Chương 1 – Ở Hi Lạp Cổ Đại

[lwptoc]

I. CHƯƠNG 1

In Ancient Greece—Ở Hi Lạp Cổ Đại

My first touch with anything that could definitely be called Theosophy was in the year 504 b.c., when I had the wonderful honour and pleasure of visiting the great philosopher Pythagoras. I had taken birth in one of the families of the Eupatridæ at Athens—a family in fairly good circumstances and offering favourable opportunities for progress. This visit was the most important event in my youth, and it came about in this manner. A relation of mine offered to take me, along with a brother a year or two younger, for a voyage in a ship of which he was part owner. It was a trading voyage among the Greek islands and over to the Asiatic shore, and with the leisurely methods of those days it occupied nearly a year, during which we visited many places and saw not only much beautiful scenery but many marvellous temples adorned with exquisite sculpture.

Among other islands we called at Samos, and it was there that we found the great Pythagoras, who was then a man of advanced age and very near his death. Some historians have thought that this sage perished when his school at Krotona was wrecked by popular prejudice; others, recognizing that he survived that catastrophe, believe that he died much later at Metapontum. Neither of these ideas seems to be correct; when very old, he left his schools in Magna Græcia, and returned to his patrimony in Samos to end his days where he had begun them, and so it happened that we had this very great privilege of seeing him in the course of our voyage.

His principal disciple at that time was Kleineas (now the Master Djwal Kul); and Kleineas was exceedingly kind to us, and patiently answered all our eager questions, explaining to us the system of the Pythagorean philosophy. We were at once most strongly attracted towards the teaching expounded to us, and were anxious to join the school. Kleineas told us that a branch of it would presently be opened in Athens; and meantime he gave us much instruction in ethics, in the doctrine of reincarnation and the mystery of numbers. All too soon our vessel was ready for sea (it had fortunately required refitting) and we had regretfully to take leave of Pythagoras and Kleineas. To our great and awed delight, when we called to bid him adieu, the aged philosopher blessed us and said with marked emphasis: “πάλιν συναντήσομεθα—we shall meet again.” Within a year or two we heard of his death, and so we often wondered in what sense he could have meant those words; but when in this present incarnation I had for the first time the privilege of meeting the Master Kuthumi, He recalled to my memory that scene of long ago, and said: “Did I not tell you that we should meet again?”

Soon after the death of Pythagoras, Kleineas fulfilled his promise to come and establish a school of the philosophy in Athens, and naturally my brother and I were among his first pupils. Large numbers were attracted by his teaching, and the philosophy took a very high place in the thought of the time. Except for what was actually necessary for the management of the family estate, I devoted practically the whole of my time to the study and teaching of this philosophy, and indeed succeeded to the position of Kleineas when he passed away.

Lần đầu tiên tôi tiếp xúc với điều gì đó có thể dứt khoát được gọi là Thông Thiên Học vào năm 504 trước Công Nguyên, khi tôi có vinh dự và thích thú kỳ lạ đến viếng thăm triết gia vĩ đại Pythagore. Tôi sinh ra ở một trong những gia đình Eupatridæ tại Athens—một gia đình có hoàn cảnh rất thuận lợi và hiến ra những cơ hội thuận tiện để tiến bộ. Cuộc viếng thăm này là diễn biến quan trọng nhất vào thời tôi còn trai trẻ và nó xảy ra như sau. Một quyến thuộc của tôi đề nghị dắt tôi cùng với một đứa em nhỏ hơn một hai tuổi đi du hành trên một chuyến tàu mà ông ta là một thành viên sở hữu. Đó là chuyến du hành đi buôn bán trong số các đảo của Hi Lạp qua tới tận bờ biển Á Châu và với những phương pháp an nhàn thời đó thì nó phải mất tới gần một năm, trong thời gian ấy chúng tôi viếng thăm nhiều nơi, thưởng ngoạn chẳng những nhiều phong cảnh đẹp đẽ mà còn nhiều đền thờ lộng lẫy được trang hoàng với đồ kiến trúc tuyệt vời.

Trong số những đảo khác mà chúng tôi gọi là Samos thì ở đó chúng tôi thấy triết gia Pythagore vĩ đại, lúc bấy giờ là người cao tuổi và rất gần đất xa trời. Một số sử gia nghĩ rằng bậc hiền triết này chết khi trường Krotona của ông bị thành kiến của dân chúng phá hoại; còn những người khác công nhận rằng ông sống sót sau thảm họa này và tin rằng mãi về sau ông mới chết ở Metapontum. Chẳng có ý tưởng nào có vẻ là chính xác; khi quá già ông rời bỏ trường ở Magna Græcia rồi quay về quê hương bản quán ở Samos để chấm dứt cuộc đời nơi ông đã sinh ra, thế là xảy ra việc chúng tôi có rất nhiều đặc quyền khi gặp ông trong cuộc hành trình của mình.

Lúc bấy giờ đệ tử chính của ông là Kleineas (giờ đây là Chơn sư Djwal Kul); Kleineas vô cùng tử tế đối với chúng tôi, kiên nhẫn trả lời mọi thắc mắc tha thiết của chúng tôi, giải thích cho chúng tôi hệ thống triết học của Pythagore. Chúng tôi ngay tức khắc bị thu hút mạnh mẽ nhất hướng tới giáo huấn được xiển dương và nôn nóng muốn được gia nhập trường. Kleineas bảo chúng tôi rằng một chi nhánh của trường chẳng bao lâu nữa sẽ khai trương ở Athens; trong thời gian chờ đợi ông giáo huấn chúng tôi khá nhiều về luân lý, về thuyết luân hồi và bí nhiệm của những con số. Chẳng bao lâu sau thì tàu bè của chúng tôi đã sẵn sàng vượt biển (may mắn thay nó cần phải sửa chữa) và chúng tôi tiếc nuối cáo từ Pythagore và Kleineas. Chúng tôi hết sức vui sướng và nễ sợ khi được triệu tập từ biệt ông; triết gia già nua ban phước cho chúng tôi và nói một cách rất nhấn mạnh: “Chúng ta sẽ gặp lại nhau”. Chỉ trong vòng một hai năm sau chúng tôi nghe tin ông đã chết, thế là chúng tôi thường thắc mắc liệu ông nói như vậy ngụ ý là gì, nhưng trong kiếp này khi lần đầu tiên tôi có đặc quyền được gặp Chơn sư Kuthumi thì Ngài gợi cho ký ức của tôi nhớ lại cái cảnh tượng đã lâu rồi đó và bảo rằng: “Chẳng phải ta đã cho con biết chúng ta sẽ gặp lại nhau hay sao?”

Ngay sau khi Pythgore chết, Kleineas đã hoàn thành lời hứa là đến lập nên một trường triết học ở Athens và tự nhiên là tôi cùng với em tôi ở trong số những học trò đầu tiên của ông. Một số lớn học trò bị cuốn hút bởi giáo huấn của ông, và triết lý này chiếm một địa vị rất cao trong tư tưởng đương thời. Ngoại trừ điều thực sự cần thiết để quản lý bất động sản của gia đình, tôi hầu như dành hết trọn thời giờ của mình để nghiên cứu và giảng dạy triết lý ấy, và quả thật đã kế nghiệp khi ông Kleineas qua đời.

My Early Attitude— Thái độ buổi đầu của tôi

It may have been owing to this exclusive devotion to this higher thought that I had a very unusually long period in the heaven-world—just over 2,300 years. To what extent that fact affected my present life I cannot say; but I arrived in this incarnation without any definite memory of all that I had learnt at the cost of so much time and trouble. In my early life I knew nothing whatever of these matters, but in looking back now upon that period, I can see that I found myself in possession of a set of convictions which I had evidently brought over from that other life.

The middle of last century was a time of widespread materialism, of disbelief or at least uncertainty as to religious matters, and scornful denial of the possibility of any kind of non-physical manifestation. Even as a child I was aware that men were arguing hotly as to the existence of God and the possibility that there might be something in man which survives death; but when I heard such discussions I wondered silently how people could be so foolish, for I myself had an unshakable interior certainty on these points, though I could not argue in defence of my belief, or indeed bring forth any reason to support it.

But I knew that there was a God, that He was good, and that death was not the end of life. Even at that age I was able to deduce from these certainties that all must somehow be well, although so often things appeared to be going ill. I remember well how horrified I was (and I am afraid very angry as well) when a small playfellow introduced to my notice the theory of hell. I promptly contradicted him, but he insisted that it must be true because his father had said so. I went home in great indignation to consult my own father on this incredible abomination; but he only smiled tolerantly and said: “Well, my boy, I don’t for a moment believe it myself, but a great many people think so, and it is no use trying to convince them; you will just have to put up with it.” So by degrees I learnt that one’s own interior conviction, however strong, was ineffective as an argument against orthodox opinion.

One other curious little fragment of half-recollection I seem to have brought over from that Greek incarnation. As a child I used frequently to dream of a certain house, quite unlike any with which I was at that time familiar on the physical plane, for it was built round a central courtyard (with fountains and statues and shrubs) into which all the rooms looked. I used to dream of this perhaps three times a week, and I knew every room of it and all the people who lived in it; I used constantly to describe it to my mother, and to make ground-plans of it. We called it my dream-house. As I grew older I dreamt of it less and less frequently, until at last it faded from my memory altogether. But one day, much later in life, to illustrate some point my Master showed me a picture of the house in which I had lived in my last incarnation, and I recognized it immediately.

Although, as I have already said, I had the most absolute interior conviction with regard to the life after death, I soon came to recognize that in discussing the matter with others it would be an immense advantage to have something of the nature of physical-plane evidence to produce. It occurred to me that such evidence ought to be discoverable if one were disposed to give a certain amount of time and trouble to searching for it. I remembered when I was quite a boy coming across a copy of Mrs. Crowe’s Night Side of Nature, which I read with the greatest interest; and it seemed to me that if I could have the opportunity of investigating at first hand cases similar to those which she described I should surely in process of time be able to arrive at something definite which I could quote in answer to inquiries.

Có thể do dành độc quyền cho tư tưởng cao siêu này, nên tôi đã có một thời kỳ dài rất bất thường ở cõi trời tới hơn 2.300 năm. Tôi không thể nói sự kiện đó ảnh hưởng tới kiếp này của tôi đến mức nào, nhưng tôi nhập thể kiếp này mà dứt khoát không nhớ gì về tất cả những điều tôi đã học được qua việc trả giá biết bao nhiêu thời gian và công sức. Trong thời thơ ấu, tôi thật tuyệt nhiên chẳng biết gì về những đề tài này, nhưng giờ đây khi nhìn lại thời kỳ đó tôi có thể thấy rằng bản thân tôi có một loạt những niềm xác tín mà hiển nhiên là tôi đã mang theo từ kiếp trước.

Vào khoảng giữa thế kỷ vừa qua, đó là một thời kỳ duy vật phổ biến, không tin tưởng hoặc ít ra cũng không chắc chắn về những vấn đề tôn giáo, khinh bỉ chối bỏ khả năng có bất kỳ loại biểu lộ phi vật lý nào. Ngay cả khi còn tấm bé tôi đã biết rằng người ta tranh cãi kịch liệt với nhau về sự tồn tại của Thượng Đế và khả năng có thể có một điều gì đó nơi con người còn sống sót sau khi chết. Nhưng khi tôi nghe người ta tranh luận như vậy, tôi âm thầm tự hỏi làm sao mà thiên hạ lại có thể điên rồ đến như thế, bởi vì bản thân tôi có một niềm xác tín nội tâm không lay chuyển về những vấn đề này, mặc dù tôi không thể cãi lý để bảo vệ đức tin của mình hay quả thật đưa ra được bất cứ lý lẽ nào để hậu thuẫn cho nó.

Nhưng tôi biết rằng có Thượng Đế, Ngài rất nhân từ và sự chết không phải là hết. Ngay cả từ tuổi đó, tôi đã có thể suy diễn ra từ những niềm xác tín này rằng dù sao đi nữa mọi chuyện phải tốt, mặc dù rất thường khi thì sự việc đang xấu đi. Tôi còn nhớ rất rõ tôi đã khiếp đảm xiết bao (và tôi e rằng mình cũng hết sức giận dữ) khi một đứa trẻ bạn chơi đùa của tôi giới thiệu với tôi để ý tới thuyết địa ngục. Tôi mau mắn cãi lại nó, nhưng nó cứ khăng khăng cho rằng điều này ắt phải đúng vì cha nó bảo như vậy. Tôi về nhà mà rất công phẩn, hỏi ý kiến chính cha tôi về cái điều dễ sợ không thể tin được này; nhưng ông chỉ mỉm cười khoan dung và bảo rằng: “Được thôi con ơi, bản thân ta cũng chẳng lúc nào tin vào điều đó, nhưng có nhiều người nghĩ như vậy và chẳng hơi đâu ra sức thuyết phục họ; con phải chịu đựng điều đó thôi”. Thế là từng bước tôi học biết được rằng cho dù mạnh mẽ đến đâu đi chăng nữa, niềm xác tín nội tâm của chính mình cũng bất lực để tranh cãi lại ý kiến chính thống.

Một mẩu nhỏ kỳ diệu khác về việc hồi tưởng lại một phần mà tôi dường như đã mang theo từ cái kiếp trước ở Hy Lạp. Khi còn nhỏ tôi thường nằm mơ thấy một căn nhà nào đó, hoàn toàn không giống như bất kỳ căn nhà nào mà tôi quen thuộc vào lúc ấy trên cõi vật lý, bởi vì nó được xây dựng xung quanh một vườn trung tâm (có những vòi nước, pho tượng và bụi cây) còn mọi căn phòng đều nhìn ra vườn. Có lẽ tôi thường nằm mơ thấy nó một tuần hết ba lần và tôi biết mọi căn phòng trong đó cũng như mọi người sống ở đó. Tôi thường xuyên mô tả điều này cho mẹ tôi và còn vẽ ra họa đồ về nó nữa. Chúng tôi gọi nó là căn nhà mơ ước của tôi. Khi tôi lớn lên thì càng ngày tôi càng ít nằm mơ thấy nó, cho đến khi cuối cùng nó hoàn toàn mờ nhạt đi khỏi ký ức của tôi.

Nhưng có một ngày mãi về sau này để minh họa cho một điều gì đó, Sư phụ của tôi chỉ cho tôi một bức hình căn nhà mà tôi đã sống ở đó trong kiếp trước và tôi ngay tức khắc nhận ra được nó. Mặc dù như tôi có nói, tôi có niềm xác tín nội tâm hoàn toàn về sinh hoạt sau khi chết, chẳng bao lâu sau tôi đã nhận ra rằng muốn tranh luận vấn đề này với những người khác thì ắt có lợi thế rất nhiều nếu ta có được một điều gì đó về bản chất của những bằng chứng trên cõi vật lý mà ta tạo ra được. Tôi thấy rằng bằng chứng đó có thể tìm ra được nếu ta sẵn lòng dành một số lượng thời gian và công sức nào đấy để đi tìm nó. Tôi còn nhớ khi tôi rất nhỏ, tôi có đọc qua một bản sao tác phẩm Khía cạnh U minh của Thiên nhiên của bà Crove và tôi đọc một cách rất hứng thú; tôi thấy có vẻ là nếu tôi có cơ hội khảo cứu trực tiếp những trường hợp giống như trường hợp mà bà mô tả thì chắc chắn là theo thời gian tôi có thể đạt tới một điều gì đó xác định mà tôi có thể trích dẫn để đáp ứng được những thắc mắc.

Personal Investigations—Những Cuộc Khảo cứu Cá Nhân

Occasionally there would appear in some newspaper an account of the appearance of a ghost, or of curious happenings in a haunted house; and whenever anything of that sort came to my notice, I promptly travelled down to the scene of action, interrogated any witnesses that I could find, and spent a good deal of time and trouble in endeavouring personally to encounter the spectral visitant. Of course in a large number of instances I drew a blank; either there was no evidence worth mentioning, or the ghost declined to appear when he was wanted. Even when there was a witness to be found who had a reasonably credible story to tell, it seemed that the ghost did not stay long enough to say or do anything of special interest; or, perhaps, it was the witness who did not stay long enough!

Still, among the wearisome monotony of many failures there came sometimes a bright oasis of definite success, and I presently collected an amount of direct evidence which would have absolutely convinced me, if I had needed convincing. At the same time I also investigated a number of cases of what is called “second sight”, chiefly in the Highlands; and there again I found that it was easy for any unprejudiced person who was willing to take a little trouble to satisfy himself as to the genuineness of the phenomena.

Thỉnh thoảng trong một tờ báo nào đó có ra mắt một bài tường trình về ma xuất hiện hoặc những diễn biến kỳ lạ trong một căn nhà bị ma ám và bất cứ khi nào tôi chú ý tới một điều gì đó thuộc loại này tôi bèn nhanh chóng đi tới nơi tác động, phỏng vấn bất cứ nhân chứng nào mà tôi tìm thấy được, và dành nhiều thời gian công sức để cố gắng tự thân mình gặp gỡ con ma hiện ra đó. Dĩ nhiên phần lớn cơ hội thì tôi đều trắng tay hoặc là không có bằng chứng nào có giá trị hoặc là con ma từ chối không xuất hiện theo ý ta muốn. Ngay cả khi có nhân chứng mà tôi thấy một câu chuyện đáng tin cậy một cách phải chăng để y kể lại thì dường như con ma không ở lại đủ lâu để nói hoặc làm điều gì đó đặc biệt đáng chú ý; hay có lẽ chính nhân chứng cũng không ở lại đủ lâu chỗ ấy.

Thế nhưng trong cái sự tẻ nhạt đáng chán của nhiều sự thất bại đó, thỉnh thoảng cũng có một ốc đảo sáng ngời dứt khoát là thành công, và chẳng bao lâu sau tôi thu thập được một số bằng chứng trực tiếp hoàn toàn thuyết phục được mình nếu tôi cần thuyết phục. Đồng thời tôi cũng khảo cứu một số trường hợp được gọi là”thấu thị”, chủ yếu của đám dân miền sơn cước; và ở đó tôi cũng lại thấy rằng rất dễ cho bất cứ người nào không có thành kiến mà sẵn lòng bỏ chút ít công sức thì sẽ thỏa mãn về tính chân thực của những hiện tượng lạ.

Spiritualism—Thần Linh Học

Unfortunately I was at that time quite ignorant that there was another line of possible inquiry—that of spiritualism. The first time that, so far as I can recollect, I ever heard of such a thing was in connection with the séances held by Mr. D. D. Home with the Emperor Napoleon III. A series of articles describing them was written by the Rev. Maurice Davies in The Daily Telegraph; but the statements which he made seemed to me at that time quite incredible, and when reading one of the articles aloud to my mother one evening I expressed strong doubts as to whether the description could possibly be accurate.

The article ended, however, with the remark that anyone who felt unable to credit the story might readily convince himself of its possibility by bringing together a few of his friends, and inducing them to sit quietly round a small table, either in darkness or in dim light, with the palms of their hands resting lightly upon the surface of the table. It was stated that a still easier plan was to place an ordinary silk hat upon the table, brim upwards, and let two or three people rest their hands lightly upon the brim. It was asserted that the hat or table would presently begin to turn, and in this way the existence of a force not under the control of anyone present would be demonstrated.

This sounded fairly simple, and my mother suggested that, as it was just growing dusk and the time seemed appropriate, we should make the experiment forthwith. Accordingly I took a small round table with a central leg, the normal vocation of which was to support a flower-pot containing a great arum lily. I brought in my own silk hat from the stand in the hall, and placed it on the table, and we put our hands upon its brim as prescribed. The only person present besides my mother and myself was a small boy of twelve, who, as we afterwards discovered, was a powerful physical medium but I knew nothing about mediums then. I do not think that any of us expected any result whatever, and I know that I was immensely surprised when the hat gave a gentle but decided half-turn on the polished surface of the table.

Each of us thought the other must have moved it unconsciously, but it soon settled that question for us, for it twirled and gyrated so vigorously that it was difficult for us to keep our hands upon it. At my suggestion we raised our hands; the hat came up under them, as though attached to them, and remained suspended a couple of inches from the table for a few moments before falling back upon it. This new development astonished me still more, and I endeavoured to obtain the same result again. For a few minutes the hat declined to respond, but when at last it did come up as before, it brought the table with it! Here was my own familiar silk hat, which I had never before suspected of any occult qualities, suspending itself mysteriously in the air from the tips of our fingers, and, not content with that defiance of the laws of gravity on its own account, attaching a table to its crown and lifting that also! I looked down to the feet of the table; they were about six inches from the carpet, and no human foot was touching them or near them! I passed my own foot underneath, but there was certainly nothing there—nothing physically perceptible, at any rate.

Of course when the hat first moved it had crossed my mind that the small boy must somehow be playing a trick upon us; but in the first place he obviously was not doing so, and in the second he could not possibly have produced this result unobserved. After about two minutes the table dropped away from the hat, and almost immediately the latter fell back to its companion, but the experiment was repeated several times at intervals of a few minutes. Then the table began to rock violently, and threw the hat off—a plain hint to us, if any of us had known enough to take it. But none of us had any idea of what to do next, though we were keenly interested in these extraordinary movements. I was not myself thinking of the phenomenon in the least as a manifestation from the dead, but only as the discovery of some strange new force.

This rather frivolous beginning led me to make further inquiries, and I soon found that there was a considerable literature devoted to this subject, and that I might carry my investigations much further by séances with regular mediums. Of course I encountered a certain amount of fraud, and still more stupidity, but I was presently able to satisfy myself beyond all doubt that some at least of the manifestations were due to the action, of those whom we call the dead.

There is practically ho phenomenon of which I read in spiritualistic books, or hear in spiritualistic circles, which I have not myself witnessed under definite test conditions. Any reader who wishes for a fuller account of my investigations and their result will find it in my book The Other Side of Death, or in that small part of the same book which is published separately under the title of Spiritualism and Theosophy.

I have related in considerable detail some of these events of my early life in order to make clear to my readers the attitude of mind in which I was when Theosophy eventually came before me, which I think explains the way in which I instantaneously reacted to it. I ought perhaps just to mention one other incident of my pre-Theosophy life which, insignificant though it was in itself, predisposed me to the acceptance of much that I might otherwise have doubted.

Tiếc thay vào thời kỳ đó tôi hoàn toàn không biết có một đường lối điều tra khả hữu khác—đó là thần linh học. Theo như tôi còn nhớ được thì lần đầu tiên tôi nghe nói chuyện như vậy có liên quan tới những buổi lên đồng do ông D. D. Home thực hiện với Hoàng đế Napoleon Đệ Tam. Một loạt những bài báo mô tả hiện tượng này được Đại đức Maurice Davies viết cho tờ báo Điện tín Hàng ngày; nhưng những phát biểu mà ông đưa ra vào lúc đó dường như không thể tin được đối với tôi và khi đọc to một trong những bài báo đó cho mẹ tôi nghe vào một buổi chiều tối, tôi phát biểu ý kiến rất nghi ngờ liệu sự mô tả như vậy có thể chính xác hay chăng.

Tuy nhiên bài báo chấm dứt bằng nhận xét rằng, bất cứ ai cảm thấy không thể tin được câu chuyện này có thể dễ dàng tự thuyết phục mình về khả năng đó bằng cách tụ tập một đám bạn lại rồi dẫn dụ họ ngồi im quanh một cái bàn nhỏ hoặc là trong bóng tối hoặc là trong ánh sáng lờ mờ, lòng bàn tay dựa nhẹ trên mặt bàn. Người ta còn bảo rằng có một kế hoạch dễ hơn nữa là đặt trên bàn một cái nón thông thường làm bằng lụa, vành nón ngữa lên trên, rồi để cho hai ba người đặt nhẹ bàn tay lên trên vành nón. Người ta quả quyết rằng cái nón hoặc cái bàn chẳng bao lâu sau sẽ bắt đầu quay và bằng cách đó chứng minh được sự tồn tại của một lực không chịu sự kiểm soát của bất cứ người nào có mặt.

Điều này nghe ra rất đơn giản cho nên mẹ tôi gợi ý rằng vì trời vừa chập tối và thời gian này có vẻ thích hợp, chúng tôi nên làm thí nghiệm ngay. Theo lời bà, tôi lấy một cái bàn nhỏ hình tròn, có một cái chân bàn ở giữa mà công dụng thông thường của nó là để đỡ một bình hoa có cắm một cây hoa huệ tây lớn. Tôi mang vào đó một cái nón bằng lụa của chính mình lấy từ trên cái kệ trong phòng rồi đặt nó lên trên bàn, và chúng tôi đặt tay lên trên vành nón theo như qui định. Ngoài mẹ tôi và chính tôi ra, người duy nhất có mặt là một bé trai 12 tuổi mà sau này chúng tôi mới phát hiện đó là một đồng tử có khả năng rất nhiều, nhưng lúc bấy giờ tôi chẳng biết gì về đồng tử. Tôi chẳng nghĩ rằng bất cứ ai trong chúng tôi trông mong có một kết quả nào nữa và tôi biết rằng mình vô cùng kinh ngạc khi cái nón quay một cách dứt khoát nhưng nhẹ nhàng trên bề mặt nhẵn bóng của cái bàn.

Mỗi người trong chúng tôi đều nghĩ rằng người kia chắc hẳn đã vô thức di chuyển nó, nhưng chẳng bao lâu sau điều đó đã tự giải đáp cho chúng tôi, vì chiếc mũ xoay tròn và chuyển động mạnh mẽ đến mức chúng tôi khó mà giữ tay trên nó. Theo đề nghị của tôi, chúng tôi nhấc tay lên; chiếc mũ trồi lên dưới tay chúng tôi, như thể dính vào đó, và lơ lửng cách mặt bàn vài inch trong vài khoảnh khắc trước khi rơi trở lại. Sự phát triển mới này khiến tôi càng ngạc nhiên hơn, và tôi cố gắng đạt được kết quả tương tự một lần nữa. Trong vài phút, chiếc mũ từ chối phản ứng, nhưng cuối cùng khi nó trồi lên như trước, nó kéo cả bàn lên cùng! Đây là chiếc mũ lụa quen thuộc của tôi, thứ mà trước đây tôi chưa bao giờ nghi ngờ có bất kỳ đặc tính huyền bí nào, giờ lại tự lơ lửng một cách bí ẩn trong không khí từ đầu ngón tay của chúng tôi, và không chỉ thách thức các định luật trọng lực theo cách của nó, mà còn gắn cả cái bàn vào và nâng nó lên! Tôi nhìn xuống chân bàn; chúng cách mặt thảm khoảng sáu inch, và không có bàn chân nào của con người chạm vào hoặc ở gần đó! Tôi đưa chân mình qua dưới nó, nhưng chắc chắn là không có gì ở đó—ít nhất là không có gì có thể cảm nhận được bằng thể chất.

Tất nhiên, khi chiếc mũ lần đầu tiên di chuyển, trong đầu tôi đã thoáng qua suy nghĩ rằng cậu bé nhỏ có thể đang chơi khăm chúng tôi bằng cách nào đó; nhưng trước hết, rõ ràng cậu bé không làm vậy, và thứ hai, cậu không thể nào tạo ra kết quả này mà không bị phát hiện. Sau khoảng hai phút, chiếc bàn rời khỏi chiếc mũ, và gần như ngay lập tức, chiếc mũ rơi trở lại lên bàn. Tuy nhiên, thí nghiệm đã được lặp lại nhiều lần, mỗi lần cách nhau vài phút. Sau đó, chiếc bàn bắt đầu rung lắc dữ dội và hất chiếc mũ ra—một dấu hiệu rõ ràng cho chúng tôi, nếu như có ai trong chúng tôi hiểu đủ để nhận ra. Nhưng không ai trong chúng tôi biết phải làm gì tiếp theo, dù chúng tôi rất quan tâm đến những chuyển động phi thường này. Cá nhân tôi không nghĩ đến hiện tượng này như một sự biểu hiện từ người chết, mà chỉ là khám phá một loại lực mới kỳ lạ nào đó.

Sự khởi đầu có phần hời hợt này đã dẫn tôi đến việc tìm hiểu thêm, và chẳng bao lâu tôi phát hiện ra rằng có một lượng lớn tài liệu được dành riêng cho chủ đề này, và rằng tôi có thể tiến xa hơn trong các cuộc điều tra của mình bằng cách tham gia các buổi cầu hồn với những đồng tử chuyên nghiệp. Tất nhiên, tôi đã gặp phải một số trò gian lận, và thậm chí còn nhiều sự ngu ngốc hơn, nhưng chẳng bao lâu sau tôi đã có thể tự thỏa mãn bản thân mình, không chút nghi ngờ, rằng ít nhất một số hiện tượng này là do hành động của những người mà chúng ta gọi là người chết gây ra.

Hầu như không có một hiện tượng nào mà tôi từng đọc thấy trong sách vở thần linh học hoặc nghe thấy trong giới thần linh học mà bản thân tôi không chứng kiến trong những điều kiện dứt khoát là trắc nghiệm. Bất cứ bạn đọc nào muốn có một bài tường trình đầy đủ hơn về công trình khảo cứu của tôi cùng với những kết quả của nó ắt tìm thấy điều đó trong quyển sách Bên Kia Của Tử của tôi hoặc trong một phần nhỏ của quyển sách này được xuất bản riêng rẽ với tựa đề Thần linh học và Thông Thiên Học.

Tôi đã tường thuật khá tỉ mỉ một số diễn biến trong khi tôi còn trẻ để xác minh cho bạn đọc cái thái độ tâm trí đó của tôi khi Thông Thiên Học cuối cùng đến với tôi mà tôi thiết tưởng rằng nó giải thích được cái cách thức mà ngay tức khắc tôi phản ứng với Thông Thiên Học. Có lẽ tôi nên đề cập tới một diễn biến khác nữa trong sinh hoạt tiềnThông Thiên Học của tôi; mặc dù diễn biến này tự thân nó không quan trọng nhưng nó tiền định tôi chấp nhận nhiều điều mà bằng không tôi có thể nghi ngờ.

A Story of Madame Blavatsky— Một câu chuyện kể về bà Blavatsky

The very first news that I ever heard of our great Founder, Madame Blavatsky, was curious and characteristic, and the hearing of it was a most important event in my life, though I did not know it then. A staunch friend of my school-days took up the sea-life as his profession, and about the year 1879 he was second officer on board one of the coasting vessels of the British India Steam Navigation Co. On her voyage from Bombay to Colombo Madame Blavatsky happened to travel by that steamer, and thus my friend was brought into contact with that marvellous personality.

He told me two very curious stories about her. It seems that one evening he was on the bridge trying vainly to light a pipe in a high wind. Being on duty he could not leave the bridge, so he struck match after match only to see the flame instantly extinguished by the gale. Finally, with an expression of impatience, he abandoned the attempt. As he straightened himself he saw just below him a dark form closely wrapped in a cloak, and Madame Blavatsky’s clear voice called to him:

“Cannot you light it, then?”

“No,” he replied, “I do not believe that anyone could keep a match alight in such a wind as this.”

“Try once more,” said Madame Blavatsky.

He laughed, but he struck another match, and he assures me that, in the midst of that gale and quite unprotected from it, that match burnt with a steady flame clear down to the fingers that held it. He was so astounded that he quite forgot to light his pipe after all, but H. P. B. only laughed and turned away.

On another occasion during the voyage the first officer made, in Madame Blavatsky’s presence, some casual reference to what he would do on the return voyage from Calcutta. (The steamers used to go round the coast from Bombay to Calcutta and back again.) She interrupted him, saying:

“No, you will not do that, for you will not make the return voyage at all. When you reach Calcutta you will be appointed captain of another steamer, and you will go in quite a different direction.”

“Madame,” said the first officer, “I wish with all my heart you might be right, but it is impossible. It is true I hold a master’s certificate, but there are many before me on the list for promotion. Besides, I have signed an agreement to serve on the coasting run for five years.”

“All that does not matter”, replied Madame Blavatsky; “you will find it will happen as I tell you.”

And it did; for when that steamer reached Calcutta it was found that an unexpected vacancy had occurred (I think through the sudden death of a captain), and there was no one at hand who could fill it but that same first officer. So the prophecy which had seemed so impossible was literally fulfilled.

Years afterwards, when I was on my way from Java to India with Mr. van Manen, I travelled on a steamer the captain of which was that very same man who had been the first officer of my friend’s story, and he told us the tale from his point of view, exactly corroborating the original version.

These were points of no great importance in themselves, but they implied a good deal, and their influence on me was in an indirect manner considerable. For in less than a year after that conversation Mr. A. P. Sinnett’s book The Occult World fell into my hands, and as soon as I saw Madame Blavatsky’s name mentioned in it I at once recalled the stories related to me by my friend. Naturally the strong first-hand evidence which I had already had of her phenomenal powers predisposed me to admit the possibility of these other strange new things of which Mr. Sinnett wrote, and thus those two little stories played no unimportant part in my life, since they prepared me for the instant and eager acceptance of Theosophical truths.

Chính cái tin tức đầu tiên mà tôi đã từng nghe nói tới vị sáng lập vĩ đại của chúng ta, bà Blavatsky, đó là tin kỳ diệu và đặc trưng mà việc nghe tới nó là một diễn biến quan trọng nhất trong đời tôi, mặc dù lúc bấy giờ tôi chưa biết. Một người bạn lực lưỡng thời tôi còn đi học, lấy nghề đi biển làm chuyên nghiệp và vào khoảng năm 1879, y là thuyền phó trên một chiếc tàu duyên hải thuộc Công ty Hàng hải Tàu thủy Anh Ấn. Trong chuyến du hành từ Bombay tới Colombo, bà Blavatsky ngẫu nhiên đi trên tàu thủy ấy, thế là bạn tôi được tiếp xúc với nhân cách kỳ diệu này.

Y kể cho tôi hai câu chuyện rất lý thú về bà. Dường như có một buổi chiều tối, y ở trên cầu tàu cố gắng vô vọng để châm lửa cho một tẩu thuốc trong cơn gió lộng. Vì đang trực nên y không thể rời cầu tàu, do đó y quẹt hết que diêm này tới que diêm khác để rồi chỉ thấy ngọn lửa ngay tức khắc tắt phụt trước cơn gió lốc. Cuối cùng với biểu lộ sốt ruột y từ bỏ toan tính ấy. Khi đứng thẳng người lên thì y thấy ngay phía dưới mình có một hình tướng đen đúa được quấn chặt trong một chiếc áo khoác và bà Blavatsky cao giọng gọi y:

“Vậy là ông không thể châm lửa được phải không?

Y trả lời: “Không, Tôi chẳng tin rằng có bất cứ ai giữ cho que diêm vẫn cháy lửa dưới cơn gió như thế này”.

Bà Blavatsky bảo: “Cứ thử một lần nữa xem sao ?”

Y cười phá lên, nhưng lại quẹt một que diêm khác và y đoan chắc với tôi rằng giữa cơn gió lốc mà không được che chở, que diêm bốc cháy với một ngọn lửa ổn định soi sáng tới những ngón tay giữ nó. Y sửng sốt đến nỗi rốt cuộc y quên bén đi việc chăm lửa cho tẩu thuốc, nhưng bà Blavatsky chỉ cười phá lên rồi quay đi.

Có một dịp khác trong chuyến du hành, khi có mặt bà Blavatsky, thuyền phó nhất ngẫu nhiên đề cập tới điều mình sẽ làm trong chuyến du hành trở về từ Calcutta. (Tàu thủy thường đi vòng bờ biển từ Bombay tới Calcutta rồi trở lại). Bà ngắt lời y và bảo rằng:

“Không, ông sẽ không làm điều đó đâu vì ông sẽ không du hành trở lại. Khi ông đến Calcutta ông sẽ được bổ nhiệm làm thuyền trưởng một tàu thủy khác, và ông sẽ đi theo một hướng khác hẳn”. Viên thuyền phó nhất trả lời:

“Thưa bà, tôi hết lòng mong ước là bà nói đúng, nhưng chuyện này không thể được. Quả thật tôi có chứng chỉ thuyền trưởng, nhưng còn có nhiều người xếp hàng trước tôi trong danh sách được thăng chức. Vả lại tôi đã ký một giao kèo phục vụ chạy đường duyên hải trong 5 năm”.

Bà Blavatsky trả lời: “Nói chuyện đó không quan trọng, ông ắt thấy mọi chuyện sẽ xảy ra đúng như tôi nói”.

Và nó xảy ra thật, vì khi tàu thủy tới Calcutta thì người ta phát hiện thấy rằng bất ngờ có chỗ trống (Tôi thiết tưởng do sự đột tử của một thuyền trưởng) và không có ai trong tầm tay ngoại trừ viên thuyền phó nhất ấy để lấp vào chỗ trống đó. Thế là lời tiên tri có vẻ không thể được, lại được hoàn tất theo sát nghĩa.

Nhiều năm về sau, khi tôi trên đường từ Java tới Ấn Độ cùng với ông van Manen, thì tôi đi trên tàu thủy mà thuyền trưởng của nó chính là người đã từng là viên thuyền phó nhất trong chuyện kể của bạn tôi, và y kể cho tôi câu chuyện này theo quan điểm của y bổ sung chính xác cho nguyên bản.

Đây là những điều tự thân chúng không quan trọng lắm nhưng chúng hàm ý nhiều điều và ảnh hưởng gián tiếp của chúng đối với tôi thật là đáng kể. Ấy là vì trong vòng chưa đầy một năm sau cuộc đàm thoại đó, quyển sách Thế giới Huyền bí của ông A. P. Sinnett đã lọt vào tay tôi và ngay khi tôi thấy tên tuổi bà Blavatsky được đề cập trong quyển sách này thì tôi tức khác nhớ lại những câu chuyện mà người bạn đã kể cho tôi nghe. Tự nhiên là cái bằng chứng trực tiếp mạnh mẽ mà tôi đã có được về thần thông của bà tiền định tới công nhận khả năng có những sự việc mới mẻ kỳ lạ khác mà ông Sinnett có viết ra; thế là hai chuyện nho nhỏ này đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời của tôi vì chúng chuẩn bị cho tôi háo hức ngay tức khắc chấp nhận những chân lý của Thông Thiên Học.

Leave a Comment

Scroll to Top