Chương 3 – Công việc Thực tiển

CHAPTER III

Practical Work—Công việc Thực tiển

Naturally, as soon as I had the main principles of Theosophy, as we knew it then, established in my mind, and had definitely set before myself the idea of aiming, at however great a distance in the future, at drawing nearer to the Feet of the Master, I became anxious to know whether there was not something that I could do to help in the practical work of the Society. I propounded this question to Mr. Sinnett, and in reply he opened a large drawer completely filled with letters, and said:

“All these are inquiries about Theosophy; every day they come pouring in upon me from all parts of the world; I struggle with them in a feeble sort of way, and answer a few each day; but I am entirely unable to cope with the torrent. I am already behindhand to this extent, and I shall obviously never overtake the accumulation, for the pile of arrears is increasing steadily day by day. If you are willing to take charge of this little assortment, and answer them as well as you can, you will really be doing an important service to a large number of people.”

I of course objected that I did not know nearly enough yet to take upon myself the office of expounder of the doctrine; but he replied:

“You have read all the books, you have attended nearly all the meetings; I am sure that you know as much of the teaching as I do myself. And besides, it is clearly a case of that or nothing. With all the other work that I have to do, I shall never be able to deal with them; whereas you may manage, in the seclusion of your country parish, to work through some of them at least; and after all, we can always consult upon any knotty points that arise.”

He was right in saying that I had done all in my power to familiarize myself with this wonderful new teaching. I had read both his books, not once but many times, each time, I think, appreciating their value more and more, and gaining a firmer grip of the ideas promulgated in them. So I filled a suit-case with those letters (there were 437 of them) and took them down into Hampshire. I tackled the job with enthusiasm—I remember that I allowed myself only four hours’ sleep each night—and eventually I actually did work my way through them. It was quite a heavy task, for there were no typewriters in those days, so that every word of those many thousands had to be written laboriously by hand.

Some of the questions were easy, and some were difficult; in many cases long explanations were necessary, because the inquirer seemed to have taken hold of the instruction in quite a wrong way; but I think I did my best with them. Of course I received a host of replies, so that that drawer-full of letters occupied most of my leisure time for many months. I may say that quite a number of new recruits joined the Society in consequence of that correspondence, and I also added largely to my list of friends—likewise to my own stock of Theosophical knowledge, for there is no better way of learning a subject thoroughly than trying to teach it to someone else.

Tự nhiên là ngay khi tôi có được những nguyên lý chủ yếu của Thông Thiên Học theo như chúng tôi biết lúc bấy giờ vốn đã xác lập trong tâm trí tôi, thì tôi dứt khoát đặt ra mục tiêu trước mắt mình là cho dù tương lai có kéo dài đi xa đến đâu chăng nữa thì tôi vẫn phải tiến tới gần Dưới Chơn Đức Thầy. Tôi đâm ra háo hức muốn biết liệu tôi có thể làm một điều gì đó để giúp vào công việc thực tiễn của Hội hay chăng. Tôi trình bày thắc mắc này với ông Sinnett và để trả lời thì ông mở một cái ngăn kéo lớn ra chứa chật ních những bức thư, rồi bảo rằng: “Những bức thư này đều thắc mắc về Thông Thiên Học, hằng ngày chúng cứ tuôn đổ tới tôi từ khắp nơi trên thế giới; tôi vật lộn với chúng một cách yếu ớt và mỗi ngày chỉ trả lời được vài thư,nhưng tôi hoàn toàn không thể đối phó được với dòng thác thư này. Tôi đã bị trễ hẹn trả lời tới mức này rồi và hiển nhiên là tôi chẳng bao giờ khắc phục được cái đống thư tích lũy ấy, vì cứ mỗi ngày trôi qua là chồng thư bị trễ hẹn trả lời lại càng ngày càng tăng lên. Nếu bạn sẵn lòng đảm nhiệm cái việc sắp xếp nho nhỏ này lại, rồi trả lời thư bằng hết sức mình thì bạn quả thật đang phục vụ một cách quan trọng cho một số lớn người”. Dĩ nhiên tôi phản đối điều đó do hầu như tôi chưa biết đủ để đảm đương cái chức vụ xiển dương giáo lý, nhưng ôngSinnett trả lời rằng: “Bạn đã đọc hết sách vở rồi, bạn đã tham dự hầu hết những phiên họp; tôi chắc chắn rằng bạn biết về giáo huấn chẳng kém gì chính tôi, vả lại đây là trường hợp được ăn cả ngã về không. Do còn phải làm nhiều công việc khác nữa, cho nên tôi chẳng bao giờ xử trí được đống thư này; trong khi đó ở cái nơi ẩn dật trong giáo xứ miền quê của bạn, bạn có thể xoay sở để ít ra cũng xử trí được một số thư, và nói cho cùng thì chúng ta có thể luôn luôn tham khảo ý kiến nhau về bất kỳ vấn đề gai góc nào xuất hiện.” Ông đã nói đúng ở chỗ tôi đã dùng hết sức bình sinh để làm quen với cái giáo huấn kỳ diệu này. Tôi đã đọc hết cả hai quyển sách của ông, không phải một lần mà nhiều lần; tôi thiết tưởng mỗi lần đọc tôi lại càng trân trọng giá trị của chúng hơn và lĩnh hội được minh bạch hơn những ý tưởng truyền bá trong đó. Thế là tôi nhét những bức thư này (có 437 bức thư) vào đầy một cái vali rồi đem chúng về Hampshire. Tôi tiến hành công việc một cách hăm hở—tôi còn nhớ mỗi đêm mình được phép ngủ có bốn tiếng đồng hồ—và rốt cuộc tôi đã thật sự đọc hết chúng rồi trả lời. Đây là một nhiệm vụ rất nặng nề, bởi vì thời đó không có máy đánh chữ, cho nên mỗi chữ trong hàng ngàn bức thư trả lời phải được cặm cuội viết bằng tay. Một số thắc mắc dễ trả lời, còn một số khó trả lời; trong nhiều trường hợp cần phải giải thích dài dòng bởi vì người thắc mắc có vẻ lĩnh hội giáo huấn theo một cách hoàn toàn sai lạc; nhưng tôi thiết tưởng tôi đã làm hết sức mình. Cố nhiên tôi lại nhận được cả đống thư trả lời khiến cho cái đống thư trong ngăn kéo đã chiếm hết thời giờ của tôi trong nhiều tháng. Tôi có thể bảo rằng một số lớn những tân hội viên đều là do kết quả của việc thư từ qua lại này và tôi cũng thêm vào phần lớn danh sách bạn bè của tôi cũng như chính kho dự trữ của riêng tôi về kiến thức Thông Thiên Học được phong phú lên, bởi vì không có cách nào học một chủ đề rốt ráo hơn là việc cố gắng dạy chủ đề này cho người khác.

Dr. Kingsford—Tiến sĩ Kingsford

Let me pass on from these comparative trifles to an incident of real importance—my first meeting with Madame Blavatsky. But even before I can describe that, I must give a few words of preliminary explanation. Although Dr. Anna Kingsford was the President of the London Lodge, she was by no means entirely in accord with the teachings which its members were studying. Mr. Sinnett’s information came to him in Oriental form from Oriental Teachers and in answer to a series of more or less haphazard questions which he had formulated; whereas what Dr. Kingsford taught, she knew from her own recollection of what she had learnt in a previous life.

The agreement in essentials was most remarkable, but the form in which the teaching was cast was widely different, and each form had its own set of terms, which were by no means always interchangeable. Usually at our meetings Mr. Sinnett would deliver an address or make a statement; but before we were allowed to discuss it or to ask for further information on doubtful points, Dr. Kingsford would always insist upon restating the whole matter in her terms and from her point of view. To almost all of us the Oriental statement was far more comprehensible than the Hermetic; and to our eager minds this unnecessary complication appeared intolerable, so that Dr. Kingsford’s long disquisitions were received with a certain amount of impatience. Not content with stating her own case, she sometimes came perilously near to casting animadversions upon Mr. Sinnett’s presentation, and even upon the Masters from Whom it came. It will be readily understood that that tended to arouse considerable indignation in the minds of the members.

On one occasion the Lodge passed a resolution regretting the attitude adopted in a paper which she wrote; and the whole affair created a most undesirable feeling of tension. We even went so far as the publication of certain pamphlets in which the opposing cases were stated; and even Swami T. Subba Rao, far away in India, took part in the discussion. These conditions were still in evidence when Colonel Olcott and Mr. Mohini Mohun Chatterji arrived from India, and the Lodge practically divided itself into two very unequal parties, for Dr. Kingsford’s only supporters were her uncle Mr. Maitland and a few personal friends whom she had brought in when she joined. If Madame Blavatsky herself had been with us she would probably have settled the dispute off-hand; but although she had left India along with Colonel Olcott, she had fallen very seriously ill in Paris, and was even supposed to be in considerable danger.

Presently we came to the end of our financial year, and the question arose of the election of a President for the next twelve months. It was, I think, the almost unanimous desire of the Lodge that Mr. Sinnett himself should be its nominal as well as its actual leader; but he was unwilling to accept the position, because in the pamphleteering he had expressed himself somewhat strongly against Dr. Kingsford, and he did not wish to carry this almost personal animosity into the politics of the Lodge. When the night of election came Mr. Maitland proposed the reappointment of Dr. Kingsford, but found only one or two members to support him, at which Dr. Kingsford showed most undignified annoyance. Mr. Sinnett then rose and proposed Mr. G. B. Finch, a barrister of Lincoln’s Inn, who in his time had been Senior Wrangler at Cambridge. Being an able and kindly man, he was very popular with the members, and in fact that very meeting was being held in a long room in his chambers in Lincoln’s Inn. He was at once elected by an overwhelming majority, and we then appointed Mr. Sinnett as Secretary and proceeded to the work of the evening.

Dr. Kingsford, however, was obviously ill pleased with the result of the election, and her continual interruptions were more exasperating than ever. The President-Founder himself was in the Chair, but did not seem quite to know how to deal with the lady, and the meeting was dragging along in a dreary and fruitless manner. The room, as I have said, was long, and the door by which we entered was in one side of it, but near the end remote from the platform. The room was filled with benches which were hired temporarily for the purpose of the meeting. Now, it happened that my friend Mr. Varley and I had been a few minutes late, entering the room just after the proceedings had begun. So we slipped into an empty bench just opposite that door, and there were only two or three members in our immediate neighbourhood, although the upper end of the room was crowded. Colonel Olcott and Mohini were trying their best to extract something sensible and useful from a very wearisome and unprofitable discussion, and I suppose that we at the other end of the room were not paying any very close attention to the proceedings; when suddenly and sharply the door opposite to us opened, and a stout lady in black came quickly in and seated herself at the outer end of our bench.

Tôi xin chuyển từ những chuyện tương đối lặt vặt này sang một diễn tiến có tầm quan trọng thật sự, tức là lần đầu tiên tôi gặp bà Blavatsky. Nhưng ngay cả trước khi tôi có thể mô tả việc đó thì tôi phải nói vài lời giải thích sơ bộ. Mặc dù Tiến sĩ Kingsford là Chi trưởng Chi bộ Luân Đôn, bà tuyệt nhiên không hoàn toàn đồng ý với sự giáo huấn mà các hội viên đang nghiên cứu. Thông tin của ông Sinnett đến với ông từ các Đạo sư Phương Đông dưới dạng Á Đông, và để trả lời cho một loạt ít nhiều những câu hỏi ngẫu nhiên mà ông đã nêu ra; trong khi đó điều mà Tiến sĩ Kingsford giảng dạy thì bà biết từ sự hồi tưởng của chính mình về điều bà đã học được trong kiếp trước. Sự tương đồng về những điều cốt tủy thật đáng chú ý, nhưng hình thức về giáo huấn lại khác hẳn và mỗi hình thức lại có một tập hợp thuật ngữ riêng của nó tuyệt nhiên không luôn luôn thay thế lẫn cho nhau được. Thông thường thì trong những buổi họp của chúng tôi, ông Sinnett thuyết trình hoặc phát biểu, nhưng trước khi chúng tôi được phép thảo luận hoặc thắc mắc muốn có thêm thông tin nữa về những vấn đề nghi vấn thì Tiến sĩ Kingsford luôn luôn khăng khăng phát biểu lại toàn bộ vấn đề bằng những thuật ngữ của mình và theo quan điểm của mình. Đối với hầu hết chúng tôi thì phát biểu theo Á Đông dễ hiểu hơn nhiều so với phát biểu theo Hermes; và đối với những đầu óc đang háo hức của chúng tôi thì cái chuyện rắc rối không cần thiết này có vẻ không tha thứ được, vì vậy những biện luận dài dòng của Tiến sĩ Kingsford được tiếp thu với sự sốt ruột nào đấy. Không bằng lòng với việc phát biểu theo kiểu của riêng mình, thỉnh thoảng bà còn tiến gần một cách nguy hiểm tới việc đả kích cách trình bày của ông

Sinnett và thậm chí các Chơn sư là nguồn xuất phát ra cách đó. Ta dễ dàng hiểu được điều này có khuynh hướng khơi dậy sự công phẩn đáng kể trong tâm trí của hội viên. Có một dịp Chi bộ thông qua một nghị quyết lấy làm tiếc về cái thái độ được chọn dùng trong một tài liệu mà bà đã viết ra; toàn bộ vụ việc này tạo ra một xúc cảm không đáng mong muốn nhất và gây căng thẳng. Thậm chí chúng tôi đi xa đến mức cho xuất bản một tập sách trong đó phát biểu những trường hợp đối nghịch nhau và thậm chí Swami T. Subba Rao ở xa mãi tận bên Ấn Độ cũng tham gia vào việc tranh luận này. Tình hình ấy vẫn rành rành ra đó khi Đại tá Olcott và ông Mohini Mohun Chatterji từ Ấn Độ đến Luân Đôn và Chi bộ hầu như đã chia ra thành hai phe rất không đều, bởi vì những người duy nhất ủng hộ Tiến sĩ Kingsford chỉ có chú của bà là ông Maitland và một số người bạn riêng mà bà mang theo khi bà tham gia Chi bộ. Nếu chính bà Blavatsky mà bà ở đây với chúng tôi, thì có lẽ bà đã dàn xếp được cái cuộc tranh cãi bất tận này rồi; mặc dù bà đã rời Ấn Độ cùng với Đại tá Olcott, nhưng khi đến Paris bà lại bị đau nặng và thậm chí người ta giả định rằng tính mạng bà đang lâm nguy ghê gớm. Chẳng bao lâu sau chúng tôi đã đến lúc kết thúc năm tài chính và xuất hiện vấn đề bầu cử Chi trưởng cho 12 tháng kế tiếp. Tôi thiết tưởng hầu như người ta đồng lòng muốn Chi bộ này phải được bổ nhiệm người lãnh đạo thực sự nên là chính ông Sinnett; nhưng ông không sẵn lòng chấp nhận địa vị ấy, bởi vì trong một tập sách ông đã công khai phát biểu khá mạnh mẽ chống lại Tiến sĩ Kingsford và ông chẳng muốn đưa cái mối hiềm khích hầu như cá nhân này vào trong chính sách của Chi bộ. Khi đến đêm bầu cử thì ông Maitland đề nghị tái bổ nhiệm Tiến sĩ Kingsford, nhưng chỉ thấy có một hai hội viên ủng hộ điều này khiến cho Tiến sĩ Kingsford tỏ ra khó chịu mất tư cách. Thế rồi ông Sinnett đứng lên đề cử ông G. B. Finch, một luật sư biện hộ ở Nhà trọ Lincoln, thời đó là luật sư thầy cãi chính ở Cambridge. Vốn là một người có năng lực và tử tế, ông rất được lòng hội viên và quả thật là buổi họp ấy được tổ chức trong căn phòng dài thuộc dãy phòng ở nhà trọ Linclon của ông.

Ngay tức khắc ông được đa số áp đảo bầu cho, thế rồi chúng tôi bổ nhiệm ông Sinnett làm thư ký và tiến hành công việc buổi chiều. Tuy nhiên Tiến sĩ Kingsford hiển nhiên là rất bất bình với kết quả của việc bầu cử, cho nên bà liên tục ngắt lời càng ngày càng hung hăng hơn bao giờ hết. Ông Hội trưởng Sáng lập viên bản thân ngồi trên ghế Chủ tọa, nhưng có vẻ hoàn toàn chẳng biết làm sao để xử trí mệnh phụ này; thế là phiên họp cứ kéo dài lê thê một cách tẻ nhạt và vô ích. Như tôi có nói căn phòng dài và cánh cửa ra vào ở một bên nhưng ở phía gần đầu mút xa so với diễn đàn. Căn phòng chất đầy những băng ghế dài được thuê mướn tạm bợ để phục vụ cho buổi họp. Thế mà ngẫu nhiên là bạn tôi, ông Varley cùng với tôi lại đi trễ vài phút nên vào phòng ngay sau khi phiên họp đã bắt đầu. Vậy là chúng tôi chuồn vào một băng ghế dài còn trống ngay phía đối diện cửa ra vào và gần kề ngay sát chúng tôi chỉ có hai ba hội viên, mặc dù ở đầu mút phía trên của căn phòng ken đặc người. Đại tá Olcott và Mohini làm hết sức mình để rút ra được một điều gì đó có ý nghĩa và có ích từ một cuộc tranh luận gây rất nhiều mệt mỏi và chẳng có ích lợi gì hết. Tôi giả định rằng ở đầu bên kia của căn phòng chúng tôi cũng chẳng chú ý gì cho lắm tới phiên họp. Thình lình cửa ra vào phía đối diện chúng tôi mở toang ra và một bà đẩy đà mặc y phục màu đen nhanh chóng bước vào ngồi xuống đầu bên kia ghế dài của chúng tôi.

I Meet Our Founder— Tôi găp vị Sáng lập ra Hội chúng ta

She sat listening to the wrangling on the platform for a few minutes, and then began to exhibit distinct signs of impatience. As there seemed to be no improvement in sight, she then jumped up from her seat, shouted in a tone of military command the one word “Mohini!” and then walked straight out of the door into the passage. The stately and dignified Mohini came rushing down that long room at his highest speed, and as soon as he reached the passage threw himself incontinently flat on his face on the floor at the feet of the lady in black. Many people arose in confusion, not knowing what was happening; but a moment later Mr. Sinnett himself also came running to the door, went out and exchanged a few words, and then, re-entering the room, he stood up on the end of our bench and spoke in a ringing voice the fateful words: “Let me introduce to the London Lodge as a whole—Madame Blavatsky!”

The scene was indescribable; the members, wildly delighted and yet half-awed at the same time, clustered round our great Founder, some kissing her hand, several kneeling before her, and two or three weeping hysterically. After a few minutes, however, she shook them off impatiently, and was led up to the platform by Colonel Olcott, and after answering a few questions she demanded from him an explanation of the unsatisfactory character of the meeting upon which she had descended so abruptly. The Colonel and Mr. Sinnett explained as well as they could; but she summarily ordered them to close the meeting, and called upon the officials to meet her at once in conference. The members departed in a condition of wild excitement and the officials waited upon Madame Blavatsky in one of the adjacent living rooms.

Now, as I had been invited to spend the night at Mr. Sinnett’s, I, though a new and insignificant member, had to stay behind along with the greater people; and so it happened that I was a witness of the very remarkable scene which followed. Madame Blavatsky demanded a full account of the condition of the Lodge, and of the differences between Mr. Sinnett and Dr. Kingsford; and having received it, she proceeded to rate both of them exactly as if they had been a pair of naughty schoolboys, and finally actually made them both shake hands before us all as a token that their differences were amicably settled! Nevertheless, she ordered that Dr. Kingsford should form a Lodge of her own, in which doctrines could be discussed exclusively from her point of view. This order was carried out in a few days, the new branch taking the title of the Hermetic Lodge. So far as I remember, I do not think that it ever had more than a very small number of members, and I fancy that it soon faded into extinction.

Madame Blavatsky and Colonel Olcott both accompanied our party to Mr. Sinnett’s house, and stayed there until a late hour, Madame Blavatsky expressing vigorous condemnation of the inefficiency of the officials in not managing the meeting better. I was of course presented to her, and Mr. Sinnett took occasion to tell her of my letter to the spiritualistic journal Light on the subject of the spirit Ernest’s disavowal of our Masters. When she heard that little story she looked at me very searchingly and remarked:

“I don’t think much of the clergy, for I find most of them hypocritical, bigoted and stupid; but that was a brave action, and I thank you for it. You have made a good beginning; perhaps you may do something yet.”

You may be very sure that after that I missed no opportunity of attending any meeting at which she was present; and though I was far too shy to push myself forward and ask questions, I nevertheless listened eagerly to every word that fell from her lips, and I think that in that way I learnt a very great deal.

I wish I could convey to my readers some adequate conception of what she was to me and to all of us who were so highly favoured as to come into close touch with her—of the truly tremendous impression that she made upon us, of the deep affection and the intense enthusiasm which she evoked.

Only a few of us who knew her in her physical body are now left, and I think it is at once our duty and our privilege to try to pass on to our younger brethren at least a few ideas round which they can build their mental image of our great Founder, since their karma was not such as to permit them to see her in the flesh.

Bà ngồi lắng nghe cuộc cãi cọ trên diễn đàn trong vài phút, thế rồi bắt đầu rõ rệt tỏ vẻ là sốt ruột. Bởi vì dường như trước mắt chẳng có chuyện cải thiện nào, cho nên bà bèn nhảy bật ra khỏi ghế ngồi, hét lên bằng một giọng như người chỉ huy quân đội gọi một tiếng thôi “Mohini!”, thế rồi bà bước thẳng ra khỏi cửa ra vào đi qua hành lang. Mohini vốn uy nghiêm và đầy tư cách co giò chạy hết tốc lực xuống dọc căn phòng, rồi ngay khi tới chỗ hành lang bèn không kiềm chế được phủ phục dưới thềm ở ngay chân của mệnh phụ mặc y phục đen. Nhiều người đứng dậy nháo nhác chẳng biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng một lúc sau thì chính ông Sinnett cũng chạy xuống cửa ra vào, bước ra trao đổi một vài lời, thế rồi lại bước vào phòng. Ông đứng ngay đầu bên kia ghế dài chúng tôi và nói bằng một giọng rõ ràng những lời lẽ định mệnh: “Tôi xin giới thiệu với toàn thể Chi bộ Luân Đôn—đây là bà Blavatsky”. Phong cảnh thật là khôn tả, các hội viên bừng bừng vui vẻ, thế nhưng đồng thời cũng nễ sợ; bu quanh bà Sáng lập viên vĩ đại của chúng ta; một vài người hôn tay bà, nhiều người quì gối trước mặt bà, có hai ba người khóc sướt mướt như bị cơn cuồng thần kinh. Tuy nhiên chỉ sau vài phút, bà đã sốt ruột cáo biệt họ để rồi được Đại tá Olcott dẫn lên diễn đàn. Sau khi trả lời vài thắc mắc, bà đòi hỏi ông Olcott hãy giải thích cho bà về tính cách không thỏa đáng của phiên họp mà bà đã chiếu cố đến một cách bất ngờ như vậy. Đại tá Olcott và ông Sinnett ra sức giải thích, nhưng bà ra lệnh ngắn gọn cho họ kết thúc phiên họp, rồi triệu tập các chức sắc đến hội kiến bà ngay tức khắc. Các hội viên ra về trong tình trạng kích thích như điên dại, còn các chức sắc chờ đợi bà ở một trong những phòng khách kế cận. Thế mà vì tôi được mời ngủ lại đêm ở nhà ông Sinnett và mặc dù là một hội viên mới chưa quan trọng, tôi vẫn phải ở lại cùng với những người quan trọng hơn, vậy là ngẫu nhiên tôi được chứng kiến phong cách rất đáng chú ý tiếp sau. Bà Blavatsky yêu cầu có tường trình đầy đủ về tình trạng của Chi bộ, về những sự khác nhau giữa ông Sinnett và

Tiến sĩ Kingsford. Sau khi đã tiếp thu được vấn đề và tiến hành đánh giá cả hai người này y như thể đó là một cặp học trò hư đốn, rồi cuối cùng thực sự yêu cầu cả hai phải bắt tay nhau trước mặt chúng tôi như thể đó là dấu hiệu những sự khác nhau của họ đã được giải quyết trong tình thân hữu; song le bà ra lệnh là Tiến sĩ Kingsford nên tạo ra một Chi bộ của riêng mình, trong đó giáo lý có thể được bàn luận độc quyền theo quan điểm của riêng bà. Lệnh này được thi hành trong vòng vài ngày, và Chi bộ mới mang tên Chi bộ Hermes. Theo như tôi còn nhớ thì tôi thiết tưởng nó chưa bao giờ có nhiều hơn một số rất nhỏ hội viên, và tôi tưởng tượng rằng chẳng bao lâu nữa nó sẽ bốc hơi biến mất luôn. Bà Blavatsky và Đại tá Olcott đều đi kèm với nhóm chúng tôi về nhà ông Sinnett, rồi ở lại cho tới khuya, bà Blavatsky mạnh mẽ lên án sự không hữu hiệu của các quan chức không điều hành được phiên họp tốt hơn. Cố nhiên tôi được giới thiệu với bà và ông Sinnett nhân cơ hội đó kể cho bà nghe bức thư của tôi gửi Tạp chí thần linh học là Tạp chí Ánh sáng nói về đề tài vong linh Ernest phủ nhận các Chơn sư. Khi bà nghe cái chuyện lặt vặt ấy thì bà nhìn tôi với vẻ rất dò xét rồi nhận xét rằng: “Tôi không nghĩ gì nhiều tới giới tu sĩ, nhưng tôi thấy hầu hết họ đều đạo đức giả, ngu tín và ngu đần, nhưng đây là một hành động dũng cảm và tôi cám ơn bạn về điều đó. Bạn đã khởi đầu rất tốt, có lẽ bạn còn làm được một điều gì đó”. Các bạn có thể chắc mẩm rằng sau buổi ấy, tôi không bỏ lỡ một cơ hội nào để tham dự bất kỳ phiên họp nào mà bà có mặt, mặc dù tôi quá rụt rè để dấn tới và nêu thắc mắc, song le tôi vẫn háo hức lắng nghe mọi lời lẽ thốt ra từ miệng bà và tôi thiết tưởng rằng bằng cách ấy tôi đã học được rất nhiều điều. Ước gì tôi có thể truyền đạt cho các bạn đọc quan niệm thỏa đáng nào đó xem bà là gì đối với tôi và đối với tất cả chúng ta vốn có được đặc ân là tiếp xúc mật thiết với bà—ấn tượng quả thật là ghê gớm mà bà đã tác động lên chúng ta, khơi dậy lòng thương yêu sâu sắc và sự phấn khởi nhiệt thành của chúng ta. Chỉ một vài người có biết bà bằng xương bằng thịt giờ đây còn sống, và tôi thiết tưởng chúng ta có bổn phận và đặc quyền ngay tức khắc cố gắng trao truyền cho các huynh đệ non trẻ hơn ít ra là một vài ý tưởng để cho họ có thể kiến tạo xung quanh đó hình ảnh trong tâm trí của mình về bà Sáng lập viên vĩ đại, bởi vì nghiệp quả của họ không cho phép họ thấy bà bằng xương bằng thịt.

Leave a Comment

Scroll to Top