CHAPTER II
“The Occult World” —“Thế Giới Huyền bí”
I have already mentioned that the first Theosophical book which fell into my hands was Mr. A. P. Sinnett’s The Occult World. I saw it advertised in a catalogue of second-hand books, and was much attracted by the title, so I sent for it immediately, and was fortunate enough to secure it. Naturally the stories which it contains interested me deeply, but its real fascination lay in the glimpses which it gave of a wonderful system of philosophy and of a kind of inner science which really seemed to explain life rationally and to account for many phenomena which I had observed. I was of course eager to learn very much more of this, but I was so entirely unused to the ways of the literary world that I did not know in the least how to set about obtaining further information. With the benefit of later experience, I can see now that it would have been simple to write a note to the author and send it to the care of his publishers; but such a solution of the difficulty did not occur to me. At the end of his book Mr. Sinnett remarks: Some readers who are interested, but slow to perceive what practical action they can take, may ask what they can do to show appreciation of this opportunity. My reply will be modelled on the famous injunction of Sir Robert Peel: “Register, register, register!” Take the first step towards making a response to the offer which emanates from the occult world—register, register, register; in other words, join the Theosophical Society—the one and only association which at present is linked by any recognized bond of union with the Brotherhood of Adepts in Thibet. I was most anxious to follow this advice, but found it by no means easy to do so. The author mentioned that there was a Theosophical Society in London, but did not give its address, and I sought for it in vain in the Post Office Directory. I made many enquiries among friends, but did not happen to find anyone who could help me in my quest. Shortly after that, however, I was in Scotland enquiring into the evidence for second-sight in the Highlands, and apparently by the merest chance (but I doubt whether anything ever happens by chance) I found on the table in the reading-room of a hotel a copy of a tiny spiritualistic magazine—hardly more than a leaflet; I think it was called Rays of Light, or some name like that. In it was an announcement referring to Dr. Anna Kingsford, President of the London Lodge of the Theosophical Society, and stating that she was the wife of the rector or vicar of some West-country village or town—I think the name was Atcham. Naturally I seized upon this clue, and at once wrote to her at that vicarage, asking for further information. It was some time before I received a reply, for, as it transpired afterwards, Dr. Kingsford was away on the Continent for a holiday; and even when it arrived it proved to be only a printed circular—very beautifully printed, however, with much of silver about it. But it gave me the information which I wanted—the address of the Secretary in London, and it further told me that in order to join the Society I must be proposed and seconded by two members. | Tôi đã bảo rằng quyển sách Thông Thiên Học đầu tiên lọt vào tay tôi là quyển Thế giới Huyền bí của ông A. P. Sinnett. Tôi thấy nó được quảng cáo trong một danh mục những quyển sách đã qua sử dụng, và bị thu hút rất nhiều bởi tựa đề đó, vì vậy tôi tức khắc đặt mua nó và cũng đủ may mắn để có được nó. Tự nhiên là những câu chuyện chứa trong đó làm tôi quan tâm sâu sắc, nhưng sự quyến rũ thực sự của nó là ở nơi những thoáng thấy do nó cung cấp cho ta một hệ thống triết lý kỳ diệu và một loại khoa học nội giới dường như thực sự giải thích được cuộc đời một cách thuần lý và giải thích được nhiều hiện tượng lạ mà tôi đã quan sát thấy. Dĩ nhiên tôi nôn nóng muốn học rất nhiều điều hơn nữa về vấn đề này, nhưng tôi hoàn toàn bất ngờ với những đường lối của thế giới văn học, cho nên tôi tuyệt nhiên chẳng biết làm sao để bắt đầu thu thập thêm thông tin. Nhờ trải nghiệm sau này, giờ đây tôi có thể thấy rằng thật đơn giản khi viết một bức thư ngắn cho tác giả rồi gửi tới nhà xuất bản để nhờ chuyển dùm, nhưng một giải pháp như thế về điều khó khăn này không xảy ra với tôi. Vào cuối quyển sách ông Sinnett có nhận xét rằng: Một số bạn đọc quan tâm nhưng không nhanh chóng nhận thức được mình có thể hành động thực tế ra sao, ắt có thể thắc mắc liệu mình có thể làm được gì để chứng tỏ lòng trân trọng đối với cơ hội này. Tôi xin trả lời dựa theo mô hình huấn lệnh nổi tiếng của ngài Robert Peel: “Hãy đăng ký, đăng ký, đăng ký!”. Hãy tiến bước đầu tiên hướng về việc đáp ứng với lời đề nghị xuất phát từ thế giới huyền bí—đăng ký, đăng ký, đăng ký; nói cách khác, hãy gia nhập Hội Thông Thiên Học—đây là hiệp hội duy nhất hiện nay được liên kết bởi bất kỳ mối liên kết duy nhất nào đã được công nhận với Hội đoàn Huynh Đệ Chơn sư ở Tây Tạng. Tôi rất nôn nóng muốn theo lời khuyên ấy, nhưng lại thấy tuyệt nhiên không dễ làm như vậy. Tác giả bảo rằng có một Hội ở Luân Đôn, nhưng không cung cấp địa chỉ và tôi hoài công tìm địa chỉ trong sách Địa chỉ Vàng của Bưu điện. Tôi dò hỏi nhiều người bạn nhưng ngẫu nhiên chẳng thấy ai có thể giúp tôi tìm kiếm được điều đó. Tuy nhiên sau đấy, tôi ở Tô Cách Lan điều tra về bằng chứng của thuật thấu thị nơi vùng sơn cước và theo biểu kiến chỉ nhờ may mắn nhất (nhưng tôi nghi ngờ liệu có điều gì đã từng xảy ra do may mắn chăng) tôi thấy trên bàn trong phòng đọc sách của một khách sạn có một bảng của tạp chí thần linh học nhỏ xíu hầu như chẳng lớn hơn một tờ bướm; tôi thiết tưởng nó tên là Các Tia Ánh Sáng hoặc một tên gì đó giống như vậy. Trong ấy có lời loan báo đề cập tới Tiến sĩ Anna Kingsford, Chi trưởng của Chi bộ Luân Đôn Hội Thông Thiên Học, cùng với việc xác định rằng bà là vợ của vị mục sư giám quản một vùng nào đó ở vùng phía Tây hay một thị trấn mà tôi thiết tưởng tên là Atcham. Tự nhiên là tôi chụp lấy manh mối đó và ngay tức khắc viết thư cho bà, gửi theo địa chỉ địa phận giám quản đó để hỏi thêm thông tin. Phải mất một thời gian trước khi tôi nhận được hồi âm bởi vì sau này tôi mới biết Tiến sĩ Kingsford đi vắng khỏi lục địa để nghỉ lễ; và ngay cả khi có thông tin hồi âm, thì đó tỏ ra chỉ là một bản thông tin in sẵn—tuy nhiên rất đẹp với nhiều hùng biện. Nhưng nó cũng cung cấp được thông tin mà tôi muốn biết, đó là địa chỉ của Thư ký ở Luân Đôn, nó còn cho tôi biết thêm rằng để gia nhập Hội tôi phải được hai hội viên đề cử và bảo lãnh. |
How I Joined— Tôi gia nhập Hội như thế nào
The Secretary was Mr. Kirby (not the Mr. Kirby so well known in later years in connection with the Society’s work in Italy, but the Kirby of Kirby and Spence’s Entomology, a book which I had studied in my boyhood). I promptly wrote to him, pointing out that I wished to join, but had not the pleasure of the acquaintance of any of the existing members; what was I to do? Again I had to wait a long time for an answer, for Mr. Kirby also was abroad—I think climbing peaks in Switzerland; but at length he replied austerely that the rules were inviolable, and that no exception could be made, but suggested as an afterthought that I might call upon either Mr. A. P. Sinnett or Mr. G. B. Finch. I adopted this suggestion and wrote a note to Mr. Sinnett, hardly daring, however, to hope that he could really be the author of the book which had impressed me so deeply. His reply soon set that point at rest, and invited me to come up to London to see him. He had only recently returned from India, and was then staying temporarily at the house of his mother-in-law, Mrs. Edensor, in Royal Crescent, Notting Hill. He received me with the greatest kindness and cordiality, and of course we talked much of his books (for by that time I had found Esoteric Buddhism also) and the wonderful revelation which they contained. The more I heard of Theosophy the more anxious I became to learn all that could be told to me; but when I spoke of joining the Theosophical Society Mr. Sinnett became very grave and opined that that would hardly do, seeing that I was a clergyman! I wondered rather why the Society should discriminate against members of the cloth; and at last I ventured timidly to put the question. Mr. Sinnett replied: “Well, you see, we are in the habit of discussing every subject and every belief from the beginning, without any preconceptions whatever; and I am afraid that at our meetings you would be likely to hear a great deal that would shock you profoundly.” I had already, years previously, attended some of Mrs. Besant’s lectures at the Hall of Science in Old Street, off the City Road, and I thought that, after that, nothing that the members of the Theosophical Society could say would be likely to offend me very seriously; so I smilingly assured Mr. Sinnett that I hoped I was not that kind of clergyman and that I should be quite prepared to join in any discussion that might arise, irrespective of the beliefs of the debaters. At this Mr. Sinnett partially thawed, and even said that, if that were really the case, he should have peculiar pleasure in admitting a clergyman; but that before finally taking so decided a step he must consult his Council. So we had to leave it at that, and I returned to my country curacy fifty miles away in Hampshire. | Thư ký là ông Kirby (không phải là ông Kirby nổi tiếng sau này liên quan tới công việc ở Ý, mà là đồng tác giả của quyển Côn trùng học của Kirby và Spence, một quyển sách mà tôi đã nghiên cứu thời còn thơ ấu). Tôi nhanh chóng viết thư cho ông, nêu rõ ràng tôi muốn gia nhập Hội, nhưng chẳng may không quen biết bất cứ hội viên có sẵn nào, vậy tôi phải làm sao bây giờ? Tôi lại phải chờ một thời gian dài mới có thơ hồi âm, bởi vì ông cũng xuất ngoại (tôi thiết tưởng đi leo núi ở Thụy Sĩ) nhưng sau cùng, ông trả lời một cách nghiêm khắc rằng qui tắc không thể vi phạm và cũng không phải có ngoại lệ; nhưng sau khi nghĩ lại ông gợi ý rằng tôi có thể gọi điện thoại hoặc là cho ông A. P. Sinnett hay là ông G. B. Finch. Tôi chọn theo gợi ý này và viết một bức thư ngắn cho ông Sinnett, tuy nhiên hầu như cũng chẳng dám hi vọng rằng ông có thật sự là tác giả đã gây ấn tượng rất sâu sắc đối với tôi. Câu trả lời của ông ngay tức khắc xác định điều này rõ ràng, ông mời tôi đến Luân Đôn để gặp ông. Chỉ mới gần đây ông từ Ấn Độ trở về và lúc bấy giờ ông đang tạm trú ở nhà bà mẹ vợ là bà Edensor ở Royal Crescent, Notting Hill. Ông tiếp đãi tôi một cách tử tế và thân mật hết sức, và dĩ nhiên chúng tôi nói chuyện nhiều về sách ở của ông (bởi vì lúc bấy giờ tôi cũng đã tìm thấy quyển Phật giáo Bí truyền) và sự khai thị kỳ diệu chứa trong đó. Tôi càng nghe nói về Thông Thiên Học thì tôi càng háo hức muốn học hết mọi điều có thể nói cho tôi biết được; nhưng khi tôi đề cập tới việc gia nhập Hội Thông Thiên Học, thì ông Sinnett trở nên rất nghiêm trang và phát biểu ý kiến rằng, coi vậy chứ khó, xét vì tôi là một giáo sĩ. Tôi lấy làm lạ tại sao Hội lại phân biệt đối xử các hội viên dựa theo lớp áo; và rốt cuộc tôi rụt rè đánh bạo nêu thắc mắc ấy. Ông Sinnett trả lời: “Được thôi, bạn thấy đấy, chúng tôi có thói quen bàn luận mọi đề tài và mọi tín ngưỡng ngay từ đầu không có tiên kiến nào hết; và tôi e rằng trong buổi họp của chúng tôi bạn rất có thể nghe thấy nhiều điều làm cho bạn bị kích động sâu sắc”. Nhiều năm trước tôi cũng đã từng tham dự một số bài thuyết trình của bà Besant ở Sảnh đường Khoa học tại Khu phố cổ đường City và tôi thiết tưởng rằng sau đó thì không một điều gì các hội viên Hội Thông Thiên Học nói mà lại có thể xúc phạm tôi rất nặng nề. Vì vậy tôi mỉm cười trấn an ông rằng tôi hi vọng mình không phải là cái loại giáo sĩ ấy, và tôi hoàn toàn sẵn sàng tham dự vào bất kỳ cuộc thảo luận nào có thể xuất hiện bất chấp đức tin của người bàn luận. Nghe như vậy ông Sinnett mới phần nào thư giãn và thậm chí bảo rằng nếu thật sự như vậy thì ông rất thích thú khi tiếp nhận một giáo sĩ; nhưng trước khi cuối cùng tiến một bước quyết định như thế ông phải tham khảo ý kiến của Hội đồng. Thế là chúng tôi phải bỏ lửng vấn đề ở đó và tôi phải quay về giáo xứ miền quê của tôi ở Hampshire cách đó 50 dặm. |
Within a week, however, I had a letter from Mr. Sinnett saying that the majority of the Council had agreed to my admission, and that if I would fill up the necessary forms he would be glad to propose me himself; and he further advised me to call upon Mr. G. B. Finch, who would probably second my application if I impressed him favourably. Mr. Finch proved to be just as kindly as Mr. Sinnett, and I was presently notified that I was at last accepted as a member of the Society, and that if I would call at his house on a certain evening I might be initiated. By that time Mr. Sinnett had moved into a house of his own in Ladbroke Gardens, and thither I duly repaired at the appointed time. I found that I was to be initiated into the mysteries of the Society along with two other applicants, Professor and Mrs. Crookes. Even then I realized the honour of being admitted along with so distinguished a scientist, for though Professor Crookes was not yet Sir William, I knew of him as the discoverer of thallium, the inventor of the radiometer, and the apostle of radiant matter. To join the Theosophical Society was in those days a somewhat formidable undertaking. We found Mrs. Sinnett’s large drawing-room crowded to excess, the assembly in fact overflowing on to the landing and a little way up the staircase. I suppose there may have been some two hundred people present, including some who bore very distinguished names—such as Professor Myers, C. C. Massey, Stainton Moses and others. We three were planted together upon a sofa in the midst of the crowd, and Mr. Sinnett, after delivering a homily upon the objects and work of the Society, duly communicated to us a series of signs and passwords by means of which we were to be able to recognize our fellow-members in any part of the world. These signs and words have since dropped into abeyance in most countries, though I think that our President still gives them to any candidates whom she receives in India. After this I missed very few of the Lodge meetings, coming up to London nearly every week. In fact, Mr. Sinnett was so hospitable as to give me a standing invitation to dine and spend the night at his house on these occasions, as I lived fifty miles away. At those dinners and at the meetings which followed them I met many well-known people, and heard many most interesting and instructive conversations. It must be remembered that all the teaching was at that time quite new to us, that there were many points on which our information was very imperfect, and that consequently there was much room for discussion. The planetary chains, the different planes of nature and the conditions of consciousness upon each of them—all these things came to us as a fresh revelation, and we had no small difficulty in harmonizing the scattered statements made in the replies which had been received to Mr. Sinnett’s multifarious questions. The sun of our present President had not then risen above the Theosophical horizon, so we had no one to disentangle the knotted skeins or to bring the apparently conflicting statements into harmony. I remember creating a small sensation at the dinner-table by announcing that it seemed to me the obvious course that each of us should set before himself the definite intention of becoming a pupil of one of the great Adept Masters. The suggestion was apparently somewhat of a shock to those present, for it was received in dead silence; and it was only after an appreciable pause that Mr. Sinnett remarked that he supposed that Europeans could hardly hope for anything of that sort at the present stage of our knowledge—which was true enough, but I thought that we might at least set our faces determinedly in that direction. These meetings of the London Lodge were almost our only sources of Theosophical information in those days. I think we were an exceptionally keen set of students, but there was really not very much for us to study. In addition to those two books of Mr. Sinnett’s we had Madame Blavatsky’s monumental work Isis Unveiled and also a fine book by Dr. Anna Kingsford called The Perfect Way or The Finding of Christ. This latter book contained a great deal of information, but it was given from a point of view entirely different from that of Mr. Sinnett’s books and for most of us much more difficult to follow. Isis Unveiled is a vast chaos of most interesting matter, but we found it very difficult to deduce from it anything that could be called a coherent or definite system. But we struggled along as best we could, and a little later we had the very great encouragement of hearing that the Master Kuthumi was pleased with the efforts that we had made, and would send over from India one of His own disciples to help us in our work. | Tuy nhiên chỉ nội trong một tuần, tôi đã nhận được một bức thư của ông Sinnett bảo rằng đa số Hội đồng đã đồng ý nhận tôi vào Hội, và nếu tôi muốn chu toàn những hình thức cần thiết thì ông vui lòng đề nghị tôi nhận ông làm người giới thiệu và bảo lãnh, ông còn khuyên tôi thêm nữa hãy gọi điện thoại cho ông G. B. Finch, có lẽ ông sẽ bảo lãnh cho đơn gia nhập của tôi nếu tôi gây ấn tượng thuận lợi đối với ông. Ông Finch cũng tỏ ra tử tế như ông Sinnett, và chẳng bao lâu sau tôi được cho biết rằng cuối cùng tôi được nhận là hội viên của Hội Thông Thiên Học và nếu tôi có mặt ở nhà ông vào một buổi tối nào đó thì tôi có thể được khai tâm. Vào lúc đó ông Sinnett đã dọn nhà về nhà riêng của mình ở Vườn Ladbroke, và tôi đã đi đúng tới đó, chỉnh lại cái giờ đã qui định theo đúng mức. Tôi thấy rằng mình được khai tâm vào những bí nhiệm của Hội cùng với hai ứng viên khác là vợ chồng giáo sư Crookes. Ngay cả lúc bây giờ tôi cũng lấy làm vinh hạnh khi được nhận vào Hội cùng với một khoa học gia lỗi lạc như thế, bởi vì mặc dù giáo sư Crookes chưa phải là Ngài William, thì tôi cũng biết tiếng ông là người khám phá ra thallium, phát minh ra phóng xạ kế và là cha đẻ của chất phóng xạ. Gia nhập Hội vào thời đó là một công trình khá dễ sợ. Chúng tôi thấy căn phòng khách rộng lớn ở nhà ông Sinnett đặc nghẹt người quá mức, quả thật đám đông người tràn ngập ra tới chỗ đậu xe và lấn lên một chút tới cầu thang. Tôi giả định có thể có tới chừng 200 người có mặt, bao gồm một số người có danh tiếng rất lẫy lừng như Giáo sư Myers, C. C. Massey, Stainton Moses và những người khác. Ba chúng tôi ngồi trên một chiếc ghế trường kỷ giữa đám đông, còn ông Sinnett sau khi thuyết trình mục tiêu và công việc của Hội một cách thân mật đều truyền thụ đúng đắn cho chúng tôi một loạt những dấu hiệu và mật khẩu, nhờ đó chúng tôi có thể nhận ra các hội viên đồng tu của mình ở bất cứ nơi đâu trên thế giới. Từ đó trở đi những dấu hiệu và mật khẩu này đã không còn được sử dụng ở hầu hết mọi nước, mặc dù tôi nghĩ rằng bà Hội trưởng của chúng ta vẫn còn truyền thụ chúng cho bất kỳ ứng viên nào mà bà tiếp nhận ở Ấn Độ. Sau buổi đó thì tôi rất ít vắng mặt ở những buổi họp của Chi bộ, hầu như tuần nào cũng lên Luân Đôn. Quả thật ông Sinnett hiếu khách đến nỗi mời tôi thường trực tới ăn tối và nghỉ qua đêm ở nhà ông vào những dịp đó, vì tôi sống cách xa Luân Đôn tới 50 dặm. Vào những buổi ăn tối và những phiên họp diễn ra sau đó, tôi gặp gỡ nhiều người nổi tiếng, nghe thấy nhiều cuộc đàm thoại thú vị và mang nhiều thông tin hữu ích nhất. Phải nhớ rằng vào lúc đó thì toàn thể giáo huấn đều mới tinh đối với chúng tôi, có nhiều vấn đề mà thông tin của chúng tôi rất bất toàn, vì vậy có nhiều chỗ rộng rãi để thảo luận. Các dãy hành tinh, các cõi khác nhau trong thiên nhiên và tình trạng tâm thức trên mỗi cõi đó, tất cả những chuyện này đến với chúng tôi là một sự khai thị mới mẻ và chúng tôi rất khó khăn khi làm hài hòa những phát biểu rải rác có trong những câu trả lời mà nhiều câu hỏi đã được ông Sinnett tiếp nhận. Lúc bấy giờ vầng mặt trời là bà Hội trưởng hiện nay chưa ló dạng trên đường chân trời của Thông Thiên Học, cho nên chúng tôi chẳng có ai gỡ rối những nút thắt loằng ngoằng hay khiến cho những phát biểu xét theo biểu kiến là mâu thuẫn trở nên hài hòa. Tôi còn nhớ mình đã tạo ra một sự giựt gân nho nhỏ trong buổi ăn tối khi loan báo rằng tôi thấy dường như lộ trình hiển nhiên mà mỗi người trong chúng ta nên đặt ra trước mắt mình là dứt khoát có ý định trở thành đệ tử của một trong các đại Chơn sư. Xét về biểu kiến thì lời gợi ý ấy gây ra cú sốc khá mạnh đối với những người có mặt, cho nên người ta lặng thinh tiếp thu nó; và chỉ sau khi có sự tạm ngưng khá lâu thì ông Sinnett mới nhận xét rằng, ông giả định rằng người Âu Tây khó lòng có hi vọng về bất cứ điều gì thuộc loại đó ở tình trạng kiến thức hiện nay của chúng ta—điều này cũng đúng thôi, nhưng tôi thiết tưởng chúng ta ít nhất cũng có thể dứt khoát quay mặt về hướng đó. Những buổi họp ở Chi bộ Luân Đôn vào thời đó, hầu như là nguồn thông tin duy nhất của chúng tôi về Thông Thiên Học. Tôi nghĩ rằng chúng tôi là một nhóm học viên hăm hở ngoại lệ, nhưng thật ra không thật sự có rất nhiều điều để cho chúng tôi nghiên cứu. Ngoài hai quyển sách của ông Sinnett, chúng tôi có tác phẩm đồ sộ của bà Blavatsky là bộ Vén Màn Bí Mật Nữ thần Isis, cùng với một quyển sách rất hay của Tiến sĩ Anna Kingsford tên là Con đường Hoàn hảo tức Tìm thấy Chúa Kitô. Quyển sách vừa nêu có nhiều thông tin nhưng nó được trình bày theo một quan điểm khác hẳn quan điểm trong sách của ông Sinnett, và đối với hầu hết chúng tôi thì khó theo đuổi hơn nhiều. Bộ Vén Màn Bí Mật Nữ thần Isis là một mớ hỗ lốn những vấn đề thú vị nhất, nhưng chúng tôi thấy rất khó để suy diễn từ đó bất cứ điều gì có thể được gọi là một hệ thống mạch lạc và xác định. Nhưng chúng tôi phấn đấu đến mức tối đa và một ít lâu sau chúng tôi rất phấn khởi khi nghe tin rằng Chơn sư Kuthumi rất hài lòng với sự tinh tấn của chúng tôi, cho nên sẽ biệt phái từ Ấn Độ một trong những đệ tử của Ngài để giúp chúng tôi làm việc. |
Mr. M. M. Chatterji—Ông M. M. Chatterji
This pupil was Mr. Mohini Mohun Chatterji, a young lawyer from Calcutta, and he reached London along with Colonel Olcott early in 1884. I must say that he proved exceedingly helpful to us, and it was from his addresses that we first gained a clear idea of the Path of Initiation and its requirements. A statement of these in his wording appears in the first of the celebrated Transactions of the London Lodge. I remember well the occasion of his first appearance at one of Mr. Sinnett’s evening receptions. Colonel Olcott and Mohini stood on the hearthrug in front of the grate and some two hundred people were brought and introduced to them one by one. Among these was the notorious Mr. Oscar Wilde, who always gave one the impression of wishing to be distinctive (not to say bizarre) both in manners and in dress. On that occasion, I remember, he was habited in black velvet, with knee breeches and white stockings. He came up to Mohini, was introduced, bowed gracefully and in retiring said in a very audible stage-whisper to Mrs. Sinnett: “I never realized before what a mistake we make in being white!” Mohini, being a Brahman, was quite unversed in Western customs, and I believe that it caused him acute discomfort to allow that crowd of wine-drinking Mlechhas to seize him by the hand. He looked very sick, but he endured it nobly, and of course none of us had the least idea what was the matter. He answered patiently a vast number of what must have seemed to him very foolish and incredibly ignorant questions, and came off with flying colours as the hero of the evening, most of the old ladies regarding him with reverential awe. | Đệ tử này là ông Mohini Mohun Chatterji, một luật sư còn trẻ ở Calcutta, ông tới Luân Đôn cùng với Đại tá Olcott vào đầu năm 1884. Tôi phải nói rằng ông tỏ ra rất hữu ích đối với chúng tôi và chính từ những bài thuyết trình của ông mà lần đầu tiên chúng tôi có được một ý niệm rõ ràng về Con đường Điểm đạo và những yêu cầu của nó. Một phát biểu về những vấn đề này qua lời của ông xuất hiện trong phần đầu tiên của tác phẩm nổi tiếng Văn kiện của Chi bộ Luân Đôn. Tôi còn nhớ rõ cái dịp ông lần đầu tiên xuất hiện ở một trong những buổi tiếp tân chiều tối của ông Sinnett. Đại tá Olcott và Mohini đứng trên tấm thảm trước lò sưởi ngay đối diện với vĩ lò, còn vào khoảng chừng 200 người được tiếp đón và giới thiệu với họ từng người một. Trong số khách mời có ông Oscar Wilde nổi tiếng, ông luôn luôn gây ấn tượng là muốn mình phải đặc sắc (nếu không phải là dị hợm) cả về phong cách lẫn y phục. Vào dịp đó, tôi còn nhớ ông mặc áo nhung đen, quần ống túm lên tới tận đầu gối và đi vớ trắng. Ông tiến tới chỗ Mohini khi được giới thiệu, bèn lịch sự cúi đầu và khi cáo từ nói bằng một giọng thì thào như đóng tuồng trên sân khấu cố ý cho người khác nghe, nhất là với bà Sinnett: “Tôi chưa bao giờ vỡ lẽ ra trước đó, rằng thật là lầm lỗi xiết bao khi chúng ta sinh ra là người da trắng”. Mohini vốn là người dòng dõi Bà La Môn hoàn toàn không quen với phong tục Âu Tây và tôi tin rằng ông tỏ ra rất khó chịu khi để cho cái đám đông lũ Tây dương uống rượu bắt tay mình. Ông trông có vẻ rất ốm yếu nhưng chịu đựng nó một cách rất cao cả, và dĩ nhiên không ai trong chúng tôi có được ý niệm nào đó xem vấn đề này là thế nào. Ông kiên nhẫn trả lời rất nhiều điều đối với ông dường như là những thắc mắc rất ngu xuẩn và vô minh không thể tin được. Rồi rút lui với dáng vẻ bay bổng như vị anh hùng vào buổi chiều tối, hầu hết các bà mệnh phụ già đều nhìn ông với vẻ kính sợ. |
In the course of my inquiries into spiritualism I had come into contact with most of the prominent mediums of that day, and had (as I have said before) seen every ordinary phenomena about which one reads in books upon that subject. One medium with whom I had much to do was Mr. Eglinton; and although I have heard stories told against him, I must bear witness that in all my own dealings with him I found him most straightforward, reasonable and courteous. He had various so-called controls—one a Red Indian girl who called herself Daisy, and chattered volubly on all occasions, appropriate or inappropriate. Another was a tall Arab, named Abdullah, considerably over six feet, who never said anything, but produced remarkable phenomena, and often exhibited feats showing great strength. I have seen him simultaneously lift two heavy men, one in each hand. A third control who frequently put in an appearance was Ernest; he comparatively rarely materialized, but frequently spoke with direct voice, and wrote a characteristic and well-educated hand. One day in conversation with him something was said in reference to the Masters of the Wisdom; Ernest spoke of Them with the most profound reverence, and said that he had on various occasions had the privilege of seeing Them. I at once enquired whether he was prepared to take charge of any message or letter for Them, and he said that he would willingly do so, and would deliver it when opportunity offered, but he could not say exactly when that would be. I may mention here that in connection with this I had later a good example of the unreliability of all such communications. Some considerable time afterwards some spiritualist wrote to Light explaining that there could not possibly be such persons as the Masters, because Ernest had positively told him that there were not. I wrote to the same newspaper to say that I had it on precisely the same valueless authority that there were Masters, and that Ernest knew Them well. In each case Ernest had evidently reflected the thought of the questioner, as such entities so often do. To return to my story, I at once provisionally accepted Ernest’s offer. I said that I would write a letter to one of these Great Masters, and would confide it to him if my friend and teacher, Mr. Sinnett, approved. At the mention of this name the “spirits” were much perturbed; Daisy especially was very angry, and declared that she would have nothing to do with Mr. Sinnett under any circumstances; “Why, he calls us spooks!” she said, with great indignation. However, I blandly stuck to my point that all I knew of Theosophy had come to me through Mr. Sinnett, and that I therefore did not feel justified in going behind his back in any way, or trying to find some other means of communication without first consulting him. Finally, though with a very bad grace, the spirits consented to this, and the séance presently terminated. When Mr. Eglinton came out of his trance, I asked him how I could send a letter to Ernest, and he said at once that if I would let him have the letter he would put it in a certain box which hung against the wall, from which Ernest would take it when he wished. I then posted off to Mr. Sinnett, and asked his opinion of all this. He was at once eagerly interested, and advised me promptly to accept the offer and see what happened. | Trong quá trình điều tra về thần linh học, tôi đã được tiếp xúc với hầu hết những đồng tử lỗi lạc nhất thời đó và (như tôi có nói trước) đã chứng kiến mọi hiện tượng lạ thông thường mà người ta có thể đọc thấy trong sách vở viết về đề tài này. Một đồng tử mà tôi giao tiếp nhiều nhất là ông Eglinton, và mặc dù tôi có nghe nhiều chuyện kể chống lại ông nhưng tôi phải chứng nhận rằng trong mọi cuộc giao tiếp của chính ông với tôi, tôi thấy ông là người thẳng thắn nhất, biết điều và lịch sự. Ông có nhiều cái gọi là vong linh kiểm soát—một vong linh là cô gái da đỏ tự xưng là Daisy, nói liếng thoắng vào đủ mọi dịp dù thích hợp hay không. Một vong linh khác là một người Ả Rập cao lớn, tên là Abdullah, cao hơn 6 bộ Anh nhiều, y chẳng nói chẳng rằng mà chỉ tạo ra những hiện tượng lạ đáng chú ý và thường phô diễn thành tích chứng tỏ mình rất mạnh. Tôi đã chứng kiến y cùng một lúc nhấc bổng hai người nặng, mỗi người trên mỗi bàn tay. Vong linh kiểm soát thứ ba thường xuất hiện là Ernest, y tương đối hiếm khi hiện hình nhưng thường nói bằng một giọng trực tiếp và viết một thủ bút đặc trưng là có giáo dục. Một ngày kia trong khi đàm đạo với y, tôi nghe nói một điều gì đó đề cập tới các Chơn sư Minh Triết, Ernest nói về các Ngài với sự kính cẩn sâu sắc nhất và bảo rằng y có nhiều dịp được đặc quyền nhìn thấy các Ngài. Tôi ngay tức khắc hỏi xem liệu y có sẵn lòng đảm nhiệm việc chuyển bất kỳ thông điệp hoặc bức thư nào cho các Ngài hay chăng, và y bảo rằng y sẵn lòng làm như thế và sẽ chuyển thư khi có cơ hội, nhưng y không thể nói chính xác khi nào mới có cơ hội. Ở đây tôi có thể nói đến việc liên quan tới vấn đề đó, là sau này tôi có ví dụ nổi bật về tính không đáng tin cậy của mọi sự giao tiếp như thế. Một thời gian dài sau đấy có một nhà thần linh học viết thư cho Tạp chí Ánh sáng giải thích rằng, không thể có những người như các Chơn sư, bởi vì Ernest dứt khoát bảo rằng không có Chơn sư. Tôi viết thư cũng cho tờ báo ấy bảo rằng cũng chính cái thẩm quyền vô giá này đã cho tôi biết rằng có các Chơn sư và Ernest đã phản ánh tư tưởng của người thắc mắc vì những thực thể như vậy thường làm như thế. Trở lại với câu chuyện của mình, tôi ngay tức khắc tạm thời chấp nhận đề xuất của Ernest. Tôi bảo rằng tôi sẽ viết một bức thư cho một trong các Chơn sư rồi giao nó cho y, nếu người bạn và người thầy của tôi là ông Sinnett tán thành. Khi nghe nói tới danh xưng này thì các “vong linh” hết sức bối rối. Daisy đặc biệt rất giận dữ và tuyên bố rằng cô chẳng dính dáng gì tới ông Sinnett trong bất kỳ tình huống nào; cô hết sức công phẩn bảo rằng: “Tại sao ư, bởi vì ông gọi chúng tôi là âm ma!” Song le tôi nhã nhặn bám lấy lập trường của mình cho rằng mọi điều mà tôi biết về Thông Thiên Học đều đến với tôi thông qua ông Sinnett và vì thế cho nên tôi thấy mình không có lý do chính đáng khi đi lòn sau lưng ông bằng bất cứ cách nào hoặc ra sức tìm một phương tiện giao tiếp nào khác mà trước hết không tham khảo ý kiến của ông. Cuối cùng mặc dù hết sức miễn cưỡng các vong linh cũng đồng ý với chuyện này và buổi lên đồng chẳng bao lâu sau đó kết thúc. Khi ông Eglinton ra khỏi cơn xuất thần thì tôi hỏi ông làm sao tôi có thể gửi một bức thư cho Ernest được, và ông nói ngay tức khắc rằng nếu tôi giao cho ông bức thư thì ông sẽ bỏ nó vào trong một cái hộp nào đó, treo lủng lẳng dựa vào bức vách mà Ernest sẽ lấy thư ra khỏi hộp khi nào y muốn. Thế rồi tôi điện thoại cho ông Sinnett hỏi ý kiến ông về mọi điều này. Ông ngay tức khắc háo hức quan tâm tới nó và khuyên tôi hãy nhanh chóng chấp nhận lời đề xuất để xem chuyện gì sẽ xảy ra. |
A Letter to the Master—Một lá thư từ Chân sư
Thereupon I went home and wrote three letters. The first was to the Master K. H., telling Him with all reverence that ever since I had first heard of Theosophy my one desire had been to place myself under Him as a pupil. I told Him of my circumstances at the time, and asked whether it was necessary that the seven years of probation of which I had heard should be passed in India. I put this letter in a small envelope and sealed it carefully with my own seal. Then I enclosed it in a letter to Ernest in which I reminded him of his promise, and asked him to deliver this letter for me, and to bring back an answer if there should be one. That second letter I sealed in the same manner as the first, and then I enclosed that in turn with a short note to Eglinton, asking him to put it in his box, and let me know whether any notice was taken of it. I had asked a friend who was staying with me to examine the seals of both the letters with a microscope, so that if we should see them again we might know whether anyone had been tampering with them. By return of post I received a note from Mr. Eglinton, saying that he had duly put the note for Ernest into his box, and that it had already vanished, and further that if any reply should come to him he would at once forward it. A few days later I received a letter directed in a hand which was unknown to me, and on opening it I discovered my own letter to Ernest apparently unopened, the name “Ernest” on the envelope being crossed out, and my own written underneath it in pencil. My friend and I once more examined the seal with a microscope, and were unable to detect any indication whatever that any one had tampered with the letter, and we both agreed that it was quite impossible that it could have been opened; yet on cutting it open I discovered that the letter which I had written to the Master had disappeared. All that I found inside was my own letter to Ernest, with a few words in the well-known handwriting of the latter written on its blank page, to the effect that my letter had been duly handed to the Great Master, and that if in the future I should ever be thought worthy to receive an answer Ernest would gladly bring it to me. I waited for some months, but no reply came, and whenever I went to Eglinton’s séances and happened to encounter Ernest, I always asked him when I might expect my answer. He invariably said that my letter had been duly delivered, but that nothing had yet been said about an answer, and that he could do no more. Six months later I did receive a reply, but not through Ernest, and in it the Master said that though He had not received the letter (nor, as He remarked, was it likely that He should, considering the nature of the messenger) He was aware of what I had written and He now proceeded to answer it. It will be necessary presently to explain what His answer was, and what steps I took in consequence of it; but before I can make that intelligible, I must turn aside to describe some other incidents which had occurred in the meantime while I was waiting in hope of receiving that reply. | Vì thế cho nên tôi về nhà và viết ba bức thư. Bức thứ nhất gửi Chơn sư K. H. hết sức kính cẩn cho Ngài biết rằng kể từ khi lần đầu tiên nghe nói tới Thông Thiên Học, thì tôi chỉ có một ước muốn duy nhất là xin làm đệ tử của Ngài. Tôi cho Ngài biết hoàn cảnh của tôi vào lúc ấy và thắc mắc xem liệu thời gian cần thiết bảy năm dự bị mà tôi có nghe nói phải diễn ra ở Ấn Độ hay chăng. Tôi bỏ bức thư này vào một phong bì nhỏ và dùng dấu niêm phong riêng của mình để niêm phong kỹ nó lại. Thế rồi tôi lại đút nó vào trong những bức thư gửi Ernest, trong bức thư này tôi nhắc y nhớ lại lời hứa của mình và yêu cầu y chuyển giao bức thư này dùm tôi, rồi chuyển lại thư hồi âm nếu có. Bức thư thứ nhì tôi cũng niêm phong giống như bức thư đầu tiên và đến lượt tôi bỏ tất cả vào trong một bức thư ngắn gửi Eglinton, yêu cầu ông ta bỏ nó vào cái hộp của mình rồi cho tôi biết liệu có bất cứ sự chú ý nào liên quan tới nó hay chăng. Qua đường bưu điện, tôi nhận được một bức thư ngắn hồi âm của ông Eglinton bảo rằng ông đã bỏ bức thư ngắn gửi Ernest vào trong cái hộp của mình và nó đã biến mất rồi, hơn nữa nếu có thư hồi âm nào đến thì ông sẽ ngay tức khắc chuyển cho tôi. Vài ngày sau, tôi nhận được một bức thư chuyển bằng tay do một người tôi không quen biết, và khi nhận thư mở nó ra thì tôi phát hiện được, xét theo biểu kiến, thư riêng của tôi gửi cho Ernest chưa được mở ra, danh xưng “Ernest” trên phong bì bị gạt đi và tên của chính tôi được viết bên dưới đó bằng bút chì. Bạn tôi và tôi ngay tức khắc khảo sát dấu niêm phong bằng kính hiển vi và không thể dò ra được bất cứ chỉ dẫn nào cho thấy có ai đó đã can thiệp vào bức thư, và cả hai chúng tôi đồng ý rằng bức thư hoàn toàn không thể được mở ra; thế nhưng khi cắt phong bì mở nó ra thì tôi phát hiện được rằng bức thư tôi gửi Chơn sư đã biến mất. Mọi thứ tôi tìm thấy bên trong là bức thư riêng của tôi gửi Ernest cùng với một vài lời lẽ bằng thủ bút nổi tiếng của Ernest viết trên trang bỏ trắng với nội dung rằng bức thư của tôi đã được chuyển giao tới tận Chơn sư Vĩ đại, và nếu trong tương lai người ta nghĩ rằng tôi xứng đáng nhận được hồi âm thì Ernest sẽ vui lòng chuyển lại cho tôi Tôi đợi trong vài tháng, nhưng chẳng có thư hồi âm và bất cứ khi nào tôi đến dự buổi lên đồng của Eglinton mà ngẫu nhiên gặp Ernest thì tôi luôn luôn hỏi y xem liệu đến bao giờ tôi mới trông mong có được hồi âm. Y luôn luôn bảo rằng đã chuyển giao thư tôi rồi, nhưng chẳng nói gì tới thư hồi âm và thế nên y chẳng thể làm được gì hơn nữa. Sáu tháng sau tôi có nhận được một hồi âm, nhưng không phải thông qua Ernest và trong bức thư hồi âm Chơn sư bảo rằng mặc dù Ngài không nhận được thư của tôi (Ngài cũng nhận xét rằng, xét vì bản thân của người giao thư thì rất có thể là Ngài không nhận được), nhưng Ngài vẫn biết điều tôi đã viết trong đó và bây giờ Ngài tiến hành trả lời. Chẳng bao lâu nữa, tôi mới cần phải giải thích Ngài hồi âm ra sao và do đó tôi phải tiến những bước như thế nào; nhưng trước khi tôi có thể giải thích vấn đề này thì tôi phải quay sang việc miêu tả một số diễn tiến khác đã xảy ra trong thời gian ấy khi tôi đang chờ đợi hi vọng nhận được hồi âm. |