Phần II —Sự tương phản giữa Cung 2 và Cung 4

General Contrasts Between Ray 2 and Ray 4—Sự tương phản giữa Cung 2 và Cung 4

Ray 2 vs.

Cung 2 so với

Ray 4

Cung 4

1. The teacher

Người thầy

1. The artist

Nghệ sĩ

2. Illumination

Tỏa sáng

2. Beautification

Làm đẹp

3. Educational creativity

Sáng tạo mang tính giáo dục

3. Artistic creativity

Sáng tạo mang tính nghệ thuật

4. Love of pure truth (2B)

Yêu chân lý thuần khiết

4. Beauty is truth

Vẻ đẹp là chân lý

5. Scholarliness (2B)

Học thuật (2B)

5. Experiential (i.e., “nonbookish”) learning

Học qua kinh nghiệm (không qua sách vở)

6. Religious orientation (2A)

Có xu hướng tôn giáo

6. Artistic orientation

Có xu hướng nghệ thuật

7. Emotional serenity

Trầm lặng trong cảm xúc

7. Emotional conflict [especially (4B)]

Cảm xúc mâu thuẫn (đặc biệt 4B)

8. Emotional tranquility

An bình trong cảm xúc

8. Emotional expressiveness

Biểu hiện cảm xúc rõ ràng

9. Unemotional

Không xúc cảm

9. Temperamental [especially (4B)]

Nóng nảy (đặc biệt 4B)

10. Warm expression of love

Thể hiện yêu thương ấm áp

10. Passionate expression of love

Thể hiện yêu thương nồng nàn

11. Quite consistent positivity

Luôn tích cực

11. Positivity almost equally bal anced by negativity

Cân bằng giữa tích cực và tiêu cực

12. Good humored

Hóm hỉnh

12. Humorous, but not always good humored

Hài hước nhưng không phải luôn như vậy

13. Sweet [especially (2A)]

Luôn ngọt ngào (đặc biệt 2A)

13. “sweet and sour”

“ngọt ngào và cay đắng”

14. Kind [especially (2A)]

Tốt tính (đặc biệt 2A)

14. Kind at times, but unpredictably the reverse at other times

Có lúc tốt tính, nhưng lúc khác lại trái ngược hẳn

15. Easy to be with

Dễ dàng ở bên

15. “delightful and difficult”

Thú vị nhưng khó tính

16. Harmless in speech

Không nói điều gây hại

16. Deliberately and skillfully

Cẩn trọng và khéo léo

Harmless at times, but at others, ironic, even sarcastic

Có lúc vô hại, nhưng lúc khác lại mỉa mai, thậm chí chế nhạo

17. Pleasant and agreeable

Dễ chịu và dễ chấp nhận

17. Actively entertaining

Hấp dẫn năng động

18. Rarely arouses conflict

Ít gây mâu thuẫn

18. Often arouses conflict (4B)

Thường gây mâu thuẫn (4B)

19. Slow and steady

Chậm và chắc chắn

19. Quickness

Nhanh

20. Quietude

Bình thản

20. Vibrancy and volatility

Dao động và biến đổi

21. Evenness

Điềm đạm

21. Alternation

Hay biến đổi

22. Consistency

Kiên trì

22. Inconsistency

Thiếu kiên trì

23. Steady persistence

Ổn định

23. Fluctuation; vacillation

Hay thay đổi, dao động

24. Constancy

Bền bỉ

24. Ability

Có tố chất

25. Faithful adherence

Giữ vững tư tưởng

25. Ambivalence

Mâu thuẫn trong tư tưởng

26. Fidelity

Trung thành

26. Fickleness

Không kiên định

27. Reliable and responsible

Đáng tin cậy và đầy trách nhiệm

27. More variable, unpredictable

Hay đổi và khó đoán định

28. Equable response to environmental impact

Phản ứng điềm đạm với tác động xung quanh

28. Immediate response to environ mental impact

Phản ứng tức thì với tác động xung quanh

29. Consistent radiation

Tỏa sáng liên tục

29. Contrasting radiation; moodiness

Toả sự tương phản; tâm trạng ủ rũ

30. Ease in handling a mass of detail (2B)

Dễ dàng xử lý nhiều chi tiết

30. Inaccuracy in detail (especially factual detail)

Không phù hợp với chi tiết (đặc biệt chi tiết thực tế)

31. Capable of sustained patience

Có khả năng duy trì nhẫn nại

31. Sustained patience difficult to achieve

Khó duy trì kiên nhẫn

32. Unity through love (2A)

Thống nhất qua tình thương (2A)

32. Unity through harmonization [especially (4A)]

Thống nhất qua hài hòa hóa (đặc biệt 4A)

33. Love expressed through steady magnetism (2A)

Tình thương thể hiện qua sức hút lâu bền (2A)

33. Harmony achieved through constant adjustment (4A)

Sự hài hòa đạt được qua điều chỉnh liên tục (4A)

34. Accepting and tolerant of most environments

Chấp nhận và khoan dung với hầu hết hoàn cảnh

34. Insists upon beauty in the environment

Theo đuổi vẻ đẹp bên ngoài

35. Avoids extremes

Tránh cực đoan

35. Love of the dramatic [especially (4B)]

Yêu những gì mạnh mẽ, kịch tính

36. Noncombative

Không tranh cãi

36. Possessed of a fighting spirit

Sở hữu tinh thần tranh đấu

Major Ray 2 and Ray 4 Differences Sự khác biệt chính giữa Cung 2 và Cung 4

These two rays are closely related according to the same pattern which relates ray one with ray two, and ray three with ray six, the latter ray in each pair being the product of the former ray and the number “2.” Of course, significant differences exist between the rays in each of these pairs, despite important similarities.

Hai cung này có liên quan mật thiết theo cùng một khuôn mẫu như mối quan hệ giữa cung một với cung hai, và cung ba với cung 6: cung thứ hai trong mỗi cặp là sản phẩm của cung còn lại và con số “2.” Tất nhiên, vẫn có những sự khác biệt lớn tồn tại giữa các cung trong mỗi cặp, cho dù chúng có nhiều điểm tương đồng quan trọng.

One of the key differences between individuals upon rays two and four centers around the concept of education; those upon the second ray, especially type (2B), are often scholarly, and wedded to study; those upon the fourth ray prefer experiential learning and tend to adopt an attitude of situational experimentation . Life experiences are for them the main source of education, and “book-learning” holds much less attraction; whereas second ray types do love their books! The ray four approach is highly interactive. An old adage in the field of dramatic art captures the responsive, interactive ray four attitude: “Acting is reacting.” Ray four people are dramatically interactive and reactive; ray two people are not so intensely involved in the dramatic give-and-take of life. The ray two approach is not so much to experience and then to express or dramatically portray the results of that experience, as to wisely love, understand and ameliorate life situations.

Một trong những điểm khác biệt chính giữa những người thuộc cung hai và bốn xoay quanh khái niệm giáo dục; Những người cung 2, đặc biệt là loại (2B), thường là học giả, và luôn gắn liền với công việc nghiên cứu; Những người cung 4 thường học tập thông qua thực tiễn và có khuynh hướng thích trải nghiệm tình huống . Kinh nghiệm sống chính là nguồn tri thức chủ yếu cho họ, và họ ít hứng thú hơn với việc “học tập qua sách vở”; Trong khi những người cung hai lại thích sách vở! Cách tiếp cận của người cung 4 có tính tương tác cao. Một câu nói kinh điển trong lĩnh vực kịch nghệ đã mô tả hoàn chỉnh cách thức tương tác của người cung bốn: “Diễn là phản ứng.” Người cung 4 có tính tương tác và phản ứng mạnh mẽ; Người cung 2 không quá để tâm vào khía cạnh cho-và-nhận của cuộc sống. Cách tiếp cận của cung 2 không mang nặng tính trải nghiệm để sau đó thể hiện hoặc mô tả sinh động các kết quả của trải nghiệm đó, qua đó có thể yêu thương, hiểu biết và cải thiện các tình huống trong cuộc đời.

Ray four people, deeply involved in the alternating polarities of life, are the actors immersed in the drama of living; ray two people stand back a bit more (abstracting the consciousness), work a bit more behind the scenes, and try to bring tranquillity and clarity to conflict and turmoil. Certain ray two types, especially along the love line (2A), do feel deeply and intimately and consequently share an experiential orientation with those upon ray four; but they remain more emotionally detached from their experiences and more successfully maintain the “attitude of the Observer.”

Người cung 4, tham gia sâu vào các phân cực của cuộc sống, là những diễn viên đắm mình trên sân khấu cuộc đời; Người cung 2 đứng lùi phía sau một chút (rút lui tâm thức), làm những công việc hơi lùi sau hậu trường, nỗ lực mang lại sự an bình và thông suốt cho mọi xung đột và hỗn loạn. Một số tuýp cung 2, đặc biệt thuộc dòng Bác ái (2A), có khả năng cảm nhận sâu sắc và tường tận và do đó giúp định hướng trải nghiệm cho những người cung bốn; Nhưng họ vẫn rất tách biệt về mặt xúc cảm khỏi những kinh nghiệm có được và duy trì tốt “thái độ của Người quan sát.”

The orientation towards conflict and peace is another important area of distinction. Those upon ray four are actively involved in the process of war —internally and, often, externally. Their nature is filled with struggle, and their life is one of dramatic conflicts and hard-won harmonizations. Although suffering is no stranger to those upon the second ray (since they “agonize towards the goal”), they tend, for the most part, to be far more tranquil, serene and meditative, their suffering being more silent and less dramatically externalized. Second ray people can rather easily achieve a calm centering from which they learn to look out upon turmoil with clarity and understanding. Ray four people, in a constant state of alternation (and frequently, of altercation ), oscillate about the center, and only rarely achieve the steadfast centeredness which will quiet their entire life demonstration and make them examples of skill-in-action—which they eventually must become.

Định hướng về xung đột và hòa giải là một lĩnh vực quan trọng khác để phân biệt hai cung. Những người cung bốn luôn tích cực tham gia vào quá trình xung đột – cả bên trong lẫn bên ngoài. Bản chất của họ đầy ắp những cuộc đấu tranh, và cuộc sống của họ là một trong những xung đột đầy kịch tính và những hài hòa khó đạt được. Mặc dù dường như sự chịu đựng không lạ gì đối với những người cung hai (vì họ “đau khổ hướng tới mục tiêu”), nhưng phần lớn họ lại yên tĩnh hơn, thanh thản và bình an hơn, sự đau khổ của họ thầm lặng và ít hướng ra ngoài. Người cung hai có thể dễ dàng đạt được một trung tâm an tĩnh, từ đó họ học cách nhìn ra sự hỗn loạn với đầy hiểu biết và rõ ràng. Người cung 4, trong một trạng thái xáo trộn liên tục (và thường xuyên tranh cãi ), dao động quanh trung tâm, hiếm khi đạt được trung tâm bình lặng giúp họ có một cuộc sống an lành, khiến họ thành những điển hình của Kỹ năng hành động – điều mà họ cuối cùng cũng phải hướng tới.

Some important additional differences between these ray energies can be understood if one attempts to see them in relation to the concepts of unity and duality. Ray two and ray four are both dual rays . For practical purposes, however, the dualism expressed by those upon the second ray is more calm, balanced and stable than the wildly fluctuating duality often expressed by the fourth ray subject. As ray four people evolve from conflict to harmony, and from discord to beauty, they are able to approach the perception of unity which is natural to those upon the second ray.

Một số khác biệt quan trọng khác nữa giữa các nguồn năng lượng của các cung này có thể hiểu được nếu ta cố gắng xem xét chúng trong mối quan hệ với khái niệm thống nhất và nhị nguyên. Cung hai và cung bốn đều là cung nhị nguyên . Tuy nhiên, đối với các mục đích thực tiễn, nhị nguyên được thể hiện bởi những người cung hai là bình tĩnh, cân bằng và ổn định hơn so với nhị nguyên biến động khủng khiếp của người cung bốn. Khi người cung 4 phát triển từ mâu thuẫn đến hài hòa, và từ sự bất ổn tới mỹ lệ, họ có thể tiếp cận sự nhận thức về sự thống nhất, vốn là bản chất tự nhiên của người cung hai.

Major Ray 2 and Ray 4 Similarities Sự tương đồng chính giữa Cung 2 và cung 4

Ray four can actually be considered an aspect of the second ray. Those whose souls are upon the fourth ray often resolve into the second ray. Both are rays of mediation ; they stand between and bring together. Ray two stands between rays one and three. It is the consciousness aspect mediating between spirit (represented by ray one) and matter (represented by ray three). Ray four stands midway between the seven rays, balancing the three most abstract rays (rays one, two and three) with the three most concrete rays (rays five, six and seven); this too is a kind of mediation between spirit and matter, as symbolized by the abstract and concrete ray triads.

Cung bốn thực sự có thể được coi là một khía cạnh của cung hai. Những người có linh hồn đang ở cung 4 thường chuyển thành cung hai. Cả hai đều là cung hòa giải ; Chúng đứng giữa và gắn kết các cung lại với nhau. Cung hai đứng giữa cung một và ba. Đó là khía cạnh tâm thức nằm giữa tinh thần (đại diện bởi cung 1) và vật chất (đại diện bởi cung 3). Cung bốn đứng giữa bảy cung, cân bằng ba cung trừu tượng (cung 1, 2 và 3) với ba cung cụ thể (cung 5, 6 và 7); Đây cũng là một loại cân bằng giữa tinh thần và vật chất, được tượng trưng bởi bộ ba cung trừu tượng và bộ ba cung cụ thể.

Both rays carry out a unifying, synthesizing function. Ray two unifies through the attractive power of love and wisdom, while ray four unifies through facilitating the intelligent, mutual adjustment of vibration—i.e., through the process of harmonization. Just as a choir which is out of tune begins to listen , adjust pitch and “tune up” to achieve a unified, harmonious ensemble, so ray four people (with their sensitivity to the slightest discord, and their ability to transform dissonance into “sweet harmony”) can bring about unification through harmonization in any whole. Ray two individuals unify through their ability to identify with others, no matter how discordant may be their points of view; ray four individuals unify through active and skillful harmonization of discord.

Cả hai cung đều thực hiện chức năng tổng hợp và thống nhất. Cung 2 thống nhất thông qua sức mạnh tập hợp của tình thương và trí tuệ, trong khi cung 4 thống nhất thông qua việc thúc đẩy sự điều chỉnh một cách sáng suốt các rung động, tức là thông qua quá trình hài hoà hóa. Giống như trong một dàn hợp xướng, lạc âm phải được bắt đầu bằng việc lắng nghe , thay đổi và “chỉnh âm” để đạt được một dàn nhạc thống nhất và hài hòa, vì vậy người cung 4 (với sự nhạy cảm của họ với những bất ổn nhỏ nhặt nhất và khả năng chuyển hóa thành “Hài hòa “) có thể mang lại thống nhất thông qua sự hài hòa hóa trong bất kỳ tổng thể nào. Người cung 2 thống nhất thông qua khả năng đồng hoá mình với người khác, cho dù sự khác biệt có thể rất lớn với quan điểm của họ; Người cung 4 thống nhất thông qua kỹ thuật chủ động làm hài hòa hóa bất cứ khác biệt nào.

Both rays are also united through their relation to beauty. The trinity of the Good, the True and the Beautiful is familiar to all. There are probably a number of convincing ways to rotate this trinity, but the Tibetan associates the second ray with “the Beautiful”—which seems justified, given the second ray association with buddhi (the fourth plane), the plane of intuitive love. The fourth ray, of course, is the “Ray of Harmony, Beauty and Art,” and is also, through numerical resonance, associated with the fourth, or buddhic, systemic plane. Beauty requires balance and perfected relationship. The central positions of these rays (the second ray being central to the higher trinity of rays, and the fourth ray being central to all the seven) signals their faculty for inducing balance and right-relationship. Right relationship is, essentially, balanced, beautifully harmonized relationship. Both rays two and four function attractively as well. While ray seven is involved in the production of right relationship leading to beauty, its method of operation is different, as it functions along the will line of energy.

Cả hai cung đều hợp nhất thông qua quan hệ với vẻ đẹp. Bộ ba Lòng tốt, Sự thật và Vẻ đẹp đã quen thuộc với tất cả mọi người. Có thể có một số cách đáng tin cậy để luân chuyển tam bộ này, nhưng Chân sư Tây Tạng kết hợp cung hai với “Vẻ đẹp”—điều đó có vẻ thích hợp, khi xét đến việc cung 2 gắn liền với cõi Bồ đề (cõi giới thứ 4 ), cõi giới của tình thương trực giác. Tất nhiên, cung 4 là “Cung của hài hòa, vẻ đẹp và nghệ thuật”, và thông qua sự cộng hưởng về mặt số học, liên kết với cõi giới thứ 4, cõi Bồ đề. Vẻ đẹp luôn đòi hỏi một mối quan hệ hoàn hảo và cân bằng. Vị trí trung tâm của những cung này (cung hai là trung tâm của 3 cung phía trên, và cung 4 là trung tâm của tất cả bảy cung) là những dấu hiệu cho năng lực cân bằng và tạo ra các mối quan hệ đúng đắn. Về bản chất mối quan hệ đúng là mối quan hệ hài hoà và đẹp đẽ. Bản thân cả cung hai và bốn cũng hoạt động rất thu hút . Trong khi cung bảy liên quan đến việc tạo ra mối quan hệ đúng đắn dẫn đến cái đẹp, phương thức hoạt động của nó khác, vì nó hoạt động dọc theo dòng năng lượng ý chí.

In addition, those on rays two and four are united by their intense capacity to suffer. All human beings (belonging as they do to the fourth kingdom of nature) suffer, but suffering is an especially inescapable mode of evolving for those who are strongly conditioned by the second and fourth rays. Perhaps this capacity to suffer is related to the mediating responsibilities frequently assumed by second and fourth ray people; placed at important midway points and intersections, they can easily be torn in two directions and subjected to the “cross of life.” An understanding of suffering involves an understanding of division and tearing. Suffering is a rending process, and significantly, the acme of human suffering is experienced at the fourth initiation when the causal body (the periodic vehicle embodying the second aspect of divinity) is “ rent in twain.

Ngoài ra, những người cung hai và bốn được thống nhất bởi năng lực chịu đựng của họ. Tất cả nhân loại (thuộc về giới tự nhiên thứ tư) đều chịu khổ đau, nhưng đau khổ lại là một phương thức đặc biệt không thể tránh được trong việc phát triển cho những người chịu ảnh hưởng mạnh của cung 2 và cung 4. Có lẽ năng lực chịu khổ đau này có liên quan đến trách nhiệm trung gian mà người cung hai và cung 4 thường phải gánh vác; Nằm ở các vị trí quan trọng và nút giao cắt, họ có thể dễ dàng bị giằng kéo theo hai hướng và chịu đóng đinh trên “thập giá của cuộc sống.” Sự hiểu biết về khổ đau liên quan đến sự hiểu biết về phân chia và xé nát. Đau khổ là một tiến trình của xé nát , và một cách đặc biệt, sự khổ đau tột đỉnh của con người được kinh nghiệm trong lần điểm đạo thứ tư khi thể nguyên nhân (thể luân hồi hiện thân của trạng thái thứ hai của thiêng liêng) bị ” xé làm hai “.

Scroll to Top