On each plane one of these Brothers holds sway, and the three elder Brothers (for always the three will be seen, and later the seven, who eventually merge into the primary three) rule on the first, third and the fifth planes, or on the plane of adi, of atma 22 and of manas. It is urgent that we here remember that They are fire viewed [66] in its third aspect, the fire of matter. In Their totality these seven Lords form the essence of the cosmic Lord, called in the occult books, Fohat. 23

Một số sự kiện nhất định được biết đến liên quan đến các tinh linh lửa (nếu có thể gọi như vậy). Sự kiện cơ bản cần được nhấn mạnh ở đây là AGNI, Chúa Tể của Lửa, cai quản tất cả các hành khí và thiên thần của lửa trên ba cõi giới tiến hóa của con người, cõi trần, cõi cảm dục và cõi trí, và cai quản chúng không chỉ trên hành tinh này, được gọi là Trái Đất, mà còn trên ba cõi giới trong tất cả các phần của hệ thống. Ngài là một trong bảy Huynh Đệ (sử dụng một cách diễn đạt quen thuộc với các học viên của Giáo Lý Bí Nhiệm) mà mỗi vị thể hiện một trong bảy nguyên khí, hoặc chính Họ là bảy trung tâm trong thân thể của Chúa Tể Vũ Trụ của Lửa, được H.P.B. gọi là “Fohat”. Ngài là Trí Tuệ lửa hoạt động đó, là nền tảng của ngọn lửa nội tại của hệ mặt trời. Trên mỗi cõi giới, một trong những Huynh Đệ này nắm quyền, và ba Huynh Đệ lớn tuổi hơn (vì luôn luôn ba vị sẽ được nhìn thấy, và sau đó là bảy vị, những vị cuối cùng hợp nhất vào ba vị chính) cai quản trên các cõi giới thứ nhất, thứ ba và thứ năm, hoặc trên cõi adi, cõi atma và cõi manas. Điều cấp thiết là chúng ta ở đây ghi nhớ rằng Họ là lửa được xem xét trong khía cạnh thứ ba của nó, lửa của vật chất. Trong tổng thể của Họ, bảy Chúa Tể này tạo thành tinh chất của Chúa Tể vũ trụ, được gọi trong các sách huyền bí, Fohat.

This is so in the same sense as the seven Chohans, 24 with Their affiliated groups of pupils, form the essence or centers in the body of one of the Heavenly Men, one of the planetary Logoi. These seven again in Their turn form the essence of the Logos.

Điều này cũng giống như bảy Chân sư, với các nhóm đệ tử liên kết của Họ, tạo thành tinh chất hoặc các trung tâm trong thân thể của một trong những Đấng Thiên Nhân, một trong các Hành Tinh Thượng đế. Bảy vị này lần lượt tạo thành tinh chất của Thượng đế.

Each of the seven Lords of Fire 25 are differentiated into numerous groups of fire entities, from the Deva-Lords of a plane down to the little salamanders of the internal furnaces. We are not dealing with the fiery essences of the higher planes at this stage in our discussion. We will only enumerate somewhat briefly some of the better known groups, as contacted in the three worlds.

Mỗi trong bảy Chúa Tể của Lửa được phân biệt thành nhiều nhóm thực thể lửa, từ các Chúa Tể Thiên Thần của một cõi giới xuống đến các tiểu xà lửa của các lò lửa bên trong. Chúng ta không đề cập đến các tinh chất lửa của các cõi giới cao hơn ở giai đoạn thảo luận này. Chúng ta sẽ chỉ liệt kê một cách vắn tắt một số nhóm được biết đến nhiều hơn, khi tiếp xúc trong ba cõi giới.

1. Physical Plane

1. Cõi Trần

Salamanders, those little fire elementals who can be seen dancing in every flame, tending the fires of the hearth and the home, and of the factory. They are of the same group as the fire spirits who can be contacted deep in the fiery bowels of the planet.

Salamanders, những hành khí lửa nhỏ bé có thể được nhìn thấy nhảy múa trong mọi ngọn lửa, chăm sóc ngọn lửa của lò sưởi và ngôi nhà, và của nhà máy. Chúng thuộc cùng nhóm với các tinh linh lửa có thể được tiếp xúc sâu trong lòng đất lửa của hành tinh.

Fire spirits, latent in all focal points of heat, who are themselves the essence of warmth, and can be contacted [67] in the heat of the bodily frame, whether human or animal, and who are likewise the warmth terrestrial.

Tinh linh lửa, tiềm ẩn trong tất cả các điểm tập trung nhiệt, chính chúng là tinh chất của sự ấm áp, và có thể được tiếp xúc trong nhiệt độ của khung cơ thể, dù là con người hay động vật, và cũng là sự ấm áp trên cõi trần.

The Agnichaitans, a higher grade of fire spirit, who form a vortex of fire when viewed on a large scale, such as in volcanoes and large destructive burnings. They are closely allied to a still more important group of devas, who form the fiery envelope of the sun.

– Các Agnichaitans, một cấp bậc cao hơn của tinh linh lửa, tạo thành một xoáy lửa khi được nhìn thấy trên quy mô lớn, chẳng hạn như trong núi lửa và các vụ cháy phá hoại lớn. Họ liên minh chặt chẽ với một nhóm thiên thần quan trọng hơn, tạo thành lớp vỏ lửa của mặt trời.

The pranic elementals, those minute fiery essences who have the ability to permeate the texture of the human body, of a tree, or of all that may be found in the human, vegetable and animal kingdoms, and who blend with the fires of the microcosmic systems.

– Các hành khí prana, những tinh chất lửa nhỏ bé có khả năng thấm vào kết cấu của cơ thể con người, của một cái cây, hoặc của tất cả những gì có thể được tìm thấy trong giới nhân loại, giới thảo mộc và giới động vật, và hòa trộn với ngọn lửa của các hệ thống tiểu thiên địa.

Certain of the deva kingdom who may be described as ensouling certain of the great light rays, and Who are in Themselves the essence of those rays. Other forms of such elemental lives and of deva groups might be enumerated, but the above tabulation will suffice for our present purpose.

– Một số giới thiên thần có thể được mô tả là phú linh cho một số Tia lớn, và chính Họ là tinh chất của những Tia đó. Các hình thức khác của sự sống hành khí và các nhóm thiên thần như vậy có thể được liệt kê, nhưng bảng liệt kê trên sẽ đủ cho mục đích hiện tại của chúng ta.

2. The Astral Plane

2. Cõi Cảm Dục

The fiery essences of this plane are more difficult for us to comprehend, having not, as yet, the seeing eye upon that plane. They are in themselves the warmth and heat of the emotional body, and of the body of feeling. They are of a low order when upon the path of desire, and of a high order when upon the path of aspiration, for the elemental is then transmuted into the deva.

– Các tinh chất lửa của cõi giới này khó hiểu hơn đối với chúng ta, vì chúng ta chưa có con mắt nhìn thấy trên cõi giới đó. Chính chúng là sự ấm áp và nhiệt độ của thể cảm xúc, và của thể cảm xúc. Chúng thuộc cấp bậc thấp khi trên con đường ham muốn, và thuộc cấp bậc cao khi trên con đường chí nguyện, vì hành khí sau đó được chuyển hóa thành thiên thần.

Their grades and ranks are many, but their names matter not save in one instance. It may be of interest to know the appellation applied to the devas of fire whose part it is to tend the fires that will later destroy the causal body. We need to remember that it is the upspringing of the latent fire of matter and its merging with two other fires that causes destruction. These elementals and devas are called the Agnisuryans, and in [68] their totality are the fiery essences of buddhi, hence their lowest manifestation is on the sixth plane, the astral.

– Cấp bậc và thứ hạng của chúng rất nhiều, nhưng tên của chúng không quan trọng trừ một trường hợp. Có thể thú vị khi biết tên gọi được áp dụng cho các thiên thần của lửa mà vai trò của họ là chăm sóc ngọn lửa sau này sẽ phá hủy thể nguyên nhân. Chúng ta cần nhớ rằng chính sự trỗi dậy của ngọn lửa tiềm ẩn của vật chất và sự hợp nhất của nó với hai ngọn lửa khác gây ra sự hủy diệt. Những hành khí và thiên thần này được gọi là Agnisuryans, và trong tổng thể của chúng là các tinh chất lửa của Bồ đề, do đó sự biểu hiện thấp nhất của chúng là trên cõi giới thứ sáu, cõi cảm dục.

Further information concerning these deva lives will be found further on in the Treatise, where they are dealt with at some length. [69]

Thông tin thêm về những sự sống thiên thần này sẽ được tìm thấy ở phần sau trong Luận về Lửa Vũ Trụ, nơi chúng được đề cập chi tiết hơn.

22 Atma means as you all know the self or the ego or an individualized center of consciousness around which all worldly experiences in their dual aspect of subjective and objective cluster and arrange themselves. It is as it were one of the foci from which emerge rays of light to illumine the cosmic waters and in which also converge the rays sent back by those waters. In Theosophical writings, it is called the self-conscious individuality or the Higher Manas. From this point of view, you will see that the Higher Manas is the most important principle or the central pivot of the human constitution or the true soul. It is the thread which ought to be caught hold of by one who wants to know the truth and lift himself out of this conditioned existence. To this it may be objected that Atma represents the seventh principle of the theosophical septenary and that the Manas is far lower in the scale. But the plain answer is that the seventh principle is the ultimate state attainable by the self after crossing the ocean of conditioned existence or samsara.”

22 Atma có nghĩa là như tất cả các bạn đã biết, bản ngã hoặc chân ngã hoặc một trung tâm tâm thức được biệt ngã hóa mà xung quanh đó tất cả những kinh nghiệm thế gian trong khía cạnh kép chủ quan và khách quan của chúng tụ tập và sắp xếp chính chúng. Nó giống như một trong những tiêu điểm mà từ đó phát ra những Tia để soi sáng vùng nước vũ trụ và trong đó những Tia được những vùng nước đó gửi trả lại cũng hội tụ. Trong các tác phẩm Thông Thiên Học, nó được gọi là cá tính tự ý thức hoặc Thượng Trí. Từ quan điểm này, bạn sẽ thấy rằng Thượng Trí là nguyên khí quan trọng nhất hoặc trục trung tâm của cấu trúc con người hoặc linh hồn chân chính. Đó là sợi chỉ mà người muốn biết sự thật và nâng mình ra khỏi sự tồn tại có điều kiện này phải nắm lấy. Có thể có ý kiến phản đối rằng Atma đại diện cho nguyên khí thứ bảy của thất phân Thông Thiên Học và rằng Manas thấp hơn nhiều trong thang độ. Nhưng câu trả lời rõ ràng là nguyên khí thứ bảy là trạng thái tối hậu mà bản ngã có thể đạt được sau khi vượt qua biển tồn tại có điều kiện hoặc luân hồi.”

Some Thoughts on the Gita, p. 26.

-Một số suy nghĩ về Gita, tr. 26.

23 Fohat, or electricity, is an Entity.

23 Fohat, hoặc điện, là một Thực Thể.

– He is the primordial electric Entity S. D., 1, 105.

· Ngài là Thực Thể điện nguyên thủy S. D., 1, 105.

– He is Will S. D., 1, 136.

· Ngài là Ý Chí S. D., 1, 136.

– He is Love-Wisdom S. D, 1, 100, 144, 155.

· Ngài là Bác Ái-Minh Triết S. D, 1, 100, 144, 155.

– He is Active Intelligence S. D., 1, 136.

· Ngài là Trí Tuệ Tích Cực S. D., 1, 136.

– Therefore He is God S. D., 1, 167.

· Do đó Ngài là Thượng đế S. D., 1, 167.

– He is the sumtotal of the energy of the seven Spirits, Who are the sumtotal of the Logos. S. D., 1, 169.

· Ngài là tổng năng lượng của bảy Tinh Thần, những vị là tổng của Thượng đế. S. D., 1, 169.

24 Chohan (Tibetan). A Lord or Master. A high Adept. An initiate who has taken more Initiations than the five major Initiations which make man a “Master of the Wisdom.”

24 Chohan (tiếng Tây Tạng). Một Chúa Tể hoặc Chân Sư. Một Chân Sư cao cấp. Một điểm đạo đồ đã nhận nhiều Điểm Đạo hơn năm Điểm Đạo chính khiến con người trở thành một “Chân Sư Minh Triết”.

25 The seven Brothers. See S. D., 1, 105. These seven are the seven differentiations of primordial electric energy.

25 Bảy Huynh Đệ. Xem S. D., 1, 105. Bảy vị này là bảy sự phân biệt của năng lượng điện nguyên thủy.

Plane. As used in occultism, the term denotes the range or extent of some state of consciousness or of the perceptive power of a particular set of senses or the action of a particular force, or the state of matter corresponding to any of the above.

Cõi giới. Như được sử dụng trong huyền bí học, thuật ngữ này biểu thị phạm vi hoặc mức độ của một trạng thái tâm thức nào đó hoặc sức mạnh nhận thức của một tập hợp giác quan cụ thể hoặc hành động của một mãnh lực cụ thể, hoặc trạng thái vật chất tương ứng với bất kỳ điều nào ở trên.

SECTION ONE—DIVISION B—THE PERSONALITY RAY AND FIRE BY FRICTION

[Commentary S1S6]

I. The Work of the Three Rays

We here touch upon a matter of wide general interest yet which is withal very little comprehended. I refer to the subject of the permanent atoms. 26 Each body or form wherein Spirit functions has, for its focal point on each plane, an atom composed of matter of the atomic subplane of each plane. This serves as a nucleus for the distribution of force, for the conservation of faculty, for the assimilation of experience, and for the preservation [70] of memory. These atoms are in direct connection with one or other of the three great rays in connection with the microcosm:

Ở đây chúng ta đề cập đến một vấn đề được quan tâm rộng rãi nhưng đồng thời lại rất ít được hiểu rõ. Tôi muốn nói đến chủ đề về các nguyên tử trường tồn. Mỗi thân thể hoặc hình tướng mà Tinh Thần vận hành trong đó, đều có, cho tiêu điểm của nó trên mỗi cõi giới, một nguyên tử cấu tạo từ vật chất của cõi phụ nguyên tử của mỗi cõi giới. Điều này phục vụ như một hạt nhân cho sự phân phối mãnh lực, cho sự bảo tồn năng lực, cho sự đồng hóa kinh nghiệm, và cho sự bảo tồn trí nhớ. Những nguyên tử này có mối liên hệ trực tiếp với một hoặc những cung lớn trong mối liên hệ với tiểu thiên địa:

a. The Monadic Ray, the synthetic ray of the microcosm.

a. Cung Chân Thần, cung tổng hợp của tiểu thiên địa.

b. The Egoic Ray.

b. Cung Chân Ngã.

c. The Personality Ray.

c. Cung Phàm Ngã.

Each of these rays has a connection with one or other of the permanent atoms in the lower threefold man, and has a direct action upon the spirillae 27 found within the atom. We have noted in “Letters on Occult Meditation” that the atoms of the lower threefold man underwent a twofold process:

Mỗi cung này có mối liên hệ với một hoặc những nguyên tử trường tồn trong phàm nhân tam phân thấp, và có tác động trực tiếp lên các spirillae được tìm thấy bên trong nguyên tử. Chúng ta đã lưu ý trong “Những Bức Thư về Thiền Định Huyền Bí” rằng các nguyên tử của phàm nhân tam phân thấp đã trải qua một quá trình kép:

They were first vivified in rotation, and each held the light in ordered sequence until the lower triangle was entirely illumined.

Chúng được sinh động hóa lần lượt, và mỗi nguyên tử giữ ánh sáng theo trình tự có trật tự cho đến khi tam giác thấp được chiếu sáng hoàn toàn.

Eventually transmutation took place, or (to word it otherwise) the polarization eventually shifted into the three permanent atoms of the Triad, and out of the three permanent atoms of the lower triangle. The physical permanent atom is transcended and the polarization becomes manasic or mental, the astral permanent atom is transcended and the polarization becomes buddhic, while the mental unit is superseded by the permanent [71] atom, of the fifth plane, the atmic. This is all brought about by the action of the three rays upon the atoms and upon the life within each atom. The relationship between these three rays and the permanent atoms might be summarized as follows:

Cuối cùng, sự chuyển hóa diễn ra, hoặc (nói cách khác) sự phân cực cuối cùng chuyển sang ba nguyên tử trường tồn của Tam nguyên tinh thần, và ra khỏi ba nguyên tử trường tồn của tam giác thấp. Nguyên tử trường tồn vật lý được siêu việt và sự phân cực trở thành manasic hoặc trí tuệ, nguyên tử trường tồn cảm dục được siêu việt và sự phân cực trở thành bồ đề, trong khi đơn vị trí tuệ được thay thế bởi nguyên tử trường tồn, của cõi giới thứ năm, atmic. Tất cả điều này được thực hiện bởi hành động của ba cung lên các nguyên tử và lên sự sống bên trong mỗi nguyên tử. Mối quan hệ giữa ba cung này và các nguyên tử trường tồn có thể được tóm tắt như sau:

The Personality Ray has direct action upon the physical permanent atom.

Cung Phàm Ngã có tác động trực tiếp lên nguyên tử trường tồn vật lý.

The Egoic Ray has a similar action upon the astral permanent atom.

Cung Chân Ngã có tác động tương tự lên nguyên tử trường tồn cảm dục.

The Monadic Ray has a close connection with the mental unit.

Cung Chân Thần có mối liên hệ chặt chẽ với đơn vị trí tuệ.

The effect which they have is threefold, but is not simultaneous; they work ever, as do all things in Nature, in ordered cycles. The stimulation, for instance, that is the result of the action of the monadic Ray upon the mental unit is only felt when the aspirant treads the Path, or after he has taken the first Initiation. The action of the egoic Ray upon the astral permanent atom is felt as soon as the Ego can make good connection with the physical brain; when this is so the egoic ray is beginning to affect the atom powerfully and continuously; this occurs when a man is highly evolved and is nearing the Path. This threefold force is felt in the following way:

Tác động mà chúng có là tam phân, nhưng không đồng thời; chúng hoạt động mãi mãi, như tất cả mọi thứ trong Tự Nhiên, trong các chu kỳ có trật tự. Sự kích thích, chẳng hạn, là kết quả của hành động của Cung Chân Thần lên đơn vị trí tuệ chỉ được cảm nhận khi người chí nguyện bước đi trên Thánh Đạo, hoặc sau khi y đã nhận lần Điểm Đạo thứ nhất. Hành động của Cung Chân Ngã lên nguyên tử trường tồn cảm dục được cảm nhận ngay khi Chân Ngã có thể kết nối tốt với bộ não vật lý; khi điều này xảy ra, Cung Chân Ngã bắt đầu ảnh hưởng mạnh mẽ và liên tục đến nguyên tử; điều này xảy ra khi một người tiến hóa cao và đang đến gần Thánh Đạo. Mãnh lực tam phân này được cảm nhận theo cách sau:

First. It plays upon the wall of the atom as an external force and affects its rotary and vibratory action.

Thứ nhất. Nó tác động lên thành của nguyên tử như một mãnh lực bên ngoài và ảnh hưởng đến hành động quay và rung động của nó.

Second. It stimulates the inner fire of the atom and causes its light to shine with increasing brilliancy.

Thứ hai. Nó kích thích ngọn lửa bên trong của nguyên tử và làm cho ánh sáng của nó chiếu sáng với độ sáng tăng dần.

Third. It works upon the spirillae, and brings them all gradually into play.

Thứ ba. Nó tác động lên các spirillae, và dần dần đưa tất cả chúng vào hoạt động.

26 Permanent Atom. An appropriated point of atomic matter. A tiny center of force which forms the central factor and the attractive agency around which the sheaths of the incarnating Monad are built. These are strung like pearls upon the sutratma, or thread.

26 Nguyên Tử Trường Tồn. Một điểm vật chất nguyên tử được chiếm dụng. Một trung tâm mãnh lực nhỏ bé tạo thành yếu tố trung tâm và tác nhân hấp dẫn mà xung quanh đó các lớp vỏ của Chân Thần nhập thể được xây dựng. Chúng được xâu chuỗi như những viên ngọc trai trên sutratma, hoặc sợi chỉ.

Ray. A stream of force or an emanation. The solar Logos, or the Macrocosm, manifests through three major rays and four minor rays. The Monad or microcosm likewise manifests through three rays as mentioned in the text above. All rays express a peculiar and specialized type of force.

Cung. Một dòng mãnh lực hoặc một sự xuất lộ phát xạ. Thái dương Thượng đế, hoặc Đại thiên địa, biểu hiện qua ba cung chính và bốn cung phụ. Chân Thần hoặc tiểu thiên địa cũng biểu hiện qua ba cung như đã đề cập trong văn bản trên. Tất cả các cung đều thể hiện một loại mãnh lực đặc biệt và chuyên biệt.

Triad. This is literally Atma-buddhi-manas, the expression of the Monad, just as the personality is the expression of the Ego. The Monad expresses itself through the Triad, and in its lowest or third Aspect forms the Egoic or Causal body, the infant or germinal Ego. Similarly, the Ego expresses itself through the threefold lower man, mental, emotional, and etheric (these being the reflection of the higher Triad) and these three give rise to the dense physical manifestation.

Tam nguyên tinh thần. Đây theo nghĩa đen là Atma-buddhi-manas, sự biểu hiện của Chân Thần, giống như phàm ngã là sự biểu hiện của Chân Ngã. Chân Thần biểu hiện chính nó thông qua Tam nguyên tinh thần, và trong Khía Cạnh thứ ba hoặc thấp nhất của nó tạo thành Chân Ngã hoặc Thể nguyên nhân, Chân Ngã sơ sinh hoặc mầm mống. Tương tự, Chân Ngã biểu hiện chính nó thông qua phàm nhân tam phân thấp, trí tuệ, cảm xúc và dĩ thái (những thứ này là sự phản ánh của Tam nguyên tinh thần cao hơn) và ba thứ này làm phát sinh sự biểu hiện vật lý trọng trược.

27 Spirilla. “In order to examine the construction of the atom, a space is artificially made, then, if an opening be made in the wall thus constructed, the surrounding force flows in, and three whorls immediately appear, surrounding the “hole” with their triple spiral of two and a half coils, and returning to their origin by a spiral within the atom; these are at once followed by seven finer whorls, which following the spiral of the first three on the outer surface and returning to their origin by a spiral within that, flowing in the opposite direction—form a caduceus with the first three. Each of the three coarser whorls, flattened out, makes a closed circle; each of the seven finer ones, similarly flattened out, makes a closed circle. The forces which flow in them, again, come from “outside,” from a fourth-dimensional space. Each of the finer whorls is formed of seven yet finer ones, set successively at right angles to each other, each finer than its predecessor; these we call spirillae.

27 Spirillae. “Để kiểm tra cấu trúc của nguyên tử, một không gian được tạo ra một cách nhân tạo, sau đó, nếu một lỗ hổng được tạo ra trong bức tường được xây dựng như vậy, mãnh lực xung quanh sẽ chảy vào, và ba vòng xoáy ngay lập tức xuất hiện, bao quanh “lỗ hổng” bằng vòng xoắn ba của chúng gồm hai vòng rưỡi cuộn, và trở về nguồn gốc của chúng bằng một vòng xoắn bên trong nguyên tử; chúng ngay lập tức được theo sau bởi bảy vòng xoắn mịn hơn, theo vòng xoắn của ba vòng xoắn đầu tiên trên bề mặt bên ngoài và trở về nguồn gốc của chúng bằng một vòng xoắn bên trong đó, chảy theo hướng ngược lại—tạo thành một caduceus với ba vòng xoắn đầu tiên. Mỗi trong ba vòng xoắn thô hơn, được làm phẳng ra, tạo thành một vòng tròn khép kín; mỗi trong bảy vòng xoắn mịn hơn, được làm phẳng tương tự, tạo thành một vòng tròn khép kín. Các mãnh lực chảy trong chúng, một lần nữa, đến từ “bên ngoài”, từ một không gian chiều thứ tư. Mỗi trong các vòng xoắn mịn hơn được hình thành từ bảy vòng xoắn mịn hơn nữa, được đặt liên tiếp vuông góc với nhau, mỗi vòng xoắn mịn hơn vòng xoắn trước nó; chúng ta gọi chúng là spirillae.

“Each spirilla is animated by the life-force of a plane, and four are at present normally active, one for each round. Their activity in an individual may be prematurely forced by yoga practice.”—Occult Chemistry, p. 28.

“Mỗi spirilla được sinh động hóa bởi mãnh lực sự sống của một cõi giới, và bốn vòng xoắn hiện đang hoạt động bình thường, một vòng cho mỗi cuộc tuần hoàn. Hoạt động của chúng ở một cá nhân có thể bị ép buộc quá sớm bằng cách thực hành yoga.”—Hóa Học Huyền Bí, tr. 28.

II. The Personality Ray and the Permanent Atom

The Personality Ray deals with the first four spirillae, and is the source of their stimulation. Note here the [72] correspondence to the lower quaternary and its stimulation by the ego. The Egoic Ray concerns itself with the fifth spirillae and with the sixth, and is the cause of their emerging from latency and potentiality into power and activity. The Monadic Ray is the source of the stimulation of the seventh spirillae.

Cung Phàm Ngã đề cập đến bốn spirillae đầu tiên, và là nguồn kích thích của chúng. Lưu ý ở đây sự tương ứng với tứ phân thấp hơn và sự kích thích của nó bởi chân ngã. Cung Chân Ngã liên quan đến spirillae thứ năm và thứ sáu, và là nguyên nhân khiến chúng xuất hiện từ trạng thái tiềm ẩn và tiềm năng thành mãnh lực và hoạt động. Cung Chân Thần là nguồn kích thích của spirillae thứ bảy.

There is great interest attached to this subject and wide reaches of thought and vast fields for investigation open up before the earnest student. This threefold action varies in point of time and sequence according to the ray itself upon which the Monad may be found; but the subject is too vast to be handled at this time.

Có sự quan tâm lớn gắn liền với chủ đề này và những phạm vi tư tưởng rộng lớn và những lĩnh vực điều tra bao la mở ra trước học viên chân thành. Hành động tam phân này khác nhau về thời gian và trình tự tùy theo chính cung mà Chân Thần có thể được tìm thấy; nhưng chủ đề này quá rộng lớn để được xử lý vào lúc này.

In looking at the matter from the standpoint of fire the idea may be grasped a little through the realization that the latent fire of matter in the atom is brought into brilliance and usefulness by the action of the personality Ray which merges with this fire and stands in the same position to the permanent atom in the microcosm as Fohat does on the cosmic plane. The fire is there hidden within the sphere (whether the sphere systemic or the sphere atomic) and the personality Ray in the one case, and Fohat in the other, acts as the force which brings latency into activity and potentiality into demonstrated power. This correspondence should be thought out with care and judgment. Just as Fohat has to do with active manifestation or objectivity, so the personality Ray has to do with the third, or activity aspect in the microcosm. The work of the third aspect logoic was the arranging of the matter of the system so that eventually it could be built into form through the power of the second aspect. Thus the correspondence works out. By life upon the physical plane (that life wherein the physical permanent atom has its full demonstration) the matter is arranged and separated that must eventually be built into the Temple of Solomon, the egoic body, through the agency of the egoic life, the second [73] aspect. In the quarry of the personal life are the stones prepared for the great Temple. In existence upon the physical plane and in the objective personal life is that experience gained which demonstrates as faculty in the Ego. What is here suggested would richly repay our closest attention, and open up before us reaches of ideas, which should eventuate in a wiser comprehension, a sounder judgment, and a greater encouragement to action.

Khi nhìn vào vấn đề từ quan điểm của lửa, ý tưởng có thể được nắm bắt một chút thông qua việc nhận ra rằng ngọn lửa tiềm ẩn của vật chất trong nguyên tử được đưa vào sự rực rỡ và hữu ích bởi hành động của Cung phàm ngã, cung hợp nhất với ngọn lửa này và đứng ở vị trí tương tự với nguyên tử trường tồn trong tiểu thiên địa như Fohat trên cõi giới vũ trụ. Lửa được ẩn giấu bên trong hình cầu (dù là hình cầu hệ thống hay hình cầu nguyên tử) và Cung phàm ngã trong trường hợp này, và Fohat trong trường hợp kia, hoạt động như mãnh lực đưa trạng thái tiềm ẩn vào hoạt động và tiềm năng thành mãnh lực được chứng minh. Sự tương ứng này nên được suy nghĩ cẩn thận và phán đoán. Giống như Fohat có liên quan đến sự biểu hiện tích cực hoặc tính khách quan, Cung phàm ngã có liên quan đến khía cạnh thứ ba, hoặc khía cạnh hoạt động trong tiểu thiên địa. Công việc của khía cạnh thứ ba logoic là sắp xếp vật chất của hệ thống để cuối cùng nó có thể được xây dựng thành hình tướng thông qua quyền năng của khía cạnh thứ hai. Do đó, sự tương ứng hoạt động. Bằng sự sống trên cõi trần (sự sống mà trong đó nguyên tử trường tồn vật lý có sự chứng minh đầy đủ của nó), vật chất được sắp xếp và tách ra mà cuối cùng phải được xây dựng thành Đền Thờ Solomon, thể chân ngã, thông qua tác nhân của sự sống chân ngã, khía cạnh thứ hai. Trong mỏ đá của sự sống cá nhân, những viên đá được chuẩn bị cho Đền Thờ vĩ đại. Trong sự tồn tại trên cõi trần và trong sự sống cá nhân khách quan, kinh nghiệm đó được thu thập, kinh nghiệm chứng minh như năng lực trong Chân Ngã. Những gì được đề xuất ở đây sẽ đền đáp xứng đáng sự chú ý gần gũi nhất của chúng ta, và mở ra trước chúng ta những phạm vi ý tưởng, những ý tưởng nên dẫn đến sự thấu hiểu khôn ngoan hơn, một phán đoán đúng đắn hơn và một sự khuyến khích lớn hơn đối với hành động.

III. The Personality Ray and Karma

It might be wise here to recapitulate a little so that in the refreshing of the memory may come the basis of further knowledge. We dealt first with the three fires of the system, macrocosmic and microcosmic, and having laid down certain hypotheses we passed to the consideration of the first of the fires, that which is inherent in matter. Having studied it somewhat in its threefold manifestation in the various parts of the system, including man, we took up the matter of the personality Ray and its relationship to this third fire. We must recall here that all that has been dealt with has been in relation to matter, and for the whole of this first section this thought must be borne carefully in mind.

Có lẽ khôn ngoan ở đây là tóm tắt lại một chút để trong việc làm mới trí nhớ có thể đến nền tảng của kiến thức sâu hơn. Đầu tiên chúng ta đã đề cập đến ba ngọn lửa của hệ thống, đại thiên địa và tiểu thiên địa, và sau khi đưa ra một số giả thuyết nhất định, chúng ta đã chuyển sang xem xét ngọn lửa đầu tiên, ngọn lửa vốn có trong vật chất. Sau khi nghiên cứu nó một phần nào đó trong sự biểu hiện tam phân của nó trong các phần khác nhau của hệ thống, bao gồm cả con người, chúng ta đã đề cập đến vấn đề Cung phàm ngã và mối quan hệ của nó với ngọn lửa thứ ba này. Chúng ta phải nhớ lại ở đây rằng tất cả những gì đã được đề cập đều liên quan đến vật chất, và trong toàn bộ phần đầu tiên này, suy nghĩ này phải được ghi nhớ cẩn thận.

In our second section we will consider all from the standpoint of mind, and in the final from the standpoint of the Divine Ray. Here we are dealing with what H.P.B calls the primordial ray and its manifestations in matter (see S. D., I, 108; II, 596). All these Rays of Cosmic Mind, Primordial Activity, and Divine Love-Wisdom are but essential quality demonstrating through the agency of some one factor.

Trong phần thứ hai của chúng ta, chúng ta sẽ xem xét tất cả từ quan điểm của trí tuệ, và trong phần cuối cùng từ quan điểm của Cung Thiêng Liêng. Ở đây chúng ta đang đề cập đến những gì H.P.B gọi là cung nguyên thủy và những biểu hiện của nó trong vật chất (xem S. D., I, 108; II, 596). Tất cả những Cung Trí Tuệ Vũ Trụ, Hoạt Động Nguyên Thủy và Bác Ái-Minh Triết Thiêng Liêng này chỉ là phẩm tính thiết yếu thể hiện thông qua tác nhân của một yếu tố nào đó.

– The Primordial Ray is the quality of motion, demonstrating through matter. [74]

– Cung Nguyên Thủy là phẩm tính của chuyển động, thể hiện thông qua vật chất. [74]

– The Ray of Mind is the quality of intelligent organization, demonstrating through forms, which are the product of motion and matter.

– Cung Trí Tuệ là phẩm tính của tổ chức thông minh, thể hiện thông qua các hình tướng, là sản phẩm của chuyển động và vật chất.

– The Ray of Love-Wisdom is the quality of basic motive that utilizes the intelligent organization of matter in motion to demonstrate in one synthetic whole the great Love aspect of the Logos (S. D., I, 99, 108; II, 596).

– Cung Bác Ái-Minh Triết là phẩm tính của động cơ bản sử dụng tổ chức thông minh của vật chất trong chuyển động để thể hiện trong một tổng hợp toàn bộ khía cạnh Bác Ái vĩ đại của Thượng đế (S. D., I, 99, 108; II, 596).

This line of thought can be worked out also correspondingly in the Microcosm, and will show how individual man is engaged in the same type of work on a lesser scale as the solar Logos.29

Dòng suy nghĩ này cũng có thể được thực hiện tương ứng trong Tiểu Thiên Địa, và sẽ cho thấy con người cá nhân đang tham gia vào cùng một loại công việc trên quy mô nhỏ hơn như Thái dương Thượng đế.29

At this point in the treatise we are confining our attention to the Ray of Active Matter, or to that latent heat in substance which underlies its activity and is the cause of its motion. If we think with sincerity and with clarity we will see how closely therefore the Lipika Lords or the Lords of Karma are associated with this work. Three of Them are closely connected with Karma as it concerns one or other of the three great Rays, or the three fires, while the fourth Lipika Lord synthesizes the work of his three Brothers and attends to the uniform blending and merging of the three fires. On our planet, the Earth, They find Their points of contact through the three “Buddhas of Activity,” 30 (the correspondence should be noted here) and the fourth Kumara, the Lord of the World. Therefore, we arrive at the realization that the personality Ray, in its relation to the fire of matter, is directly influenced and adjusted in its working by one of the Buddhas of Activity. [75]

Tại thời điểm này trong luận văn, chúng ta đang tập trung sự chú ý vào Cung Vật Chất Tích Cực, hoặc nhiệt tiềm ẩn trong vật chất, nền tảng cho hoạt động của nó và là nguyên nhân gây ra chuyển động của nó. Nếu chúng ta suy nghĩ một cách chân thành và rõ ràng, chúng ta sẽ thấy các Chúa Tể Lipika hoặc các Chúa Tể Nghiệp Quả liên quan chặt chẽ như thế nào đến công việc này. Ba vị trong số Họ có liên quan chặt chẽ đến Nghiệp Quả liên quan đến một hoặc ba Cung lớn, hoặc ba ngọn lửa, trong khi Chúa Tể Lipika thứ tư tổng hợp công việc của ba Huynh Đệ của mình và tham dự vào sự pha trộn và hợp nhất đồng nhất của ba ngọn lửa. Trên hành tinh của chúng ta, Trái Đất, Họ tìm thấy các điểm tiếp xúc của mình thông qua ba “Phật của Hoạt Động”, 30 (sự tương ứng nên được lưu ý ở đây) và Kumara thứ tư, Đức Chúa Tể Thế Giới. Do đó, chúng ta nhận ra rằng Cung phàm ngã, trong mối quan hệ của nó với lửa của vật chất, chịu ảnh hưởng trực tiếp và được điều chỉnh trong hoạt động của nó bởi một trong những vị Phật của Hoạt Động. [75]

The karma 31, 32, 33 of matter itself is an abstruse subject and has as yet scarcely been hinted at. It is nevertheless indissoluble mixed up with the karma of the individual. It involves a control of the evolution of the monadic essence, the elemental essence and of the atomic matter of the plane; it is concerned with the development of the four spirillae, with their activity, with their attachment to forms when atomic, and with the development of the inner latent heat and its gradual fiery increase until we have within the atom a repetition of what is seen within the causal body: the destruction of the periphery of the atom by the means of burning. It deals with the subject of the building of matter into form by the interaction of the two rays, the Divine and the Primordial, producing thereby that fire by friction which tends to life and fusing.

Nghiệp quả 31, 32, 33 của chính vật chất là một chủ đề khó hiểu và cho đến nay hầu như chưa được gợi ý. Tuy nhiên, nó không thể tách rời khỏi nghiệp quả của cá nhân. Nó liên quan đến sự kiểm soát sự tiến hóa của tinh chất chân thần, tinh chất hành khí và vật chất nguyên tử của cõi giới; nó liên quan đến sự phát triển của bốn spirillae, với hoạt động của chúng, với sự gắn bó của chúng với các hình tướng khi nguyên tử, và với sự phát triển của nhiệt tiềm ẩn bên trong và sự gia tăng lửa dần dần của nó cho đến khi chúng ta có bên trong nguyên tử một sự lặp lại của những gì được nhìn thấy bên trong thể nguyên nhân: sự phá hủy chu vi của nguyên tử bằng phương tiện đốt cháy. Nó đề cập đến chủ đề xây dựng vật chất thành hình tướng bằng sự tương tác của hai cung, Cung Thiêng Liêng và Cung Nguyên Thủy, do đó tạo ra ngọn lửa do ma sát có xu hướng sự sống và hợp nhất.

The karma of form is likewise a vast subject, too [76] involved for average comprehension but a factor of real importance which should not be overlooked in connection with the evolution of a world, a synthesis of worlds, or of a system when viewed from higher levels. Every thing is, in its totality, the result of action taken by cosmic Essences and Entities in earlier solar systems which is working out through the individual atoms, and through those congeries of atoms which we call forms The effect of the personality Ray upon the internal fires is therefore, in effect, the result of the influence of the planetary Logos of whatever ray is implicated, as He works out that portion of Karma which falls to His share in any one cycle, greater or lesser. He thus brings about and eventually transmutes, the effects of causes which He set in motion earlier in relation to His six Brothers, the other planetary Logoi. We get an illustrative parallel in the effect which one individual will have upon another in worldly contact, in molding and influencing, in stimulating or retarding. We have to remember that all fundamental influence and effects are felt on the astral plane and work thence through the etheric to the dense physical thereby bringing matter under its sphere of influence, yet not itself originating on the physical plane. [77]

Nghiệp quả của hình tướng cũng là một chủ đề rộng lớn, quá [76] phức tạp để sự thấu hiểu trung bình nhưng một yếu tố có tầm quan trọng thực sự không nên bị bỏ qua liên quan đến sự tiến hóa của một thế giới, một tổng hợp các thế giới, hoặc của một hệ thống khi được xem xét từ các cấp độ cao hơn. Mọi thứ, trong tổng thể của nó, là kết quả của hành động được thực hiện bởi các Tinh Chất và Thực Thể vũ trụ trong các hệ mặt trời trước đó, đang hoạt động thông qua các nguyên tử riêng lẻ và thông qua các tập hợp nguyên tử mà chúng ta gọi là hình tướng. Do đó, ảnh hưởng của Cung phàm ngã lên ngọn lửa bên trong, trên thực tế, là kết quả của ảnh hưởng của Hành Tinh Thượng đế của bất kỳ cung nào có liên quan, khi Ngài thực hiện phần Nghiệp Quả thuộc phần của Ngài trong bất kỳ chu kỳ nào, lớn hơn hoặc nhỏ hơn. Do đó, Ngài mang lại và cuối cùng chuyển hóa, ảnh hưởng của những nguyên nhân mà Ngài đã khởi xướng trước đó liên quan đến sáu Huynh Đệ của Ngài, các Hành Tinh Thượng đế khác. Chúng ta có một sự song song minh họa trong ảnh hưởng mà một cá nhân sẽ có đối với người khác trong tiếp xúc thế gian, trong việc định hình và ảnh hưởng, trong việc kích thích hoặc làm chậm lại. Chúng ta phải nhớ rằng tất cả các ảnh hưởng và hiệu ứng cơ bản đều được cảm nhận trên cõi cảm dục và hoạt động từ đó thông qua dĩ thái đến vật lý trọng trược, do đó đưa vật chất vào phạm vi ảnh hưởng của nó, nhưng bản thân nó không bắt nguồn từ cõi trần. [77]

29 S. D., I, 99, 108; II, 596.

29 S. D., I, 99, 108; II, 596.

30 “Buddhas of Activity.” The ‘Pratyeka Buddhas.’ This is a degree which belongs exclusively to the Yogacharya School, yet it is only one of high intellectual development with no true spirituality… It is one of the three paths to Nirvana, and the lowest, in which a yogi—”without teacher and without saving others”—by the mere force of will and technical observances, attains to a kind of nominal Buddhahood individually.”—Theosophical Glossary.

30 “Phật của Hoạt Động”. ‘Pratyeka Buddhas.’ Đây là một cấp bậc thuộc riêng về Trường phái Yogacharya, tuy nhiên nó chỉ là một sự phát triển trí tuệ cao mà không có tính tinh thần chân chính… Đó là một trong ba con đường dẫn đến Niết bàn, và là con đường thấp nhất, trong đó một yogi—”không có thầy và không cứu giúp người khác”—bằng sức mạnh ý chí và những sự tuân thủ kỹ thuật đơn thuần, đạt được một loại Phật tính danh nghĩa một cách cá nhân.”—Thuật Ngữ Thông Thiên Học.

31 “From the view taken of Karma as I have done it, you will see that no plane of the highest spirituality, be that the plane of the nirvanees, is outside the karmic wheel and when it is said in the Sanskrit writings and even in the Bhagavad Gita that men cross the karmic ocean, it must be understood with some allowance. The entities that have now succeeded in going outside the karmic wheel, have done so, only if that wheel be taken as the one that turns now. The cosmos is not going in one groove all the days of Brahma, but it is going on a higher and higher status as it fulfils its mission. Those who have attained unto a rest in a state of spirituality not reachable now, will therefore in a future day come within the action of the wheel, with perhaps a punishment for the great duties neglected for long ages.”

31 “Từ quan điểm về Nghiệp Quả như tôi đã thực hiện, bạn sẽ thấy rằng không có cõi giới nào của tính tinh thần cao nhất, dù đó là cõi giới của các nirvanee, nằm ngoài bánh xe nghiệp quả và khi người ta nói trong các kinh sách tiếng Phạn và ngay cả trong Bhagavad Gita rằng con người vượt qua biển nghiệp quả, điều đó phải được hiểu với một số sự cho phép. Vũ trụ không đi theo một rãnh duy nhất trong tất cả những ngày của Brahma, nhưng nó đang đi trên một trạng thái cao hơn và cao hơn khi nó hoàn thành sứ mệnh của mình. Do đó, những người đã đạt đến sự nghỉ ngơi trong một trạng thái tinh thần không thể đạt được bây giờ, sẽ trong một ngày tương lai đến trong hành động của bánh xe, có lẽ với một sự trừng phạt cho những nhiệm vụ vĩ đại bị bỏ bê trong nhiều thời đại dài.”

Some Thoughts on the Gita, p. 40.

– Một số suy nghĩ về Gita, tr. 40.

32 The Lipika are the Spirits of the Universe. They are connected with the Law of Cause and Effect (Karma) and its recorders. Lipika comes from “Lipi” writing. For information concerning the Lipika Lords see S. D., I, pp. 152, 153.

32 Lipika là các Tinh Thần của Vũ Trụ. Họ có liên quan đến Định Luật Nhân Quả (Nghiệp Quả) và những người ghi chép của nó. Lipika xuất phát từ “Lipi” viết. Để biết thông tin về các Chúa Tể Lipika, hãy xem S. D., I, tr. 152, 153.

The Buddhas of Activity, are the Triad Who stands closest to Sanat Kumara, The Lord of the World. They are the planetary correspondences to the three Aspects of the logoic third Aspect and are concerned with the force behind planetary manifestation.

Các Phật của Hoạt Động, là Tam nguyên tinh thần đứng gần nhất với Sanat Kumara, Đức Chúa Tể Thế Giới. Họ là những sự tương ứng hành tinh với ba Khía Cạnh của khía cạnh thứ ba logoic và có liên quan đến mãnh lực đằng sau sự biểu hiện hành tinh.

Monadic Essence, the matter of the atomic (or highest) subplane of each plane.

Tinh chất chân thần, vật chất của cõi phụ nguyên tử (hoặc cao nhất) của mỗi cõi giới.

Elemental Essence, the matter of the six subplanes which are non atomic. It is molecular matter.

Tinh chất hành khí, vật chất của sáu cõi phụ không nguyên tử. Đó là vật chất phân tử.

33 “Karma may be defined to be the force generated by a human center to act on the exterior world, and the reactionary influence that is in turn generated from the exterior world to act on him may be called karmic influence and the visible result that is produced by this influence under proper conditions may be called karmic fruit.”

33 “Nghiệp Quả có thể được định nghĩa là mãnh lực được tạo ra bởi một trung tâm con người để tác động lên thế giới bên ngoài, và ảnh hưởng phản ứng lần lượt được tạo ra từ thế giới bên ngoài để tác động lên y có thể được gọi là ảnh hưởng nghiệp quả và kết quả hữu hình được tạo ra bởi ảnh hưởng này trong điều kiện thích hợp có thể được gọi là quả nghiệp quả.”

Some thoughts on the Gita, p. 53.

– Một số suy nghĩ về Gita, tr. 53.

SECTION ONE—DIVISION C—THE ETHERIC BODY AND PRANA34

[Commentary S1S7]

I. The Nature of the Etheric Body

In our consideration of the internal fires of the system we shall find much of very real interest to the coming [78] generation of thinkers for three main reasons, which might be enumerated as follows:

Trong sự xem xét của chúng ta về ngọn lửa nội tại của hệ thống, chúng ta sẽ tìm thấy nhiều điều thực sự thú vị cho thế hệ các nhà tư tưởng sắp tới vì ba lý do chính, có thể được liệt kê như sau:

1. Its Purpose and Description

1. Mục Đích và Mô Tả của Nó

First. In the study of the etheric body lies hid (for scientists and those of the medical profession) a fuller comprehension of the laws of matter and the laws of health. The word health has become too localized in the past, and its meaning confined to the sanity [sự lành mạnh (tinh thần)] of the body corporeal, to the cooperative action of the atoms of the physical body of man, and to the full expression of the powers of the physical elemental. In days to come it will be realized that the health of man is dependent upon the health of all allied evolutions, and upon the cooperative action and full expression of the matter of the planet and of the planetary elemental who is himself a composite manifestation of the physical elementals of all manifested nature.

Thứ nhất. Trong nghiên cứu về thể dĩ thái ẩn chứa (đối với các nhà khoa học và những người trong ngành y) một sự thấu hiểu đầy đủ hơn về các định luật vật chất và các định luật sức khỏe. Từ sức khỏe đã trở nên quá cục bộ trong quá khứ, và ý nghĩa của nó bị giới hạn trong sự lành mạnh của thân thể hữu hình, trong hành động hợp tác của các nguyên tử của cơ thể vật lý của con người, và trong sự biểu hiện đầy đủ các quyền năng của hành khí vật lý. Trong những ngày sắp tới, người ta sẽ nhận ra rằng sức khỏe của con người phụ thuộc vào sức khỏe của tất cả các sự tiến hóa đồng minh, và vào hành động hợp tác và sự biểu hiện đầy đủ của vật chất của hành tinh và của hành khí hành tinh, chính y là một biểu hiện tổng hợp của các hành khí vật lý của tất cả tự nhiên được biểu hiện.

Second. In the study of the etheric body and prana lies the revelation of the effects of those rays of the sun which (for lack of better expression), we will call “solar pranic emanations.” These solar pranic emanations are the produced effect of the central heat of the sun approaching other bodies within the solar system by one of the three main channels of contact, and producing on the bodies then contacted certain effects differing somewhat from those produced by the other emanations. These effects might be considered as definitely stimulating and constructive, and (through their essential quality) as producing conditions that further the growth of cellular matter, and concern its adjustment to environing conditions; they concern likewise the internal health (demonstrating as the heat of the atom and its consequent activity) and the uniform evolution of the form of which that particular atom of matter forms a constituent part. Emanative prana does little in connection with [79] form building; that is not its province, but it conserves the form through the preservation of the health of its component parts. Other rays of the sun act differently, upon the forms and upon their substance. Some perform the work of the Destroyer of forms, and others carry on the work of cohering and of attracting; the work of the Destroyer and of the Preserver is carried on under the Law of Attraction and Repulsion. Some rays definitely produce accelerated motion, others produce retardation. The ones we are dealing with here—pranic solar emanations—work within the four ethers, that matter which (though physical) is not as yet objectively visible to the eye of man. They are the basis of all physical plane life considered solely in connection with the life of the physical plane atoms of matter, their inherent heat and their rotary motion. These emanations are the basis of that “fire by friction” which demonstrates in the activity of matter.

Thứ hai. Trong nghiên cứu về thể dĩ thái và prana nằm sự mặc khải về ảnh hưởng của những Tia mặt trời mà (vì thiếu cách diễn đạt tốt hơn), chúng ta sẽ gọi là “bức xạ prana mặt trời”. Những bức xạ prana mặt trời này là hiệu ứng được tạo ra của nhiệt độ trung tâm của mặt trời tiếp cận các thiên thể khác trong hệ mặt trời bằng một trong ba kênh tiếp xúc chính, và tạo ra trên các thiên thể sau đó được tiếp xúc những hiệu ứng nhất định khác với những hiệu ứng được tạo ra bởi các xuất lộ khác. Những hiệu ứng này có thể được coi là kích thích và xây dựng rõ ràng, và (thông qua phẩm tính thiết yếu của chúng) là tạo ra các điều kiện thúc đẩy sự tăng trưởng của vật chất tế bào, và liên quan đến sự điều chỉnh của nó đối với các điều kiện môi trường; chúng cũng liên quan đến sức khỏe bên trong (thể hiện như nhiệt độ của nguyên tử và hoạt động do đó của nó) và sự tiến hóa đồng nhất của hình tướng mà nguyên tử vật chất cụ thể đó tạo thành một phần cấu thành. Prana xuất lộ phát xạ ít hoạt động liên quan đến việc xây dựng hình tướng; đó không phải là tỉnh vực của nó, nhưng nó bảo tồn hình tướng thông qua việc bảo tồn sức khỏe của các thành phần của nó. Các Tia khác của mặt trời hoạt động khác nhau, trên các hình tướng và trên chất của chúng. Một số thực hiện công việc của Kẻ Hủy Diệt hình tướng, và những người khác thực hiện công việc gắn kết và thu hút; công việc của Kẻ Hủy Diệt và của Người Bảo Tồn được thực hiện theo Định Luật Hấp Dẫn và Đẩy Lùi. Một số Tia tạo ra chuyển động tăng tốc rõ ràng, những tia khác tạo ra sự chậm lại. Những Tia mà chúng ta đang đề cập ở đây—bức xạ prana mặt trời—hoạt động trong bốn ether, vật chất đó (mặc dù vật lý) vẫn chưa có thể nhìn thấy một cách khách quan đối với mắt người. Chúng là nền tảng của tất cả sự sống cõi trần được xem xét chỉ liên quan đến sự sống của các nguyên tử vật chất cõi trần, nhiệt vốn có của chúng và chuyển động quay của chúng. Những xuất lộ này là nền tảng của “lửa do ma sát” thể hiện trong hoạt động của vật chất.

Finally, in the study of the etheric body and prana comes comprehension of the method of logoic manifestation, and therefore much of interest to the metaphysician, and all abstract thinkers. The etheric body of man holds hid the secret of his objectivity. It has its correspondence on the archetypal plane,—the plane we call that of the divine manifestation, the first plane of our solar system, the plane Adi. The matter of that highest plane is called often the “sea of fire” and it is the root of the akasha, the term applied to the substance of the second plane of manifestation. Let us trace the analogy a little more in detail, for in its just apprehension will be found much of illumination and much that will serve to elucidate problems both macrocosmic and microcosmic. We will begin with man and his etheric body.

Cuối cùng, trong nghiên cứu về thể dĩ thái và prana, sự thấu hiểu về phương pháp biểu hiện logoic đến, và do đó nhiều điều thú vị đối với nhà siêu hình học, và tất cả các nhà tư tưởng trừu tượng. Thể dĩ thái của con người ẩn chứa bí mật về tính khách quan của y. Nó có sự tương ứng của nó trên cõi nguyên mẫu,—cõi mà chúng ta gọi là cõi biểu hiện thiêng liêng, cõi giới thứ nhất của hệ mặt trời của chúng ta, cõi Adi. Vật chất của cõi giới cao nhất đó thường được gọi là “biển lửa” và nó là gốc rễ của akasha, thuật ngữ được áp dụng cho chất của cõi giới biểu hiện thứ hai. Chúng ta hãy truy tìm sự tương tự chi tiết hơn một chút, vì trong sự lĩnh hội đúng đắn của nó sẽ tìm thấy nhiều sự soi sáng và nhiều điều sẽ giúp làm sáng tỏ các vấn đề cả đại thiên địa và tiểu thiên địa. Chúng ta sẽ bắt đầu với con người và thể dĩ thái của y.

The etheric body has been described as a network, permeated with fire, or as a web, animated with golden light. It is spoken of in the Bible as the “golden bowl.” [cái bát] [80] It is a composition of that matter of the physical plane which we call etheric, and its shape is brought about by the fine interlacing strands of this matter being built by the action of the lesser Builders into the form or mould upon which later the dense physical body can be molded. Under the Law of Attraction, the denser matter of the physical plane is made to cohere to this vitalized form, and is gradually built up around it, and within it, until the interpenetrating is so complete that the two forms make but one unit; the pranic emanations of the etheric body itself play upon the dense physical body in the same manner as the pranic emanations of the sun play upon the etheric body. It is all one vast system of transmission and of interdependence within the system. All receive in order to give, and to pass on to that which is lesser or not so evolved. Upon every plane this process can be seen.

Thể dĩ thái đã được mô tả như một mạng lưới, thấm nhuần lửa, hoặc như một mạng lưới, được sinh động hóa bằng ánh sáng vàng. Nó được nói đến trong Kinh Thánh như là “cái bát vàng”. [80] Nó là một thành phần của vật chất cõi trần mà chúng ta gọi là dĩ thái, và hình dạng của nó được tạo ra bởi các sợi đan xen mịn của vật chất này được xây dựng bởi hành động của các Đấng Kiến Tạo nhỏ hơn thành hình tướng hoặc khuôn mẫu mà trên đó sau này cơ thể vật lý trọng trược có thể được đúc khuôn. Theo Định Luật Hấp Dẫn, vật chất trọng trược hơn của cõi trần được tạo ra để gắn kết với hình tướng được sinh động hóa này, và dần dần được xây dựng xung quanh nó, và bên trong nó, cho đến khi sự xuyên thấu hoàn toàn đến mức hai hình tướng chỉ tạo thành một đơn vị; các bức xạ prana của chính thể dĩ thái tác động lên cơ thể vật lý trọng trược theo cùng cách mà các bức xạ prana của mặt trời tác động lên thể dĩ thái. Tất cả đều là một hệ thống truyền dẫn và phụ thuộc lẫn nhau rộng lớn trong hệ thống. Tất cả nhận để cho đi, và để truyền cho những gì nhỏ hơn hoặc không tiến hóa bằng. Trên mọi cõi giới, quá trình này có thể được nhìn thấy.

Thus the etheric body forms the archetypal plane in relation to the dense physical body. The thinker on his own plane stands, in relation to the physical, as the Logos to His system. In the synthesis of thought it might be expressed thus: The thinker on the astral plane, the plane of desire and of necessity, stands to the physical body as the Logos on the cosmic astral plane stands to His system.

Do đó, thể dĩ thái tạo thành cõi nguyên mẫu liên quan đến cơ thể vật lý trọng trược. Nhà tư tưởng trên cõi giới của riêng mình đứng, liên quan đến vật lý, như Thượng đế đối với hệ thống của Ngài. Trong sự tổng hợp của tư tưởng, nó có thể được diễn đạt như sau: Nhà tư tưởng trên cõi cảm dục, cõi ham muốn và sự cần thiết, đứng đối với cơ thể vật lý như Thượng đế trên cõi cảm dục vũ trụ đứng đối với hệ thống của Ngài.

As we continue the study we will work out the correspondence in the cosmos, the system, and in the three worlds, for we need to remember that the analogy must be perfect.

Khi chúng ta tiếp tục nghiên cứu, chúng ta sẽ thực hiện sự tương ứng trong vũ trụ, hệ thống và trong ba cõi giới, vì chúng ta cần nhớ rằng sự tương tự phải hoàn hảo.

1. Man, the Microcosm, the manifesting Monad, or One.

1. Con người, Tiểu Thiên Địa, Chân Thần biểu hiện, hoặc Nhất Thể.

2. The Heavenly Man, the planetary Logos, or the manifesting group.

2. Đấng Thiên Nhân, Hành Tinh Thượng đế, hoặc nhóm biểu hiện.

3. The Grand Man of the Heavens, the Macrocosm, the solar Logos, the manifestation of all groups and of all evolutions within His Body, the solar system. [81]

3. Đại Thiên Nhân của Thiên Giới, Đại Thiên Địa, Thái dương Thượng đế, sự biểu hiện của tất cả các nhóm và của tất cả các sự tiến hóa trong Thân Thể của Ngài, hệ mặt trời. [81]

All these bodies—the body of a man, a planetary Logos, and a solar Logos—are the product of desire originating on the planes of abstract mind, whether cosmic, systemic, or mind in the three worlds, whether cosmic desire-mind or human desire-mind, and all their bodies are “Sons of Necessity,” as H.P.B. so aptly expressed it. 35, 36

Tất cả những thân thể này—thân thể của một người, một Hành Tinh Thượng đế và một Thái dương Thượng đế—là sản phẩm của ham muốn bắt nguồn từ các cõi trí trừu tượng, dù là vũ trụ, hệ thống, hoặc trí tuệ trong ba cõi giới, dù là trí-ham muốn vũ trụ hoặc trí-ham muốn con người, và tất cả các thân thể của họ đều là “Những Người Con của Sự Cần Thiết”, như H.P.B. đã diễn đạt một cách khéo léo. 35, 36

34 “Prana, or the vital principle, is the special relation of the Atma with a certain form of matter which by the relation of Atma, organizes and builds up as a means of having experience. This special relation constitutes the individual Prana in the individual body. The cosmic all-pervading Prana is not Prana in the gross sense, but is a name for the Brahman as the author of the individual Prana… All beings, whether Devas, men or animals, exist only so long as the Prana is within the body. It is the life duration of all… Prana, or vitality, is the common function of the mind and all the senses.”

Chương 34. “Prana, hay nguyên khí sinh lực, là mối quan hệ đặc biệt của Atma với một hình tướng vật chất nhất định, nhờ mối quan hệ của Atma, tổ chức và xây dựng như một phương tiện để có kinh nghiệm. Mối quan hệ đặc biệt này tạo thành Prana cá nhân trong cơ thể cá nhân. Prana vũ trụ bao trùm tất cả không phải là Prana theo nghĩa thô thiển, mà là một tên gọi của Brahman với tư cách là tác giả của Prana cá nhân… Tất cả chúng sinh, dù là Devas, con người hay động vật, chỉ tồn tại khi Prana còn ở trong cơ thể. Đó là tuổi thọ của tất cả… Prana, hay sinh lực, là chức năng chung của trí tuệ và tất cả các giác quan.”

Serpent Power, pp. 94, 95.

– Serpent Power, trang 94, 95.

35 S. D., I, 74.

Chương 35. S. D., I, 74.

36 “This whole solar system being conceived of as one vast mechanism, with an exquisite adjustment of its parts in all major details, is only the physical expression of Vishnu, or the ethereal basic substance, as we may understand the word for the present. All the harmonies observable in the manifested cosmos are only the result of the harmoniously working energies that resolve ether into the expression that we recognize. All planets, worlds, human beings, etc., are only parts of the body, each functioning in subordination to the law which governs the whole. The evolution, preservation and destruction of the world is therefore one vast process called Yagna, which takes place in the body of Yagna Purusha, or the psychical body of nature. Humanity taken collectively is the heart and brain of this Purusha and therefore all the Karma generated by humanity, physical, mental, or spiritual, determines mainly the character of this Yagnic process… Shri Krishna therefore calls the process the Yagnic life that he has been giving out to Arjuna as Yoga (1st Sloka 4th Chr). In fact, Yoga and Yagna are very closely allied and even inseparable, though at the present day people seem to disconnect the two. Yoga derived from the root Yuj to join means an act of joining. Now as the heart is the great center in man, likewise the Yogi of the heart keeps his central position in the universe and hence his individuality. The individuality or the Higher Manas being the pivot of the human constitution or the center on which two hemispheres of higher and lower existence turn as I have already said, the Yogi of the heart has a heavenly dome above and earthly abyss below and his yoga becomes twofold as a consequence. He joins himself on to the thing above in dhyana and the thing below in action. The word Yagna derived from the root Yaj—to serve also means a twofold service, service done to the thing above through service done unto its expression the thing below.”

Chương 36. “Toàn bộ hệ mặt trời này được coi là một cơ chế rộng lớn, với sự điều chỉnh tinh tế các bộ phận của nó trong tất cả các chi tiết chính, chỉ là sự biểu hiện vật lý của Vishnu, hay chất cơ bản dĩ thái, như chúng ta có thể hiểu từ này hiện tại. Tất cả sự hài hòa có thể quan sát được trong vũ trụ biểu hiện chỉ là kết quả của các năng lượng hoạt động hài hòa, phân giải dĩ thái thành sự biểu hiện mà chúng ta nhận ra. Tất cả các hành tinh, thế giới, con người, v.v., chỉ là các bộ phận của cơ thể, mỗi bộ phận hoạt động dưới sự chi phối của định luật chi phối toàn bộ. Do đó, sự tiến hóa, bảo tồn và hủy diệt của thế giới là một quá trình rộng lớn được gọi là Yagna, diễn ra trong cơ thể của Yagna Purusha, hay cơ thể tâm linh của tự nhiên. Nhân loại được coi là tập thể là trái tim và bộ não của Purusha này và do đó tất cả nghiệp quả do nhân loại tạo ra, vật lý, trí tuệ hoặc tinh thần, chủ yếu quyết định đặc điểm của quá trình Yagnic này… Do đó, Shri Krishna gọi quá trình này là cuộc sống Yagnic mà Ngài đã truyền cho Arjuna như là Yoga (Sloka thứ 1, Chương thứ 4). Trên thực tế, Yoga và Yagna có mối quan hệ rất chặt chẽ và thậm chí không thể tách rời, mặc dù ngày nay mọi người dường như tách rời hai điều này. Yoga bắt nguồn từ gốc Yuj có nghĩa là kết hợp, có nghĩa là một hành động kết hợp. Bây giờ, vì trái tim là trung tâm lớn trong con người, tương tự như vậy, Yogi của trái tim giữ vị trí trung tâm của mình trong vũ trụ và do đó cá tính của y. Cá tính hoặc Thượng Trí, là trục của cấu trúc con người hoặc trung tâm mà trên đó hai bán cầu của sự tồn tại cao hơn và thấp hơn quay như tôi đã nói trước đây, Yogi của trái tim có một mái vòm thiên đường ở trên và vực thẳm trần gian ở dưới và kết quả là yoga của y trở thành hai mặt. Y kết hợp chính mình với điều ở trên trong dhyana và điều ở dưới trong hành động. Từ Yagna bắt nguồn từ gốc Yaj—phụng sự cũng có nghĩa là một sự phụng sự hai mặt, sự phụng sự được thực hiện cho điều ở trên thông qua sự phụng sự được thực hiện cho sự biểu hiện của nó là điều ở dưới.”

Some Thoughts on the Gita, pp. 18, 134.

– Một vài suy nghĩ về Gita, trang 18, 134.

2. Eight Statements

2. Tám Tuyên Bố

It is with the etheric bodies of all we are dealing, and with their vivification by prana (whether cosmic, solar, planetary or human), with the organs of reception and with the basis of emanations. Here, therefore, we can arrive at certain dicta anent the etheric body which for purposes of clarity might well be enumerated:

Chúng ta đang đề cập đến thể dĩ thái của tất cả chúng ta, và sự tiếp sinh lực của chúng bằng prana (dù là vũ trụ, thái dương, hành tinh hay con người), với các cơ quan tiếp nhận và với cơ sở của xuất lộ phát xạ. Do đó, ở đây, chúng ta có thể đưa ra những tuyên bố nhất định về thể dĩ thái, mà vì mục đích rõ ràng, có thể được liệt kê như sau:

First. The etheric body is the mould of the physical body.

Thứ nhất. Thể dĩ thái là khuôn mẫu của thể xác.

Second. The etheric body is the archetype upon which [82] the dense physical form is built, whether it is the form of a solar system, or of a human body in any one incarnation.

Thứ hai. Thể dĩ thái là nguyên mẫu mà trên đó [82] hình tướng vật lý trọng trược được xây dựng, dù đó là hình tướng của một hệ mặt trời, hay của một cơ thể con người trong bất kỳ lần lâm phàm nào.

Third. The etheric body is a web or network of fine interlacing channels, formed of matter of the four ethers, and built into a specific form. It forms, a focal point for certain radiatory emanations, which vivify, stimulate and produce the rotary action of matter.

Thứ ba. Thể dĩ thái là một mạng lưới hoặc mạng lưới các kênh đan xen mịn, được hình thành từ vật chất của bốn cõi dĩ thái, và được xây dựng thành một hình tướng cụ thể. Nó tạo thành một tiêu điểm cho các xuất lộ phát xạ nhất định, tiếp sinh lực, kích thích và tạo ra hoạt động quay của vật chất.

Fourth. These pranic emanations when focalized and received, react upon the dense matter which is built upon the etheric scaffolding and framework.

Thứ tư. Những xuất lộ phát xạ prana này khi được tập trung và tiếp nhận, sẽ phản ứng lên vật chất trọng trược được xây dựng trên giàn giáo và khung thể dĩ thái.

Fifth. This etheric web, during incarnation, forms a barrier between the physical and astral planes, which can only be transcended when consciousness is sufficiently developed to permit of escape. This can be seen in both the microcosm and the macrocosm. When a man has, through meditation and concentration expanded his consciousness to a certain point he is enabled to include the subtler planes, and to escape beyond the limits of the dividing web. [83] When the Logos has expanded His Consciousness on cosmic levels He can then transcend the logoic etheric web, and escape beyond the ring-pass-not of His objective manifestation. In thinking out this analogy we must hold closely in mind the fact that the seven major planes of our solar system are the seven subplanes of the cosmic physical or the lowest cosmic plane.

Thứ năm. Mạng lưới dĩ thái này, trong thời gian lâm phàm, tạo thành một rào cản giữa cõi trần và cõi cảm dục, chỉ có thể vượt qua khi tâm thức phát triển đủ để cho phép thoát ra. Điều này có thể được thấy ở cả tiểu thiên địa và đại thiên địa. Khi một người, thông qua tham thiền và tập trung đã mở rộng tâm thức của mình đến một điểm nhất định, y có thể bao gồm các cõi giới vi tế hơn và thoát ra ngoài giới hạn của mạng lưới phân chia. [83] Khi Thượng đế đã mở rộng Tâm Thức của Ngài trên các cấp độ vũ trụ, Ngài có thể vượt qua mạng lưới dĩ thái logoic và thoát ra ngoài vòng-giới-hạn của sự biểu hiện khách quan của Ngài. Khi suy nghĩ về sự tương đồng này, chúng ta phải ghi nhớ chặt chẽ thực tế là bảy cõi giới chính của hệ mặt trời của chúng ta là bảy cõi phụ của cõi trần vũ trụ hoặc cõi vũ trụ thấp nhất.

We might note here the accurate working out of the correspondence in matter and the radiatory correspondence is equally accurate.

Chúng ta có thể lưu ý ở đây sự vận hành chính xác của sự tương ứng trong vật chất và sự tương ứng bức xạ cũng chính xác như vậy.

PHYSICAL SUBPLANES

SOLAR SYSTEM PLANES

1. First ether—Atomic plane

Adi

(Divine)

Sea of fire.

First cosmic ether.

2. Second ether—Subatomic

Anupadaka

(Monadic plane)

Akasha.

Second cosmic ether.

3. Third ether—Super-etheric

Atmic

(Spiritual plane)

Aether.

Third cosmic ether.

4. Fourth ether—Super-gaseous

Buddhic

(Intuitional plane)

Air.

Fourth cosmic ether.

DENSE PHYSICAL

PLANES OF HUMANITY

5. Gaseous—Subetheric

Mental

Fire.

Cosmic gaseous.

6. Liquid

Astral

(Emotional plane)

Water.

Cosmic liquid.

7. Earthly

Physical

(Dense)

Earth.

Cosmic dense.

Sixth. In all the three bodies—human, planetary, and systemic or logoic—will be found a great organ within the organism which acts as the receiver of prana. This organ has its etheric manifestation and its dense physical correspondence.

Thứ sáu. Trong cả ba cơ thể—con người, hành tinh và hệ thống hoặc logoic—sẽ tìm thấy một cơ quan lớn trong sinh vật hoạt động như cơ quan tiếp nhận prana. Cơ quan này có sự biểu hiện dĩ thái và sự tương ứng vật lý trọng trược của nó.

In the system, the organ of cosmic prana, of the force vitalizing matter, is the central sun, which is the direct receiver and dispenser of cosmic radiation. This is one of the threefold divisions of the Primordial Ray of active intelligence. Each of the cosmic Rays is in essence threefold, a fact which is oft overlooked, though logically obvious; each Ray is the vehicle for a cosmic Entity, and all existence is necessarily triple in manifestation. The central Sun has within its periphery a center of reception with a surface radiation.

Trong hệ thống, cơ quan prana vũ trụ, của mãnh lực tiếp sinh lực vật chất, là mặt trời trung tâm, là cơ quan tiếp nhận và phân phối trực tiếp bức xạ vũ trụ. Đây là một trong ba bộ phận của Tia Nguyên Thủy của trí tuệ chủ động. Mỗi Tia vũ trụ về bản chất là tam phân, một thực tế thường bị bỏ qua, mặc dù về mặt logic là hiển nhiên; mỗi Tia là phương tiện cho một Thực Thể vũ trụ và tất cả sự tồn tại đều nhất thiết tam phân trong biểu hiện. Mặt Trời trung tâm có bên trong chu vi của nó một trung tâm tiếp nhận với bức xạ bề mặt.

In the planet there will be found a similar organ or receiver within its etheric body, the locality of which is not for esoteric publication and cannot therefore be revealed. It is connected with the location of the two poles, north and south, and is the center around which the globe rotates, and is the source of the legend of a sacred fertile land within the sphere of polar influences. The mythic land of exceeding fertility, of abundant [84] luxuriance, and of phenomenal growth, vegetable, animal and human would naturally lie where prana is received. It is the esoteric Garden of Eden, the land of physical perfection. Surface radiation demonstrates, after distribution, as planetary prana.

Trong hành tinh, sẽ tìm thấy một cơ quan hoặc bộ thu tương tự trong thể dĩ thái của nó, vị trí của nó không dành cho xuất bản nội môn và do đó không thể tiết lộ. Nó được kết nối với vị trí của hai cực, bắc và nam, và là trung tâm mà quả địa cầu quay quanh, và là nguồn gốc của truyền thuyết về một vùng đất màu mỡ thiêng liêng trong phạm vi ảnh hưởng của vùng cực. Vùng đất thần thoại có độ phì nhiêu vượt trội, sự tươi tốt dồi dào và sự phát triển phi thường, thực vật, động vật và con người sẽ tự nhiên nằm ở nơi prana được tiếp nhận. Đó là Vườn Địa Đàng nội môn, vùng đất của sự hoàn hảo vật lý. Bức xạ bề mặt thể hiện, sau khi phân phối, như prana hành tinh.

In Man. The organ of reception is the spleen through its etheric counterpart. After distribution over the entire body via the etheric network it demonstrates in surface radiation as the health aura.

Trong Con Người. Cơ quan tiếp nhận là lá lách thông qua đối tác dĩ thái của nó. Sau khi phân phối trên toàn bộ cơ thể thông qua mạng lưới dĩ thái, nó thể hiện trong bức xạ bề mặt như hào quang sức khỏe.

Seventh. Thus in all the three bodies will the resemblance clearly be seen, and the working out in perfect correspondence is easily demonstrable:

Thứ bảy. Do đó, trong cả ba cơ thể, sự tương đồng sẽ được nhìn thấy rõ ràng và sự vận hành trong sự tương ứng hoàn hảo có thể dễ dàng chứng minh:

PRANA OF THE SOLAR SYSTEM

THE SOLAR SYSTEM

Entity manifesting

The solar Logos.

Body of manifestation

The solar system.

Receptive center

Pole of the central Sun.

Surface radiation or emanation

Solar prana.

Movement produced

Systemic rotation.

Distributive effect

Solar etheric radiation (felt cosmically).

THE PLANET

Entity manifesting

A planetary Logos.

Body of manifestation

A planet.

Receptive center

The planetary pole.

Surface radiation or emanation

Planetary prana.

Movement produced

Planetary rotation.

Distributive effect

Planetary etheric radiation (felt within the system).

 A HUMAN BEING

Entity manifesting

The thinker, A Dhyan Chohan.

Body of manifestation

Physical body.

Receptive center

The spleen.

Surface radiation or emanation

Health aura.

Movement produced

Atomic rotation.

Distributive effect

Human etheric radiation (felt by environment). [85]

THE ATOM OF MATTER

Entity manifesting

An elementary life.

Body of manifestation

The atomic sphere.

Receptive center

Pole of the atom.

Surface radiation or emanation

Contribution of atom to the united health aura of body.

Movement produced

Atomic rotation.

Distributive effect

Atomic etheric radiation (felt within the physical form).

Eighth. When the “will to live” vanishes, then the “Sons of Necessity” cease from objective manifestation. This is logically inevitable, and its working out can be seen in every case of entified objectivity. When the Thinker on his own plane withdraws his attention from his little system within the three worlds and gathers within himself all his forces, then physical plane existence comes to an end and all returns within the causal consciousness; this is as much an abstraction in the three worlds of the Thinker as the Absolute is in the threefold solar system of the Logos. This demonstrates on the physical plane in the withdrawing from out of the top of the head of the radiant etheric body and the consequent disintegration of the physical. The framework goes and the dense physical form falls apart; the pranic life is abstracted bodily from out of the dense sheath, and the stimulation of the fires of matter ceases to be. The latent fire of the atom remains; it is inherent, but the form is made by the action of the two fires of matter—active and latent, radiatory and inherent—aided by the fire of the second Logos, and when they are separated the form falls apart. This is a picture in miniature of the essential duality of all things acted upon by Fohat. [86]

Thứ tám. Khi “ý chí sống” biến mất, thì “Những Đứa Con của Sự Cần Thiết” ngừng biểu hiện khách quan. Điều này là tất yếu về mặt logic, và sự vận hành của nó có thể được thấy trong mọi trường hợp của tính khách quan được thực thể hóa. Khi Người Tư Duy trên cõi giới của mình rút sự chú ý của mình khỏi hệ thống nhỏ của y trong ba cõi giới và tập hợp tất cả các mãnh lực của mình vào bên trong, thì sự tồn tại của cõi trần kết thúc và tất cả trở về trong tâm thức nhân quả; điều này cũng trừu tượng trong ba cõi giới của Người Tư Duy như Đấng Tuyệt Đối trong hệ mặt trời tam phân của Thượng đế. Điều này thể hiện trên cõi trần trong việc rút ra khỏi đỉnh đầu của thể dĩ thái rạng rỡ và sự tan rã sau đó của thể xác. Khung sườn biến mất và hình tướng vật lý trọng trược tan rã; sự sống prana được rút ra khỏi vỏ bọc trọng trược, và sự kích thích của ngọn lửa vật chất ngừng lại. Ngọn lửa tiềm ẩn của nguyên tử vẫn còn; nó vốn có, nhưng hình tướng được tạo ra bởi hành động của hai ngọn lửa vật chất—chủ động và tiềm ẩn, bức xạ và vốn có—được hỗ trợ bởi ngọn lửa của Thượng đế Ngôi Hai, và khi chúng tách rời nhau thì hình tướng tan rã. Đây là một bức tranh thu nhỏ về tính nhị nguyên thiết yếu của vạn vật được tác động bởi Fohat. [86]

There is a close connection between the spleen and the top of the head in connection with the etheric body. The organ of the spleen has an interesting correspondence to the umbilical cord which attaches an infant to the mother for purposes of nourishment, and which is separated at birth. When a man starts to live his own life of conscious desire, when a man is born into a new world of a subtler form of life, that interlaced cord of etheric matter (which had united him to his physical body) is broken; the “silver cord is loosed” and the man severs his connection with the dense physical body and passes out through the highest center of the body instead of the lowest to life in a higher world and of another dimension. So it will be found in all the bodies and sheaths of the microcosm, for the analogy will persist on all planes during manifestation. When more scientific knowledge has been gained it will be found that the same procedure on a larger scale, takes place in planetary manifestation. A planet is but the body of a planetary Logos, that body being etheric, and the Logos expressing Himself through it and building upon the etheric scaffolding a vehicle of manifestation. The moon once was the body of expression for one of the Logoi; the Earth now is, and the cycles change continuously. The center of escape for the etheric body is found likewise in a physical planet, and the planetary silver cord is loosed at the time appointed; but the times and cycles, their commencement and termination are hid in the mysteries of Initiation, and do not concern us.

Có một mối liên hệ chặt chẽ giữa lá lách và đỉnh đầu liên quan đến thể dĩ thái. Cơ quan lá lách có sự tương ứng thú vị với dây rốn gắn một đứa trẻ sơ sinh với người mẹ để nuôi dưỡng, và được tách ra khi sinh. Khi một người bắt đầu sống cuộc sống ham muốn có ý thức của riêng mình, khi một người được sinh ra trong một thế giới mới của một dạng sống vi tế hơn, sợi dây vật chất dĩ thái đan xen đó (đã hợp nhất y với cơ thể vật lý của y) bị đứt; “sợi dây bạc bị tuột” và người đó cắt đứt mối liên hệ của mình với thể xác trọng trược và đi ra qua trung tâm cao nhất của cơ thể thay vì thấp nhất để đến cuộc sống trong một thế giới cao hơn và chiều kích khác. Vì vậy, nó sẽ được tìm thấy trong tất cả các cơ thể và vỏ bọc của tiểu thiên địa, vì sự tương tự sẽ tồn tại trên tất cả các cõi giới trong quá trình biểu hiện. Khi có được kiến thức khoa học nhiều hơn, người ta sẽ thấy rằng quy trình tương tự trên quy mô lớn hơn diễn ra trong biểu hiện hành tinh. Một hành tinh chỉ là cơ thể của một Hành Tinh Thượng Đế, cơ thể đó là dĩ thái, và Thượng Đế thể hiện Chính Ngài thông qua nó và xây dựng trên giàn giáo dĩ thái một phương tiện biểu hiện. Mặt trăng từng là cơ thể biểu hiện cho một trong các Thượng Đế; Trái đất hiện tại là, và các chu kỳ thay đổi liên tục. Trung tâm thoát ra cho thể dĩ thái cũng được tìm thấy trong một hành tinh vật lý, và sợi dây bạc hành tinh bị tuột vào thời điểm được chỉ định; nhưng thời gian và chu kỳ, sự bắt đầu và kết thúc của chúng được ẩn giấu trong những bí ẩn của Điểm Đạo, và không liên quan đến chúng ta.

Again in the solar system itself similar action will eventuate at the close of a Mahamanvantara. The Logos will withdraw within Himself, abstracting His three major principles. 37 His body of manifestation—the Sun [87] and the seven sacred Planets, all existing in etheric matter—will withdraw from objectivity and become obscured. From the usual physical standpoint, the light of the system will go out. This will be succeeded by a gradual inbreathing until He shall have gathered all unto Himself; the etheric will cease to exist, and the web will be no more. Full consciousness will be achieved, and in the moment of achievement existence or entified manifestation will cease. All will be reabsorbed within the Absolute; pralaya, 38 or the cosmic heaven of rest will then ensue, and the Voice of the Silence will be heard no more. The reverberations of the word will die away, and the “Silence of the High Places” will reign supreme.

Một lần nữa, trong chính hệ mặt trời, hành động tương tự sẽ xảy ra vào cuối một Đại giai kỳ sinh hóa. Thượng đế sẽ rút vào bên trong Chính Ngài, rút ra ba nguyên khí chính của Ngài. 37 Cơ thể biểu hiện của Ngài—Mặt Trời [87] và bảy Hành Tinh thiêng liêng, tất cả tồn tại trong vật chất dĩ thái—sẽ rút khỏi tính khách quan và trở nên lu mờ. Từ quan điểm vật lý thông thường, ánh sáng của hệ thống sẽ tắt. Điều này sẽ được kế tiếp bởi một sự hít vào dần dần cho đến khi Ngài tập hợp tất cả vào Chính Ngài; dĩ thái sẽ ngừng tồn tại, và mạng lưới sẽ không còn nữa. Tâm thức đầy đủ sẽ đạt được, và trong khoảnh khắc đạt được, sự tồn tại hoặc biểu hiện được thực thể hóa sẽ chấm dứt. Tất cả sẽ được tái hấp thu trong Đấng Tuyệt Đối; giai kỳ qui nguyên, 38 hoặc thiên đàng nghỉ ngơi vũ trụ sẽ xảy ra sau đó, và Tiếng Nói của Im Lặng sẽ không còn được nghe thấy nữa. Tiếng vang của linh từ sẽ tan biến, và “Sự Im Lặng của Những Nơi Cao Cả” sẽ ngự trị tối cao.

37 Principles, the basic differentiations, essential qualities or types of energy upon which all things are built; they give the distinctive nature of all forms.

37 Nguyên khí, sự phân biệt cơ bản, phẩm tính thiết yếu hoặc các loại năng lượng mà trên đó vạn vật được xây dựng; chúng mang lại bản chất đặc biệt của tất cả các hình tướng.

38 Pralaya—A period of obscuration or repose—planetary, systemic or cosmic. An interlude between two periods of manifestation.

38 Giai kỳ qui nguyên—Một giai đoạn lu mờ hoặc nghỉ ngơi—hành tinh, hệ thống hoặc vũ trụ. Một khúc dạo giữa hai giai đoạn biểu hiện.

II. The Nature of Prana

[Commentary S1S8]

In dealing with the subject of the etheric body and its functions as an assimilator and distributor of prana, we have dealt with it from the standpoint of its place in the scheme of things. We have considered this matter of etherics from the angle of correspondences, and have traced analogies in the system, the planet, and man. We have seen that it formed the foundation of the dense physical form, and in itself constituted a most important link between:

Khi đề cập đến chủ đề về thể dĩ thái và các chức năng của nó như một cơ quan đồng hóa và phân phối prana, chúng ta đã đề cập đến nó từ quan điểm về vị trí của nó trong sơ đồ vạn vật. Chúng ta đã xem xét vấn đề dĩ thái này từ góc độ của sự tương ứng, và đã truy tìm sự tương tự trong hệ thống, hành tinh và con người. Chúng ta đã thấy rằng nó tạo thành nền tảng của hình tướng vật lý trọng trược, và tự nó tạo thành một liên kết quan trọng nhất giữa:

a. Physical man, and the emotional or astral plane.

a. Con người vật lý, và cõi cảm xúc hoặc cõi cảm dục.

b. Planetary Man, and essential emotional quality.

b. Con Người Hành Tinh, và phẩm tính cảm xúc thiết yếu.

c. The Logos, the grand Heavenly Man, and the cosmic astral plane.

c. Thượng Đế, Đấng Thiên Nhân vĩ đại, và cõi cảm dục vũ trụ.

We might now narrow the subject down to the consideration of the etheric body of the human being and not touch upon correspondences to things systemic or cosmic at all, though it may be necessary to remind ourselves that for the wise student the line along which wisdom [88] comes is the interpretative one; he who knows himself (in objective manifestation, essential quality, and comprehensive development) knows likewise the Lord of his Ray, and the Logos of his system. It is only then a matter of application, conscious expansion, and intelligent interpretation, coupled to a wise abstention from dogmatic assertion, and a recognition that the correspondence lies in quality and method more than in detailed adherence to a specified action at any given time in evolution.

Bây giờ chúng ta có thể thu hẹp chủ đề xuống việc xem xét thể dĩ thái của con người và hoàn toàn không đề cập đến sự tương ứng với những điều mang tính hệ thống hoặc vũ trụ, mặc dù có thể cần phải nhắc nhở bản thân rằng đối với học viên khôn ngoan, con đường mà minh triết [88] đến là con đường giải thích; người biết mình (trong biểu hiện khách quan, phẩm tính thiết yếu và sự phát triển toàn diện) cũng biết Chúa Tể Cung của mình và Thượng Đế của hệ thống của mình. Khi đó, nó chỉ là vấn đề ứng dụng, mở rộng có ý thức và giải thích thông minh, kết hợp với sự kiềm chế khôn ngoan khỏi khẳng định giáo điều và nhận ra rằng sự tương ứng nằm ở phẩm tính và phương pháp hơn là tuân thủ chi tiết một hành động cụ thể vào bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tiến hóa.

All that it is possible to give here is material which, if rightly pondered on, may result in more intelligent practical living in the occult sense of the term “living”; which, if studied scientifically, religiously and philosophically, may lead to the furthering of the aims of the evolutionary process in the immediately coming lesser cycle. Our aim, therefore, is to make the secondary body of man more real, and to show some of its functions and how it can eventually be brought consciously into the range of mental comprehension.

Tất cả những gì có thể đưa ra ở đây là tài liệu, nếu được suy ngẫm đúng đắn, có thể dẫn đến cuộc sống thực tế thông minh hơn theo nghĩa huyền bí của thuật ngữ “cuộc sống”; nếu được nghiên cứu một cách khoa học, tôn giáo và triết học, có thể dẫn đến việc thúc đẩy các mục tiêu của quá trình tiến hóa trong chu kỳ nhỏ sắp tới. Do đó, mục tiêu của chúng ta là làm cho cơ thể thứ cấp của con người trở nên thực tế hơn và cho thấy một số chức năng của nó và làm thế nào nó có thể cuối cùng được đưa vào phạm vi hiểu biết trí tuệ một cách có ý thức.

Science, as we know, is fast reaching the point where it will be forced to admit the fact of the etheric body, because the difficulties of refusing to acknowledge it, will be far more insuperable than an admission of its existence. Scientists admit already the fact of etheric matter; the success of photographic endeavor has demonstrated the reality of that which has hitherto been considered unreal, because (from the standpoint of the physical) intangible. Phenomena are occurring all the time which remain in the domain of the supernatural unless accounted for through the medium of etheric matter, and in their anxiety to prove the spiritualists wrong, scientists have aided the cause of the true and higher spiritism by falling back on reality, and on the fact of the etheric body, even though they consider it a body of [89] emanative radiation—being concerned with the effect and not having yet ascertained the cause. Medical men are beginning to study (blindly as yet) the question of vitality, the effect of solar rays upon the physical organism, and the underlying laws of inherent and radiatory heat. They are beginning to ascribe to the spleen functions hitherto not recognized, to study the effect of the action of the glands, and their relation to the assimilation of the vital essences by the bodily frame. They are on the right road, and before long (perhaps within this century) the FACT of the etheric body and its basic function will be established past all controversy, and the whole aim of preventive and curative medicine will shift to a higher level. All we can do here is to give simply, and in a condensed form, a few facts which may hasten the day of recognition, and further the interest of the true investigator. Let me, therefore, briefly state what will be dealt with in our remaining three points:

Khoa học, như chúng ta biết, đang nhanh chóng đạt đến điểm mà nó sẽ buộc phải thừa nhận thực tế về thể dĩ thái, bởi vì những khó khăn khi từ chối thừa nhận nó sẽ không thể vượt qua hơn nhiều so với việc thừa nhận sự tồn tại của nó. Các nhà khoa học đã thừa nhận thực tế về vật chất dĩ thái; thành công của nỗ lực nhiếp ảnh đã chứng minh tính hiện thực của những gì cho đến nay được coi là không có thật, bởi vì (từ quan điểm vật lý) không thể sờ thấy. Các hiện tượng đang xảy ra mọi lúc mà vẫn nằm trong lĩnh vực siêu nhiên trừ khi được giải thích thông qua môi trường của vật chất dĩ thái, và trong sự lo lắng của họ để chứng minh những người theo thuyết duy linh sai, các nhà khoa học đã hỗ trợ cho sự nghiệp của thuyết duy linh chân chính và cao hơn bằng cách quay trở lại thực tế, và thực tế về thể dĩ thái, mặc dù họ coi nó là một cơ thể [89] bức xạ xuất lộ—quan tâm đến hiệu ứng và chưa xác định được nguyên nhân. Các bác sĩ đang bắt đầu nghiên cứu (mù quáng như hiện tại) vấn đề sinh lực, ảnh hưởng của tia thái dương lên cơ thể vật lý và các định luật cơ bản của nhiệt vốn có và bức xạ. Họ đang bắt đầu quy cho lá lách các chức năng chưa được công nhận cho đến nay, nghiên cứu ảnh hưởng của hoạt động của các tuyến và mối quan hệ của chúng với sự đồng hóa các tinh chất sinh lực của khung cơ thể. Họ đang đi đúng hướng, và chẳng bao lâu nữa (có lẽ trong thế kỷ này) THỰC TẾ về thể dĩ thái và chức năng cơ bản của nó sẽ được thiết lập vượt qua mọi tranh cãi, và toàn bộ mục tiêu của y học dự phòng và chữa bệnh sẽ chuyển sang một cấp độ cao hơn. Tất cả những gì chúng ta có thể làm ở đây là đưa ra một cách đơn giản và cô đọng một vài sự kiện có thể đẩy nhanh ngày công nhận và thúc đẩy sự quan tâm của nhà nghiên cứu chân chính. Do đó, hãy để tôi nói ngắn gọn những gì sẽ được đề cập trong ba điểm còn lại của chúng ta:

– The functions of the etheric body.

– Các chức năng của thể dĩ thái.

– Its relation to the physical during life.

– Mối quan hệ của nó với vật lý trong suốt cuộc đời.

– The ills or diseases of the etheric body (taking care to retain the original meaning of the word “disease.”)

– Những bệnh tật hoặc bệnh tật của thể dĩ thái (chú ý giữ lại ý nghĩa ban đầu của từ “bệnh tật”).

– Its after death condition.

– Tình trạng sau khi chết của nó.

This will embody all that is as yet of practical use. More may later be forthcoming for our helping if that which is now given to the public is carefully followed up, and if investigators wisely, sanely and broadly study this important matter.

Điều này sẽ bao gồm tất cả những gì cho đến nay có thể sử dụng được trên thực tế. Nhiều hơn có thể được cung cấp sau này để chúng ta giúp đỡ nếu những gì hiện đang được cung cấp cho công chúng được theo dõi cẩn thận, và nếu các nhà nghiên cứu nghiên cứu vấn đề quan trọng này một cách khôn ngoan, lành mạnh và rộng rãi.

As the nature and functions of the etheric body of man assume their rightful place in the thought of the world and as it is realized that the etheric is the most important of the two physical bodies, man will be brought into closer conscious contact with the other evolutions [90] that evolve in etheric matter just as he does in a dense physical body. There are certain large groups of devas, called “the devas of the shadows,” or the violet devas, who are closely allied with the evolutionary development of man’s etheric body, and who transmit to him solar and planetary radiation. The etheric body of man receives prana in different ways and of different kinds, and all these ways bring him into touch with varying entities.

Khi bản chất và chức năng của thể dĩ thái của con người chiếm vị trí xứng đáng của chúng trong tư tưởng của thế giới và khi người ta nhận ra rằng dĩ thái là quan trọng nhất trong hai cơ thể vật lý, con người sẽ được đưa vào sự tiếp xúc có ý thức gần gũi hơn với các sự tiến hóa khác [90] tiến hóa trong vật chất dĩ thái giống như y tiến hóa trong một cơ thể vật lý trọng trược. Có những nhóm thiên thần lớn nhất định, được gọi là “các thiên thần của bóng tối” hoặc các thiên thần màu tím, có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển tiến hóa của thể dĩ thái của con người và truyền cho y bức xạ thái dương và hành tinh. Thể dĩ thái của con người nhận prana theo những cách khác nhau và các loại khác nhau, và tất cả những cách này đưa y tiếp xúc với các thực thể khác nhau.

1. Solar Prana

This is that vital and magnetic fluid which radiates from the sun, and which is transmitted to man’s etheric body through the agency of certain deva entities of a very high order, and of a golden hue. It is passed through their bodies and emitted as powerful radiations, which are applied direct through certain plexi in the uppermost part of the etheric body, the head and shoulders, and passed down to the etheric correspondence of the physical organ, the spleen, and from thence forcibly transmitted into the spleen itself. These golden hued pranic entities are in the air above us, and are specially active in such parts of the world as California, in those tropical countries where the air is pure and dry, and the rays of the sun are recognized as being specially beneficial. Relations between man and this group of devas are very close, but fraught as yet with much danger to man. These devas are of a very powerful order, and, along their own line, are further evolved than man himself. Unprotected man lies at their mercy, and in this lack of protection, and man’s failure to understand the laws of magnetic resistance, or of solar repulsion comes, for instance, the menace of sunstroke. When the etheric body and its assimilative processes are comprehended scientifically, man will then be immune from dangers due to solar radiation. He will protect himself by the application of the laws [91] governing magnetic repulsion and attraction, and not so much by clothing and shelter. It is largely a question of polarization. One hint might here be given: When men understand the deva evolution somewhat more correctly and recognize their work along certain lines in connection with the Sun and realize that they represent the feminine pole as they themselves represent the masculine (the fourth Creative Hierarchy being male) 39 they will comprehend the mutual relationship, and govern that relationship by law.

Đây là lưu chất sinh lực và từ tính tỏa ra từ mặt trời, và được truyền đến thể dĩ thái của con người thông qua sự trung gian của một số thực thể thiên thần có cấp bậc rất cao và có màu vàng kim. Nó được truyền qua cơ thể của họ và phát ra dưới dạng bức xạ mạnh mẽ, được áp dụng trực tiếp thông qua một số đám rối ở phần trên cùng của thể dĩ thái, đầu và vai, và truyền xuống sự tương ứng dĩ thái của cơ quan vật lý, lá lách, và từ đó được truyền mạnh mẽ vào chính lá lách. Những thực thể prana màu vàng kim này ở trong không khí trên chúng ta, và đặc biệt hoạt động ở những nơi trên thế giới như California, ở những quốc gia nhiệt đới nơi không khí trong lành và khô ráo, và tia mặt trời được công nhận là đặc biệt có lợi. Mối quan hệ giữa con người và nhóm thiên thần này rất chặt chẽ, nhưng cho đến nay vẫn tiềm ẩn nhiều nguy hiểm cho con người. Những vị thiên thần này thuộc một cấp bậc rất quyền năng, và theo tuyến tiến hoá riêng của họ, họ tiến hóa hơn cả con người. Con người không được bảo vệ thì hoàn toàn nằm trong tay các vị ấy, và chính trong sự thiếu bảo vệ này, chẳng hạn cùng với sự thất bại của con người trong việc như thấu hiểu các định luật về kháng lực từ tính hoặc về sự đẩy lùi thái dương, mà hiểm họa của chứng cảm nắng phát sinh. Khi thể dĩ thái và các quá trình đồng hóa của nó được hiểu một cách khoa học, con người sẽ miễn nhiễm với những nguy hiểm do bức xạ mặt trời gây ra. Y sẽ tự bảo vệ mình bằng cách áp dụng các định luật [91] chi phối sự đẩy lùi và hấp dẫn từ tính, và không quá nhiều bằng quần áo và nơi trú ẩn. Phần lớn là vấn đề phân cực. Một gợi ý có thể được đưa ra ở đây: Khi con người hiểu sự tiến hóa của thiên thần một cách chính xác hơn và nhận ra công việc của họ trên một số dòng nhất định liên quan đến Mặt Trời và nhận ra rằng thiên thần đại diện cho cực âm trong khi họ đại diện cho cực dương (Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư là dương) 39 họ sẽ hiểu mối quan hệ lẫn nhau và chi phối mối quan hệ đó bằng định luật.

These solar devas take the radiatory rays of the sun which reach from its center to the periphery along one of the three channels of approach, pass them through their organism and focalize them there. They act almost as a burning glass acts. These rays are then reflected or transmitted to man’s etheric body, and caught up by him and again assimilated. When the etheric body is in good order and functioning correctly, enough of this prana is absorbed to keep the form organized. This is the whole object of the etheric body’s functioning, and is a point which cannot be sufficiently emphasized. The remainder is cast off in the form of animal radiation, or physical magnetism—all terms expressing the same idea. Man therefore repeats on a lesser scale the work of the great solar devas, and in his turn adds his quota of repolarized or remagnetized emanation to the sumtotal of the planetary aura.

Những thiên thần mặt trời này nhận các tia bức xạ của mặt trời đi từ trung tâm của nó đến chu vi dọc theo một trong ba kênh tiếp cận, truyền chúng qua cơ thể họ và tập trung chúng ở đó. Họ hoạt động gần như một thấu kính hội tụ hoạt động. Những tia này sau đó được phản xạ hoặc truyền đến thể dĩ thái của con người, và được y bắt lại và đồng hóa lại. Khi thể dĩ thái hoạt động tốt và hoạt động chính xác, đủ prana này được hấp thụ để giữ cho hình tướng được tổ chức. Đây là toàn bộ mục tiêu của hoạt động của thể dĩ thái, và là một điểm không thể nhấn mạnh đủ. Phần còn lại được loại bỏ dưới dạng bức xạ động vật hoặc từ điện vật lý—tất cả các thuật ngữ thể hiện cùng một ý tưởng. Do đó, con người lặp lại ở một quy mô nhỏ hơn công việc của các thần thái dương vĩ đại, và đến lượt mình, y đóng góp phần phát xạ đã được phân cực lại hoặc được từ hoá lại vào tổng thể hào quang hành tinh.

39 S. D., I, 232-238.

39 S. D., I, 232-238.

The whole cosmos is guided, controlled and animated by an almost endless series of Hierarchies of sentient Beings, each having a mission to perform. S D., I; 295.

Toàn bộ vũ trụ được hướng dẫn, kiểm soát và hoạt hình bởi một loạt các Huyền Giai của các Sinh Vật hữu thức gần như vô tận, mỗi Huyền Giai có một sứ mệnh để thực hiện. S D., I; 295.

Among these the Hierarchy of human Monads has a place.

Trong số này, Huyền Giai của Chân Thần con người có một vị trí.

2. Planetary Prana

This is the vital fluid emanated from any planet, which constitutes its basic coloring or quality, and is produced by a repetition within the planet of the same process [92] which is undergone in connection with man and solar prana. The planet (the Earth, or any other planet) absorbs solar prana, assimilates, what is required, and radiates off that which is not essential to its well-being in the form of planetary radiation. Planetary prana, therefore, is solar prana which has passed throughout the planet, has circulated through the planetary etheric body, has been transmitted to the dense physical planet, and has been cast off thence in the form of a radiation of the same essential character as solar prana, plus the individual and distinctive quality of the particular planet concerned. This again repeats the process undergone in the human body. The physical radiations of men differ according to the quality of their physical bodies. So it is with a planet.

Đây là lưu chất sinh lực phát ra từ bất kỳ hành tinh nào, tạo thành màu sắc hoặc phẩm tính cơ bản của nó, và được tạo ra bởi sự lặp lại trong hành tinh của cùng một quá trình [92] diễn ra liên quan đến con người và prana mặt trời. Hành tinh (Trái đất hoặc bất kỳ hành tinh nào khác) hấp thụ prana mặt trời, đồng hóa những gì cần thiết và bức xạ ra những gì không cần thiết cho sự khỏe mạnh của nó dưới dạng bức xạ hành tinh. Do đó, prana hành tinh là prana mặt trời đã đi qua khắp hành tinh, đã lưu thông qua thể dĩ thái hành tinh, đã được truyền đến hành tinh vật lý trọng trược và đã được loại bỏ từ đó dưới dạng bức xạ có cùng đặc tính thiết yếu như prana mặt trời, cộng với phẩm tính riêng biệt và cá nhân của hành tinh cụ thể có liên quan. Điều này một lần nữa lặp lại quá trình diễn ra trong cơ thể con người. Bức xạ vật lý của con người khác nhau tùy theo phẩm tính của cơ thể vật lý của họ. Vì vậy, nó là với một hành tinh.

Planetary emanative prana (as in the case of solar prana) is caught up and transmitted via a particular group of devas, called the “devas of the shadows,” who are ethereal devas of a slightly violet hue. Their bodies are composed of the matter of one or other of the four ethers, and they focalize and concentrate the emanations of the planet, and of all forms upon the planet. They have a specially close connection with human beings owing to the fact of the essential resemblance of their bodily substance to man’s etheric substance, and because they transmit to him the magnetism of “Mother Earth” as it is called. Therefore we see that there are two groups of devas working in connection with man:

Prana phát xạ hành tinh (như trong trường hợp prana mặt trời) được bắt và truyền qua một nhóm thiên thần cụ thể, được gọi là “các thiên thần của bóng tối”, là những thiên thần dĩ thái có màu tím nhạt. Cơ thể của họ được cấu tạo từ vật chất của một hoặc một trong bốn cõi dĩ thái, và họ tập trung và cô đặc sự xuất lộ của hành tinh và của tất cả các hình tướng trên hành tinh. Họ có mối liên hệ đặc biệt chặt chẽ với con người do thực tế về sự giống nhau thiết yếu của chất cơ thể của họ với chất dĩ thái của con người, và vì họ truyền cho y từ tính của “Mẹ Trái Đất” như được gọi. Do đó, chúng ta thấy rằng có hai nhóm thiên thần làm việc liên quan đến con người:

a. Solar devas, who transmit the vital fluid which circulates in the etheric body.

a. Các thiên thần mặt trời, truyền lưu chất sinh lực lưu thông trong thể dĩ thái.

b. Planetary devas of a violet color, who are allied to man’s etheric body, and who transmit earth’s prana, or the prana of whichever planet man may be functioning upon during a physical incarnation.

b. Các thiên thần hành tinh có màu tím, có liên quan đến thể dĩ thái của con người, và truyền prana của trái đất, hoặc prana của bất kỳ hành tinh nào mà con người có thể đang hoạt động trong quá trình lâm phàm vật lý.

A very pertinent question might here be asked, and though we may not fully explain the mystery, a few [93] suggestive hints may be possible. We might ask: What causes the apparent deadness of the Moon? Is there deva life upon it? Does solar prana have no effect there? What constitutes the difference between the apparently dead Moon, and a live planet, such as the Earth? 40

Một câu hỏi rất phù hợp có thể được đặt ra ở đây, và mặc dù chúng ta có thể không giải thích đầy đủ bí ẩn, một vài [93] gợi ý có thể. Chúng ta có thể hỏi: Điều gì gây ra sự chết chóc rõ ràng của Mặt Trăng? Có sự sống thiên thần trên đó không? Prana mặt trời có ảnh hưởng gì ở đó không? Điều gì tạo nên sự khác biệt giữa Mặt Trăng dường như đã chết và một hành tinh sống, chẳng hạn như Trái đất? 40

Here we touch upon a hidden mystery, of which the solution lies revealed for those who seek, in the fact that human beings and certain groups of devas are no longer found upon the Moon. Man has not ceased to exist upon the Moon because it is dead and cannot therefore support his life, but the Moon is dead because man and these deva groups have been removed from off its surface, and from its sphere of influence. 41 Man and the devas act on every planet as intermediaries, or as transmitting agencies. Where they are not found, then certain great activities become impossible, and disintegration sets in. The reason for this removal lies in the cosmic Law of Cause and Effect, or cosmic karma, and in the composite, yet individual, history of that one of the Heavenly Men Whose body, the Moon or any other dead planet at any time happened to be.

Ở đây chúng ta chạm vào một bí ẩn ẩn giấu, mà giải pháp của nó được tiết lộ cho những người tìm kiếm, trong thực tế là con người và một số nhóm thiên thần không còn được tìm thấy trên Mặt Trăng. Con người đã không ngừng tồn tại trên Mặt Trăng vì nó đã chết và do đó không thể hỗ trợ cuộc sống của y, nhưng Mặt Trăng đã chết vì con người và các nhóm thiên thần này đã bị loại bỏ khỏi bề mặt của nó và khỏi phạm vi ảnh hưởng của nó. 41 Con người và các thiên thần hoạt động trên mọi hành tinh như những người trung gian hoặc như các cơ quan truyền dẫn. Nơi họ không được tìm thấy, thì một số hoạt động vĩ đại trở nên bất khả thi và sự tan rã bắt đầu. Lý do cho sự loại bỏ này nằm trong Định luật Nhân Quả vũ trụ, hoặc nghiệp quả vũ trụ, và trong lịch sử tổng hợp, nhưng cá nhân, của một trong những Đấng Thiên Nhân mà cơ thể của Ngài, Mặt Trăng hoặc bất kỳ hành tinh chết nào khác vào bất kỳ thời điểm nào đã xảy ra.

40 (S. D., I, 170-180.)

40 (S. D., I, 170-180.)

41 (S. D., I, 179.)

41 (S. D., I, 179.)

3. The Prana of Forms

[Commentary S1S9]

It must first be pointed out that forms are necessarily of two kinds, each having a different place in the scheme:

Trước tiên phải chỉ ra rằng các hình tướng nhất thiết phải thuộc hai loại, mỗi loại có một vị trí khác nhau trong sơ đồ:

– Forms that are the result of the work of the third and the second Logos, and Their united life. Such forms are the units in the vegetable, animal and mineral kingdoms.

– Các hình tướng là kết quả công việc của Thượng đế ngôi ba và ngôi hai, và sự sống hợp nhất của Họ. Các hình tướng như vậy là các đơn vị trong giới thực vật, động vật và khoáng vật.

– Forms that are the result of the united action of the three Logoi, and comprise the strictly deva and human forms.

– Các hình tướng là kết quả hành động hợp nhất của ba Thượng đế, và bao gồm các hình tướng thật sự là thiên thần và con người.

There is also the still simpler form embodied in the substance of which all the other forms are made. This matter [95] is strictly speaking the atomic and molecular matter, and is animated by the life or energy of the third Logos.

Ngoài ra còn có hình tướng đơn giản hơn được thể hiện trong chất liệu mà tất cả các hình tướng khác được tạo ra. Vật chất này [95] nói đúng ra là vật chất nguyên tử và phân tử, và được hoạt hình bởi sự sống hoặc năng lượng của Thượng đế ngôi ba.

CHART II — LOGOS OF A SOLAR SYSTEM [95]

BIỂU ĐỒ II — THƯỢNG ĐẾ CỦA MỘT HỆ MẶT TRỜI [95]

In dealing with the first group of forms, it must be noted that the pranic emanations given off by units of the animal and vegetable kingdom (after they have absorbed both solar and planetary prana) are naturally a combination of the two, and are transmitted by means of surface radiation, as in solar and planetary Prana, to certain lesser groups of devas of a not very high order, who have a curious and intricate relationship to the group soul of the radiating animal or vegetable. This matter cannot be dealt with here. These devas are also of a violet hue, but of such a pale color as to be almost grey; they are in a transitional state, and merge with a puzzling confusion with groups of entities that are almost on the involutionary arc. 42, 43, 43a [96]

Khi đề cập đến nhóm hình tướng đầu tiên, cần lưu ý rằng các bức xạ prana được phát ra bởi các đơn vị của giới động vật và thực vật (sau khi chúng đã hấp thụ cả prana mặt trời và hành tinh) tự nhiên là sự kết hợp của cả hai, và được truyền bằng bức xạ bề mặt, như trong Prana mặt trời và hành tinh, cho một số nhóm thiên thần nhỏ hơn có trật tự không cao lắm, những người có mối quan hệ tò mò và phức tạp với hồn nhóm của động vật hoặc thực vật bức xạ. Vấn đề này không thể được đề cập ở đây. Những thiên thần này cũng có màu tím, nhưng có màu nhạt đến mức gần như xám; họ đang ở trong trạng thái chuyển tiếp, và hợp nhất với sự nhầm lẫn khó hiểu với các nhóm thực thể gần như trên vòng cung giáng hạ tiến hóa. 42, 43, 43a [96]

In dealing with the second group, the human form transmits the emanative radiations to a much higher grade of deva. These devas are of a more pronounced hue, and after due assimilation of the human radiation, they transmit it principally to the animal kingdom, thus demonstrating the close relationship between the two kingdoms. If the above explanation of the intricate interrelation between the sun and the planets, between the planets and the evolving forms upon them, between the forms themselves in ever descending importance demonstrates nothing more than the exquisite interdependence of all existences, then much will have been achieved.

Khi đề cập đến nhóm thứ hai, hình tướng con người truyền bức xạ cho một cấp độ thiên thần cao hơn nhiều. Những thiên thần này có màu sắc rõ rệt hơn, và sau khi đồng hóa bức xạ con người, họ truyền nó chủ yếu cho giới động vật, do đó chứng minh mối quan hệ chặt chẽ giữa hai giới. Nếu lời giải thích trên về mối quan hệ phức tạp giữa mặt trời và các hành tinh, giữa các hành tinh và các hình tướng tiến hóa trên chúng, giữa chính các hình tướng theo tầm quan trọng giảm dần chứng minh không có gì hơn sự phụ thuộc lẫn nhau tinh tế của tất cả các sự tồn tại, thì nhiều điều sẽ đạt được.

Another fact which must also be brought out is the close relationship between all these evolutions of nature, from the celestial sun down to the humblest violet via the [97] deva evolution which acts as the transmitting transmuting force throughout the system.

Một thực tế khác cũng phải được đưa ra là mối quan hệ chặt chẽ giữa tất cả các sự tiến hóa này của tự nhiên, từ mặt trời trên trời xuống đến hoa violet khiêm tốn nhất thông qua sự tiến hóa của thiên thần [97] hoạt động như mãnh lực biến đổi truyền dẫn trong toàn bộ hệ thống.

Lastly, all work with fire. Fire internal, inherent and latent; fire radiatory and emanative; fire generated, assimilated and radiated; fire vivifying, stimulating and destroying; fire transmitted, reflected, and absorbed; fire, the basis of all life; fire, the essence of all existence; fire, the means of development, and the impulse behind all evolutionary process; fire, the builder, the preserver, and the constructor; fire, the originator, the process and the goal; fire the purifier and the consumer. The God of Fire and the fire of God interacting upon each other, till all fires blend and blaze and till all that exists, is passed through the fire—from a solar system to an ant—and emerges as a triple perfection. Fire then passes out from the ring-pass-not as perfected essence, whether essence emerging from the human ring-pass-not, the planetary ring-pass-not or the solar. The wheel of fire turns and all within that wheel is subjected to the threefold flame, and eventually stands perfected.

Cuối cùng, tất cả đều làm việc với lửa. Lửa nội tại, tự hữu và tiềm ẩn; lửa bức xạ và xuất lộ; lửa được tạo ra, đồng hóa và bức xạ; lửa tiếp sinh lực, kích thích và phá hủy; lửa được truyền, phản xạ và hấp thụ; lửa, nền tảng của mọi sự sống; lửa, bản chất của mọi sự tồn tại; lửa, phương tiện phát triển và xung lực đằng sau mọi quá trình tiến hóa; lửa, người xây dựng, người bảo tồn và người kiến tạo; lửa, người khởi xướng, quá trình và mục tiêu; lửa, người thanh lọc và người tiêu dùng. Thượng đế của Lửa và lửa của Thượng đế tương tác lẫn nhau, cho đến khi tất cả các ngọn lửa hòa trộn và bùng cháy và cho đến khi tất cả những gì tồn tại, được truyền qua lửa—từ một hệ mặt trời đến một con kiến—và xuất hiện như một sự hoàn hảo tam phân. Lửa sau đó đi ra khỏi vòng-giới-hạn như tinh chất hoàn hảo, dù tinh chất xuất hiện từ vòng-giới-hạn của con người, vòng-giới-hạn hành tinh hay vòng-giới-hạn mặt trời. Bánh xe lửa quay và tất cả trong bánh xe đó đều phải chịu ngọn lửa tam phân, và cuối cùng đứng vững hoàn hảo.

42 Involutionary Arc is the term applied to the first part of the evolutionary process. It covers the “path of descent,” or the coming down of Spirit into ever denser matter until the lowest point is reached, the point of densest concretion. The latter half of the process is called evolutionary and marks the ascent or return of Spirit to its emanating source, plus the gains of the evolutionary process.

42 Vòng Cung Giáng Hạ Tiến Hóa là thuật ngữ được áp dụng cho phần đầu tiên của quá trình tiến hóa. Nó bao gồm “con đường đi xuống”, hoặc sự đi xuống của Tinh Thần vào vật chất ngày càng trọng trược hơn cho đến khi đạt đến điểm thấp nhất, điểm ngưng tụ trọng trược nhất. Nửa sau của quá trình được gọi là tiến hóa và đánh dấu sự đi lên hoặc trở lại của Tinh Thần đến nguồn phát ra của nó, cộng với những lợi ích của quá trình tiến hóa.

43The Three Outpourings. In the diagram the “symbols of the three Aspects (of the Logos) are placed outside of time and space, and only the streams of influence from them descend into our system of planes… They represent in due order what are commonly called the three Persons of the Trinity… It will be seen that from each of them an outpouring of life or force is projected into the planes below. The first of these in order is the straight line which descends from the third Aspect; the second is that part of the large oval which lies on our left hand—the stream which descends from the second Aspect until it has touched the lowest point in matter, and then rises again up the side on our right hand until it reaches the lower mental level. It will be noted that in both of these outpourings the divine life becomes darker and more veiled as it descends into matter, until at the lowest point we might almost fail to recognize it as divine life at all; but as it rises again when it has passed its nadir it shows itself somewhat more clearly. The third outpouring which descends from the highest aspect of the Logos differs from the others in that it is in no way clouded by the matter through which it passes, but retains its virgin purity and splendor untarnished. It will be noted that this outpouring descends only to the level of the buddhic plane (the fourth plane) and that the link between the two is formed by a triangle in a circle, representing the individual soul of man—the reincarnating ego. Here the triangle is contributed by the third outpouring and the circle by the second…”

43 “Ba Sự Tuôn Đổ. Trong sơ đồ, “các biểu tượng của ba Trạng Thái (của Thượng đế) được đặt bên ngoài thời gian và không gian, và chỉ các dòng ảnh hưởng từ chúng đi xuống hệ thống các cõi giới của chúng ta… Chúng đại diện theo đúng thứ tự những gì thường được gọi là ba Ngôi của Chúa Ba Ngôi… Sẽ thấy rằng từ mỗi Ngôi trong số chúng, một sự tuôn đổ sự sống hoặc mãnh lực được chiếu vào các cõi giới bên dưới. Thứ nhất trong số này theo thứ tự là đường thẳng đi xuống từ Trạng Thái thứ ba; thứ hai là phần của hình bầu dục lớn nằm ở bên tay trái của chúng ta—dòng chảy đi xuống từ Trạng Thái thứ hai cho đến khi chạm đến điểm thấp nhất trong vật chất, và sau đó lại dâng lên bên tay phải của chúng ta cho đến khi đạt đến cấp độ trí tuệ thấp hơn. Cần lưu ý rằng trong cả hai sự tuôn đổ này, sự sống thiêng liêng trở nên tối hơn và được che giấu nhiều hơn khi nó đi xuống vật chất, cho đến điểm thấp nhất, chúng ta gần như không thể nhận ra nó là sự sống thiêng liêng; nhưng khi nó dâng lên trở lại khi đã qua điểm thấp nhất, nó cho thấy rõ ràng hơn một chút. Sự tuôn đổ thứ ba đi xuống từ trạng thái cao nhất của Thượng đế khác với những sự tuôn đổ khác ở chỗ nó không bị vật chất mà nó đi qua làm lu mờ theo bất kỳ cách nào, mà vẫn giữ được sự tinh khiết và huy hoàng nguyên sơ của nó. Cần lưu ý rằng sự tuôn đổ này chỉ đi xuống đến cấp độ của cõi bồ đề (cõi thứ tư) và liên kết giữa hai cõi được hình thành bởi một hình tam giác trong một vòng tròn, đại diện cho linh hồn cá nhân của con người—chân ngã tái sinh. Ở đây hình tam giác được đóng góp bởi sự tuôn đổ thứ ba và vòng tròn bởi thứ hai…”

– The Christian Creed, by C. W. Leadbeater, pp. 39, 40.

– Tín Điều Kitô Giáo, của C. W. Leadbeater, trang 39, 40.

43a See S. D., I, 98, 99, 100, 103.

43a Xem S. D., I, 98, 99, 100, 103.

1. The root of life was in every drop of the ocean of immortality Every atom in matter was impregnated with the life of the Logos.

1. Gốc rễ của sự sống nằm trong mọi giọt đại dương bất tử. Mọi nguyên tử trong vật chất đều được thấm nhuần sự sống của Thượng đế.

2. The ocean was radiant light, which was Fire, Heat, Motion. These three are the subjective life manifesting objectively.

2. Đại dương là ánh sáng rạng rỡ, là Lửa, Nhiệt, Chuyển Động. Ba điều này là sự sống chủ quan biểu hiện khách quan.

– Fire: The essence of the first Logos. Electric fire. Spirit.

– Lửa: Bản chất của Thượng đế Ngôi Một. Lửa Điện. Tinh Thần.

– Heat: Duality. The essence of the second Logos. Solar fire. The Son aspect. Consciousness.

– Nhiệt: Nhị nguyên. Bản chất của Thượng đế Ngôi Hai. Lửa Thái Dương. Khía cạnh Con. Tâm thức.

Motion: The essence of the third Logos. Fire by friction. Matter.

– Chuyển Động: Bản chất của Thượng đế Ngôi Ba. Lửa do ma sát. Vật chất.

THE MACROCOSM

First Logos

Fire

The will to live or to be. Electric.

Second Logos

Heat

Duality, or love between two. Solar.

Third Logos

Motion

The fire of mind, the relation between.

Fire by friction.

This is the subjective expression.

The Sun

Will or power.

Venus-Mercury

Love and Wisdom.

Saturn

Activity or intelligence.

This is the objective expression.

THE MICROCOSM.

The Monad

Electric fire

Will or power.

The Ego

Solar fire

Love and wisdom.

The Personality

Fire by friction

Activity or intelligence.

This is the subjective expression.

The mental body

Will or power

Fire.

The astral body

Love-wisdom

Heat.

The physical body

Active intelligence

Motion.

This is the objective expression.

Physical body.

The brain

Monad

Will or power. Electric fire.

The heart

Ego

Love-wisdom. Solar fire.

Lower organs

Personality

Active intelligence.

III. The Function of the Etheric Body

[Commentary S1S10]

We will now continue with the discussion of the etheric body, and take up the consideration of its function and its relation to the physical body.

Bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục thảo luận về thể dĩ thái, và xem xét chức năng và mối quan hệ của nó với thể xác.

The two may wisely be considered together, for the interrelation is so close that it is not possible to discuss them separately. Primarily the functions of the etheric body are three in number:

Hai điều này có thể được xem xét một cách khôn ngoan cùng nhau, vì mối quan hệ tương hỗ quá chặt chẽ nên không thể thảo luận riêng biệt. Về cơ bản, các chức năng của thể dĩ thái có ba số:

1. It is the receiver of prana.

1. Nó là cơ quan tiếp nhận prana.

2. It is the assimilator of prana.

2. Nó là cơ quan đồng hóa prana.

3. It is the transmitter of prana.

3. Nó là cơ quan truyền dẫn prana.

1. The Receiver of Prana

The etheric body may therefore be described as negative or receptive in respect to the rays of the sun, and as [98] positive and expulsive in respect to the dense physical body. The second function—that of assimilation—is strictly balanced or internal. As stated earlier, the pranic emanations of the sun are absorbed by the etheric body, via certain centers which are found principally in the upper part of the body, from whence they are directed downwards to the center which is called the etheric spleen, as it is the counterpart in etheric matter of that organ. The main center for the reception of prana at present is a center between the shoulder blades. Another has been allowed to become partially dormant in man through the abuses of so-called civilization, and is situated slightly above the solar plexus. In the coming root-race, and increasingly in this, the necessity for the exposure of these two centers to the rays of the sun, will be appreciated, with a corresponding improvement in physical vitality and adaptability. These three centers,

Do đó, thể dĩ thái có thể được mô tả là âm hoặc thụ động đối với các tia của mặt trời, và là [98] dương và có tính trục xuất đối với thể xác đậm đặc. Chức năng thứ hai—tức sự đồng hóa—là hoàn toàn cân bằng hoặc nội tại. Như đã nêu trước đó, các phát xạ prana từ mặt trời được hấp thụ bởi thể dĩ thái, thông qua một số luân xa được tìm thấy chủ yếu ở phần trên của cơ thể, từ đó chúng được hướng xuống luân xa được gọi là lá lách dĩ thái, vì nó là đối phần trong vật chất dĩ thái của cơ quan đó. Luân xa chính để tiếp nhận prana hiện nay là một Luân xa nằm giữa hai xương bả vai. Một trung tâm khác đã phần nào bị trở nên ngủ yên trong con người do sự lạm dụng của cái gọi là văn minh, và nằm hơi phía trên tùng thái dương. Trong giống dân gốc sắp tới, và ngày càng nhiều trong giống dân hiện tại, người ta sẽ nhận thức được sự cần thiết phải phơi bày hai trung tâm này ra trước các tia của mặt trời, điều này sẽ mang lại sự cải thiện tương ứng về sức sống thể chất và khả năng thích ứng. Ba luân xa này,

1. Between the shoulder blades,

1. Giữa hai xương bả vai,

2. Above the diaphragm,

2. Phía trên cơ hoành,

3. And the spleen

3. Và lá lách

make, if one could but see it, a radiant etheric triangle, which triangle is the originating impulse for the later pranic circulation throughout the entire system. The etheric body is really a network of fine channels, which are the component parts of one interlacing fine cord,—one portion of this cord being the magnetic link which unites the physical and the astral bodies and which is snapped or broken after the withdrawal of the etheric body from the dense physical body at the time of death. The silver cord is loosed, as the Bible expresses it,44 and this is the basis of the legend of the fateful sister who cuts the thread of life with the dreaded shears.

tạo thành, nếu người ta có thể nhìn thấy nó, một tam giác dĩ thái rạng rỡ, tam giác này là xung lực khởi nguồn cho sự tuần hoàn prana sau này trong toàn bộ hệ thống. Thể dĩ thái thực sự là một mạng lưới các kênh mịn, là các bộ phận cấu thành của một sợi dây mịn đan xen—một phần của sợi dây này là liên kết từ tính kết hợp thể xác và thể cảm dục và bị bẻ gãy hoặc đứt sau khi thể dĩ thái rút khỏi thể xác trọng trược vào thời điểm chết. Sợi dây bạc bị tuột, như Kinh Thánh diễn đạt, 44 và đây là cơ sở của truyền thuyết về người chị em định mệnh cắt sợi chỉ sự sống bằng chiếc kéo đáng sợ.

The etheric web is composed of the intricate weaving of this vitalized cord, and apart from the seven centers [99] within the web (which correspond to the sacred centers, and of which the spleen is frequently counted as one) it has the two above mentioned, which make—with the spleen—a triangle of activity. The etheric web of the solar system is of an analogous nature, and likewise has its three receptive centers for cosmic prana. The mysterious band in the heavens, which we call the Milky Way, (S. D. II. 250) is closely connected with cosmic prana, or that cosmic vitality or nourishment which vitalizes the solar etheric system.

Lưới dĩ thái được cấu thành từ sự đan xen phức tạp của sợi dây sinh lực này, và ngoài bảy trung tâm [99] bên trong lưới (tương ứng với các trung tâm thiêng liêng, trong đó lá lách thường được tính là một) thì nó còn có hai trung tâm đã đề cập ở trên, cùng với lá lách tạo thành một tam giác hoạt động. Lưới dĩ thái của Thái Dương Hệ cũng có bản chất tương tự, và cũng có ba trung tâm tiếp nhận prana vũ trụ. Dải bí ẩn trên bầu trời, mà chúng ta gọi là Dải Ngân Hà (S. D. II. 250), có liên hệ mật thiết với prana vũ trụ, tức sinh lực hay dưỡng chất vũ trụ làm sinh động hệ thống dĩ thái của Thái Dương Hệ.

44 Ecc: XII, 6.

44 Truyền đạo: XII, 6.

2. The Assimilator of Prana

The process of assimilation is carried on in this triangle, and the prana which enters into either center, circulates three times around the triangle before being transmitted to all parts of the etheric vehicle and from thence to the dense physical body. The main organ of assimilation is the spleen—the etheric center and the dense physical organ. The vital essence from the sun is passed into the etheric spleen, and is there subjected to a process of intensification or devitalization, according to the condition, healthy or not, of that organ. If the man is in a healthy state the emanation received will be augmented by his own individual vibration, and its rate of vibration will be keyed up before it is passed on into the physical spleen; or it will be slowed down and lowered if the man is in a poor condition of health.

Quá trình đồng hóa được thực hiện trong tam giác này, và prana đi vào một trong hai trung tâm, lưu thông ba lần quanh tam giác trước khi được truyền đến tất cả các bộ phận của thể dĩ thái và từ đó đến thể xác trọng trược. Cơ quan đồng hóa chính là lá lách—trung tâm dĩ thái và cơ quan vật lý trọng trược. Tinh chất sinh lực từ mặt trời được truyền vào lá lách dĩ thái, và ở đó chịu quá trình tăng cường hoặc khử sinh lực, tùy thuộc vào tình trạng, khỏe mạnh hay không, của cơ quan đó. Nếu người đó ở trong tình trạng khỏe mạnh, bức xạ nhận được sẽ được tăng cường bởi rung động cá nhân của chính y, và tốc độ rung động của nó sẽ được điều chỉnh trước khi nó được truyền vào lá lách vật lý; hoặc nó sẽ bị làm chậm lại và hạ thấp nếu người đó ở trong tình trạng sức khỏe kém.

These three centers are in the form that all centers take, of saucer-like depressions, resembling somewhat the appearance of small whirlpools, and which draw within their sphere of influence the currents that come their way.

Ba trung tâm này có hình dạng mà tất cả các trung tâm đều có, các chỗ lõm giống như cái đĩa, hơi giống với sự xuất hiện của các xoáy nước nhỏ, và thu hút trong phạm vi ảnh hưởng của chúng các dòng chảy đến theo cách của chúng.

The centers should be pictured as whirling vortices with a closely woven threefold channel passing from each center to the other, and forming an almost separate circulatory system. This finds its point of departure for [100] the entire system at the further side of the spleen to that at which the prana entered. The vital fluid circulates through and between these three centers three times, before it finally passes out from them to the periphery of its little system. This final circulation carries the prana, via the fine interlacing channels, to every part of the body, which becomes entirely impregnated by these emanations, if it might be so expressed. These emanations find their way finally out of the etheric system by means of surface radiation. The pranic essence escapes from the circumference of its temporary ring-pass-not as emanative human prana, which is the same prana as earlier received, plus the peculiar quality that any single individual may convey to it during its transitory circulation. The essence escapes, plus individual quality.

Các luân xa nên được hình dung như các lốc xoáy với một kênh tam phân đan dệt chặt chẽ đi từ mỗi luân xa này đến luân xa khác, tạo thành một hệ thống tuần hoàn gần như riêng biệt. Hệ thống này bắt đầu khởi hành từ [100] phía bên kia của lá lách—so với phía mà prana đi vào. Lưu chất sinh lực lưu thông xuyên qua và giữa ba trung tâm này ba lần, trước khi nó cuối cùng đi ra khỏi chúng đến chu vi của hệ thống nhỏ bé đó. Sự tuần hoàn cuối cùng này mang prana, thông qua các kênh đan xen mịn, đến mọi bộ phận của cơ thể, nơi hoàn toàn được thấm nhuần bởi những phóng phát này, nếu chúng ta có thể diễn đạt như vậy. Những phóng phát này cuối cùng tìm đường ra khỏi hệ thống dĩ thái bằng bức xạ bề mặt. Tinh chất prana thoát ra khỏi chu vi vòng-giới-hạn tạm thời của nó dưới dạng prana phóng phát của con người, là cùng một prana như đã nhận trước đó, cộng với phẩm tính đặc biệt mà bất kỳ cá nhân nào có thể truyền cho nó trong quá trình tuần hoàn tạm thời của nó. Tinh chất thoát ra, cộng với phẩm tính cá nhân.

Here again can be seen the correspondence to the escape of all essences from within any ring-pass-not when the cycle has been completed.

Ở đây một lần nữa có thể thấy sự tương ứng với sự thoát ra của tất cả các tinh chất từ bên trong bất kỳ vòng-giới-hạn nào khi chu kỳ đã hoàn thành.

This matter of the etheric body is of a very practical interest, and when its importance is better realized, men will attend to the distribution of prana within the body with closer attention, and will see that the vitalization of the body, via the three centers, proceeds unhindered.

Vấn đề về thể dĩ thái này có một sự quan tâm rất thiết thực, và khi tầm quan trọng của nó được nhận ra tốt hơn, con người sẽ chú ý đến sự phân phối prana trong cơ thể một cách chú ý hơn, và sẽ thấy rằng sự tiếp sinh lực của cơ thể, thông qua ba luân xa, tiến hành không bị cản trở.

The subject has necessarily to be handled in a superficial manner, and only outlines and scattered hints can be given. Nevertheless, it will be found that if this teaching is studied with care, it will convey a knowledge of truths whose caliber and content will prove invaluable and of a kind hitherto not given out. The place of the etheric sheath as a separator or ring-pass-not, and its functions as a receiver and distributor of prana, are dealt with here in a larger sense than heretofore, and the subject may later be enlarged.

Chủ đề này tất yếu phải được trình bày một cách khái quát, và chỉ có thể đưa ra những nét đại cương cùng các gợi ý rời rạc. Tuy nhiên, nếu giáo huấn này được nghiên cứu một cách cẩn trọng, nó sẽ truyền đạt một sự hiểu biết về những chân lý có tầm vóc và nội dung vô giá, thuộc loại chưa từng được công bố trước đây. Vai trò của lớp vỏ dĩ thái như một yếu tố phân cách hay vòng-giới-hạn, và các chức năng của nó như là cơ quan tiếp nhận và phân phối prana, được trình bày ở đây trong một ý nghĩa rộng lớn hơn so với trước kia, và chủ đề này có thể sẽ được mở rộng thêm sau này.

Two fundamental truths stand out from the aggregate of facts so slightly dealt with here: [101]

Hai chân lý cơ bản nổi bật từ tập hợp các sự kiện được đề cập rất ít ở đây: [101]

First. The fourth etheric subplane of the physical plane is the immediate concern of

Thứ nhất. Cõi phụ dĩ thái thứ tư của cõi trần là mối quan tâm trực tiếp của

a. Man, the Microcosm,

a. Con người, Tiểu Thiên Địa,

b. The Heavenly Man, the planetary Logos,

b. Đấng Thiên Nhân, Hành Tinh Thượng Đế,

c. The Grand Man of the Heavens, the solar Logos.

c. Đấng Thiên Nhân vĩ đại của Thiên Đàng, Thái Dương Thượng Đế.

Second. In this fourth chain and fourth round, the fourth ether is beginning to be studied, and—viewed as a separating web—it permits occasional exit to those of suitable vibration.

Thứ hai. Trong dãy thứ tư và vòng tuần hoàn thứ tư này, dĩ thái thứ tư đang bắt đầu được nghiên cứu, và—được xem như một mạng lưới tách biệt—nó cho phép sự thoát ra thỉnh thoảng cho những người có rung động phù hợp.

3. The Transmitter of Prana

We have touched but little on the subject of the fire, the purpose of the etheric body being to convey it and distribute it to all parts of its system. We have dwelt on facts which might stimulate interest and emphasize the utility of this pranic vehicle. Certain facts need emphasis and consideration as we study this static ring and its circulating fires. Let me briefly recapitulate for the sake of clarity:

Chúng ta đã đề cập rất ít về chủ đề lửa, mục đích của thể dĩ thái là truyền tải và phân phối nó đến tất cả các bộ phận của hệ thống của nó. Chúng ta đã đề cập đến những sự kiện có thể kích thích sự quan tâm và nhấn mạnh tính hữu dụng của vận cụ prana này. Một số sự kiện cần được nhấn mạnh và xem xét khi chúng ta nghiên cứu vòng tĩnh này và ngọn lửa lưu thông của nó. Hãy để tôi tóm tắt ngắn gọn cho rõ ràng:

– The System receives prana from cosmic sources via three centers, and redistributes it to all parts of its extended influence, or to the bounds of the solar etheric web. This cosmic prana becomes colored by solar quality and reaches the furthest confines of the system. Its mission might be described as the vitalization of the vehicle which is the physical material expression of the solar Logos.

– Hệ thống nhận prana từ các nguồn vũ trụ thông qua ba trung tâm và phân phối lại nó cho tất cả các bộ phận ảnh hưởng mở rộng của nó, hoặc đến giới hạn của mạng lưới dĩ thái thái dương. Prana vũ trụ này được tô màu bởi phẩm tính thái dương và đạt đến giới hạn xa nhất của hệ thống. Sứ mệnh của nó có thể được mô tả là sự tiếp sinh lực của phương tiện là biểu hiện vật chất vật lý của Thái Dương Thượng Đế.

– The Planet receives prana from the solar center, and redistributes it via the three receiving centers to all parts of its sphere of influence. This solar prana becomes colored by the planetary quality and is absorbed by all evolutions found within the planetary ring-pass-not. Its mission might be described as the vitalization of the vehicle which is the physical material expression of one or other of the seven Heavenly Men. [102]

– Hành tinh nhận prana từ trung tâm thái dương và phân phối lại nó thông qua ba trung tâm tiếp nhận đến tất cả các bộ phận phạm vi ảnh hưởng của nó. Prana thái dương này được tô màu bởi phẩm tính hành tinh và được hấp thụ bởi tất cả các sự tiến hóa được tìm thấy trong vòng-giới-hạn hành tinh. Sứ mệnh của nó có thể được mô tả là sự tiếp sinh lực của phương tiện là biểu hiện vật chất vật lý của một hoặc một trong bảy Đấng Thiên Nhân. [102]

– The Microcosm receives prana from the sun after it has permeated the planetary etheric vehicle, so that it is solar prana, plus planetary quality. Each planet the embodiment of some one ray aspect, and its quality marked predominantly on all its evolution.

– Tiểu thiên địa nhận prana từ mặt trời sau khi nó đã thấm vào phương tiện dĩ thái hành tinh, do đó nó là prana mặt trời, cộng với phẩm tính hành tinh. Mỗi hành tinh là hiện thân của một khía cạnh tia nào đó, và phẩm tính của nó được đánh dấu chủ yếu trên tất cả sự tiến hóa của nó.

Prana, therefore, which is active radiatory heat, varies in vibration and quality according to the receiving Entity. Man passes the prana through his etheric vehicle, colors it with his own peculiar quality, and so transmits it to the lesser lives that make up his little system. Thus, the great interaction goes on, and all parts blend, merge and are interdependent; and all parts receive, color, qualify and transmit. An endless circulation goes on that has neither a conceivable beginning nor possible end from the point of view of finite man, for its source and end are hid in the unknown cosmic fount. Were conditions everywhere perfected this circulation would proceed unimpeded and might result in a condition of almost endless duration, but limitation and termination result as the effects of imperfection giving place to a gradual perfection. Every cycle originates from another cycle of a relative completeness, and will give place ever to a higher spiral; thus eventuate periods of apparent relative perfection leading to those which are still greater.

Do đó, prana, là nhiệt bức xạ hoạt động, thay đổi về rung động và phẩm tính tùy theo Thực Thể tiếp nhận. Con người truyền prana qua phương tiện dĩ thái của mình, tô màu nó bằng phẩm tính đặc biệt của riêng mình, và do đó truyền nó cho các sự sống nhỏ hơn tạo nên hệ thống nhỏ của mình. Do đó, sự tương tác lớn diễn ra, và tất cả các bộ phận hòa trộn, hợp nhất và phụ thuộc lẫn nhau; và tất cả các bộ phận nhận, tô màu, đủ điều kiện và truyền tải. Một sự lưu thông vô tận diễn ra mà không có sự khởi đầu có thể tưởng tượng được cũng như kết thúc có thể có từ quan điểm của con người hữu hạn, vì nguồn gốc và kết thúc của nó được ẩn giấu trong suối nguồn vũ trụ vô danh. Nếu các điều kiện ở khắp mọi nơi được hoàn thiện, sự lưu thông này sẽ diễn ra không bị cản trở và có thể dẫn đến một điều kiện có thời gian gần như vô tận, nhưng sự giới hạn và chấm dứt xảy ra như là hiệu ứng của sự không hoàn hảo nhường chỗ cho sự hoàn hảo dần dần. Mọi chu kỳ đều bắt nguồn từ một chu kỳ khác có sự hoàn chỉnh tương đối và sẽ nhường chỗ cho một vòng xoắn ốc cao hơn; do đó, các giai đoạn hoàn thiện tương đối rõ ràng dẫn đến những giai đoạn thậm chí còn lớn hơn.

The aim for this greater cycle is the blending, as we know, of the two fires of matter, latent and active, and their merging with the fires of mind and spirit till they are lost from sight in the general flame; the fires of mind and spirit burn up matter and thereby bring about liberation from the confining vehicles. The altar of earth is the birthplace of spirit, its liberator from the mother (matter), and its entrance into higher realms.

Mục tiêu cho chu kỳ lớn hơn này là sự hòa trộn, như chúng ta biết, của hai ngọn lửa vật chất, tiềm ẩn và hoạt động, và sự hợp nhất của chúng với ngọn lửa của trí tuệ và tinh thần cho đến khi chúng bị mất khỏi tầm nhìn trong ngọn lửa chung; ngọn lửa của trí tuệ và tinh thần đốt cháy vật chất và do đó mang lại sự giải phóng khỏi các phương tiện giam cầm. Bàn thờ của trái đất là nơi sinh của tinh thần, người giải phóng nó khỏi người mẹ (vật chất) và lối vào các cõi giới cao hơn của nó.

Hence, when the pranic vehicle is working perfectly in all three groups, human, planetary and solar, the union with latent fire will be accomplished. Here lies [103] the reason for the emphasis laid on the necessity for building pure, refined physical vehicles. The more refined and rarefied the form, the better a receiver of prana will it be, and the less will be the resistance found to the uprising of kundalini at the appointed time. Coarse matter and crude immature physical bodies are a menace to the occultist, and no true seer will be found with a body of a gross quality. The dangers of disruption are too great, and the menace of disintegration by fire too awful. Once in the history of the race (in Lemurian days) this was seen in the destruction of the race and the continents by means of fire. 45 The Guides of the race at that time availed Themselves of just this very thing to bring about the finish of an inadequate form. The latent fire of matter (as seen in volcanic display, for instance) and the radiatory fire of the system were combined. Planetary kundalini and solar emanation rushed into conjunction, and the work of destruction was accomplished. The same thing may again be seen, only in matter of the second ether, and the effects therefore will be less severe owing to the rarity of this ether and the comparatively greater refinement of the vehicles.

Do đó, khi phương tiện prana hoạt động hoàn hảo trong cả ba nhóm, con người, hành tinh và thái dương, sự hợp nhất với ngọn lửa tiềm ẩn sẽ được hoàn thành. Đây là [103] lý do nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng các phương tiện vật lý tinh khiết, tinh tế. Hình tướng càng tinh tế và loãng, nó sẽ càng là một cơ quan tiếp nhận prana tốt hơn, và càng ít sự kháng cự được tìm thấy đối với sự trỗi dậy của kundalini vào thời điểm được chỉ định. Vật chất thô và cơ thể vật lý chưa trưởng thành thô thiển là một mối đe dọa đối với nhà huyền bí, và không có nhà tiên tri chân chính nào được tìm thấy với một cơ thể có phẩm tính thô thiển. Những nguy hiểm của sự gián đoạn quá lớn, và mối đe dọa của sự tan rã do lửa quá khủng khiếp. Một lần trong lịch sử của giống dân (vào thời Lemuria) điều này đã được nhìn thấy trong sự phá hủy của giống dân và các lục địa bằng lửa. 45 Các Đấng Hướng Dẫn của giống dân vào thời điểm đó đã tận dụng chính điều này để mang lại sự kết thúc của một hình tướng không đầy đủ. Ngọn lửa tiềm ẩn của vật chất (như được thấy trong sự phô trương núi lửa, chẳng hạn) và ngọn lửa bức xạ của hệ thống đã được kết hợp. Kundalini hành tinh và xuất lộ thái dương lao vào sự kết hợp, và công việc phá hủy đã được hoàn thành. Điều tương tự có thể được nhìn thấy một lần nữa, chỉ trong vật chất của cõi dĩ thái thứ hai, và do đó các hiệu ứng sẽ ít nghiêm trọng hơn do sự hiếm có của cõi dĩ thái này và sự tinh tế tương đối lớn hơn của các phương tiện.

We might here note a fact of interest, though of a mystery insoluble as yet to most of us, and that is, that these destructions by fire are part of the tests by fire of an initiation of that one of the Heavenly Men Whose karma is bound up with our earth.

Chúng ta có thể lưu ý ở đây một sự kiện thú vị, mặc dù là một bí ẩn chưa thể giải quyết được đối với hầu hết chúng ta, đó là những sự phá hủy bằng lửa này là một phần của các cuộc thử nghiệm bằng lửa của một lần điểm đạo của một trong những Đấng Thiên Nhân có nghiệp quả gắn liền với trái đất của chúng ta.

Each destruction of a portion of the web results in a greater facility of exit, and is in reality (when seen from the higher planes) a step forward and an expansion. A repetition of this takes place likewise in the system at the stated cycles. [104]

Mỗi sự phá hủy một phần của mạng lưới dẫn đến sự dễ dàng thoát ra lớn hơn, và trên thực tế (khi được nhìn thấy từ các cõi giới cao hơn) là một bước tiến và sự mở rộng. Một sự lặp lại của điều này cũng diễn ra trong hệ thống tại các chu kỳ đã nêu. [104]

45 In the Secret Doctrine, Vol. I, p. 473, footnote, the destruction of Lemuria by fire is hinted at, and in the Secret Doctrine, II, 149, footnote, the words occur “Lemuria was not submerged but was destroyed by volcanic action, and afterward sank.”

45 Trong Giáo Lý Bí Nhiệm, Tập I, trang 473, chú thích, sự phá hủy Lemuria bằng lửa được gợi ý, và trong Giáo Lý Bí Nhiệm, II, 149, chú thích, có những từ “Lemuria không bị nhấn chìm mà bị phá hủy bởi hoạt động núi lửa, và sau đó chìm xuống.”

4. Disorders of the Etheric Body

[Commentary S1S11]

We will now study the etheric body, and its ills and also its after death condition. This matter can be only briefly touched upon. All that may now be indicated is a general idea of the fundamental ailments to which the etheric may be subject, and the trend which applied medicine may later take when occult laws are better understood. One fact must here be brought out—a fact but little comprehended or even apprehended. This is the significant fact that the ills of the etheric vehicle, in the case of the microcosm, will be found likewise in the Macrocosm. Herein lies the knowledge that oft-times explains the apparent miseries of nature. Some of the great world evils have their source in etheric ills, extending the idea of the etheric to planetary conditions and even to solar. As we touch upon the causes of etheric distress in man, their planetary and solar correspondences and reactions may perhaps be realized. We will need to bear carefully in mind when studying this matter, that all the diseases of the etheric body will appertain to its threefold purpose and be either:

Bây giờ chúng ta sẽ nghiên cứu thể dĩ thái, bệnh tật của nó và cả tình trạng sau khi chết của nó. Vấn đề này chỉ có thể được đề cập ngắn gọn. Tất cả những gì có thể được chỉ ra bây giờ là một ý tưởng chung về các bệnh cơ bản mà dĩ thái có thể mắc phải, và xu hướng mà y học ứng dụng có thể thực hiện sau này khi các định luật huyền bí được hiểu rõ hơn. Một sự thật phải được đưa ra ở đây—một sự thật ít được hiểu hoặc thậm chí được lĩnh hội. Đây là sự thật quan trọng rằng bệnh tật của phương tiện dĩ thái, trong trường hợp của tiểu thiên địa, cũng sẽ được tìm thấy trong đại thiên địa. Ở đây nằm kiến thức thường giải thích những đau khổ rõ ràng của tự nhiên. Một số tệ nạn lớn của thế giới có nguồn gốc từ bệnh tật dĩ thái, mở rộng ý tưởng về dĩ thái đến các điều kiện hành tinh và thậm chí đến thái dương. Khi chúng ta đề cập đến các nguyên nhân gây đau khổ dĩ thái ở con người, sự tương ứng và phản ứng hành tinh và thái dương của chúng có lẽ có thể được nhận ra. Chúng ta sẽ cần phải ghi nhớ cẩn thận khi nghiên cứu vấn đề này, rằng tất cả các bệnh tật của thể dĩ thái sẽ thuộc về mục đích tam phân của nó và là một trong hai điều sau:

a. Functional, and thereby affecting its apprehension of prana,

a. Chức năng, và do đó ảnh hưởng đến sự tiếp nhận prana của nó,

b. Organic, and thereby affecting its distribution of prana,

b. Bộ máy, và do đó ảnh hưởng đến sự phân phối prana của nó,

c. Static, and thereby affecting the web, when viewed solely from the angle of providing a physical ring-pass-not, and acting as a separator between the physical and the astral.

c. Tĩnh, và do đó ảnh hưởng đến mạng lưới, khi chỉ được xem từ góc độ cung cấp một vòng-giới-hạn vật lý, và hoạt động như một bộ tách biệt giữa vật lý và cảm dục.

These three different groups of functions or purposes are each of paramount interest, lead to totally different results, and react in a different manner both outwardly and inwardly.

Ba nhóm chức năng hoặc mục đích khác nhau này mỗi nhóm đều có sự quan tâm tối quan trọng, dẫn đến các kết quả hoàn toàn khác nhau và phản ứng theo một cách khác nhau cả bên ngoài và bên trong.

Viewed from the planetary standpoint the same conditions will be perceived, and the etheric planetary body [105] (which is fundamentally the body in the case of the sacred planets, of which the Earth is not one) will have its functional disorders, which will affect its reception of prana, will suffer its organic troubles which may affect its distribution, and those disorders which permit of trouble in the etheric web, which forms the ring-pass-not for the involved planetary Spirit. Here I would point out that in the case of the planetary Spirits Who are on the divine evolutionary arc, the Heavenly Men Whose bodies are planets, the etheric web does not form a barrier, but (like the Karmic Lords on a higher plane) They have freedom of movement outside the bounds of the planetary web within the circumference of the solar ring-pass-not. 46

Nhìn từ quan điểm hành tinh, các điều kiện tương tự sẽ được nhận thấy, và thể hành tinh dĩ thái [105] (về cơ bản là cơ thể trong trường hợp các hành tinh thiêng liêng, trong đó Trái đất không phải là một) sẽ có các rối loạn chức năng của nó, sẽ ảnh hưởng đến sự tiếp nhận prana của nó, sẽ chịu đựng những rắc rối hữu cơ có thể ảnh hưởng đến sự phân phối của nó, và những rối loạn cho phép gặp rắc rối trong mạng lưới dĩ thái, tạo thành vòng-giới-hạn cho Tinh Thần hành tinh liên quan. Ở đây tôi muốn chỉ ra rằng trong trường hợp các Đấng Tinh Thần hành tinh đang ở trên vòng cung tiến hóa thiêng liêng, các Đấng Thiên Nhân có cơ thể là các hành tinh, mạng lưới dĩ thái không tạo thành một rào cản, mà (giống như các Chúa Tể Nghiệp Quả trên một cõi giới cao hơn) Họ có sự tự do di chuyển bên ngoài ranh giới của mạng lưới hành tinh trong chu vi của vòng-giới-hạn thái dương. 46

Again from the systemic standpoint, these same effects may be observed, functionally, this time in connection with the cosmic center; organically, in connection with the sum total of the planetary systems; and statically, in connection with the solar or logoic ring-pass-not.

Một lần nữa, từ quan điểm hệ thống, những hiệu ứng tương tự này có thể được quan sát, về mặt chức năng, lần này liên quan đến trung tâm vũ trụ; về mặt hữu cơ, liên quan đến tổng số các hệ thống hành tinh; và về mặt tĩnh, liên quan đến vòng-giới-hạn thái dương hoặc logoic.

We might now, for purposes of clarity, take up these three groups separately and briefly touch upon them and hint (for more will not be possible) at methods of cure and of adjustment.

Bây giờ chúng ta có thể, vì mục đích rõ ràng, xem xét ba nhóm này một cách riêng biệt và đề cập ngắn gọn đến chúng và gợi ý (vì nhiều hơn sẽ không thể) các phương pháp chữa trị và điều chỉnh.

46 The planetary Spirit is another term for the Logos of our planet, one of the “seven Spirits before the Throne,” and therefore one of the seven Heavenly Men. He is on the evolutionary arc of the universe, and has passed many stages beyond the human.

46 Tinh Thần hành tinh là một thuật ngữ khác cho Thượng đế của hành tinh chúng ta, một trong “bảy Tinh Thần trước Ngai vàng”, và do đó là một trong bảy Đấng Thiên Nhân. Ngài đang ở trên vòng cung tiến hóa của vũ trụ, và đã vượt qua nhiều giai đoạn vượt xa con người.

The planetary Entity is on the involutionary arc and is a very low grade Entity. He is the sum total of all the elemental lives of the planet.

Thực Thể hành tinh đang ở trên vòng cung giáng hạ tiến hóa và là một Thực Thể cấp độ rất thấp. Y là tổng số của tất cả các sự sống hành khí của hành tinh.

a. Microcosmic Functional Disorders.

These have to do with the reception by man, via the necessary centers, of the pranic fluids. We must always bear in mind, and thus keep the distinction clear, that these emanations of prana have to do with the heat latent in matter; when received and functioning through the etheric body correctly, they cooperate with the natural latent bodily [106] warmth, and (merging therewith) hold the body in a vitalized condition, imposing upon the matter of the body a certain rate of vibratory action that leads to the necessary activity of the physical vehicle, and the right functioning of its organs. It will, therefore, be apparent that the A. B. C. of bodily health is wrapped up in the right reception of prana, and that one of the basic changes that must be made in the life of the human animal (which is the aspect we are dealing with now) will be in the ordinary conditions of living.

Những điều này liên quan đến việc con người, thông qua các luân xa cần thiết, tiếp nhận các lưu chất prana. Chúng ta phải luôn ghi nhớ, và do đó phân biệt rõ ràng, rằng những phát xạ prana này liên quan đến nhiệt tiềm ẩn trong vật chất; khi được tiếp nhận và hoạt động chính xác thông qua thể dĩ thái, chúng phối hợp với sự ấm áp tự nhiên tiềm ẩn của cơ thể [106], và (hợp nhất với nó) giữ cho cơ thể ở trạng thái được tiếp sinh lực, áp đặt lên vật chất của cơ thể một tốc độ hoạt động rung động nhất định dẫn đến hoạt động cần thiết của phương tiện vật lý, và hoạt động đúng đắn của các cơ quan của nó. Do đó, rõ ràng rằng nền tảng của sức khỏe cơ thể được gói gọn trong việc tiếp nhận prana đúng đắn, và một trong những thay đổi cơ bản phải được thực hiện trong cuộc sống của động vật con người (đó là khía cạnh mà chúng ta đang đề cập đến bây giờ) sẽ là trong các điều kiện sống bình thường.

The three fundamental centers whereby reception is brought about must be allowed to function with greater freedom, and with less restriction. Now, owing to centuries of wrong living, and to basic mistakes (originating in Lemurian days) man’s three pranic centers are not in good working order. The center between the shoulder blades is in the best receptive condition, though owing to the poor condition of the spinal column (which in so many is out of accurate alignment), its position in the back is apt to be misplaced. The splenic center near the diaphragm is subnormal in size and its vibration is not correct. In the case of the aboriginal dwellers in such localities as the South Seas, better etheric conditions will be found; the life they lead is more normal (from the animal standpoint) than in any other portion of the world.

Ba luân xa cơ bản mà thông qua đó sự tiếp nhận được thực hiện phải được phép hoạt động tự do hơn và ít hạn chế hơn. Bây giờ, do nhiều thế kỷ sống sai trái và những sai lầm cơ bản (bắt nguồn từ thời Lemuria), ba luân xa prana của con người không hoạt động tốt. Luân xa giữa hai xương bả vai ở trong tình trạng tiếp nhận tốt nhất, mặc dù do tình trạng kém của cột sống (ở rất nhiều người không thẳng hàng chính xác), vị trí của nó ở phía sau có xu hướng bị đặt sai vị trí. Luân xa lá lách gần cơ hoành có kích thước dưới mức bình thường và sự rung động của nó không chính xác. Trong trường hợp những người thổ dân sống ở những địa phương như Nam Hải, các điều kiện dĩ thái tốt hơn sẽ được tìm thấy; cuộc sống mà họ bình thường hơn (từ quan điểm động vật) so với bất kỳ phần nào khác trên thế giới.

The race suffers from certain incapacities, which may be described as follows:

Nhân loại phải chịu đựng một số khuyết tật nhất định, có thể được mô tả như sau:

First. Inability to tap pranic currents, owing to the unhealthy lives passed by so many. This involves the cutting off of the source of supply, and the consequent atrophying and shrinkage of the receptive centers. This is seen in an exaggerated form in the children of the congested quarters of any great city, and in the vitiated anemic dwellers of the slums. The cure is apparent—the bringing about of better living conditions, the [107] employment of more appropriate clothing, and the adoption of a freer and more salubrious mode of living. When the pranic rays can find free access to the shoulders, and to the diaphragm, the subnormal state of the average spleen will adjust itself automatically.

Thứ nhất. Sự bất lực trong việc khai thác các dòng prana, do lối sống không lành mạnh của rất nhiều người. Điều này liên quan đến việc bị cắt đứt khỏi nguồn cung cấp, và kéo theo đó là sự teo nhỏ và suy yếu của các luân xa tiếp nhận. Điều này được thấy dưới hình thức trầm trọng ở trẻ em sống trong các khu đông đúc của bất kỳ thành phố lớn nào, và ở những cư dân thiếu máu, suy nhược sống tại các khu ổ chuột. Phương pháp chữa trị thì rõ ràng—thiết lập các điều kiện sống tốt hơn, [107] sử dụng loại quần áo thích hợp hơn, và áp dụng một lối sống tự do và trong lành hơn. Khi các tia prana có thể dễ dàng xâm nhập vào vùng vai và cơ hoành, tình trạng dưới mức bình thường của lá lách trung bình sẽ tự động được điều chỉnh.

Second. Over-ability to tap pranic currents. The first type of functional disorder is common and widespread. Its reverse can be found where conditions of life are such that the centers (through too direct and prolonged submittal to solar emanation) become over-developed, vibrate too rapidly, and receive prana in too great an amount. This is rarer, but is found in some tropical countries, and is responsible for much of the troublesome debility that attacks dwellers in these lands. The etheric body receives prana or solar rays too rapidly, passes it through and out of the system with too much force, and this leaves the victim a prey to inertia and devitalization. Putting it otherwise, the etheric body becomes lazy, is like an unstrung web, or (to use a very homely illustration) it resembles a tennis racket which has become too soft, and has lost its resilience. The inner triangle transmits the pranic emanations with too great rapidity, giving no time for the subsidiary absorption, and the whole system is thereby the loser. Later it will be found that many of the ills that Europeans, living in India, fall heir to, originate in this way; and by attention, therefore, to the spleen, and by wise control of living conditions, some of the trouble may be obviated.

Thứ hai. Khả năng khai thác các dòng chảy prana quá mức. Loại rối loạn chức năng đầu tiên là phổ biến và lan rộng. Điều ngược lại của nó có thể được tìm thấy nơi các điều kiện sống như vậy mà các trung tâm (thông qua việc tiếp xúc quá trực tiếp và kéo dài với phát xạ thái dương) trở nên quá phát triển, rung động quá nhanh và nhận prana với số lượng quá lớn. Điều này hiếm hơn, nhưng được tìm thấy ở một số quốc gia nhiệt đới, và chịu trách nhiệm cho phần lớn sự suy nhược phiền toái tấn công những người sống ở những vùng đất này. Thể dĩ thái tiếp nhận prana hay các tia thái dương quá nhanh, truyền chúng xuyên qua và ra khỏi hệ thống với sức mạnh quá lớn, điều này khiến nạn nhân rơi vào tình trạng trì trệ và mất sinh lực. Nói cách khác, thể dĩ thái trở nên uể oải, giống như một mạng lưới bị chùng, hoặc (nếu dùng một minh họa quen thuộc) nó giống như một cây vợt tennis đã trở nên quá mềm và mất tính đàn hồi. Tam giác bên trong truyền các phát xạ prana quá nhanh, không cho phép có thời gian để hấp thụ phụ trợ, và toàn bộ hệ thống do đó bị tổn thất. Sau này người ta sẽ phát hiện ra rằng nhiều chứng bệnh mà người châu Âu sống ở Ấn Độ mắc phải có nguồn gốc từ nguyên nhân này; do đó, bằng cách chú ý đến lá lách, và bằng sự kiểm soát khôn ngoan các điều kiện sống, một số rắc rối có thể được phòng ngừa.

In touching upon similar conditions in the planet, both these types of trouble will be found. More cannot be said, but in the wise study of solar radiation upon the surface of the planet in connection with its rotary action, some of the group rules of health may be comprehended and followed. The spirit of the planet (or the planetary entity) likewise has his cycles, and in the absorption of [108] planetary prana, and in its correct distribution, lies the secret of fertility and equable vegetation. Much of this is hidden in the fabled story of the war between fire and water, which has its basis in the reaction of the fire latent in matter, to the fire emanating outside of matter, and playing upon it. In the interval that has to elapse while the two are in process of blending, come those periods where, through karmic inheritance, reception is unstable and distribution inequable. As the point of race equilibrium is reached, so planetary equilibrium will likewise be attained, and in planetary attainment will come the equilibrium that must mutually take place between the solar planets. When they attain a mutual balance and interaction then the system is stabilized and perfection reached. The even distribution of prana will parallel this balancing in the man, in the race, in the planet and in the system. This is but another way of saying that uniform vibration will be achieved.

Khi đề cập đến các điều kiện tương tự trên hành tinh, cả hai loại rắc rối này sẽ được tìm thấy. Không thể nói thêm, nhưng trong nghiên cứu khôn ngoan về bức xạ mặt trời trên bề mặt hành tinh liên quan đến hoạt động quay của nó, một số quy tắc sức khỏe nhóm có thể được hiểu và tuân theo. Đấng Thánh Linh của hành tinh (hoặc thực thể hành tinh) cũng có các chu kỳ của Ngài, và trong sự hấp thụ [108] prana hành tinh, và trong sự phân phối chính xác của nó, có bí mật của độ phì nhiêu và thảm thực vật đồng đều. Phần lớn điều này được ẩn giấu trong câu chuyện huyền thoại về cuộc chiến giữa lửa và nước, vốn dựa trên phản ứng của lửa tiềm tàng trong vật chất đối với lửa phát xuất từ bên ngoài vật chất và tác động lên nó. Trong khoảng thời gian cần thiết để hai loại lửa này hòa hợp với nhau, xuất hiện những giai đoạn mà do di sản nghiệp quả, sự tiếp nhận trở nên bất ổn và sự phân phối thì không đồng đều. Khi điểm quân bình của giống dân được đạt đến, thì trạng thái quân bình hành tinh cũng sẽ đạt được, và trong sự thành tựu của hành tinh sẽ đến sự quân bình phải xảy ra một cách tương hỗ giữa các hành tinh Thái dương hệ. Khi chúng đạt đến sự quân bình và tương tác hỗ tương, thì toàn hệ thống sẽ ổn định và sự hoàn hảo sẽ được đạt tới. Sự phân phối prana một cách đồng đều sẽ song hành với sự quân bình này trong con người, trong giống dân, trong hành tinh và trong toàn hệ. Đây chỉ là một cách diễn đạt khác của việc nói rằng rung động đồng nhất sẽ được đạt tới.

b. Microcosmic Organic Disorders. These are basically two in number:

– Troubles due to congestion.

– Những rắc rối do tắc nghẽn.

– Destruction of tissue due to over-absorption of prana, or its too rapid blending with latent physical fire.

– Sự phá hủy mô do hấp thụ quá nhiều prana, hoặc sự pha trộn quá nhanh của nó với lửa vật lý tiềm ẩn.

We have a curious illustration of both of these forms of trouble in sun stroke and in heat stroke. Though supposedly understood by physicians, they are nevertheless altogether etheric disorders. When the nature of the etheric body is better understood, and its wise care followed, both these types of disease will be prevented. They are due to solar pranic emanation; in one case the effect of the emanation is to bring about death or serious illness through the congestion of an etheric channel, while in the other the same result is brought about by destruction of etheric matter.

Chúng ta có một minh họa kỳ lạ về cả hai dạng rắc rối này trong trúng nắng và sốc nhiệt. Mặc dù được các bác sĩ cho là đã hiểu rõ, nhưng chúng hoàn toàn là những rối loạn dĩ thái. Khi bản chất của thể dĩ thái được hiểu rõ hơn, và sự chăm sóc khôn ngoan của nó được tuân theo, cả hai loại bệnh này sẽ được ngăn ngừa. Chúng là do các bức xạ prana thái dương; trong một trường hợp, tác dụng của bức xạ là gây ra cái chết hoặc bệnh nghiêm trọng thông qua sự tắc nghẽn của một kênh dĩ thái, trong khi ở trường hợp kia, kết quả tương tự là do sự phá hủy vật chất dĩ thái.

The above illustration has been used with definite intent, [109] but it should be pointed out that etheric congestion may lead to many forms of disease and of mental incompetence. Etheric congestion leads to the thickening of the web to an abnormal extent, and this thickening may prevent, for instance, contact with the higher Self or principles and its resultants, idiocy and mental unbalance. It may lead to abnormal fleshy development, to the thickening of some internal organ, and consequent undue pressure; one portion of the etheric body being congested may lead to the entire physical condition being upset, resulting in diverse complaints.

Minh họa trên đã được sử dụng với ý định rõ ràng, [109] nhưng cần chỉ ra rằng sự tắc nghẽn dĩ thái có thể dẫn đến nhiều dạng bệnh tật và sự thiểu năng trí tuệ. Sự tắc nghẽn dĩ thái dẫn đến sự dày lên của mạng lưới đến mức bất thường, và sự dày lên này có thể ngăn cản, ví dụ, sự tiếp xúc với Chân Ngã hoặc các nguyên khí cao hơn, và kết quả của nó là chứng đần độn và mất cân bằng trí tuệ. Nó có thể dẫn đến sự phát triển thịt bất thường, sự dày lên của một số cơ quan nội tạng, và do đó áp lực không đáng có; một phần của thể dĩ thái bị tắc nghẽn có thể dẫn đến toàn bộ tình trạng thể chất bị đảo lộn, dẫn đến các bệnh khác nhau.

Destruction of tissue may lead to insanity of many kinds, especially those kinds deemed incurable. The burning of the web may let in extraneous astral currents against which man is helpless; the brain tissue may be literally destroyed by this pressure, and serious trouble be caused through the etheric ring-pass-not having been destroyed in some one place.

Sự phá hủy mô có thể dẫn đến chứng điên loạn thuộc nhiều loại, đặc biệt là những loại được coi là không thể chữa được. Việc đốt cháy mạng lưới có thể cho phép các dòng chảy cảm dục bên ngoài xâm nhập mà con người bất lực; các mô não có thể bị phá hủy theo đúng nghĩa đen bởi áp lực này, và những rắc rối nghiêm trọng có thể xảy ra do vòng-giới-hạn dĩ thái bị phá hủy ở một nơi nào đó.

In connection with the planet a similar state of affairs may be found. Later information may be forthcoming, which is at present withheld; this will show that whole races have been influenced, and certain kingdoms of nature troubled by planetary etheric congestion, or the destruction of planetary etheric tissue.

Liên quan đến hành tinh, một tình trạng tương tự có thể được tìm thấy. Thông tin sau này có thể được cung cấp, hiện đang bị giữ lại; điều này sẽ cho thấy rằng toàn bộ các giống dân đã bị ảnh hưởng, và một số giới của tự nhiên gặp rắc rối bởi sự tắc nghẽn dĩ thái hành tinh, hoặc sự phá hủy mô dĩ thái hành tinh.

We have dealt with the functional and organic ills of the etheric, giving certain indications for the extension of the concept to other realms than the purely human. In the human kingdom lies the key, but the turning of that key opens up a door to a wider interpretation as it admits one into the mysteries of nature. Though that key has to be turned seven times, yet even one turn reveals untold avenues of eventual comprehension. 47, 48 [110]

Chúng ta đã đề cập đến những bệnh tật chức năng và hữu cơ của dĩ thái, đưa ra một số chỉ định để mở rộng khái niệm sang các lĩnh vực khác ngoài con người thuần túy. Giới nhân loại chứa đựng chìa khóa, nhưng việc xoay chìa khóa đó sẽ mở ra một cánh cửa dẫn đến một sự giải thích rộng hơn khi nó cho phép người ta bước vào những bí ẩn của tự nhiên. Mặc dù chìa khóa đó phải được xoay bảy lần, nhưng ngay cả một lần xoay cũng tiết lộ những con đường không kể xiết của sự hiểu biết cuối cùng. 47, 48 [110]

We have considered the reception and distribution of pranic emanations in man, the planet, and the system and have seen what produces temporary disorders, and the devitalization or the over-vitalization of the organic form. Now we can look at the subject from a third angle and therefore study:

Chúng ta đã xem xét sự tiếp nhận và phân phối các bức xạ prana ở con người, hành tinh và hệ thống và đã thấy điều gì tạo ra các rối loạn tạm thời, và sự mất sinh lực hoặc quá nhiềusinh lực của hình tướng hữu cơ. Bây giờ chúng ta có thể nhìn vào chủ đề từ một góc độ thứ ba và do đó nghiên cứu:

47 The Keys to the Secret Doctrine, by H. P. Blavatsky. See S. D., I, 343; II, note; II, 551.

47 Các Chìa Khóa của Giáo Lý Bí Nhiệm, của H. P. Blavatsky. Xem S. D., I, 343; II, chú thích; II, 551.

1. Every symbol and allegory has seven keys.—S. D., II, 567; III, 3.

1. Mọi biểu tượng và ngụ ngôn đều có bảy chìa khóa.—S. D., II, 567; III, 3.

2. Only three keys available in the nineteenth century—S. D., II, 543, Compare II, 617, 842.

2. Chỉ có ba chìa khóa có sẵn trong thế kỷ XIX—S. D., II, 543, So sánh II, 617, 842.

3. There are seven keys to the Entrance door to the Mysteries.—S. D., III, 178. Compare I, 346; II, 330; II, 668; II, 731.

3. Có bảy chìa khóa cho Cánh cửa vào những Bí ẩn.—S. D., III, 178. So sánh I, 346; II, 330; II, 668; II, 731.

4. The keys, as hinted by H. P. B., are:

4. Các chìa khóa, như H. P. B. gợi ý, là:

a. Psychological.—S. D., II, 25, note; I, 389.

a. Tâm lý học.—S. D., II, 25, chú thích; I, 389.

b. Astronomical.—S. D., II, 25, note; I, 389; III, 198.

b. Thiên văn học.—S. D., II, 25, chú thích; I, 389; III, 198.

c. Physical or physiological.—S. D., II, 25, note; III, 198.

c. Vật lý hoặc sinh lý học.—S. D., II, 25, chú thích; III, 198.

d. Metaphysical.—S. D., II, 25, note; II, 394.

d. Siêu hình học.—S. D., II, 25, chú thích; II, 394.

e. Anthropological.—S. D., I, 389; III, 198.

e. Nhân chủng học.—S. D., I, 389; III, 198.

f. Astrological.—S. D. II, 343.

f. Chiêm tinh học.—S. D. II, 343.

g. Geometrical.—S. D., II, 494; III, 176.

g. Hình học.—S. D., II, 494; III, 176.

h. Mystical—S. D., I, 401.

h. Thần bí—S. D., I, 401.

i. Symbolical.—S. D., II, 561.

i. Tượng trưng.—S. D., II, 561.

j. Numerical.—S. D., II, 198.

j. Số học.—S. D., II, 198.

5. Each key must be turned seven times.—S. D., I, 22.

5. Mỗi chìa khóa phải được xoay bảy lần.—S. D., I, 22.

6. The Jews availed themselves of two keys out of the seven.

6. Người Do Thái tận dụng hai chìa khóa trong số bảy chìa khóa.

7. The Metaphysical key is available.—S. D., I, 338. Compare III, 198.

7. Chìa khóa Siêu hình học có sẵn.—S. D., I, 338. So sánh III, 198.

48 “The seven keys open the mysteries, past and future, of the seven great root-races and of the seven kalpas.” Every occult book, symbol and allegory can be subjected to seven interpretations. There are three locks to be opened. Seven keys. Every book can be read esoterically, subjectively and spiritually. All the keys are not yet available. (See Secret Doctrine, I, 330, 343.) There is the physiological key, the psychological, the astrological and the metaphysical. The fifth key is the geometrical.

48 “Bảy chìa khóa mở ra những bí ẩn, quá khứ và tương lai, của bảy giống dân gốc vĩ đại và bảy kalpa.” Mọi cuốn sách, biểu tượng và ngụ ngôn huyền bí đều có thể được giải thích theo bảy cách. Có ba ổ khóa cần mở. Bảy chìa khóa. Mọi cuốn sách đều có thể được đọc một cách bí truyền, chủ quan và tinh thần. Tất cả các chìa khóa chưa có sẵn. (Xem Giáo Lý Bí Nhiệm, I, 330, 343.) Có chìa khóa sinh lý, tâm lý, chiêm tinh và siêu hình. Chìa khóa thứ năm là hình học.

c. Microcosmic Static Disorders—Các Rối loạn Tĩnh tại Tiểu thiên địa,

or a consideration of the etheric body in connection with its work of providing a ring-pass-not from the purely physical to the astral. As has been said, both here and in the books of H. P. B., the ring-pass-not 48a is that confining barrier which acts as a separator or a division between a system and that which is external to that system. This, as may well be seen, has its interesting correlations when the subject is viewed (as we must consistently endeavor to view it) from the point of view of a human being, a planet and a system, remembering always that in dealing with the [111] etheric body we are dealing with physical matter. This must ever be borne carefully in mind. Therefore, one paramount factor will be found in all groups and formations, and this is the fact that the ring-pass-not acts only as a hindrance to that which is of small attainment in evolution, but forms no barrier to the more progressed. The whole question depends upon two things, which are the karma of the man, the planetary Logos, and the solar Logos, and the dominance of the spiritual indwelling entity over its vehicle.

hoặc xem xét thể dĩ thái liên quan đến công việc cung cấp một vòng-giới-hạn từ thuần túy vật lý đến cảm dục. Như đã nói, cả ở đây và trong sách của H. P. B., vòng-giới-hạn 48a là rào cản giam hãm hoạt động như một bộ tách biệt hoặc một sự phân chia giữa một hệ thống và những gì bên ngoài hệ thống đó. Điều này, như có thể thấy rõ, có những mối tương quan thú vị khi chủ đề được xem xét (như chúng ta phải cố gắng nhất quán để xem xét nó) từ quan điểm của một con người, một hành tinh và một hệ thống, luôn nhớ rằng khi đề cập đến [111] thể dĩ thái, chúng ta đang đề cập đến vật chất vật lý. Điều này phải luôn được ghi nhớ cẩn thận. Do đó, một yếu tố tối quan trọng sẽ được tìm thấy trong tất cả các nhóm và sự hình thành, và đây là thực tế là vòng-giới-hạn chỉ hoạt động như một trở ngại cho những gì có được ít thành tựu trong quá trình tiến hóa, nhưng không tạo thành rào cản cho những người tiến bộ hơn. Toàn bộ câu hỏi phụ thuộc vào hai điều, đó là nghiệp quả của con người, Hành Tinh Thượng Đế và Thái Dương Thượng Đế, và sự thống trị của thực thể nội tâm tinh thần đối với phương tiện của nó.

48a “Ring-pass-not. The circumference of the sphere of influence of any center of positive life. This includes the fire sphere of magnetic work of the solar orb, viewing it as the body of manifestation of a solar Logos, and inclusive of an entire solar system. This term is also applied to the sphere of activity of a planetary Logos or to a planetary scheme and could equally well be applied to the sphere of activity of the human Ego.” S. D., I, 346.

48a “Vòng-giới-hạn. Chu vi của phạm vi ảnh hưởng của bất kỳ trung tâm sự sống tích cực nào. Điều này bao gồm quả cầu lửa của công việc từ lực của Thái dương cầu, khi xem nó như là thể biểu lộ của một Thái dương Thượng đế, và bao hàm toàn bộ hệ mặt trời. Thuật ngữ này cũng được áp dụng cho phạm vi hoạt động của một Hành Tinh Thượng đế hoặc một hệ hành tinh, và cũng có thể được áp dụng cho phạm vi hoạt động của một Chân ngã nhân loại.” *Secret Doctrine*, I, 346.

IV. Macrocosmic and Microcosmic Ethers

[Commentary S1S12]

1. The Planetary Logos and the Ethers

Man, the indwelling thinker, passes at night from out of his etheric ring-pass-not and functions elsewhere. Therefore, under the law, the planetary Logos likewise can pass His ring-pass-not at stated seasons which correspond in the planet to the hours of man’s temporary repose, or pralaya.

Con người, người tư duy nội tâm, đi ra khỏi vòng-giới-hạn dĩ thái của mình vào ban đêm và hoạt động ở nơi khác. Do đó, theo định luật, Hành Tinh Thượng Đế cũng có thể vượt qua vòng-giới-hạn của Ngài vào những thời điểm nhất định tương ứng với hành tinh với những giờ nghỉ ngơi tạm thời của con người, hoặc giai kỳ qui nguyên.

The solar Logos likewise does the same during stated cycles, which are not the cycles succeeding those which we term solar pralaya, but lesser cycles succeeding the “days of Brahma” or periods of lesser activity, periodically viewed. All these are governed by karma, and just as the true Man himself applies the law of karma to his vehicles, and in his tiny system is the correspondence to that fourth group of karmic entities whom we call the Lipika Lords; He applies the law to his threefold lower nature. The fourth group of extra-cosmic Entities Who have Their place subsidiary to the three cosmic Logoi Who are the threefold sumtotal of the logoic nature, can pass the bounds of the solar ring-pass-not in Their stated cycles. This is a profound mystery and its complexity is increased by the recollection that the fourth Creative Hierarchy of human Monads, and the Lipika Lords in Their three groups (the first [112] group, the second, and the four Maharajahs, making the totality of the threefold karmic rulers who stand between the solar Logos and the seven planetary Logoi), are more closely allied than the other Hierarchies, and their destinies are intimately interwoven.

Thái Dương Thượng Đế cũng làm điều tương tự trong các chu kỳ đã nêu, không phải là các chu kỳ kế tiếp những gì chúng ta gọi là giai kỳ qui nguyên thái dương, mà là các chu kỳ nhỏ hơn kế tiếp “Ngày của Brahma” hoặc các giai đoạn hoạt động ít hơn, được xem xét định kỳ. Tất cả những điều này được chi phối bởi nghiệp quả, và giống như Bản Thể Chân Chính áp dụng định luật nghiệp quả cho các phương tiện của mình, và trong hệ thống nhỏ bé của mình là sự tương ứng với nhóm thực thể nghiệp quả thứ tư mà chúng ta gọi là các Chúa Tể Lipika; Ngài áp dụng định luật cho bản chất thấp hơn tam phân của mình. Nhóm thực thể ngoại vũ trụ thứ tư có vị trí phụ trợ cho ba Thượng Đế vũ trụ, là tổng số tam phân của bản chất logoic, có thể vượt qua ranh giới của vòng-giới-hạn thái dương trong các chu kỳ đã nêu của các Ngài. Đây là một bí ẩn sâu sắc và sự phức tạp của nó tăng lên bởi việc nhớ lại rằng Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư của Chân Thần con người, và các Chúa Tể Lipika trong ba nhóm của Họ (nhóm thứ nhất [112], nhóm thứ hai và bốn vị Đại Vương, tạo nên toàn bộ những người cai trị nghiệp quả tam phân đứng giữa Thái Dương Thượng Đế và bảy Hành Tinh Thượng Đế), có mối quan hệ chặt chẽ hơn các Huyền Giai khác, và số phận của họ có mối liên hệ mật thiết với nhau.

A further link in this chain which is offered for consideration lies in the fact that the four rays of mind (which concern the karma of the four planetary Logoi) in their totality hold in their keeping the present evolutionary process for Man, viewing him as the Thinker. These four, with the karmic four, work in the closest cooperation. Therefore, we have the following groups interacting:

Một liên kết nữa trong chuỗi này được đưa ra để xem xét nằm ở chỗ thực tế là bốn tia của trí tuệ (liên quan đến nghiệp quả của bốn Hành Tinh Thượng Đế) trong toàn bộ của chúng giữ trong sự bảo vệ của chúng quá trình tiến hóa hiện tại của Con Người, xem y là Người Tư Duy. Bốn điều này, với bốn điều nghiệp quả, hợp tác chặt chẽ nhất. Do đó, chúng ta có các nhóm sau tương tác:

– First. The four Maharajahs, the lesser Lipika Lords 49 who apply past karma and work it out in the present.

– Thứ nhất. Bốn vị Đại Vương, các Chúa Tể Lipika thấp hơn 49, những người áp dụng nghiệp quả quá khứ và thực hiện nó trong hiện tại.

– Second. The four Lipikas of the second group, referred to by H. P. B. as occupied in applying future karma, and wielding the future destiny of the races. The work of the first group of four cosmic Lipika Lords is occult and is only revealed somewhat at the fourth Initiation (and even then but slightly) so it will not be touched upon here.

– Thứ hai. Bốn Lipika của nhóm thứ hai, được H. P. B. đề cập đến là những người bận rộn áp dụng nghiệp quả tương lai, và nắm giữ số phận tương lai của các giống dân. Công việc của nhóm đầu tiên gồm bốn Chúa Tể Lipika vũ trụ là huyền bí và chỉ được tiết lộ phần nào tại Lần Điểm Đạo thứ tư (và thậm chí sau đó chỉ là một chút) vì vậy nó sẽ không được đề cập ở đây.

– Third. The fourth Creative Hierarchy of human Monads, held by a fourfold karmic law under the guidance of the Lipikas.

– Thứ ba. Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư của Chân Thần con người, được giữ bởi một định luật nghiệp quả tứ phân dưới sự hướng dẫn của các Lipika.

– Fourth. The four planetary Logoi 50 of Harmony, Knowledge, Abstract Thought and Ceremonial, who [113] are in Their totality the Quaternary of Manas while in process of evolution, and who pass under Their influence all the sons of men.

– Thứ tư. Bốn Hành Tinh Thượng Đế 50 của Sự Hài Hòa, Tri Thức, Tư Tưởng Trừu Tượng và Nghi Lễ, [113] trong toàn bộ của Họ là Tứ Nguyên của Manas trong khi đang trong quá trình tiến hóa, và những người truyền tất cả những người con của nhân loại dưới ảnh hưởng của Họ.

– Fifth. The Deva Lords of the four planes of Buddhi, or the plane of spiritual Intuition, Manas, or the mental plane, Desire, and the Physical, who are likewise allied to the human evolution in a closer sense than the higher three.

– Thứ năm. Các Chúa Tể Thiên Thần của bốn cõi giới Bồ Đề, hoặc cõi Trực Giác tinh thần, Manas, hoặc cõi trí tuệ, Ham Muốn và Vật Lý, những người cũng có mối quan hệ chặt chẽ hơn với sự tiến hóa của con người so với ba cõi giới cao hơn.

A further interesting correspondence is found in the following facts that are even now in process of development:

Một sự tương ứng thú vị hơn nữa được tìm thấy trong những sự kiện sau đây hiện đang trong quá trình phát triển:

The fourth plane of Buddhi is the one on which the planetary Logoi begin to make Their escape from Their planetary ring-pass-not, or from the etheric web that has its counterpart on all the planes.

Cõi thứ tư của Bồ Đề là cõi mà trên đó các Hành Tinh Thượng Đế bắt đầu thoát khỏi vòng-giới-hạn hành tinh của Họ, hoặc khỏi mạng lưới dĩ thái có đối tác trên tất cả các cõi giới.

When man begins in a small sense to coordinate the buddhic vehicle or, to express it otherwise, when he has developed the power to contact ever so slightly the buddhic plane, then he begins simultaneously and consciously to achieve the ability to escape from the etheric web on the physical plane. Later he escapes from its correspondence on the astral plane, and finally from the correspondence on the fourth subplane of the mental plane, this time via the mental unit. This leads eventually to causal functioning, or to the ability to dwell, and to be active in, the vehicle of the Ego, who is the embodiment of the love and wisdom aspect of the Monad. Note here the correspondence to that proved fact, that many can even now escape from the etheric body, and function in their [114] astral sheath, which is the personality reflection of that same second aspect.

Khi con người bắt đầu phối hợp phương tiện bồ đề theo một nghĩa nhỏ, hoặc, để diễn đạt nó theo cách khác, khi y đã phát triển sức mạnh để tiếp xúc dù chỉ một chút với cõi bồ đề, thì y bắt đầu đồng thời và có ý thức đạt được khả năng thoát khỏi mạng lưới dĩ thái trên cõi trần. Sau đó, y thoát khỏi sự tương ứng của nó trên cõi cảm dục, và cuối cùng thoát khỏi sự tương ứng trên cõi phụ thứ tư của cõi trí tuệ, lần này thông qua đơn vị trí tuệ. Điều này cuối cùng dẫn đến hoạt động nhân quả, hoặc khả năng cư trú và hoạt động trong phương tiện của Chân Ngã, người là hiện thân của khía cạnh tình thương và minh triết của Chân Thần. Lưu ý ở đây sự tương ứng với thực tế đã được chứng minh, rằng nhiều người thậm chí bây giờ có thể thoát khỏi thể dĩ thái, và hoạt động trong [114] vỏ bọc cảm dục của họ, là sự phản ánh cá tính của cùng một khía cạnh thứ hai đó.

49 The four Lipika Lords stand between the first and second plane.—S. D., I, 155.

49 Bốn Chúa Tể Lipika đứng giữa cõi giới thứ nhất và thứ hai.—S. D., I, 155.

a. They can pass the ring-pass-not.—S. D., I, 157.

a. Họ có thể vượt qua vòng-giới-hạn.—S. D., I, 157.

b. They are connected with karma.—S. D., I, 153.

b. Họ có liên quan đến nghiệp quả.—S. D., I, 153.

c. They are concerned with the Hereafter.—S. D., I, 151.

c. Họ có liên quan đến Thế Giới Bên Kia.—S. D., I, 151.

d. They are in three groups.—S. D., I, 153.

d. Họ ở trong ba nhóm.—S. D., I, 153.

e. They are the spirits of the Universe.—S. D., I, 153.

e. Họ là các linh hồn của Vũ Trụ.—S. D., I, 153.

50 The four rays of mind are the four minor rays which form the logoic Quaternary and which are synthesized eventually into a fifth ray, the third major ray of active intelligence, or adaptability. The names of the rays are as follows:

50 Bốn tia của trí tuệ là bốn tia nhỏ tạo thành Tứ Nguyên logoic và cuối cùng được tổng hợp thành một tia thứ năm, tia chính thứ ba của trí tuệ chủ động, hoặc khả năng thích ứng. Tên của các tia như sau:

The three major rays:

Ba tia chính:

1. The Ray of Will or Power.

1. Tia của Ý Chí hoặc Quyền Năng.

2. The Ray of Love or Wisdom.

2. Tia của Tình Thương hoặc Minh Triết.

3. The Ray of Active Intelligence.

3. Tia của Trí Tuệ Chủ Động.

The four minor Rays:

Bốn tia phụ:

4. The Ray of Beauty, Harmony, Art or Rhythm.

4. Tia của Vẻ Đẹp, Sự Hài Hòa, Nghệ Thuật hoặc Nhịp Điệu.

5. The Ray of Concrete Knowledge or Science.

5. Tia của Tri Thức hoặc Khoa Học Cụ Thể.

6. The Ray of Abstract Idealism.

6. Tia của Chủ Nghĩa Lý Tưởng Trừu Tượng.

7. The Ray of Ceremonial Order or Organization.

7. Tia của Trật Tự hoặc Tổ Chức Nghi Lễ.

When a man takes the fourth Initiation, he functions in the fourth plane vehicle, the buddhic, and has escaped permanently from the personality ring-pass-not, on the fourth subplane of the mental. There is naught to hold him to the three worlds. At the first Initiation he escapes from the ring-pass-not in a more temporary sense, but he has yet to escape from the three higher mental levels, which are the mental correspondences to the higher ethers, and to develop full consciousness on these three higher subplanes. We have here a correspondence to the work to be done by the initiate after he has achieved the fourth solar plane, the buddhic. There yet remains the development of full consciousness on the three higher planes of spirit before he can escape from the solar ring-pass-not, which is achieved at the seventh Initiation, taken somewhere in the system, or in its cosmic correspondence reached by the cosmic sutratma, or cosmic thread of life. 51

Khi một người thực hiện Lần Điểm Đạo thứ tư, y hoạt động trong phương tiện cõi thứ tư, bồ đề, và đã thoát khỏi vòng-giới-hạn cá tính một cách vĩnh viễn, trên cõi phụ thứ tư của cõi trí tuệ. Không có gì giữ y lại với ba cõi giới. Tại Lần Điểm Đạo thứ nhất, y thoát khỏi vòng-giới-hạn theo nghĩa tạm thời hơn, nhưng y vẫn chưa thoát khỏi ba cấp độ trí tuệ cao hơn, là những sự tương ứng về trí tuệ với các cõi dĩ thái cao hơn, và phát triển đầy đủ tâm thức trên ba cõi phụ cao hơn này. Ở đây chúng ta có một sự tương ứng với công việc mà điểm đạo đồ phải thực hiện sau khi đã đạt được cõi thứ tư thái dương, bồ đề. Vẫn còn sự phát triển đầy đủ tâm thức trên ba cõi giới cao hơn của tinh thần trước khi y có thể thoát khỏi vòng-giới-hạn thái dương, đạt được tại Lần Điểm Đạo thứ bảy, được thực hiện ở đâu đó trong hệ thống, hoặc trong sự tương ứng vũ trụ của nó đạt được bởi sutratma vũ trụ, hoặc sợi chỉ sự sống vũ trụ. 51

This fourth earth chain is in this connection one of the most important, for it is the appointed place for the domination of the etheric body by the human monad, with the aim in view of both human and planetary escape from limitations. This earth chain, though not one of the seven sacred planetary chains, is of vital importance at this time to the planetary Logos, who temporarily employs it as a medium of incarnation, and of expression. This fourth round finds the solution of its strenuous and chaotic life in the very simple fact of the shattering of [115] the etheric web in order to effect liberation, and permit a later and more adequate form to be employed.

Chuỗi trái đất thứ tư này trong mối liên hệ này là một trong những chuỗi quan trọng nhất, vì nó là nơi được chỉ định cho sự thống trị của thể dĩ thái bởi chân thần con người, với mục đích cả sự thoát khỏi những hạn chế của con người và hành tinh. Chuỗi trái đất này, mặc dù không phải là một trong bảy chuỗi hành tinh thiêng liêng, nhưng lại có tầm quan trọng sống còn vào thời điểm này đối với Hành Tinh Thượng Đế, người tạm thời sử dụng nó như một phương tiện nhập thể và biểu hiện. Vòng tuần hoàn thứ tư này tìm thấy giải pháp cho cuộc sống căng thẳng và hỗn loạn của nó trong thực tế rất đơn giản là làm tan vỡ [115] mạng lưới dĩ thái để thực hiện sự giải phóng, và cho phép một hình tướng sau này và đầy đủ hơn được sử dụng.

A further chain of ideas may be followed up in the remembrance that the fourth ether is even now being studied and developed by the average scientist, and is already somewhat harnessed to the service of man; that the fourth subplane of the astral plane is the normal functioning ground of the average man and that in this round escape from the etheric vehicle is being achieved; that the fourth subplane of the mental plane is the present goal of endeavor of one-fourth of the human family; that the fourth manvantara will see the solar ring-pass-not offering avenues of escape to those who have reached the necessary point; that the four planetary Logoi will perfect Their escape from Their planetary environment, and will function with greater ease on the cosmic astral plane, paralleling on cosmic levels the achievement of the human units who are the cells in Their bodies.

Một chuỗi ý tưởng nữa có thể được tiếp tục trong sự ghi nhớ rằng cõi dĩ thái thứ tư thậm chí hiện đang được các nhà khoa học trung bình nghiên cứu và phát triển, và đã phần nào được khai thác để phục vụ con người; rằng cõi phụ thứ tư của cõi cảm dục là nền tảng hoạt động bình thường của người trung bình và rằng trong vòng tuần hoàn này, sự thoát khỏi phương tiện dĩ thái đang đạt được; rằng cõi phụ thứ tư của cõi trí tuệ là mục tiêu nỗ lực hiện tại của một phần tư gia đình nhân loại; rằng đại kiếp thứ tư sẽ thấy vòng-giới-hạn thái dương cung cấp các con đường thoát cho những người đã đạt đến điểm cần thiết; rằng bốn Hành Tinh Thượng Đế sẽ hoàn thiện sự thoát khỏi môi trường hành tinh của Họ, và sẽ hoạt động dễ dàng hơn trên cõi cảm dục vũ trụ, song song trên các cấp độ vũ trụ với thành tựu của các đơn vị con người là các tế bào trong cơ thể của Họ.

Our solar Logos, being a Logos of the fourth order, will begin to coordinate His cosmic buddhic body, and as He develops cosmic mind He will gradually achieve, by the aid of that mind, the ability to touch the cosmic buddhic plane.

Thái Dương Thượng Đế của chúng ta, là một Thượng Đế của trật tự thứ tư, sẽ bắt đầu phối hợp cơ thể bồ đề vũ trụ của Ngài, và khi Ngài phát triển trí tuệ vũ trụ, Ngài sẽ dần dần đạt được, với sự trợ giúp của trí tuệ đó, khả năng chạm vào cõi bồ đề vũ trụ.

These possibilities and correspondences have been somewhat dwelt upon, as it is necessary for us to realize the work to be done in connection with the etheric web before we take up the matter of the various causes which may hinder the desired progress, and prevent the appointed escape and destined liberation. Later we will take up the consideration of the etheric web, and its static condition. This will entail the recollection of two things:

Những khả năng và sự tương ứng này đã được đề cập phần nào, vì chúng ta cần nhận ra công việc cần làm liên quan đến mạng lưới dĩ thái trước khi chúng ta xem xét vấn đề về các nguyên nhân khác nhau có thể cản trở sự tiến bộ mong muốn, và ngăn cản sự thoát ra và giải phóng đã định trước. Sau đó, chúng ta sẽ xem xét mạng lưới dĩ thái và tình trạng tĩnh của nó. Điều này sẽ đòi hỏi sự hồi tưởng về hai điều:

– First, that this static condition is only so when viewed from the standpoint of man at the present time, and is [116] only termed so in order to make plainer the changes that must be effected and the dangers that must be offset. Evolution moves so slowly from man’s point of view that it seems to be almost stationary, especially where etheric evolution is concerned.

– Thứ nhất, rằng tình trạng tĩnh này chỉ là như vậy khi được xem xét từ quan điểm của con người vào thời điểm hiện tại, và [116] chỉ được gọi như vậy để làm rõ hơn những thay đổi phải được thực hiện và những nguy hiểm phải được bù đắp. Sự tiến hóa diễn ra quá chậm so với quan điểm của con người đến nỗi nó dường như gần như đứng yên, đặc biệt là khi có liên quan đến sự tiến hóa dĩ thái.

– Second, that we are only concerning ourselves with the physical etheric body and not with its correspondences on all planes. This is because our system is on the cosmic etheric levels, and hence is of prime importance to us.

– Thứ hai, rằng chúng ta chỉ quan tâm đến thể dĩ thái vật lý và không phải với sự tương ứng của nó trên tất cả các cõi giới. Điều này là do hệ thống của chúng ta nằm trên các cấp độ dĩ thái vũ trụ, và do đó có tầm quan trọng hàng đầu đối với chúng ta.

51 Sutratma. The “silver thread” which incarnates from the beginning of a period of manifestation until the end, stringing upon itself the pearls of human existence. It is the line of energy which connects the lower personal man with his Father in Heaven via the ego, the mediating middle principle. Upon it are found those focal points of energy we call the permanent atoms.

51 Sutratma. “Sợi chỉ bạc” nhập thể từ đầu thời kỳ biểu hiện cho đến cuối, xâu chuỗi trên chính nó những viên ngọc trai của sự tồn tại của con người. Đó là đường năng lượng kết nối con người cá nhân thấp hơn với Cha của mình trên Thiên Đàng thông qua chân ngã, nguyên khí trung gian. Trên đó có những tiêu điểm năng lượng mà chúng ta gọi là các nguyên tử trường tồn.

2. Cosmic and Systemic Ethers

For the sake of those who read this treatise, and because the sequential repetition of fact makes for clarity, let us here briefly tabulate certain fundamental hypotheses that have a definite bearing upon the matter in hand, and which may serve to clear up the present existing confusion concerning the matter of the solar system. Some of the facts stated are already well known, others are inferential, while some are the expression of old and true correspondences couched in a more modern form

Để tiện cho những người đọc chuyên luận này, và vì sự lặp lại tuần tự của sự kiện làm cho rõ ràng, chúng ta hãy tóm tắt ngắn gọn ở đây một số giả thuyết cơ bản có ảnh hưởng rõ ràng đến vấn đề đang được đề cập, và có thể phục vụ để làm sáng tỏ sự nhầm lẫn hiện tại liên quan đến vấn đề về hệ mặt trời. Một số sự kiện được nêu ra đã được biết rõ, những sự kiện khác là suy luận, trong khi một số là sự thể hiện của các mối tương ứng cũ và đúng đắn được diễn đạt theo một hình thức hiện đại hơn

a. The lowest cosmic plane is the cosmic physical, and it is the only one which the finite mind of man can in any way comprehend.

a. Cõi vũ trụ thấp nhất là cõi trần vũ trụ, và đó là cõi duy nhất mà trí tuệ hữu hạn của con người có thể hiểu được bằng bất kỳ cách nào.

b. This cosmic physical plane exists in matter differentiated into seven qualities, groups, grades, or vibrations.

b. Cõi trần vũ trụ này tồn tại trong vật chất được phân biệt thành bảy phẩm tính, nhóm, cấp độ hoặc rung động.

c. These seven differentiations are the seven major planes of our solar system.

c. Bảy sự phân biệt này là bảy cõi giới chính của hệ mặt trời của chúng ta.

For purposes of clarity, we might here tabulate under the headings physical, systemic, and cosmic, so that the relationship and the correspondences may be apparent, and the connection to that which is above, and to that which is below, or included, may be plainly seen. [118]

Để rõ ràng, chúng ta có thể lập bảng ở đây dưới các tiêu đề vật lý, hệ thống và vũ trụ, để mối quan hệ và sự tương ứng có thể rõ ràng, và mối liên hệ với những gì ở trên, và với những gì ở dưới, hoặc được bao gồm, có thể được nhìn thấy rõ ràng. [118]

THE PLANES

Physical Plane

Systemic Planes

Cosmic Planes

1. Atomic plane, 1st ether

Divine

Adi

Atomic plane

1st ether

2. Subatomic

Monadic

Anupadaka

The Akasha

Subatomic

2nd ether

3. Super-etheric

Spiritual. Atmic.

Ether

3rd ether

PLANE OF UNION OR AT-ONE-MENT

4. Etheric

Intuitional

Buddhic

Air

4th cosmic ether

THE LOWER THREE WORLDS

5. Gaseous

Mental

Fire

Gaseous subetheric

6. Liquid

Astral

Emotional

Liquid

7. Dense physical

Physical plane

Dense physical

d. These major seven planes of our solar system being but the seven subplanes of the cosmic physical plane, we can consequently see the reason for the emphasis laid by H. P. B. 52,53 upon the fact that matter and ether are synonymous terms and that this ether is found in some form or other on all the planes, and is but a gradation of cosmic atomic matter, called when undifferentiated mulaprakriti or primordial pregenetic substance, and when differentiated by Fohat (or the energizing Life, the third Logos or Brahma) it is termed prakriti, or matter. 54

d. Bảy cõi giới chính này của hệ mặt trời của chúng ta chỉ là bảy cõi phụ của cõi trần vũ trụ, do đó chúng ta có thể thấy lý do tại sao H. P. B. 52,53 nhấn mạnh vào thực tế là vật chất và dĩ thái là những thuật ngữ đồng nghĩa và dĩ thái này được tìm thấy ở dạng này hay dạng khác trên tất cả các cõi giới, và chỉ là một cấp độ của vật chất nguyên tử vũ trụ, được gọi khi không phân biệt là mulaprakriti hoặc chất tiền sinh nguyên thủy, và khi được Fohat phân biệt (hoặc Sự Sống tiếp sinh lực, Thượng đế Ngôi Ba hoặc Brahma) nó được gọi là prakriti, hoặc vật chất. 54

e. Our solar system is what is called a system of the fourth order; that is, it has its location on the fourth cosmic etheric plane, counting, as always, from above downwards. [119]

e. Hệ mặt trời của chúng ta là cái được gọi là một hệ thống thuộc trật tự thứ tư; tức là, nó có vị trí trên cõi dĩ thái vũ trụ thứ tư, đếm, như mọi khi, từ trên xuống. [119]

f. Hence this fourth cosmic etheric plane forms the meeting ground for the past and the future, and is the present.

f. Do đó, cõi dĩ thái vũ trụ thứ tư này tạo thành nền tảng gặp gỡ cho quá khứ và tương lai, và là hiện tại.

g. Therefore, also, the buddhic or intuitional plane (the correspondence in the system of this fourth cosmic ether) is the meeting ground, or plane of union, for that which is man and for that which will be superman, and links the past with that which is to be.

g. Do đó, cõi bồ đề hoặc trực giác (sự tương ứng trong hệ thống của cõi dĩ thái vũ trụ thứ tư này) cũng là nền tảng gặp gỡ, hoặc cõi hợp nhất, cho những gì là con người và cho những gì sẽ là siêu nhân, và liên kết quá khứ với những gì sẽ xảy ra.

h. The following correspondences in time would repay careful meditation. They are based on a realization of the relationship between this fourth cosmic ether, the buddhic plane, and the fourth physical etheric subplane.

h. Các mối tương ứng sau đây theo thời gian sẽ được đền đáp bằng sự suy ngẫm cẩn thận. Chúng dựa trên sự nhận thức về mối quan hệ giữa cõi dĩ thái vũ trụ thứ tư này, cõi bồ đề và cõi phụ dĩ thái vật lý thứ tư.

– The fourth subplane of mind, the correspondence on the mental plane of the physical etheric, is likewise a point of transition from out of a lower into a higher, and is the transferring locality into a higher body.

– Cõi phụ thứ tư của trí tuệ, sự tương ứng trên cõi trí tuệ của cõi dĩ thái vật lý, cũng là một điểm chuyển tiếp từ một cõi thấp hơn sang một cõi cao hơn, và là địa điểm chuyển giao vào một cơ thể cao hơn.

– The fourth subplane of the monadic plane is in a very real sense the place of transition from off the egoic ray (whichever that ray may be) on to the monadic ray; these three major rays are organized on the three higher subplanes of the monadic plane in the same way that the three abstract subplanes of the mental are the group of transference from off the personality ray on to the egoic.

– Cõi phụ thứ tư của cõi chân thần theo một nghĩa rất thực tế là nơi chuyển tiếp từ tia chân ngã (bất kể tia đó là gì) lên tia chân thần; ba tia chính này được tổ chức trên ba cõi phụ cao hơn của cõi chân thần theo cùng một cách mà ba cõi phụ trừu tượng của cõi trí tuệ là nhóm chuyển giao từ tia cá tính lên tia chân ngã.

  The four lesser rays blend with the third major ray of active intelligence on the mental plane and on the atmic plane. The four Logoi or planetary Spirits work as one, on the atmic plane.

– Bốn tia nhỏ hòa trộn với tia chính thứ ba của trí tuệ chủ động trên cõi trí tuệ và trên cõi atma. Bốn Thượng Đế hoặc Tinh Thần hành tinh hoạt động như một, trên cõi atma.

52 S. D., I, 136, 354. See also note page No. 8.

52 S. D., I, 136, 354. Xem thêm ghi chú trang Số 8.

53 S. D., 1, 87, 136, 731, 732.

53 S. D., 1, 87, 136, 731, 732.

54 Mulaprakriti. The Parabrahmic root, the abstract deific feminine principle—undifferentiated substance. Akasha. Literally, “the root of Nature” (Prakriti), or matter.

54 Mulaprakriti. Gốc rễ Parabrahma, nguyên khí nữ tính trừu tượng—chất không phân biệt. Akasha. Theo nghĩa đen, “gốc rễ của Tự Nhiên” (Prakriti), hoặc vật chất.

i. Another synthesis takes place on the synthetic second ray on the second subplane of the buddhic plane and the monadic plane, while the comparatively few Monads of will or power are synthesized on the atomic subplane of the atmic. All three groups of Monads work in triple form on the mental plane under the Mahachohan, the Manu, and the Bodhisattva, or the Christ; on the second or monadic plane they work as a unit, only demonstrating [120] their dual work on the atmic plane, and their essential triplicity on the buddhic plane.55

i. Một sự tổng hợp khác diễn ra trên cung thứ hai tổng hợp trên cõi phụ thứ hai của cõi bồ đề và cõi chân thần, trong khi số lượng Chân Thần tương đối ít của ý chí hoặc quyền năng được tổng hợp trên cõi phụ nguyên tử của cõi atma. Cả ba nhóm Chân Thần hoạt động ở dạng tam phân trên cõi trí tuệ dưới MahaChohan, Manu và Bồ Tát, hoặc Đức Christ; trên cõi thứ hai hoặc chân thần, chúng hoạt động như một đơn vị, chỉ thể hiện [120] công việc kép của chúng trên cõi atma, và tính tam phân thiết yếu của chúng trên cõi bồ đề.55

j. The fourth etheric plane holds the key to the dominance of matter, and it might be noted that:

j. Cõi dĩ thái thứ tư nắm giữ chìa khóa cho sự thống trị của vật chất, và có thể lưu ý rằng:

– On the fourth physical ether man begins to coordinate his astral, or emotional body, and to escape at ever more frequent intervals into that vehicle. Continuity of consciousness is achieved when a man has mastered the four ethers.

– Trên cõi dĩ thái vật lý thứ tư, con người bắt đầu phối hợp thể cảm dục của mình, hoặc thể cảm xúc, và thoát ra với những khoảng thời gian ngày càng thường xuyên hơn vào phương tiện đó. Tính liên tục của tâm thức đạt được khi một người đã làm chủ được bốn cõi dĩ thái.

– On the fourth subplane of the mental plane, man begins to control his causal or egoic body, and to polarize his consciousness therein until the polarization is complete. He functions then consciously on it when he has mastered the correspondences to the ethers on the mental plane.

– Trên cõi phụ thứ tư của cõi trí tuệ, con người bắt đầu kiểm soát cơ thể nhân quả hoặc chân ngã của mình, và phân cực tâm thức của mình ở đó cho đến khi sự phân cực hoàn tất. Sau đó, y hoạt động có ý thức trên đó khi y đã làm chủ được các mối tương ứng với các cõi dĩ thái trên cõi trí tuệ.

– On the buddhic plane (the fourth cosmic ether) the Heavenly Men (or the grouped consciousness of the human and deva Monads) begin to function, and to escape eventually from the cosmic etheric planes. When these three cosmic ethers are mastered, the functioning is perfected, polarization is centered in the monadic vehicles, and the seven Heavenly Men have achieved Their goal.

– Trên cõi bồ đề (cõi dĩ thái vũ trụ thứ tư), các Đấng Thiên Nhân (hoặc tâm thức nhóm của Chân Thần con người và thiên thần) bắt đầu hoạt động, và cuối cùng thoát khỏi các cõi dĩ thái vũ trụ. Khi ba cõi dĩ thái vũ trụ này được làm chủ, hoạt động được hoàn thiện, sự phân cực được tập trung vào các phương tiện chân thần, và bảy Đấng Thiên Nhân đã đạt được mục tiêu của Họ.

k. On these etheric levels, therefore, the Logos of our [121] system repeats, as a grand totality, the experiences of His tiny reflections on the physical planes; He coordinates His cosmic astral body, and attains continuity of consciousness when He has mastered the three cosmic ethers.

k. Do đó, trên các cấp độ dĩ thái này, Thượng Đế [121] của hệ thống của chúng ta lặp lại, như một tổng thể vĩ đại, những kinh nghiệm về những phản ánh nhỏ bé của Ngài trên các cõi trần; Ngài phối hợp cơ thể cảm dục vũ trụ của Ngài, và đạt được tính liên tục của tâm thức khi Ngài đã làm chủ được ba cõi dĩ thái vũ trụ.

l. It is to be observed that just as in man the dense physical body in its three grades—dense, liquid and gaseous—is not recognized as a principle, so in the cosmic sense the physical (dense) astral (liquid) and mental (gaseous) levels are likewise regarded as non-existing, and the solar system has its location on the fourth ether. The seven sacred planets are composed of matter of this fourth ether, and the seven Heavenly Men, whose bodies they are, function normally on the fourth plane of the system, the buddhic or the fourth cosmic ether. When man has attained the consciousness of the buddhic plane, he has raised his consciousness to that of the Heavenly Man in whose body he is a cell. This is achieved at the fourth Initiation, the liberating initiation. At the fifth Initiation he ascends with the Heavenly Man on to the fifth plane (from the human standpoint), the atmic, and at the sixth he has dominated the second cosmic ether and has monadic consciousness and continuity of function. At the seventh Initiation he dominates the entire sphere of matter contained in the lowest cosmic plane, escapes from all etheric contact, and functions on the cosmic astral plane.

l. Cần lưu ý rằng giống như ở con người, thể xác trọng trược ở ba cấp độ của nó—trọng trược, lỏng và khí—không được công nhận là một nguyên khí, thì theo nghĩa vũ trụ, các cấp độ vật lý (trọng trược) cảm dục (lỏng) và trí tuệ (khí) cũng được coi là không tồn tại, và hệ mặt trời có vị trí của nó trên cõi dĩ thái thứ tư. Bảy hành tinh thiêng liêng được cấu tạo từ vật chất của cõi dĩ thái thứ tư này, và bảy Đấng Thiên Nhân, có cơ thể là chúng, hoạt động bình thường trên cõi thứ tư của hệ thống, cõi bồ đề hoặc cõi dĩ thái vũ trụ thứ tư. Khi con người đạt được tâm thức của cõi bồ đề, y đã nâng tâm thức của mình lên tâm thức của Đấng Thiên Nhân mà trong cơ thể của Ngài, y là một tế bào. Điều này đạt được tại Lần Điểm Đạo thứ tư, lần điểm đạo giải phóng. Tại Lần Điểm Đạo thứ năm, y thăng lên cùng với Đấng Thiên Nhân lên cõi thứ năm (từ quan điểm của con người), cõi atma, và tại lần thứ sáu, y đã thống trị cõi dĩ thái vũ trụ thứ hai và có tâm thức chân thần và tính liên tục của chức năng. Tại Lần Điểm Đạo thứ bảy, y thống trị toàn bộ phạm vi vật chất chứa trong cõi vũ trụ thấp nhất, thoát khỏi mọi sự tiếp xúc dĩ thái, và hoạt động trên cõi cảm dục vũ trụ.

The past solar system saw the surmounting of the three lowest cosmic physical planes viewed from the matter standpoint and the coordination of the dense threefold physical form in which all life is found, dense matter, liquid matter, gaseous matter. A correspondence may be seen here in the work achieved in the first three root-races. 56, 57 [122]

Hệ mặt trời trong quá khứ đã chứng kiến sự vượt qua ba cõi trần vũ trụ thấp nhất được xem xét từ quan điểm vật chất và sự phối hợp của hình tướng vật lý tam phân trọng trược trong đó tất cả sự sống được tìm thấy, vật chất trọng trược, vật chất lỏng, vật chất khí. Một sự tương ứng có thể được nhìn thấy ở đây trong công việc đạt được trong ba giống dân gốc đầu tiên. 56, 57 [122]

55 The monads of the fourth Creative Hierarchy, the human Monads, exist in three main groups:

55 Các chân thần của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư, các Chân Thần con người, tồn tại trong ba nhóm chính:

a. The Monads of Will.

a. Các Chân Thần của Ý Chí.

b. The Monads of Love.

b. Các Chân Thần của Tình Thương.

c. The Monads of Activity.

c. Các Chân Thần của Hoạt Động.

Mahachohan.  The officer in our planetary Hierarchy who presides over the activities carried on in the four minor rays and their synthesising third ray.  He has to do with civilisation, with the intellectual culture of the races, and with intelligent energy.  He is the head of all the Adepts.

MahaChohan. Viên chức trong Huyền Giai hành tinh của chúng ta, người chủ trì các hoạt động được thực hiện trong bốn tia nhỏ và tia thứ ba tổng hợp của chúng. Y có liên quan đến nền văn minh, với sự phát triển trí tuệ của các giống dân và với năng lượng thông minh. Y là người đứng đầu của tất cả các Chân Sư.

Bodhisattva.  The exponent of second ray force, the Teacher of the Adepts of men and of Angels.  This office was originally held by the Buddha, but His place was taken (after His Illumination) by the Christ.  The work of the Bodhisattva is with the religions of the world, and with the spiritual Essence in Man.

Bồ Tát. Người trình bày mãnh lực tia thứ hai, Huấn Sư của các Chân Sư của con người và Thiên Thần. Văn phòng này ban đầu do Đức Phật nắm giữ, nhưng vị trí của Ngài được thay thế (sau khi Ngài Giác Ngộ) bởi Đức Christ. Công việc của Bồ Tát là với các tôn giáo của thế giới, và với Tinh Chất tâm linh trong Con Người.

The Manu.  The One Who presides over the evolution of the races.  He is the ideal man.  He has to work with the forms through which Spirit is to manifest; he destroys, and builds up again.  These three Individuals preside over the three Departments into which the Hierarchy is divided, and therefore represent in their particular sphere the three Aspects of divine manifestation.

Manu. Đấng Chủ trì sự tiến hóa của các giống dân. Y là người đàn ông lý tưởng. Y phải làm việc với các hình tướng mà qua đó Tinh Thần sẽ biểu hiện; y phá hủy, và xây dựng lại. Ba Cá Nhân này chủ trì ba Bộ phận mà Huyền Giai được chia thành, và do đó đại diện trong lĩnh vực cụ thể của họ cho ba Trạng Thái của sự biểu hiện thiêng liêng.

56 Rootrace.  The Secret Doctrine teaches us that in this evolution or Round on this planet the Jivatma—the human soul—passes through seven main types or “rootraces.”  In the case of the two earliest of these, known as the “Adamic” and the “Hyperborean,” the forms ensouled were astral and etheric respectively:  “huge and indefinite” they were with a low state or outward-going consciousness exercised through the one sense (hearing) possessed by the first race, or through the two senses (hearing and touch) possessed by the second.  But with the third race the Lemurian, a denser and more human type was evolved, this being perfected in the fourth or Atlantean race.  The fifth race, the Aryan, is now running its course on this globe concurrently with a large part of the fourth race and a few remnants of the third.  For it must be noted that, although each race gives birth to the succeeding race, the two will overlap in time, coexisting for many ages.  Of existing peoples the Tartars, Chinese and Mongolians belong to the fourth race, the Australian aborigines and Hottentots to the third.

56 Giống dân gốc. Giáo Lý Bí Nhiệm dạy chúng ta rằng trong sự tiến hóa hoặc Vòng Tuần Hoàn này trên hành tinh này, Jivatma—linh hồn con người—trải qua bảy loại hình chính hoặc “giống dân gốc”. Trong trường hợp hai giống dân sớm nhất này, được gọi là “Adamic” và “Hyperborean”, các hình tướng được phú linh lần lượt là cảm dục và dĩ thái: “khổng lồ và không xác định”, chúng có trạng thái thấp hoặc tâm thức hướng ngoại được thực hiện thông qua một giác quan (thính giác) được giống dân thứ nhất sở hữu, hoặc thông qua hai giác quan (thính giác và xúc giác) được giống dân thứ hai sở hữu. Nhưng với giống dân thứ ba, Lemuria, một loại hình đặc hơn và giống người hơn đã tiến hóa, loại hình này được hoàn thiện ở giống dân thứ tư hoặc Atlantis. Giống dân thứ năm, Arya, hiện đang diễn ra trên địa cầu này đồng thời với một phần lớn của giống dân thứ tư và một vài tàn tích của giống dân thứ ba. Vì cần lưu ý rằng, mặc dù mỗi giống dân sinh ra giống dân kế tiếp, nhưng hai giống dân sẽ chồng chéo nhau về thời gian, cùng tồn tại trong nhiều thời đại. Trong số các dân tộc hiện có, người Tatar, Trung Quốc và Mông Cổ thuộc giống dân thứ tư, thổ dân Úc và người Hottentot thuộc giống dân thứ ba.

57 In the co-ordination of the Monadic, Atmic and Buddhic vehicles of the Heavenly Man, the vehicles of spiritual life, the higher esoteric correspondence to the prana flowing through the lower reflection, the etheric physical body, the point of synthesis is always on the atomic subplane, and the six merge and become the seventh.  In this solar system the plane of synthesis is not included in the evolutionary scheme.  It is the plane of gathering in and of pralaya.  In the earlier system the fourth aetheric was in this position; it was to the evolving units of that period what the atomic plane is now, the highest point of achievement.  The goal for all was the buddhic plane or the fourth cosmic aether.  Three other planes are the goal now,—the buddhic, atmic and monadic, each time three planes and their eventual synthesis.  In the future solar system the cosmic physical atomic aether (the plane of Adi in the system now) will be the starting point and the three planes to be dominated will be the three lowest cosmic astral planes.  Man starts in where he leaves off, with cosmic physical matter perfected.  His lowest body, therefore, will be the monadic or the body of the second cosmic aether.  This will not be then counted as a principle any more than the threefold lower physical body of present day man is recognised as a principle.

57 Trong sự phối hợp của các phương tiện Chân Thần, Atmic và Bồ Đề của Đấng Thiên Nhân, các phương tiện của sự sống tinh thần, sự tương ứng bí truyền cao hơn với prana chảy qua sự phản ánh thấp hơn, thể dĩ thái vật lý, điểm tổng hợp luôn nằm trên cõi phụ nguyên tử, và sáu hợp nhất và trở thành thứ bảy. Trong hệ mặt trời này, cõi tổng hợp không được bao gồm trong sơ đồ tiến hóa. Đó là cõi tập hợp và giai kỳ qui nguyên. Trong hệ thống trước đó, cõi dĩ thái thứ tư ở vị trí này; nó là đối với các đơn vị tiến hóa của thời kỳ đó những gì mà cõi nguyên tử hiện tại, điểm cao nhất của thành tựu. Mục tiêu cho tất cả là cõi bồ đề hoặc cõi dĩ thái vũ trụ thứ tư. Ba cõi giới khác là mục tiêu bây giờ,—bồ đề, atma và chân thần, mỗi lần ba cõi giới và sự tổng hợp cuối cùng của chúng. Trong hệ mặt trời tương lai, cõi dĩ thái nguyên tử vũ trụ (cõi Adi trong hệ thống hiện tại) sẽ là điểm khởi đầu và ba cõi giới cần được thống trị sẽ là ba cõi cảm dục vũ trụ thấp nhất. Con người bắt đầu ở nơi y dừng lại, với vật chất vật lý vũ trụ được hoàn thiện. Do đó, cơ thể thấp nhất của y sẽ là chân thần hoặc cơ thể của cõi dĩ thái vũ trụ thứ hai. Điều này sẽ không được tính là một nguyên khí nữa so với cơ thể vật lý tam phân thấp hơn của con người ngày nay được công nhận là một nguyên khí.

The present solar system will see the surmounting of the three next cosmic physical planes, the fourth, third, and the second aethers, and the coordination of the cosmic etheric body.

Hệ mặt trời hiện tại sẽ chứng kiến sự vượt qua ba cõi trần vũ trụ tiếp theo, cõi dĩ thái thứ tư, thứ ba và thứ hai, và sự phối hợp của cơ thể dĩ thái vũ trụ.

3. The Protective Purpose of the Etheric Body

[Commentary S1S13]

Now let us, after this somewhat lengthy digression, leave things cosmic and incomprehensible, and come down to practical evolution, and to the study of the matter of man’s etheric body, and of the harm that may ensue to him should that body (through the breaking of the law) no longer perform its protective function. Let us see first of all what those protective functions are:

Bây giờ chúng ta hãy, sau sự lạc đề có phần dài dòng này, rời bỏ những điều vũ trụ và khó hiểu, và đi vào sự tiến hóa thiết thực, và nghiên cứu vấn đề về thể dĩ thái của con người, và những tác hại có thể xảy ra cho y nếu cơ thể đó (thông qua việc phá vỡ định luật) không còn thực hiện chức năng bảo vệ của nó nữa. Trước hết, chúng ta hãy xem xét những chức năng bảo vệ đó là gì:

– First. The etheric web acts as a separator or a dividing web between the astral and the dense physical body.

Thứ nhất. Mạng lưới dĩ thái hoạt động như một bộ chia tách hoặc một mạng lưới phân chia giữa thể cảm dục và thể xác trọng trược.

– Second. It circulates the inflowing vitality or pranic fluid and carries on its work in three stages.

Thứ hai. Nó lưu thông lưu chất sinh lực hoặc prana đang chảy vào và thực hiện công việc của nó trong ba giai đoạn.

The first stage is that wherein the pranic fluid and [123] solar radiations are received, and circulated three times around the triangle, thence being distributed to the periphery of the body, animating and vitalizing all the physical organs and conducing to the automatic subconscious workings of the body of dense matter. When perfectly accomplishing its object it protects from disease, and the ills of the flesh are unknown to the man who absorbs and distributes prana with accuracy. This hint is recommended to all physicians, and when properly comprehended, will result in a basic change in medicine, from a curative to a preventive foundation.

Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn trong đó lưu chất prana và các bức xạ Thái dương được tiếp nhận, và [123] luân lưu ba lần quanh tam giác, từ đó được phân phối ra chu vi của thể xác, làm linh hoạt và tiếp sinh lực cho tất cả các cơ quan vật lý, và hỗ trợ cho các hoạt động tiềm thức tự động của thể xác đậm đặc. Khi hoàn thành trọn vẹn mục tiêu của nó, nó bảo vệ khỏi bệnh tật, và những khổ đau của thể xác là điều không được biết đến đối với người hấp thu và phân phối prana một cách chính xác. Gợi ý này được khuyến nghị đến tất cả các y sĩ, và khi được lĩnh hội đúng đắn, sẽ dẫn đến một thay đổi căn bản trong y học, từ nền tảng chữa trị sang nền tảng phòng ngừa.

The second stage is that in which the pranic fluids begin to blend with the fire at the base of the spine and to drive that fire slowly upwards, transferring its heat from the centers below the solar plexus to the three higher centers—that of the heart, the throat and the head. This is a long and slow process when left to the unaided force of nature, but it is just here that (in a few cases) a quickening of the process is permitted in order to equip workers in the field of human service. This is the object of all occult training. This angle of the matter we will take up in still greater detail when we handle our next point of “Kundalini and the Spine.”

Giai đoạn thứ hai là giai đoạn mà các lưu chất prana bắt đầu hòa trộn với ngọn lửa ở đáy cột sống và từ từ thúc đẩy ngọn lửa đó lên trên, truyền nhiệt từ các trung tâm bên dưới tùng thái dương đến ba trung tâm cao hơn—trung tâm của tim, cổ họng và đầu. Đây là một quá trình lâu dài và chậm chạp khi để lại cho lực lượng tự nhiên không được hỗ trợ, nhưng chính ở đây mà (trong một vài trường hợp) một sự đẩy nhanh quá trình được cho phép để trang bị cho những người làm việc trong lĩnh vực phụng sự nhân loại. Đây là mục tiêu của tất cả các huấn luyện huyền bí. Góc độ này của vấn đề chúng ta sẽ đề cập chi tiết hơn khi chúng ta xử lý điểm tiếp theo của mình về “Kundalini và Cột Sống”.

The third stage is that in which active radiatory matter or prana is blended ever more perfectly with the fire latent in matter; this results (as will be brought out later) in certain effects.

Giai đoạn thứ ba là giai đoạn mà vật chất bức xạ hoạt động hoặc prana được hòa trộn ngày càng hoàn hảo hơn với ngọn lửa tiềm ẩn trong vật chất; điều này dẫn đến (như sẽ được đưa ra sau) một số hiệu ứng nhất định.

It produces a quickening of the normal vibration of the physical body so that it responds with more readiness to the higher note of the Ego, and causes a steady rising of the blending fires through the threefold channel in the spinal column. In the second stage this vitalizing blended fire reaches a center between the lower part of the shoulder blades, which is the point of conjunction, and of complete merging, of the fire from the base of the [124] spine and the fire circulating along the pranic triangle. It will be remembered how one point of this triangle originates there. When the threefold basic fire and the threefold pranic fire meet and merge, then evolution proceeds with greatly increased velocity. This is effected definitely at the first Initiation when the polarization becomes fixed in one or other of the three higher centers—which center being dependent upon a man’s ray.

Nó tạo ra sự tăng tốc của rung động bình thường của cơ thể vật lý để nó phản ứng dễ dàng hơn với âm điệu cao hơn của Chân Ngã, và gây ra sự tăng đều của ngọn lửa hòa trộn thông qua kênh tam phân trong cột sống. Ở giai đoạn thứ hai, ngọn lửa tiếp sinh lực hòa trộn này đạt đến một trung tâm giữa phần dưới của xương bả vai, là điểm kết hợp, và hợp nhất hoàn toàn, ngọn lửa từ đáy [124] cột sống và ngọn lửa lưu thông dọc theo tam giác prana. Người ta sẽ nhớ lại một điểm của tam giác này bắt nguồn từ đó như thế nào. Khi ngọn lửa cơ bản tam phân và ngọn lửa prana tam phân gặp nhau và hợp nhất, thì sự tiến hóa tiến hành với tốc độ tăng lên rất nhiều. Điều này được thực hiện rõ ràng tại Lần Điểm Đạo thứ nhất khi sự phân cực trở nên cố định ở một hoặc một trong ba trung tâm cao hơn—trung tâm nào phụ thuộc vào tia của một người.

The result of this merging leads to a change in the action of the centers. They become “wheels turning upon themselves,” and from a purely rotary movement become fourth dimensional in action, and manifest as radiant whirling centers of living fire.

Kết quả của sự hợp nhất này dẫn đến sự thay đổi trong hành động của các trung tâm. Chúng trở thành “những bánh xe tự xoay quanh mình”, và từ một chuyển động thuần túy quay trở thành hành động bốn chiều, và biểu hiện như những trung tâm rạng rỡ xoáy của ngọn lửa sống.

The three major head centers (the sequence varying according to ray) become active and a similar process is effected between them as was effected in the pranic triangle. From being three centers that react faintly to each other’s vibratory movement (feeling the warmth and rhythm of each other, yet separated), the fire leaps from center to center, and each whirling wheel becomes linked by a chain of fire till there is a triangle of fire through which the kundalini and pranic fires radiate back and forth. Circulation is also carried on. The fire of kundalini produces the heat of the center, and its intense radiance and brilliance, while the pranic emanatory fire produces ever increasing activity and rotation.

Ba trung tâm đầu chính (trình tự khác nhau tùy theo tia) trở nên hoạt động và một quá trình tương tự được thực hiện giữa chúng như đã được thực hiện trong tam giác prana. Từ việc là ba trung tâm phản ứng yếu ớt với chuyển động rung động của nhau (cảm nhận được sự ấm áp và nhịp điệu của nhau, nhưng tách biệt), ngọn lửa nhảy từ trung tâm này sang trung tâm khác, và mỗi bánh xe xoáy được liên kết bởi một chuỗi lửa cho đến khi có một tam giác lửa mà qua đó kundalini và ngọn lửa prana tỏa ra qua lại. Sự lưu thông cũng được thực hiện. Ngọn lửa kundalini tạo ra nhiệt của trung tâm, và độ rạng rỡ và rực rỡ dữ dội của nó, trong khi ngọn lửa bức xạ prana tạo ra hoạt động và vòng quay ngày càng tăng.

As time elapses between the first and fourth Initiation, the threefold channel in the spine, and the entire etheric body is gradually cleansed and purified by the action of the fire till all “dross” (as the Christian expresses it) is burnt away, and naught remains to impede the progress of this flame.

Khi thời gian trôi qua giữa Lần Điểm Đạo thứ nhất và thứ tư, kênh tam phân trong cột sống và toàn bộ thể dĩ thái dần dần được làm sạch và thanh lọc bởi tác động của ngọn lửa cho đến khi tất cả “cặn bẩn” (như Cơ Đốc Nhân diễn đạt) bị đốt cháy, và không còn gì cản trở sự tiến bộ của ngọn lửa này.

As the fire of kundalini and prana proceed with their work, and the channel becomes more and more cleared, the centers more active, and the body purer, the flame [125] of spirit, or the fire from the Ego, comes more actively downwards till a flame of real brilliance issues from the top of the head. This flame surges upwards through the bodies towards its source, the causal body.

Khi ngọn lửa kundalini và prana tiến hành công việc của chúng, và kênh trở nên thông thoáng hơn, các trung tâm hoạt động mạnh mẽ hơn và cơ thể tinh khiết hơn, ngọn lửa [125] của tinh thần, hoặc ngọn lửa từ Chân Ngã, đi xuống tích cực hơn cho đến khi một ngọn lửa rực rỡ thực sự phát ra từ đỉnh đầu. Ngọn lửa này trào lên qua các cơ thể hướng về nguồn của nó, cơ thể nhân quả.

Simultaneously with the activity of these fires of matter and of Spirit, the fires of mind, or manas, burn with greater intensity. These are the fires given at individualization. They are fed continuously by the fire of matter, and their heat is augmented by solar emendatory fire, which originates on the cosmic levels of mind. It is this aspect of the manasic fire that develops under the forms of instinct, animal memory, and functional recollection which are so apparent in the little evolved man. As time progresses the fire of mind burns more brightly and thus reaches a point where it begins to burn through the etheric web—that portion of the web that can be found guarding the center at the very top of the head, and admitting entrance to the downflow from the Spirit. By its means certain things are brought about:

Đồng thời với hoạt động của những ngọn lửa vật chất và Tinh Thần này, ngọn lửa của trí tuệ, hoặc manas, cháy với cường độ lớn hơn. Đây là những ngọn lửa được ban cho tại sự biệt ngã hóa. Chúng được nuôi dưỡng liên tục bởi ngọn lửa vật chất, và nhiệt của chúng được tăng cường bởi ngọn lửa sửa đổi thái dương, bắt nguồn từ các cấp độ trí tuệ vũ trụ. Chính khía cạnh này của ngọn lửa manasic phát triển dưới các hình thức bản năng, trí nhớ động vật và hồi ức chức năng, rất rõ ràng ở người ít tiến hóa. Khi thời gian trôi qua, ngọn lửa của trí tuệ cháy sáng hơn và do đó đạt đến một điểm mà nó bắt đầu đốt cháy mạng lưới dĩ thái—phần của mạng lưới có thể được tìm thấy bảo vệ trung tâm ở tận đỉnh đầu, và cho phép lối vào dòng chảy từ Tinh Thần. Bằng phương tiện của nó, một số điều được thực hiện:

The kundalini fire is consciously directed and controlled by the mind or will aspect from the mental plane. The two fires of matter by the power of the mind of man are blended first with each other, and, secondly, with the fire of mind.

Ngọn lửa kundalini được tâm trí hoặc khía cạnh ý chí từ cõi trí tuệ chỉ đạo và kiểm soát một cách có ý thức. Hai ngọn lửa vật chất bằng sức mạnh của tâm trí con người được hòa trộn trước hết với nhau, và thứ hai, với ngọn lửa của trí tuệ.

The united result of this blending is the destruction (under rule and order), of the etheric web, and the consequent production of continuity of consciousness and the admission into the personal life of man of “Life more abundant,” or the third fire of Spirit.

Kết quả thống nhất của sự hòa trộn này là sự phá hủy (theo quy tắc và trật tự) của mạng lưới dĩ thái, và do đó tạo ra tính liên tục của tâm thức và sự thừa nhận vào cuộc sống cá nhân của con người về “Sự Sống sung mãn hơn”, hoặc ngọn lửa thứ ba của Tinh Thần.

The downrush of Spirit, and the uprising of the inner fires of matter (controlled and directed by the conscious action of the fire of mind) produce corresponding results on the same levels on the astral and mental planes, so that a paralleling contact is brought about, and the great work of liberation proceeds in an ordered manner.

Sự tràn xuống của Tinh Thần, và sự trỗi dậy của ngọn lửa bên trong của vật chất (được kiểm soát và chỉ đạo bởi hành động có ý thức của ngọn lửa của trí tuệ) tạo ra các kết quả tương ứng trên cùng các cấp độ trên các cõi cảm dục và trí tuệ, do đó một sự tiếp xúc song song được thực hiện, và công việc vĩ đại của sự giải phóng tiến hành một cách có trật tự.

The three first initiations see these results perfected, [126] and lead to the fourth, where the intensity of the united fires results in the complete burning away of all barriers, and the liberation of the Spirit by conscious directed effort from out its threefold lower sheath. Man has consciously to bring about his own liberation. These results are self-induced by the man himself, as he is emancipated from the three worlds, and has broken the wheel of rebirth himself instead of being broken upon it.

Ba lần điểm đạo đầu tiên thấy những kết quả này được hoàn thiện, [126] và dẫn đến lần thứ tư, nơi cường độ của ngọn lửa thống nhất dẫn đến sự đốt cháy hoàn toàn tất cả các rào cản, và sự giải phóng của Tinh Thần bằng nỗ lực có ý thức ra khỏi vỏ bọc thấp hơn tam phân của nó. Con người phải tự mang lại sự giải phóng của chính mình một cách có ý thức. Những kết quả này là do chính con người tự tạo ra, khi y được giải phóng khỏi ba cõi giới, và đã tự mình phá vỡ bánh xe tái sinh thay vì bị phá vỡ trên đó.

It will be apparent from this elucidation that the exceeding importance of the etheric vehicle as the separator of the fires has been brought forward, and consequently we have brought to our notice the dangers that must ensue should man tamper injudiciously, ignorantly or wilfuly with these fires.

Từ lời giải thích này, rõ ràng là tầm quan trọng vượt trội của phương tiện dĩ thái như là bộ tách biệt của ngọn lửa đã được đưa ra, và do đó chúng ta đã chú ý đến những nguy hiểm có thể xảy ra nếu con người can thiệp một cách thiếu khôn ngoan, ngu dốt hoặc cố ý vào những ngọn lửa này.

Should a man, by the power of will or through an over-development of the mental side of his character, acquire the power to blend these fires of matter and to drive them forward, he stands in danger of obsession, insanity, physical death, or of dire disease in some part of his body, and he also runs the risk of an over-development of the sex impulse through the driving of the force in an uneven manner upwards, or in forcing its radiation to undesirable centers. The reason of this is that the matter of his body is not pure enough to stand the uniting of the flames, that the channel up the spine is still clogged and blocked, and therefore acts as a barrier, turning the flame backwards and downwards, and that the flame (being united by the power of mind and not being accompanied by a simultaneous downflow from the plane of spirit), permits the entrance, through the burning etheric, of undesirable and extraneous forces, currents, and even entities. These wreck and tear and ruin what is left of the etheric vehicle, of the brain tissue and even of the dense physical body itself.

Nếu một người, bằng sức mạnh của ý chí hoặc thông qua sự phát triển quá mức của khía cạnh trí tuệ trong tính cách của mình, có được sức mạnh để hòa trộn những ngọn lửa vật chất này và thúc đẩy chúng về phía trước, y đứng trước nguy cơ bị ám ảnh, mất trí, chết về thể xác, hoặc mắc bệnh kinh khủng ở một bộ phận nào đó trên cơ thể, và y cũng có nguy cơ phát triển quá mức xung lực tình dục thông qua việc thúc đẩy lực lượng một cách không đồng đều lên trên, hoặc buộc bức xạ của nó đến các trung tâm không mong muốn. Lý do của điều này là vật chất của cơ thể y không đủ tinh khiết để chịu được sự hợp nhất của ngọn lửa, kênh lên cột sống vẫn bị tắc nghẽn và chặn, và do đó hoạt động như một rào cản, quay ngọn lửa ngược lại và xuống dưới, và ngọn lửa (được hợp nhất bởi sức mạnh của trí tuệ và không đi kèm với dòng chảy đồng thời từ cõi giới của tinh thần), cho phép sự xâm nhập, thông qua dĩ thái đang cháy, của các lực lượng, dòng chảy và thậm chí cả các thực thể không mong muốn và xa lạ. Những thứ này tàn phá và xé nát và hủy hoại những gì còn lại của phương tiện dĩ thái, của mô não và thậm chí của chính cơ thể vật lý trọng trược.

The unwary man, being unaware of his Ray and therefore of the proper geometrical form of triangle that is [127] the correct method of circulation from center to center, will drive the fire in unlawful progression and thus burn up tissue; this will result then (if in nothing worse), in a setting back for several lives of the clock of his progress, for he will have to spend much time in rebuilding where he destroyed, and with recapitulating on right lines all the work to be done.

Người không thận trọng, không biết về cung của mình và do đó về hình dạng hình học thích hợp là [127] phương pháp lưu thông chính xác từ trung tâm này sang trung tâm khác, sẽ thúc đẩy ngọn lửa theo một tiến trình bất hợp pháp và do đó đốt cháy mô; điều này sau đó sẽ dẫn đến (nếu không có gì tồi tệ hơn), một sự thụt lùi trong vài kiếp đồng hồ tiến bộ của y, vì y sẽ phải dành nhiều thời gian để xây dựng lại nơi y đã phá hủy, và tóm tắt lại trên các dòng chính xác tất cả công việc cần làm.

If a man persists from life to life in this line of action, if he neglects his spiritual development and concentrates on intellectual effort turned to the manipulation of matter for selfish ends, if he continues this in spite of the promptings of his inner self, and in spite of the warnings that may reach him from Those who watch, and if this is carried on for a long period he may bring upon himself a destruction that is final for this manvantara or cycle. He may, by the uniting of the two fires of matter and the dual expression of mental fire, succeed in the complete destruction of the physical permanent atom, and thereby sever his connection with the higher self for aeons of time. H. P. B. has somewhat touched on this when speaking of “lost souls”; 58, 59 we must here emphasize the reality of this dire disaster and sound a warning note to those who approach this subject of the fires of matter with all its latent dangers. The blending of these fires must be the result of spiritualized knowledge, and must be directed solely by the Light of the Spirit, who works through love and is love, and who seeks this unification and this utter merging not from the point of view of sense or of material gratification, but because liberation and purification is desired in order that the higher union with the Logos may be effected; this union must be desired, not for selfish ends, but because group perfection is the goal and scope for greater service to the race must be achieved. [128]

Nếu một người kiên trì từ cuộc sống này sang cuộc sống khác theo đường lối hành động này, nếu y bỏ bê sự phát triển tinh thần của mình và tập trung vào nỗ lực trí tuệ hướng đến việc thao túng vật chất vì những mục đích ích kỷ, nếu y tiếp tục điều này bất chấp sự thúc giục của bản thân bên trong, và bất chấp những lời cảnh báo có thể đến với y từ Những Người theo dõi, và nếu điều này được thực hiện trong một thời gian dài, y có thể mang đến cho mình một sự hủy diệt là cuối cùng cho đại kiếp hoặc chu kỳ này. Y có thể, bằng cách hợp nhất hai ngọn lửa vật chất và sự biểu hiện kép của ngọn lửa trí tuệ, thành công trong việc phá hủy hoàn toàn nguyên tử trường tồn vật lý, và do đó cắt đứt mối liên hệ của mình với bản thân cao hơn trong nhiều aeon thời gian. H. P. B. đã đề cập phần nào về điều này khi nói về “những linh hồn lạc lối”; 58, 59 chúng ta ở đây phải nhấn mạnh tính hiện thực của thảm họa khủng khiếp này và gióng lên một lưu ý cảnh báo cho những người tiếp cận chủ đề ngọn lửa vật chất này với tất cả những nguy hiểm tiềm ẩn của nó. Sự pha trộn của những ngọn lửa này phải là kết quả của kiến thức được tâm linh hóa, và phải được chỉ đạo duy nhất bởi Ánh Sáng của Tinh Thần, Đấng hoạt động thông qua tình thương và là tình thương, và Đấng tìm kiếm sự thống nhất này và sự hợp nhất hoàn toàn này không phải từ quan điểm giác quan hoặc sự hài lòng vật chất, mà bởi vì sự giải phóng và thanh lọc được mong muốn để sự hợp nhất cao hơn với Thượng Đế có thể được thực hiện; sự hợp nhất này phải được mong muốn, không phải vì những mục đích ích kỷ, mà vì sự hoàn hảo của nhóm là mục tiêu và phạm vi cho sự phụng sự lớn hơn cho giống dân phải đạt được. [128]

58 Lost Souls. See Isis Unveiled, Vol. II, p. 368; also S. D., I, 255, and S. D., III, 493, 513-516, 521, 525, 527.

59 See 9. D., III, 523-529.

V. Death and the Etheric Body

[Commentary S1S14]

It is not our purpose to give facts for verification by science, or even to point the way to the next step onward for scientific investigators; that we may do so is but incidental and purely secondary. What we seek mainly is to give indications of the development and correspondence of the threefold whole that makes the solar system what it is—the vehicle through which a great cosmic ENTITY, the solar Logos, manifests active intelligence with the purpose in view of demonstrating perfectly the love side of His nature. Back of this design lies a yet more esoteric and ulterior purpose, hid in the Will Consciousness of the Supreme Being, which perforce will be later demonstrated when the present objective is attained. The dual alternation of objective manifestation and of subjective obscuration, the periodic outbreathing, followed by the inbreathing of all that has been carried forward through evolution embodies in the system one of the basic cosmic vibrations, and the keynote of that cosmic ENTITY whose body we are. The heart beats of the Logos (if it might be so inadequately expressed) are the source of all cyclic evolution, and hence the importance attached to that aspect of development called the “heart” or “love aspect,” and the interest that is awakened by the study of rhythm. This is true, not only cosmically and macrocosmically, but likewise in the study of the human unit. Underlying all the physical sense attached to rhythm, vibration, cycles and heartbeat, lie their subjective analogies—love, feeling, emotion, desire, harmony, synthesis and ordered sequence,—and back of these analogies lies the source of all, the identity of that Supreme Being Who thus expresses Himself.

Mục đích của chúng ta không phải là cung cấp các dữ kiện để khoa học kiểm chứng, hay thậm chí chỉ ra bước tiếp theo cho các nhà điều tra khoa học; nếu chúng ta có làm điều đó thì cũng chỉ là việc phụ và hoàn toàn thứ yếu. Điều chúng ta chủ yếu tìm kiếm là đưa ra các chỉ dẫn về sự phát triển và tương ứng của toàn thể tam phân làm nên hệ mặt trời như hiện nay—khí cụ qua đó một THỰC THỂ vũ trụ vĩ đại, Thái dương Thượng đế, biểu lộ trí thông tuệ năng động với mục tiêu nhằm thể hiện một cách hoàn hảo khía cạnh tình thương trong bản chất của Ngài. Đằng sau thiết kế này là một mục đích còn huyền linh hơn và sâu xa hơn nữa, ẩn tàng trong Tâm Thức Ý Chí của Đấng Tối Cao, điều chắc chắn sẽ được biểu lộ trong tương lai khi mục tiêu hiện tại đã được hoàn tất. Sự xen kẽ kép giữa biểu lộ khách quan và sự lu mờ chủ quan, chu kỳ thở ra định kỳ, tiếp theo là chu kỳ hít vào của tất cả những gì đã được thúc đẩy tiến hoá, kết tinh trong hệ thống thành một trong những rung động vũ trụ cơ bản, và là âm chủ đạo của THỰC THỂ vũ trụ mà thân thể của chúng ta chính là một phần. Những nhịp tim của Logos (nếu có thể diễn đạt một cách không đầy đủ như thế) là nguồn gốc của mọi tiến trình tiến hoá theo chu kỳ, và do đó tạo nên tầm quan trọng gắn liền với khía cạnh phát triển được gọi là “khía cạnh trái tim” hay “khía cạnh tình thương,” cũng như sự quan tâm được đánh thức bởi việc nghiên cứu về nhịp điệu. Điều này đúng không chỉ trên cấp độ vũ trụ và đại thiên địa, mà còn trong việc khảo sát đơn vị con người. Ẩn dưới tất cả những ý nghĩa vật chất gắn với nhịp điệu, rung động, chu kỳ và nhịp tim là các sự tương đồng chủ quan—tình thương, cảm giác, cảm xúc, dục vọng, hòa điệu, dung hợp và chuỗi trình tự có trật tự,—và đằng sau những sự tương đồng đó là cội nguồn của tất cả, là bản thể của Đấng Tối Cao, Đấng biểu lộ Chính Ngài theo cách như thế.

Therefore, the study of pralaya, or the withdrawal of the life from out of the etheric vehicle will be the same [129] whether one studies the withdrawal of the human etheric double, the withdrawal of the planetary etheric double, or the withdrawal of the etheric double of the solar system. The effect is the same and the consequences similar.

Do đó, việc nghiên cứu giai kỳ qui nguyên, hoặc sự rút lui sự sống ra khỏi phương tiện dĩ thái sẽ giống nhau [129] dù người ta nghiên cứu sự rút lui của thể dĩ thái con người, sự rút lui của thể dĩ thái hành tinh, hay sự rút lui của thể dĩ thái của hệ mặt trời. Hiệu ứng là như nhau và hậu quả tương tự.

What is the result of this withdrawal, or rather what causes that something which we call death or pralaya? As we are strictly pursuing the textbook style in this treatise, we will continue our methods of tabulation. The withdrawal of the etheric double of a man, a planet, and a system is brought about by the following causes:

Kết quả của sự rút lui này là gì, hay đúng hơn là điều gì gây ra cái mà chúng ta gọi là cái chết hoặc giai kỳ qui nguyên? Vì chúng ta đang tuân thủ nghiêm ngặt phong cách sách giáo khoa trong luận văn này, chúng ta sẽ tiếp tục các phương pháp lập bảng của mình. Sự rút lui của thể dĩ thái của một người, một hành tinh và một hệ thống được gây ra bởi các nguyên nhân sau:

a. The cessation of desire. This should be the result of all evolutionary process. True death, under the law, is brought about by the attainment of the objective, and hence by the cessation of aspiration. This, as the perfected cycle draws to its close, will be true of the individual human being, of the Heavenly Man, and of the Logos Himself.

a. Sự chấm dứt ham muốn. Điều này phải là kết quả của tất cả quá trình thăng thượng tiến hóa. Cái chết thực sự, theo định luật, được gây ra bởi việc đạt được mục tiêu, và do đó bởi sự chấm dứt khát vọng. Điều này, khi chu kỳ hoàn hảo kết thúc, sẽ đúng với cá nhân con người, với Đấng Thiên Nhân và với chính Thượng đế.

b. By the slowing down and gradual cessation of the cyclic rhythm, the adequate vibration is achieved, and the work accomplished. When the vibration or note is perfectly felt or sounded it causes (at the point of synthesis with other vibrations) the utter shattering of the forms.

b. Bằng cách làm chậm lại và chấm dứt dần dần nhịp điệu theo chu kỳ, rung động đầy đủ đạt được và công việc hoàn thành. Khi rung động hoặc âm chủ được cảm nhận hoặc xướng lên một cách hoàn hảo, nó gây ra (tại điểm tổng hợp với các rung động khác) sự tan vỡ hoàn toàn của các hình tướng.

Motion is characterized, as we know, by three qualities:

Như chúng ta biết, chuyển động được đặc trưng bởi ba phẩm tính:

1. Inertia,

1. Quán tính,

2. Mobility,

2. Tính di động,

3. Rhythm.

3. Nhịp điệu.

These three are experienced in just the above sequence and presuppose a period of slow activity, succeeded by one of extreme movement. This middle period produces incidentally (as the true note and rate is sought) cycles of chaos, of experiment, of experience and of comprehension. Following on these two degrees of motion (which are characteristic of the atom, Man, of the Heavenly Man [130] or group, and of the Logos or the Totality) comes a period of rhythm and of stabilization wherein the point of balance is achieved. By the force of balancing the pairs of opposites, and thus producing equilibrium, pralaya is the inevitable sequence.

Ba phẩm tính này được trải nghiệm theo đúng trình tự trên và giả định một giai đoạn hoạt động chậm chạp, tiếp theo là một giai đoạn chuyển động cực độ. Giai đoạn giữa này tình cờ tạo ra (khi âm chủ và tốc độ thực sự được tìm kiếm) các chu kỳ hỗn loạn, thử nghiệm, kinh nghiệm và thấu hiểu. Sau hai mức độ chuyển động này (đặc trưng cho nguyên tử, Con Người, Đấng Thiên Nhân [130] hoặc nhóm, và Thượng đế hoặc Toàn Thể) là một giai đoạn nhịp điệu và ổn định, trong đó điểm cân bằng đạt được. Bằng sức mạnh cân bằng các cặp đối cực, và do đó tạo ra sự cân bằng, giai kỳ qui nguyên là hệ quả tất yếu.

c. By the severing of the physical from the subtler body on the inner planes, through the shattering of the web. This has a threefold effect:

c. Bằng cách tách rời thể xác khỏi thân thể vi tế hơn trên các cõi nội môn, thông qua sự tan vỡ của tấm lưới. Điều này có tác dụng tam phân:

First. The life that had animated the physical form (both dense and etheric) and which had its starting point in the permanent atom and from thence “pervaded the moving and the unmoving” (in God, the Heavenly Man, and the human being, as well as in the atom of matter) is withdrawn entirely within the atom upon the plane of abstraction. This “plane of abstraction” is a different one for the entities involved:

Thứ nhất. Sự sống đã làm sinh động hình tướng vật lý (cả trọng trược và dĩ thái) và có điểm khởi đầu trong nguyên tử trường tồn và từ đó “lan tỏa khắp cái động và cái bất động” (trong Thượng đế, Đấng Thiên Nhân và con người, cũng như trong nguyên tử vật chất) được rút lui hoàn toàn vào bên trong nguyên tử trên cõi trừu tượng. “Cõi trừu tượng” này khác nhau đối với các thực thể liên quan:

a. For the physical permanent atom, it is the atomic level.

a. Đối với nguyên tử trường tồn vật lý, đó là cấp độ nguyên tử.

b. For man, it is the causal vehicle.

b. Đối với con người, đó là thể nguyên nhân.

c. For the Heavenly Man, it is the second plane of monadic life, His habitat.

c. Đối với Đấng Thiên Nhân, đó là cõi thứ hai của sinh mệnh chân thần, nơi cư ngụ của Ngài.

d. For the Logos, it is the plane of Adi.

d. Đối với Thượng đế, đó là cõi Adi.

All these mark the points for the disappearance of the unit into pralaya. We need here to remember that it is always pralaya when viewed from below. From the higher vision, that sees the subtler continuously over-shadowing the dense when not in objective manifestation, pralaya is simply subjectivity, and is not that “which is not,” but simply that which is esoteric.

Tất cả những điều này đánh dấu các điểm biến mất của đơn vị vào giai kỳ qui nguyên. Chúng ta cần nhớ ở đây rằng đó luôn là giai kỳ qui nguyên khi nhìn từ bên dưới. Từ tầm nhìn cao hơn, nhìn thấy sự vi tế liên tục phủ bóng lên cái trọng trược khi không ở trong sự biểu lộ khách quan, giai kỳ qui nguyên chỉ đơn giản là tính chủ quan, và không phải là “cái không phải là”, mà chỉ đơn giản là cái nội môn.

Second. The etheric double of a man, a planetary Logos, and a solar Logos, being shattered, becomes non-polarized as regards its indweller, and permits therefore of escape. It is (to word it otherwise) no longer a source of attraction, nor a focal magnetic point. It becomes non-magnetic, and the great Law of Attraction ceases to [131] control it; hence disintegration is the ensuing condition of the form. The Ego ceases to be attracted by its form on the physical plane, and, proceeding to inbreathe, withdraws its life from out of the sheath. The cycle draws to a close, the experiment has been made, the objective (a relative one from life to life and from incarnation to incarnation) has been achieved, and there remains nothing more to desire; the Ego, or the thinking entity, loses interest therefore in the form, and turns his attention inward. His polarization changes, and the physical is eventually dropped.

Thứ hai. Thể dĩ thái của một người, một Thái dương Thượng đế hành tinh và một Thái dương Thượng đế, bị tan vỡ, trở nên không phân cực đối với người cư ngụ bên trong nó, và do đó cho phép thoát ra. Nói cách khác, nó không còn là nguồn hấp dẫn, cũng không phải là điểm từ tính tiêu điểm. Nó trở nên phi từ tính, và Định luật Hấp dẫn vĩ đại ngừng [131] kiểm soát nó; do đó, sự phân rã là điều kiện tiếp theo của hình tướng. Chân ngã ngừng bị thu hút bởi hình tướng của nó trên cõi trần, và tiến hành thu hút vào trong, rút lui sự sống của nó ra khỏi lớp vỏ. Chu kỳ kết thúc, cuộc thử nghiệm đã được thực hiện, mục tiêu (một mục tiêu tương đối từ sự sống này sang sự sống khác và từ lần lâm phàm này sang lần lâm phàm khác) đã đạt được, và không còn gì để mong muốn; do đó, Chân ngã, hoặc thực thể tư duy, mất hứng thú với hình tướng, và hướng sự chú ý vào bên trong. Sự phân cực của y thay đổi, và thể xác cuối cùng bị loại bỏ.

The planetary Logos likewise in His greater cycle (the synthesis or the aggregate of the tiny cycles of the cells of His body) pursues the same course; He ceases to be attracted downward or outward, and turns His gaze within; He gathers inward the aggregate of the smaller lives within His body, the planet, and severs connection. Outer attraction ceases and all gravitates towards the center instead of scattering to the periphery of His body.

Thái dương Thượng đế hành tinh cũng vậy trong chu kỳ vĩ đại hơn của Ngài (sự tổng hợp hoặc tập hợp các chu kỳ nhỏ của các tế bào trong thân thể Ngài) theo đuổi cùng một quá trình; Ngài ngừng bị thu hút xuống dưới hoặc ra ngoài, và hướng ánh nhìn vào bên trong; Ngài thu hút vào trong tập hợp các sự sống nhỏ hơn trong thân thể Ngài, hành tinh, và cắt đứt kết nối. Sự hấp dẫn bên ngoài chấm dứt và tất cả hướng về trung tâm thay vì phân tán ra ngoại vi thân thể Ngài.

In the system, the same process is followed by the solar Logos; from His high place of abstraction, He ceases to be attracted by His body of manifestation. He withdraws His interest and the two pairs of opposites, the spirit and the matter of the vehicle, dissociate. With this dissociation the solar system, that “Son of Necessity,” or of desire, ceases to be, and passes out of objective existence.

Trong hệ thống, Thái dương Thượng đế tuân theo cùng một quá trình; từ vị trí trừu tượng cao cả của Ngài, Ngài ngừng bị thu hút bởi thân thể biểu lộ của Ngài. Ngài rút lại sự quan tâm của Ngài và hai cặp đối cực, tinh thần và vật chất của phương tiện, tách rời. Với sự tách rời này, hệ mặt trời, “Con trai của Sự Cần Thiết” hoặc của ham muốn, ngừng tồn tại và biến mất khỏi sự tồn tại khách quan.

Third. This leads finally, to the scattering of the atoms of the etheric body into their primordial condition. The subjective life, the synthesis of will and love taking active form, is withdrawn. The partnership is dissolved. The form then breaks up; the magnetism that has held it in coherent shape is no longer present, and dissipation is complete. Matter persists, but the form no longer persists.

Thứ ba. Điều này cuối cùng dẫn đến sự phân tán các nguyên tử của thể dĩ thái vào trạng thái nguyên thủy của chúng. Sự sống chủ quan, sự tổng hợp của ý chí và tình thương tạo thành hình tướng chủ động, bị rút lui. Mối quan hệ đối tác tan rã. Hình tướng sau đó tan rã; từ tính đã giữ nó trong hình dạng mạch lạc không còn hiện diện nữa và sự tiêu tán hoàn toàn. Vật chất vẫn tồn tại, nhưng hình tướng không còn tồn tại nữa.

The work of the second Logos ends, and the divine [132] incarnation of the Son is concluded. But the faculty or inherent quality of matter also persists, and at the end of each period of manifestation, matter (though distributed again into its primal form) is active intelligent matter plus the gain of objectivity, and the increased radiatory and latent activity which it has gained through experience. Let us illustrate: The matter of the solar system, when undifferentiated, was active intelligent matter, and that is all that can be predicated of it. This active intelligent matter was matter qualified by an earlier experience, and colored by an earlier incarnation. Now this matter is in form, the solar system is not in pralaya but in objectivity,—this objectivity having in view the addition of another quality to the logoic content, that of love and wisdom. Therefore at the next solar pralaya, at the close of the one hundred years of Brahma, the matter of the solar system will be colored by active intelligence, and by active love. This means literally that the aggregate of solar atomic matter will eventually vibrate to another key than it did at the first dawn of manifestation.

Công việc của Thái dương Thượng đế Ngôi Hai kết thúc và sự lâm phàm thiêng liêng của Đấng Con kết thúc. Nhưng năng lực hoặc phẩm chất vốn có của vật chất cũng tồn tại, và vào cuối mỗi giai đoạn biểu lộ, vật chất (mặc dù được phân phối lại thành hình tướng nguyên thủy của nó) là vật chất thông minh chủ động cộng với sự đạt được tính khách quan, và hoạt động bức xạ và tiềm ẩn gia tăng mà nó đã đạt được thông qua kinh nghiệm. Chúng ta hãy minh họa: Vật chất của hệ mặt trời, khi chưa phân biệt, là vật chất thông minh chủ động, và đó là tất cả những gì có thể nói về nó. Vật chất thông minh chủ động này là vật chất được phẩm chất hóa bởi một kinh nghiệm trước đó, và được tô màu bởi một lần lâm phàm trước đó. Bây giờ vật chất này đang ở trong hình tướng, hệ mặt trời không ở trong giai kỳ qui nguyên mà ở trong tính khách quan,—tính khách quan này có mục đích bổ sung một phẩm chất khác vào nội dung logoic, đó là tình thương và minh triết. Do đó, vào giai kỳ qui nguyên mặt trời tiếp theo, vào cuối một trăm năm của Brahma, vật chất của hệ mặt trời sẽ được tô màu bởi trí thông minh chủ động và tình thương chủ động. Điều này có nghĩa đen là tập hợp vật chất nguyên tử mặt trời cuối cùng sẽ rung động theo một âm chủ khác với âm chủ mà nó đã rung động vào buổi bình minh đầu tiên của sự biểu lộ.

We can work this out in connection with the planetary Logos and the human unit, for the analogy holds good. We have a correspondence on a tiny scale in the fact that each human life period sees a man taking a more evolved physical body of a greater responsiveness, tuned to a higher key, of more adequate refinement, and vibrating to a different measure. In these three thoughts lies much information, if they are carefully studied and logically extended.

Chúng ta có thể giải quyết điều này liên quan đến Thái dương Thượng đế hành tinh và đơn vị con người, vì sự tương đồng vẫn đúng. Chúng ta có một sự tương ứng trên quy mô nhỏ ở chỗ mỗi giai đoạn sự sống con người đều thấy một người lấy một thân thể vật lý tiến hóa hơn có khả năng đáp ứng lớn hơn, được điều chỉnh theo một âm chủ cao hơn, có sự tinh tế đầy đủ hơn và rung động theo một nhịp điệu khác. Trong ba tư tưởng này chứa đựng nhiều thông tin, nếu chúng được nghiên cứu cẩn thận và mở rộng một cách hợp lý.

d. By the transmutation of the violet into the blue. This we cannot enlarge on. We simply make the statement, and leave its working out to those students whose karma permits and whose intuition suffices.

d. Bằng sự chuyển hóa màu tím thành màu xanh lam. Điều này chúng ta không thể mở rộng. Chúng ta chỉ đơn giản đưa ra tuyên bố và để việc giải quyết nó cho những học viên có nghiệp quả cho phép và có trực giác đủ.

e. By the withdrawal of the life, the form should gradually dissipate. The reflex action here is interesting to note, for the greater Builders and Devas who are the [133] active agents during manifestation, and who hold the form in coherent shape, transmuting, applying and circulating the pranic emanations, likewise lose their attraction to the matter of the form, and turn their attention elsewhere. On the path of outbreathing (whether human, planetary or logoic) these building devas (on the same Ray as the unit desiring manifestation, or on a complementary Ray) are attracted by his will and desire, and perform their office of construction. On the path of inbreathing (whether human, planetary or logoic) they are no longer attracted, and the form begins to dissipate. They withdraw their interest and the forces (likewise entities) who are the agents of destruction, carry on their necessary work of breaking up the form; they scatter it—as it is occultly expressed—to “The four winds of Heaven,” or to the regions of the four breaths—a fourfold separation and distribution. A hint is here given for careful consideration.

e. Bằng sự rút lui sự sống, hình tướng sẽ dần dần tiêu tan. Phản ứng phản xạ ở đây rất thú vị để ghi nhận, vì các Kiến Trúc Sư và thiên thần vĩ đại hơn là những tác nhân tích cực trong quá trình biểu lộ, và những người giữ hình tướng trong hình dạng mạch lạc, chuyển hóa, áp dụng và lưu thông các xuất lộ phát xạ prana, cũng mất đi sự hấp dẫn của họ đối với vật chất của hình tướng, và hướng sự chú ý của họ sang nơi khác. Trên con đường xuất lộ phát xạ (dù là con người, hành tinh hay logoic), những thiên thần xây dựng này (trên cùng một Cung với đơn vị mong muốn sự biểu lộ, hoặc trên một Cung bổ sung) bị thu hút bởi ý chí và ham muốn của y, và thực hiện nhiệm vụ xây dựng của họ. Trên con đường thu hút vào trong (dù là con người, hành tinh hay logoic), họ không còn bị thu hút nữa, và hình tướng bắt đầu tiêu tan. Họ rút lại sự quan tâm của họ và các lực lượng (cũng là các thực thể) là tác nhân hủy diệt, thực hiện công việc cần thiết của họ là phá vỡ hình tướng; họ phân tán nó—như được diễn đạt một cách huyền bí—thành “Bốn ngọn gió của Thiên Đàng”, hoặc đến các khu vực của bốn hơi thở—một sự phân tách và phân phối tứ phân. Một gợi ý được đưa ra ở đây để xem xét cẩn thận.

Though no pictures have been drawn of death bed scenes nor of the dramatic escape of the palpitating etheric body from the center in the head, as might have been anticipated, yet some of the rules and purposes governing this withdrawal have been mentioned. We have seen how the aim of each life (whether human, planetary or solar) should be the effecting and the carrying out of a definite purpose. This purpose is the development of a more adequate form for the use of the spirit; and when this purpose is achieved then the Indweller turns his attention away, and the form disintegrates, having served his need. This is not always the case in every human life nor even in each planetary cycle. The mystery of the moon is the mystery of failure. This leads, when comprehended, to a life of dignity and offers an aim worthy of our best endeavor. When this angle of truth is universally recognized, as it will be when the intelligence of the race suffices, then evolution will proceed with certainty, and the failures be less numerous. [134]

Dù không có hình ảnh nào được phác họa về những cảnh giường chết hay sự thoát ra đầy kịch tính của thể dĩ thái đang r puls khỏi trung tâm trong đầu như người ta có thể trông đợi, nhưng một vài quy luật và mục đích điều khiển tiến trình thoái lui này đã được đề cập. Chúng ta đã thấy mục tiêu của mỗi đời sống (dù là nhân loại, hành tinh hay Thái dương) nên là thực hiện và hoàn tất một mục đích nhất định. Mục đích này là phát triển một hình tướng đầy đủ hơn để linh hồn sử dụng; và khi mục đích này đã đạt được thì Đấng Cư Ngụ chuyển sự chú ý của mình đi nơi khác, và hình tướng tan rã, sau khi đã phục vụ nhu cầu của Ngài. Tuy nhiên, điều này không luôn đúng với mọi đời sống nhân loại hay ngay cả với mỗi chu kỳ hành tinh. Huyền nhiệm của mặt trăng chính là huyền nhiệm của sự thất bại. Khi điều này được lĩnh hội, nó dẫn đến một đời sống trang nghiêm và đưa ra một mục tiêu xứng đáng với nỗ lực tốt nhất của chúng ta. Khi góc nhìn chân lý này được công nhận phổ quát, như nó sẽ xảy ra khi trí tuệ của giống dân đủ chín muồi, thì tiến hoá sẽ diễn tiến một cách chắc chắn, và những thất bại sẽ ít đi. [134]

Scroll to Top