Understanding Human Nature Through an Analysis of the Fivefold Human Energy System
Contemporary science understands little about the human being. Just as Aristotle and Galen (though their views prevailed for hundreds of years) described the internal anatomy and physiology of the human body in a manner that was grossly distorted and oversimplified when compared to the descriptions made possible by modern medical research, so present understanding of the totality of human nature is in its infancy. The contemporary student of esotericism, however, has been presented with a revolutionary view of the human constitution. This view, of course, is very ancient, but to the modern mind, it is new . |
Khoa học đương đại hiểu rất ít về con người. Aristotle và Galen (mặc dù quan điểm của họ đã thịnh hành trong hàng trăm năm) đã mô tả giải phẫu và sinh lý bên trong cơ thể con người theo cách hoàn toàn bị bóp méo và đơn giản hóa khi so sánh với những mô tả có thể có trong nghiên cứu y học hiện đại, cũng như hiện nay việc hiểu biết về tổng thể bản chất của con người đang ở giai đoạn sơ khai. Tuy nhiên, môn sinh của huyền bí học đương đại đã được trình bày một quan điểm mang tính cách mạng về cấu tạo con người. Quan điểm này, tất nhiên, là rất cổ xưa nhưng nó lại là mới đối với tâm trí hiện đại. |
Esoteric information about the design and functioning of the human energy system is vitally important to the process of human unfoldment, but a great deal of research and experimentation is required before this information can be developed into a detailed, esoteric science comparable in practical usefulness to the exoteric sciences of modern anatomy and physiology. That development is in process. Meanwhile, the general idea of the structure and functioning of the human being which we have been given, is sufficient to rapidly accelerate the process, not only of self-understanding, but of interpersonal and group understanding. |
Thông tin bí truyền về thiết kế và chức năng của hệ thống năng lượng của con người là cực kỳ quan trọng đối với quá trình khai mở của con người. Nhưng cần phải có rất nhiều nghiên cứu và thử nghiệm trước khi thông tin này có thể được phát triển thành một khoa học bí truyền chi tiết có thể so sánh về tính hữu ích thực tế với khoa học công truyền hiện đại về giải phẫu và sinh lý học. Sự phát triển đó đang diễn ra. Trong khi đó, ý tưởng chung về cấu trúc và chức năng của con người mà chúng ta đã được cung cấp, đủ để thúc đẩy nhanh chóng quá trình, không chỉ về sự hiểu biết bản thân, mà còn về sự hiểu biết giữa cá nhân và nhóm. |
Sự Phức tạp của Con người— The Complexity of the Human Being
The functioning of the human body is incredibly complex, as any modern medical text will confirm. But, as we know, man is far more than body. The body, in fact, is the least important aspect of the human energy system—the aspect which is farthest removed from the essential Self. When attempting to understand the real individual, the vital (etheric) nature, the emotions, the mentality, the personal self and the spiritual Self must be recognized and studied closely. These aspects of the human being exist, according to the Ageless Wisdom, in the form of “fields,” somewhat analogous to the magnetic or electrical fields surrounding (and interpenetrating) magnetized or electrically charged objects. |
Chức năng của cơ thể con người là vô cùng phức tạp, như bất kỳ văn bản y học hiện đại nào cũng sẽ xác nhận. Nhưng, như chúng ta biết, con người không chỉ là thể xác. Trên thực tế, thể xác là khía cạnh ít quan trọng nhất trong hệ thống năng lượng của con người — khía cạnh cách xa nhất khỏi Chân ngã thiết yếu. Khi cố gắng tìm hiểu con người thực, bản chất sinh lực (dĩ thái), cảm xúc, trí lực, phàm ngã và Chân ngã tinh thần phải được nhận biết và nghiên cứu chặt chẽ. Theo Minh triết Ngàn đời, những khía cạnh này của con người tồn tại ở dạng “các trường”, phần nào tương tự như từ trường hoặc điện trường xung quanh (và xuyên thấu) các vật thể nhiễm từ hoặc nhiễm điện. |
A field is an area in space distinguished by a distinct kind of energy/substance. Energy/ substance is often simply called energy . It must always be remembered, however, that energy and substance are essentially identical—physical matter being the lowest (and slowest) form of energy/substance, and (as far as humanity needs to concern itself) the atomic matter of the logoic plane being the highest and most rapid. [ 299 ] |
Một trường là một khu vực trong không gian được phân biệt bởi một loại năng lượng/chất liệu riêng biệt. Năng lượng/chất liệu thường được gọi đơn giản là năng lượng . Tuy nhiên, phải luôn nhớ rằng năng lượng và chất liệu về cơ bản là đồng nhất — vật chất vật lý là dạng năng lượng/chất liệu thấp nhất (và chậm nhất), và (chừng nào loài người cần quan tâm đến chính mình) vật chất nguyên tử của cõi Thượng đế là cao nhất và nhanh nhất. [ 299 ] |
The distinguishing quality of each field is determined by the specific range of vibratory frequencies characterizing the energy/substance comprising that field. Each field has specific dynamics and specific functions within the human energy system of which it is an integral part. The vital/etheric field (or bio-field), the emotional, mental, personal and transpersonal fields all have different dynamics, functions and ranges of vibratory frequencies. |
Tính chất phân biệt của mỗi trường được xác định bởi dải tần số rung động cụ thể đặc trưng cho năng lượng/chất liệu cấu thành trường đó. Mỗi trường có các động lực cụ thể và các chức năng cụ thể trong hệ thống năng lượng của con người mà nó là một phần không thể thiếu. Trường sinh lực/dĩ thái (hoặc trường sinh học), trường cảm xúc, trí tuệ, phàm ngã và siêu ngã đều có động lực, chức năng và phạm vi tần số rung động khác nhau. |
It is beyond our present ability to describe these fields specifically. Such data as the numbers, rates, colors, musical keys, as well as the chemistries and dynamisms pertaining to the specific qualities of energy/substance which comprise each field, are available only to initiate penetration and have not yet been given out. While in incarnation, we are subject to the limitations of the physical brain and it is entirely understandable that very little of the “inner man” should be available for our direct inspection. For instance, it is not possible for most of us to examine objectively the exact condition of our emotional or mental fields. While, for example, we can extend our hand, turn it this way and that, examine every feature and see it as a whole, the same is not yet possible (except in certain “altered states”) with respect to our psychological nature (i.e., our emotional and lower mental fields), and still less so with our true psyche—the higher Self, the soul. |
Việc mô tả cụ thể các trường này nằm ngoài khả năng hiện tại của chúng ta. Những dữ liệu như số lượng, tốc độ, màu sắc, âm vực, cũng như các chất hóa học và động lực học liên quan đến tính chất cụ thể của năng lượng/chất liệu cấu thành mỗi trường, chỉ có sẵn để khởi đầu việc thâm nhập và chưa được cung cấp. Trong khi nhập thế, chúng ta phải tuân theo những giới hạn của não bộ vật lý và hoàn toàn có thể hiểu được rằng rất ít của “con người bên trong” có sẵn để chúng ta điều tra trực tiếp. Ví dụ, hầu hết chúng ta không thể kiểm tra một cách khách quan tình trạng chính xác của các trường cảm xúc hoặc trí tuệ của chúng ta. Trong khi đó, cho ví dụ, mặc dù chúng ta có thể xoè bàn tay của mình, xoay nó theo cách này và cách khác, xem xét mọi đặc điểm và xem nó một cách tổng thể, nhưng điều tương tự vẫn chưa thể thực hiện được (ngoại trừ một số “trạng thái đã thay đổi”) đối với bản chất tâm lý của chúng ta (tức là các trường cảm xúc và hạ trí của chúng ta), và còn ít hơn nữa với linh hồn thực sự của chúng ta — Linh hồn, Chân ngã cao siêu. |
To some extent, introspection and the processes of meditation allow us to assess the condition of mind and emotion, and to become sensitive to the “voice” or “touch” of the soul, but these approaches to our subjective condition are not the same as actually perceiving the various fields directly, objectively and simultaneously. To do so is the prerogative of high initiates or Masters; and this they do, as the Tibetan has done (cf. the personal instructions to disciples in Discipleship in the New Age, Vols. I and II ), when attempting to reach, understand and aid their students. Average intelligent human beings, however, must, perforce, forgo the advantages of direct perception where the fields of their energy system are concerned. They can, however, understand their own “field dynamics” somewhat through the power of thought (as limited by the brain), and even though they cannot see with utter clarity and know with certainty the condition of the fields, much is still available to them. They can still make progress even without complete knowledge of these things. One day, exact descriptions of field processes will be presented and explained by the Teachers; one day, more inquirers will “see for themselves”. Meanwhile, enough can be determined to help individuals know themselves better and take the necessary steps which will lead to intelligent personality functioning under the impress of the Transpersonal Self, the soul. |
Ở một mức độ nào đó, việc xem xét nội tâm và các quá trình thiền định cho phép chúng ta đánh giá tình trạng của cái trí và cảm xúc, và trở nên nhạy cảm với “tiếng nói” hoặc “sự tiếp xúc” của linh hồn. Nhưng những cách tiếp cận này đối với tình trạng bên trong của chúng ta không giống như việc nhận thức thực sự các trường khác nhau một cách trực tiếp và đồng thời ở bên ngoài. Làm được như vậy là đặc quyền của các điểm đạo đồ cao cấp hoặc các Chân sư; và họ làm điều này, như Chân sư Tây Tạng đã làm (xem các hướng dẫn cá nhân cho các đệ tử trong Đường đạo trong kỷ nguyên mới, Vols. I và II ), khi cố gắng tiếp cận, hiểu và giúp đỡ học viên của họ. Tuy nhiên, những người thông minh trung bình phải bỏ qua những lợi thế của nhận thức trực tiếp về các trường trong hệ thống năng lượng của họ. Tuy vậy, họ có thể hiểu được phần nào “các động lực của từng trường” của chính họ thông qua sức mạnh của tư tưởng (bị giới hạn bởi não bộ), và mặc dù họ không thể nhìn thấy rõ ràng hoàn toàn và biết chắc chắn về tình trạng của các trường nhưng vẫn còn nhiều điều sẵn có cho họ. Họ vẫn có thể đạt được tiến bộ ngay cả khi không có kiến thức đầy đủ về những điều này. Một ngày nào đó, các mô tả chính xác về các quá trình diễn ra trong trường sẽ được các Vị Thầy trình bày và giải thích; một ngày nào đó, sẽ có nhiều người tìm kiếm “tự mình thấy được”. Trong khi đó, đủ có thể được quyết định để giúp các cá nhân hiểu rõ hơn về bản thân và thực hiện các bước cần thiết dẫn đến phàm ngã thông minh hoạt động dưới ấn tượng của Linh hồn, Siêu Ngã. |
Hệ thống năng lượng ngũ phân của con người — The Fivefold Human Energy System
Within the limitations discussed above, we will now attempt to understand, somewhat, how the five fields of the human energy system function, and how the seven energy rays qualify the functioning of each field. A complete and detailed discussion of each field [300] is far beyond the scope of this text. It is recommended that those wishing to pursue such study avail themselves of some of the numerous books which explore these matters in considerable depth (cf., the series on the various “bodies” by A.E. Powell). What is important, is that students arrive at a general working knowledge of the dynamics of each field. |
Trong những giới hạn đã thảo luận ở trên, bây giờ chúng ta sẽ cố gắng tìm hiểu phần nào cách thức hoạt động của năm trường trong hệ thống năng lượng của con người, và cách bảy cung năng lượng phẩm định cho chức năng của từng trường. Một cuộc thảo luận đầy đủ và chi tiết về từng trường [300] nằm ngoài phạm vi của sách này. Những người muốn theo đuổi nghiên cứu này được khuyến nghị nên tìm đọc một số cuốn sách khám phá những vấn đề này một cách chuyên sâu (xem, loạt bài về các “thể” khác nhau của AE Powell). Điều quan trọng là môn sinh đạt được kiến thức làm việc chung về các động lực của từng trường. |
One of our chief purposes as students of the seven rays (and of other important esoteric energies which condition us), is to be able to understand the ray structure of a human being . This means understanding the ray qualities of each of the five energy fields which are usually considered in the ray chart. To do this, one must be able to recognize the functioning of one field, and differentiate it from the functioning of another field. For instance, one must be able to recognize the lower mental field (the mind) at work, and know how to differentiate it from the personality field—or, recognize the functioning of the personality field, and know how to differentiate it from the transpersonal field. The first step in this necessary differentiation, is to actually know what each field does . The big (and simple) question, when assessing the energy system of any individual, is, “What’s going on now?”, or “What field or combination of fields are noticeably active, now?” A brief (and nontechnical) examination of the dynamics of each field will make this necessary differentiation an easier task. |
Một trong những mục đích chính của chúng ta khi là học viên của bảy cung (và các năng lượng bí truyền quan trọng khác quy định chúng ta), là có thể hiểu được cấu trúc cung của một người . Điều này có nghĩa là hiểu được tính chất cung của từng trường trong số năm trường năng lượng thường được xem xét trong biểu đồ cung. Để làm được điều này, người ta phải có khả năng nhận ra hoạt động của một trường và phân biệt nó với hoạt động của trường khác. Ví dụ, một người phải có khả năng nhận ra trường hạ trí (cái trí) đang hoạt động và biết cách phân biệt nó với trường phàm ngã — hoặc, nhận ra hoạt động của trường phàm ngã và biết cách phân biệt nó với trường siêu ngã. Bước đầu tiên trong sự khác biệt cần thiết này là thực sự biết mỗi trường làm gì . Câu hỏi lớn (và đơn giản), khi đánh giá hệ thống năng lượng của bất kỳ cá nhân nào, là “Điều gì đang xảy ra bây giờ?”, Hoặc “Hiện tại, trường hoặc tổ hợp các trường nào đang hoạt động một cách đáng kể?” Một cuộc kiểm tra ngắn gọn (và phi kỹ thuật) về động lực của từng trường sẽ làm cho sự phân biệt cần thiết này trở thành một nhiệm vụ dễ dàng hơn. |
Năm Trường của Hệ thống Năng lượng Con người— The Five Fields of the Human Energy System
1. The transpersonal field—the field of the soul, the spiritual Ego, or Higher Self |
1. Trường siêu ngã — trường của linh hồn, Bản ngã tinh thần, hoặc Chân ngã Cao siêu |
2. The personality field—the field of the personal ego from which originates the limited sense of “I” |
2. Trường phàm ngã — trường của bản ngã cá nhân mà từ đó bắt nguồn cảm giác giới hạn về “tôi” |
3. The mental field—the mental body |
3. Trường trí tuệ — thể trí |
4. The emotional field—the field of sentiency, the astral body |
4. Trường cảm xúc — trường tình cảm, thể cảm dục |
5. The bio-field—the vital/electric field, or etheric body |
5. Trường sinh học — trường sinh lực / điện trường, hoặc thể dĩ thái |
In the interests of completeness, it must be said that the fields of the Spiritual Triad and the Monad are both highly significant, and have their particular ray qualities which, in the last analysis, are of fundamental, differentiating importance; however, since the average intelligent aspirant or disciple has not yet taken the third initiation, and is still working upon the problem of the complete fusing of soul and personality, discussion of these higher fields will be deferred. Some speculations regarding the part they play in the practical aspects of human evolution will be offered at various points throughout the first two volumes. |
Về lợi ích của sự hoàn chỉnh, cần phải nói rằng các trường của Tam nguyên Tinh thần và Chân thần đều rất quan trọng, và có những phẩm tính cung đặc biệt của chúng có tầm quan trọng cơ bản và khác biệt trong phân tích cuối cùng; tuy nhiên, vì đệ tử hoặc người chí nguyện thông minh trung bình vẫn chưa thực hiện cuộc điểm đạo thứ ba, và vẫn đang giải quyết vấn đề về sự thấm nhập hoàn toàn giữa linh hồn và phàm ngã, nên việc thảo luận về những trường cao hơn này sẽ được hoãn lại. Một số suy đoán liên quan đến phần chúng đóng góp trong các khía cạnh thực tế của quá trình tiến hóa của con người sẽ được đưa ra ở nhiều điểm khác nhau trong suốt hai tập đầu tiên. |
The Five Fields and their Order of Presentation — Năm trường và thứ tự trình bày của chúng
The occult method of developing understanding is to proceed from the general to the particular, and we will follow this format. Each field within the human energy system [ 301 ] affects every other field, and those fields which are ‘above’ affect, particularly, those which are ‘below.’ So we will begin with that which is (for our purposes) the center of human identity, the soul field (which emanates and is intended to express through the lower four fields), and proceed to the periphery, describing the fields which are the vehicles of the soul—the personality field (the union of the mental, emotional and bio- fields), the mental field, the emotional field and the bio-field. |
Phương pháp huyền bí để phát triển sự hiểu biết là tiến hành từ cái chung đến cái riêng, và chúng ta sẽ tuân theo cách thức này. Mỗi trường trong hệ thống năng lượng của con người [ 301 ] ảnh hưởng đến mọi trường khác, và những trường ‘ở trên’ ảnh hưởng một cách đặc biệt những trường ‘ở dưới’. Vì vậy, chúng ta sẽ bắt đầu với điều (theo mục đích của chúng ta) vốn là trung tâm của bản sắc con người, trường linh hồn (phát ra và được dự định thể hiện qua bốn trường phía dưới), và tiến đến vùng ngoại vi, mô tả các trường là phương tiện của linh hồn — trường phàm ngã (sự kết hợp của các trường trí tuệ, cảm xúc và sinh học), trường trí tuệ, trường cảm xúc và trường sinh học. |
It is important to remember that the fields themselves are the “matter aspect” of the human energy system. The true spiritual identity functions through each field, but is not the field itself . This is clearly and simply expressed in the kind of ancient Raja Yoga affirmations so successfully utilized by Roberto Assagioli in his “Disidentification Exercise”: |
Điều quan trọng cần nhớ là bản thân các trường là “khía cạnh vật chất” của hệ thống năng lượng của con người. Bản sắc tâm linh thực sự hoạt động thông qua từng trường, nhưng không phải là chính trường đó . Điều này được thể hiện rõ ràng và đơn giản trong kiểu khẳng định Raja Yoga cổ xưa được Roberto Assagioli sử dụng thành công trong “Bài tập Phi đồng hóa” của mình: |
I have a mind, but I am not that mind. |
Tôi có tâm trí, nhưng tôi không là tâm trí đó. |
I have emotions, but I am not those emotions. |
Tôi có cảm xúc, nhưng tôi không phải là những cảm xúc đó. |
I have a body, but I am not that body. |
Tôi có một cơ thể, nhưng tôi không phải là cơ thể đó. |
I have a personality, but I am not that personality. What then, am I? |
Tôi có một phàm ngã, nhưng tôi không phải là phàm ngã đó. Vậy thì, tôi là gì? |
I am the Self, the Self am I. |
Tôi là Chân ngã, Chân ngã là Tôi. |
To this, might be added the thought: |
Đối với điều này, có thể được thêm vào tư tưởng: |
I have a soul field, but I am not that soul field. |
Tôi có một trường linh hồn, nhưng tôi không phải là trường linh hồn đó. |
Even the soul field or transpersonal field (the field of the causal body) is only an esoteric vehicle , and is not the true Self. Even the Solar Angel which informs and functions through the transpersonal or causal field is not the true Self, though for practical purposes it can be considered and invoked as a Higher Self. The true Self (which is the one impersonal SELF) is ever elusive, and cannot be identified with any field, no matter how rarefied or attenuated its substance. [ 302] |
Ngay cả trường linh hồn hay trường siêu cá nhân (trường của thể nguyên nhân) cũng chỉ là một vận cụ bí truyền, và không phải là Chân ngã đích thực. Ngay cả Thái dương Thiên thần truyền cho và hoạt động thông qua trường siêu cá nhân hoặc trường nguyên nhân cũng không phải là Chân ngã đích thực, mặc dù đối với các mục đích thực tế, nó có thể được coi và được kêu gọi là Chân ngã Cao siêu. Chân ngã đích thực (là một ĐẠI NGÃ không mang tính cá nhân) luôn luôn khó nắm bắt, và không thể được xác định bởi bất kỳ trường nào, cho dù chất liệu của nó có mật độ thấp hoặc cường độ nhỏ đến như thế nào. [ 302] |
The Ego as a Faculty within the Egoic (Transpersonal) Field — Chân ngã như là một Năng lực trong Trường Chân ngã (Siêu cá nhân)
The soul (or Solar Angel) on its own plane is an entity of great spiritual development. The major concerns of that entity are quite beyond average human understanding, and are only briefly suggested in a small number of passages in the Tibetan’s books. Certainly the major concerns of the Solar Angel have little to do with the development of the relatively insignificant human being which it has under ‘super-vision.’ The functions, operations and characteristic dynamics of the soul (or Solar Angel) as listed below concern not the soul on its own plane, but the soul as it ‘turns downwards,’ relating to and influencing the incarnated human being. These are descriptions of soul quality as experienced by the incarnated human soul —which, itself, is what might be called an ‘immersed emanation’ of the human Monad. From one important point of view, the distinctive consciousness of the Solar Angel, the personality and the three personality vehicles may all be considered faculties of the Monad. Even though, essentially, the Solar Angel is not the human Monad , during the period of their aeonian cooperation that Angel seems to function as a Monadic faculty or extension. |
Linh hồn (hay Thái dương Thiên thần) trên chính cõi của nó là một thực thể của sự phát triển tâm linh vĩ đại. Những mối quan tâm chính của thực thể đó nằm ngoài sự hiểu biết thông thường của con người, và chỉ được gợi ý ngắn gọn trong một số đoạn nhỏ trong sách của Chân sư Tây Tạng. Chắc chắn những mối quan tâm chính của Thái dương Thiên thần không liên quan nhiều đến sự phát triển của con người tương đối tầm thường vốn ở dưới ‘tầm nhìn siêu phàm’. Các chức năng, hoạt động và các động lực đặc trưng của linh hồn (hay Thái dương Thiên thần) như được liệt kê dưới đây không liên quan đến linh hồn trên cõi của chính nó, mà là linh hồn khi nó ‘quay xuống dưới’, liên quan và ảnh hưởng đến con người nhập thế. Đây là những mô tả về phẩm chất linh hồn được trải nghiệm bởi linh hồn con người nhập thế — mà bản thân nó là cái có thể được gọi là ‘hiện thân bị chìm đắm’ của Chân thần con người. Từ một quan điểm quan trọng, tâm thức đặc biệt của Thái dương Thiên thần, phàm ngã và ba vận cụ phàm ngã đều có thể được coi là các năng lực của Chân thần. Mặc dù về cơ bản, Thái dương Thiên thần không phải là Chân thần của con người , trong khoảng thời gian hợp tác nhiều thiên niên kỷ, Thiên thần dường như hoạt động như một năng lực hoặc phần mở rộng của Chân thần. |
Our terminology for describing the relation between the Solar Angel, the causal body, the Monad and the incarnated human soul is extremely inadequate. The word “soul” is used generally to signify the Solar Angel, the causal body, and even the incarnated human soul. Confusion can easily result. In attempting to achieve clarity on these matters, it is constantly necessary to bear in mind the essential difference between the Solar Angel and the human Monad. |
Thuật ngữ của chúng ta để mô tả mối quan hệ giữa Thái dương Thiên thần, thể nguyên nhân, Chân thần và linh hồn con người nhập thế là vô cùng thiếu sót. Từ “linh hồn” thường được sử dụng để biểu thị Thái dương Thiên thần, thể nguyên nhân, và thậm chí là linh hồn con người nhập thế. Có thể dễ dàng dẫn đến nhầm lẫn. Để cố gắng đạt được sự rõ ràng về những vấn đề này, cần phải ghi nhớ sự khác biệt cơ bản giữa Thái dương Thiên thần và Chân thần con người. |
The Solar Angel is an advanced entity which, through “ceaseless persevering devotion,” is serving the human Monad. Human evolution as we now know it, is a cooperative enterprise between two great entities (a Solar Angel and a human Monad), but this cooperation demands such ‘esoteric intimacy’ that the Solar Angel and what might be called the ‘middle point of projection of the human Monad resident within the causal body’ are frequently confused. Further, the Solar Angel is not the causal field, but rather the creator and ‘embodier’ of the causal field. The essential human being (emanated from the human Monad, and existing in various descending stages of ‘immersion in substance’) utilizes the causal field, and, at that middle level (i.e., the casual field), seems to fuse with the supervisory Solar Angel; but the human being (who is, essentially, the Monad) is really not the Solar Angel, even when, between incarnations, human consciousness returns to the domain of the causal field, which is also the domain to which the Solar Angel has temporarily (for the duration of human evolution) related itself. It is clear why the Tibetan, more than once, has referred to the “Mystery of the Solar Angels.” |
Thái dương Thiên thần là một thực thể tiên tiến, thông qua “sự dâng hiến kiên trì không ngừng nghỉ”, đang phụng sự cho Chân thần của con người. Sự tiến hóa của nhân loại như chúng ta biết ngày nay, là một việc hợp tác giữa hai thực thể vĩ đại (một là Thái dương Thiên thần và một là Chân thần con người), nhưng sự hợp tác này đòi hỏi ‘sự thân mật bí truyền’ đến mức Thái dương Thiên thần và thứ có thể được gọi là ‘điểm giữa của sự phóng chiếu của Chân thần con người cư trú trong thể nguyên nhân’ thường bị nhầm lẫn. Hơn nữa, Thái dương Thiên thần không phải là trường nguyên nhân, mà là Đấng tạo ra và ‘hiện thân’ của trường nguyên nhân. Bản chất con người (sinh ra từ Chân thần con người, và tồn tại trong các giai đoạn giáng hạ khác nhau của quá trình ‘đắm chìm vào vật chất’) sử dụng trường nguyên nhân, và ở khoảng giữa đó (tức là trường nguyên nhân), dường như hợp nhất với việc giám sát của Thái dương Thiên thần; nhưng con người (về căn bản là Chân thần) thực sự không phải là Thái dương Thiên thần, ngay cả khi giữa các lần lâm phàm, tâm thức con người quay trở lại lãnh địa của trường nguyên nhân, cũng là nơi mà Thái dương Thiên thần đã tạm thời (trong suốt quá trình tiến hóa của loài người) liên kết với chính nó. Thật rõ ràng là tại sao Chân sư Tây Tạng hơn một lần đã đề cập đến “Bí ẩn của các Thái dương Thiên thần”. |
For practical purposes it is enough to know that there is such a high entity who (whether the human unit is conscious of its presence or not) works in the closest cooperation with that human unit. That entity can be invoked as the Higher Self, and this invocation promotes the fusion of two aspects of the essential human being (the Monad): 1) that aspect which is deeply immersed in the kind of form which is called personality, and 2) that aspect which is immersed in that kind of form which is called the causal field. The Solar Angel or Higher Self brings the lowest and middle aspects of the human being together, and prepares the way for their later fusion (in full consciousness) with the highest or strictly Monadic aspect. |
Đối với các mục đích thực tế, đủ để biết rằng có một thực thể cao như vậy (cho dù đơn vị con người có ý thức về sự hiện diện của nó hay không) làm việc trong sự hợp tác chặt chẽ nhất với đơn vị con người đó. Thực thể đó có thể được thỉnh nguyện như là Chân ngã Cao siêu, và lời thỉnh nguyện này thúc đẩy sự hợp nhất của hai khía cạnh của bản chất con người (Chân thần): 1) khía cạnh chìm sâu vào loại hình tướng được gọi là phàm ngã, và 2) khía cạnh bị đắm chìm trong loại hình tướng được gọi là trường nguyên nhân. Thái dương Thiên thần hoặc Chân ngã Cao siêu mang các khía cạnh thấp nhất và ở giữa của con người lại với nhau, và chuẩn bị con đường cho sự hợp nhất sau này của chúng (trong ý thức đầy đủ) với khía cạnh Chân thần cao nhất hoặc thật sự. |
Some Key Functions, Operations and Characteristic Dynamics of the Ego as a Faculty within the Transpersonal Field — Một số chức năng chính, hoạt động và động lực đặc trưng của Chân ngã với tư cách là một Năng lực trong Trường Siêu Cá Nhân
The kind of influence emanating from the causal field is qualified by the seven ray energies. The incarnated human soul is affected in seven different ways, depending upon the ray quality of the causal field (or is it the ray quality of the Solar Angel?—an abstruse point needing much research and eventual clarification). The seven ways in which the incarnated human soul within the personality feels the difficult-to-distinguish, combined influence of the Solar Angel and causal field (which combination we simply call “soul”) will now be listed. |
Loại ảnh hưởng phát ra từ trường nguyên nhân được phẩm định bởi năng lượng bảy cung. Linh hồn con người nhập thế bị ảnh hưởng theo bảy đường lối khác nhau, tùy thuộc vào tính chất cung của trường nguyên nhân (hoặc đó là tính chất cung của Thái dương Thiên thần? — một vấn đề trừu tượng cần nhiều nghiên cứu và cuối cùng cần làm sáng tỏ). Liệt kê dưới đây là bảy đường lối mà linh hồn con người nhập thế bên trong phàm ngã cảm nhận ảnh hưởng được kết hợp khó phân biệt của Thái dương Thiên thần và trường nguyên nhân (sự kết hợp mà chúng ta gọi đơn giản là “linh hồn”). |
Though this list is woefully incomplete, it contains some of the most important ways to recognize the influence of the soul as it affects the spiritual growth and development of the human being. The human energy system is complex. Many things are happening simultaneously, and many qualities are vying for expression. We want to understand how we can recognize which of these many energies are soul energies . |
Mặc dù đáng tiếc là danh sách này không đầy đủ nhưng nó chứa đựng một số cách thức quan trọng nhất để nhận ra ảnh hưởng của linh hồn vì linh hồn ảnh hưởng đến sự trưởng thành và phát triển tâm linh của con người. Hệ thống năng lượng của con người rất phức tạp. Nhiều thứ đang xảy ra đồng thời và nhiều phẩm tính đang cạnh tranh để thể hiện. Chúng ta muốn hiểu làm thế nào chúng ta có thể nhận ra năng lượng nào trong số nhiều năng lượng này là năng lượng linh hồn . |
In order better to recognize soul dynamics in everyday life, let us (for practical and psychological purposes) consider the soul or Ego as the: |
Để nhận biết tốt hơn các động lực của linh hồn trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta (vì mục đích thực tế và tâm lý học) hãy coi linh hồn hay Chân ngã là: |
1. Source of one’s greatest contribution in service—one’s true vocation. |
1. Nguồn đóng góp lớn nhất của một người trong việc phụng sự — thiên hướng đích thực của mỗi người. |
2. Source of one’s selflessness and altruism. |
2. Nguồn của lòng vô kỷ và vị tha của mỗi người. |
3. Source of one’s true conscience. |
3. Nguồn lương tâm chân chính của mỗi người. |
4. Source of one’s most joyous activity. |
4. Nguồn của hoạt động vui vẻ nhất của mỗi người. |
5. Source of one’s greatest sense of meaningfulness. |
5. Nguồn nhận thức về ý nghĩa lớn lao nhất của mỗi người. |
6. Source of one’s sense of the sacred. |
6. Nguồn nhận thức về sự thiêng liêng của mỗi người. |
7. Source of one’s “heart’s desire.” |
7. Nguồn “ước muốn của trái tim” của mỗi người. |
Commentary |
Bình giải |
1. Source of one’s greatest contribution in service—one’s true vocation: We serve best by being who we really are. For all practical purposes, we are souls . The soul is our ‘ quint -essence’ (literally, our ‘fifth essence’ or the fifth principle) and its quality is the most important and most permanent aspect of our energy system (at least until the Monad comes into full sway at a later point in evolution). [304] |
1. Nguồn đóng góp lớn nhất của mỗi người trong việc phụng sự — thiên hướng đích thực của mỗi người: Chúng ta phụng sự tốt nhất bằng chính con người thực sự của chúng ta. Trên thực tế, chúng ta là những linh hồn . Linh hồn là ‘bản chất quãng năm ‘ của chúng ta (theo nghĩa đen, ‘bản chất thứ năm’ hoặc nguyên khí thứ năm của chúng ta) và phẩm tính của linh hồn là khía cạnh quan trọng nhất và thường tồn nhất trong hệ thống năng lượng của chúng ta (ít nhất là cho đến khi Chân Thần đi vào hoạt động hoàn toàn vào một thời điểm về sau trong quá trình tiến hóa). [304] |
The inner worlds and the entities who populate them are highly organized. Each entity belongs to a specific group, and that group to a larger group, ad infinitum. Each of these groups has its dominant qualities. Upon the inner planes, as upon the outer, quality determines function . The way any entity fulfills its divinely appointed function within the larger whole is to express its quality fully, lovingly and intelligently on the planes below its ‘level of residence.’ |
Các thế giới bên trong và các thực thể cư ngụ trong đó có tính tổ chức cao. Mỗi thực thể thuộc một nhóm cụ thể và nhóm đó thuộc một nhóm lớn hơn, cho đến vô cùng. Mỗi nhóm này có những phẩm tính nổi trội của nó. Trên các cõi giới bên trong cũng như bên ngoài, phẩm tính quyết định chức năng . Cách thức bất kỳ thực thể nào hoàn thành chức năng được chỉ định một cách thiêng liêng trong tổng thể lớn hơn là thể hiện đầy đủ phẩm tính của nó một cách bác ái và thông tuệ trên các cõi giới bên dưới ‘tầng cư ngụ’ của nó. |
The spiritual entity known as the soul has a specific, dominant function determined both by 1) the qualities and functions of the inner groups with which the soul may be affiliated, and 2) by the unique energy pattern which qualifies and conditions the soul. By fulfilling and expressing this dominant function, the soul fulfills its specific part in the Divine Plan, and thus makes its greatest possible contribution in service. |
Thực thể tinh thần được gọi là linh hồn có một chức năng cụ thể và chủ đạo được xác định bởi 1) các phẩm tính và các chức năng của các nhóm bên trong mà linh hồn có thể liên kết, và 2) bởi kiểu mẫu năng lượng duy nhất vốn phẩm định và quy định linh hồn. Bằng cách hoàn thành và thể hiện chức năng chủ đạo này, linh hồn hoàn thành vai trò cụ thể của nó trong Thiên Cơ, và do đó đóng góp nhiều nhất có thể trong việc phụng sự. |
The four-fold personality nature, too, has its qualities, and these must be considered as subqualities of the essential soul quality. Personality is important, but it is not “of the essence.” The very best that each individual can offer is his essential Self, and that Self is, for practical purposes, his soul. Soul expression is not only the greatest possible contribution, it is service itself . |
Cũng vậy, bản chất phàm ngã tứ-phân có những phẩm tính của nó, và chúng phải được coi là những phẩm tính phụ trong số các phẩm tính cốt yếu của linh hồn. Phàm ngã là quan trọng, nhưng nó không phải là “bản chất.” Điều tốt nhất mà mỗi cá nhân có thể cống hiến chính là Chân Ngã cốt yếu của mình, và Chân Ngã đó trên thực tế là linh hồn của họ. Sự biểu hiện linh hồn không chỉ là đóng góp nhiều nhất có thể, mà tự nó cũng là sự phụng sự. |
Full expression of soul and true vocation are also synonymous. People who struggle to find their true vocation are really struggling to find their soul quality and express it. A person may make many valuable contributions, and follow a number of interesting vocations; these may or may not be in full alignment with the essential quality of his soul. If they are not, the contribution, while useful, will not be directly aligned with the Divine Plan. The task of the esoteric psychologist is to help the person discover that one contribution which is utterly inherent in his higher nature —that one vocation which is truly his “higher calling.” |
Sự biểu hiện trọn vẹn linh hồn và thiên hướng đích thực là đồng nghĩa. Những người đấu tranh để tìm ra thiên hướng đích thực của họ thực sự đang đấu tranh để tìm ra phẩm tính linh hồn của họ và biểu hiện nó. Một người có thể có nhiều đóng góp có giá trị, và tuân theo một số thiên hướng thú vị; những điều này có thể hoàn toàn chỉnh hợp hoặc không chỉnh hợp với phẩm tính cốt yếu của linh hồn y. Nếu không chỉnh hợp, sự đóng góp, mặc dù hữu ích, sẽ không chỉnh hợp trực tiếp với Thiên Cơ. Nhiệm vụ của nhà tâm lý học nội môn là giúp người đó khám phá ra rằng một đóng góp hoàn toàn vốn có trong bản chất cao hơn của y — thiên hướng đó đích thực là “tiếng gọi cao hơn” của y. |
2. Source of one’s selflessness and altruism: Under the influence of the soul, the heart center is opened, and one experiences the impulse to give ; other people (“altrui” in French) become more important than oneself. This is altruism. |
2. Nguồn gốc của lòng v ô kỷ và vị tha của một người: Dưới ảnh hưởng của linh hồn, trung tâm lực tim được mở ra và một người trải nghiệm sự thôi thúc cho đi ; người khác (“altrui” trong tiếng Pháp) trở nên quan trọng hơn chính mình. Đây là lòng vị tha. |
The personality is very resistant to altruistic impulses. Ultimately, it seeks to avoid “losing itself.” The soul, on the other hand, seeks to ‘give itself away.’ Soul-inspired consciousness realizes that it must “lose itself to find itself.” |
Phàm ngã hay kháng cự những xung động vị tha. Cuối cùng, nó tìm cách tránh “đánh mất chính mình”. Mặt khác, linh hồn tìm cách ‘tự cho đi.’ Tâm thức được truyền cảm hứng từ linh hồn nhận ra rằng nó phải “đánh mất chính mình để tìm lại chính mình”. |
The soul’s radiant, outgoing approach to others is a reflection of its sense of unity. The soul does not suffer from the limitations of what has been called the “skin-encapsulated ego,” and feels itself “at-one” with all souls. Those others are realized to be an integral part of itself. The soul is essentially group conscious , and its impulses always tend to weld the individual more firmly into the group—especially if the group is subjective or is ‘upwardly rooted’ in spirituality. |
Cách tiếp cận phát toả, tuôn ra của linh hồn đối với người khác là sự phản ánh cảm giác hợp nhất của linh hồn. Linh hồn không phải chịu những giới hạn của cái được gọi là “bản ngã bên trong lớp da” và cảm thấy bản thân “là một” với tất cả các linh hồn. Những người khác được nhận ra là một phần không thể thiếu của chính nó. Về cơ bản, linh hồn có tâm thức nhóm , và những xung động của nó luôn có xu hướng gắn kết cá nhân chặt chẽ hơn vào nhóm — đặc biệt nếu nhóm đó có tính chủ quan hoặc ‘cắm rễ lên trên’ vào thế giới tinh thần. |
Selfishness is deep-seated and hard to overcome; it cannot be overcome from within the personality. The personal consciousness, once it begins to establish contact with the [ 305] soul, will begin to experience waves of altruistic impulses overcoming entrenched self-concern. At length, these waves wash selfishness away. |
Tính ích kỷ đã ăn sâu và khó vượt qua; nó không thể được vượt qua từ bên trong phàm ngã. Tâm thức phàm ngã, một khi bắt đầu thiết lập mối liên hệ với [305] linh hồn, sẽ bắt đầu trải nghiệm những làn sóng xung động vị tha vượt qua sự tự quan tâm chính nó. Về lâu dài, những làn sóng này cuốn trôi sự ích kỷ. |
3. Source of one’s true conscience and guidance: The voice of the soul is the voice of the true conscience—not that conscience which is the voice of the internalized standards of society, known in Freudian terminology as the “super-ego.” The soul possesses the wisdom of aeons and knows the Divine Plan, and the part to be played in that Plan by the developing human being for whose aeonian unfoldment it has made itself responsible. Knowing the future as well as the past, the soul monitors behavior and directs activity—for the most part, generally and subtly. It is the soul’s task to ensure (within certain limits) that its personality conforms to the intended design. The soul may be nowhere nearly as interested in the details of personality life as many spiritually inclined people like to think, but it does seem to engineer certain “mid-course corrections” for the personality, in order to help it stay on track and true to soul-intended pattern. That voice which corrects personality missteps, points out omissions as well as commissions, and, in general, indicates proper direction, is the voice of the true conscience and is impelled from soul levels. |
3. Nguồn gốc của lương tâm và sự hướng dẫn đích thực của một người: Tiếng nói của linh hồn là tiếng nói của lương tâm đích thực — lương tâm đó không phải là tiếng nói của các tiêu chuẩn của xã hội được nội tại hoá, được gọi theo thuật ngữ của Freud là “bản ngã cao siêu”. Linh hồn sở hữu minh triết của các thiên kỷ và biết được Thiên Cơ, và trong nhiều thiên kỷ khai mở của nó, linh hồn đã tự chịu trách nhiệm về phần việc của nó trong thiên cơ đó. Biết được tương lai cũng như quá khứ, linh hồn giám sát hành vi và định hướng hoạt động — cho hầu hết công việc đó một cách đại thể và tinh vi. Nhiệm vụ của linh hồn là đảm bảo (trong những giới hạn nhất định) rằng phàm ngã của nó phù hợp với thiết kế đã định. Linh hồn có thể không quan tâm đến các chi tiết của đời sống phàm ngã như nhiều người có khuynh hướng tinh thần thích nghĩ như thế, nhưng dường như nó tạo ra một số “chỉnh sửa giữa chừng” cho phàm ngã, để giúp phàm ngã đi đúng hướng và đúng với khuôn mẫu đã định từ linh hồn. Tiếng nói đó sửa chữa những sai lầm trong phàm ngã, chỉ ra những thiếu sót cũng như nhiệm vụ, và nói chung, chỉ ra hướng đi đúng đắn. Nó là tiếng nói của lương tâm đích thực và được truyền ra từ các cấp độ linh hồn. |
From the personality point of view, life can seem bewildering and choices confusing. The personality, left to its own devices, is quite blind—blind to deeper issues and ultimate destinations. Sensitive people always remain alert for the guiding, directing indication; but how to recognize the true indication , when there are so many? In the following manner: the soul will speak with reference to the Divine Plan, and though its counsel may seem personal, it will not be so in reality, but will be aimed at fitting the individual for activities of larger-than-personal scope. |
Từ quan điểm phàm ngã, cuộc sống dường như có vẻ hoang mang và bối rối trong những lựa chọn. Nếu phó mặc cho các vận cụ của chính mình, Phàm ngã khá mù quáng — mù quáng trước những vấn đề sâu sắc hơn và những đích đến cuối cùng. Những người nhạy cảm luôn cảnh giác trước những hướng dẫn, chỉ dẫn trực tiếp; nhưng làm thế nào để nhận ra chỉ dẫn đích thực , khi mà có quá nhiều chỉ dẫn? Theo cách thức sau: linh hồn sẽ phát biểu liên quan đến Thiên Cơ, và mặc dù lời khuyên của nó có vẻ mang tính cá nhân, nhưng trên thực tế không phải như vậy, mà sẽ nhằm mục đích phù hợp cá nhân đó cho các hoạt động lớn hơn phạm vi cá nhân. |
4. Source of one’s most joyous activity: The expression of soul quality is sheer joy. There are many activities which can be reasonably enjoyable, but few are a source of such irrepressible joy that they could be continued indefinitely with unabated enthusiasm. Soul-inspired activities are like that. Those activities in which one is ever eager to invest oneself, “heart and soul,” are inspired from the level of the Transpersonal Self, and are recognized as unique. It is the soul’s will to express through personality. This it seeks to do, even as the personality, from its own limited point of view, is searching for that limited pursuit which (so it believes) will make it truly happy. When the two quests connect, the individual finds his true vocation , and a flowing source of strength enabling him to express himself continuously (and joyously) within that particular vocation. |
4. Nguồn gốc của hoạt động vui vẻ nhất của một người: Biểu hiện của phẩm tính linh hồn là niềm vui tuyệt đối. Có nhiều hoạt động có thể thú vị một cách hợp lý, nhưng có ít hoạt động mang lại niềm vui không thể kìm nén đến mức chúng có thể được tiếp tục vô hạn với sự say mê không suy giảm. Các hoạt động được truyền cảm hứng từ linh hồn là như vậy. Những hoạt động mà một người luôn mong muốn đầu tư cho bản thân, “trái tim và linh hồn”, được truyền cảm hứng từ cấp độ của Siêu Ngã, và được công nhận là duy nhất. Ý chí của linh hồn được biểu hiện qua phàm ngã. Linh hồn tìm cách làm điều này ngay cả khi phàm ngã, theo quan điểm hạn hẹp của riêng nó, đang tìm kiếm sự theo đuổi hạn hẹp cái mà (nó tin rằng) sẽ khiến nó thực sự hạnh phúc. Khi hai nhiệm vụ kết nối, cá nhân tìm thấy thiên tính đích thực của mình và một nguồn sức mạnh tuôn chảy ra cho phép y liên tục biểu hiện bản thân (một cách vui vẻ) với thiên tính cụ thể đó. |
There are many terms describing the finding of a soul-inspired line of activity. In one such, an individual is described as being “in his element.” This phrase suggests the existence of a diversity of elements or qualities, one of which is revealed as the individual’s own when, at last, he “finds himself.” When this occurs, the usual resistances and frictions inhibiting joyous self-expression are eliminated, and “things really start to flow.” [306] |
Có rất nhiều thuật ngữ mô tả việc tìm thấy một đường lối hoạt động được linh hồn truyền cảm hứng. Trong trường hợp như vậy, một cá nhân được mô tả như là “ở trong yếu tố của y”. Cụm từ này gợi ý sự tồn tại của nhiều yếu tố hoặc phẩm tính đa dạng , một trong số đó được bộc lộ như là của riêng cá nhân đó khi cuối cùng y “tìm thấy chính mình”. Khi điều này xảy ra, những kháng cự và ma sát thông thường ức chế sự thể hiện bản thân vui vẻ sẽ bị loại bỏ, và “mọi thứ thực sự bắt đầu tuôn chảy.” [306] |
As esoteric psychologists observe people to detect signs of the soul-in-action, they should note especially those activities which are performed joyously, naturally, zestfully, untiringly and unselfishly. These will be activities performed for their own sake, the prime reward of which is the doing. Personally inspired activities reinforce the personality center, and are generally performed with mixed motives, for they bring some personality reward. Soul-inspired activities may, incidentally, bring personality reward, but this is far from their main purpose. The consciousness of the doer is entirely upon the activity, and, interestingly, the sense of a separate personal center is temporarily lost during the doing. In other words, the doing is so pleasurable that one “loses oneself” in the activity. All soul activities contribute to the loss of self (in the lower sense), for the personal lower ego loses strength and, eventually, identity when the “feeding power” of the attention is directed elsewhere. The obtruding self always kills pure joy; in soul activities there is no obtruding self—and all is joy. |
Khi các nhà tâm lý học nội môn quan sát mọi người để phát hiện các dấu hiệu của linh hồn trong hành động, họ cần đặc biệt lưu ý những hoạt động được thực hiện một cách vui vẻ, tự nhiên, say mê, không mệt mỏi và không ích kỷ. Đây sẽ là những hoạt động được thực hiện vì lợi ích của riêng chúng, phần thưởng chính là việc làm đó. Các hoạt động được truyền cảm hứng cá nhân củng cố trung tâm phàm ngã, và thường được thực hiện với nhiều động cơ hỗn hợp, vì chúng mang lại cho phàm ngã một vài phần thưởng. Các hoạt động lấy cảm hứng từ linh hồn có thể ngẫu nhiên mang lại phần thưởng cho phàm ngã, nhưng điều này khác xa với mục đích chính của chúng. Tâm thức của người hành động hoàn toàn tập trung vào hoạt động, và thú vị là, ý thức về một trung tâm cá nhân riêng biệt tạm thời bị mất đi trong quá trình thực hiện. Nói cách khác, việc làm này rất thú vị đến nỗi một người “đánh mất chính mình” trong hoạt động đó. Tất cả các hoạt động của linh hồn đều góp phần làm mất đi cái tôi (theo nghĩa thấp hơn), vì phàm ngã cá nhân mất đi sức mạnh, và cuối cùng là bản sắc khi “sức mạnh nuôi dưỡng” của sự chú ý được điều hướng đến nơi khác. Cái tôi xông ra ngoài luôn giết chết niềm vui thuần khiết; trong các hoạt động linh hồn không có cái tôi xông ra ngoài — và tất cả là niềm vui. |
5. Source of one’s greatest sense of meaningfulness: When the personal consciousness is connected to a vision of the Plan or of the greater Whole, and sees where it fits into that larger picture, life takes on meaning . Meaning is created when any part is properly related to its whole. The personality’s vision is always partial; the soul’s vision is vast. As the love and wisdom of the soul infiltrate the personal consciousness, the common things of life are seen in a new and meaningful light. Something “beyond the ordinary” is indicated. Nothing in the personality life remains unrelated to a larger, broader purpose. Everything is seen to have its place within the “scheme of things.” Nothing appears irrelevant. |
5. Nguồn gốc của ý thức về ý nghĩa lớn nhất của một người: Khi tâm thức phàm ngã được kết nối với một tầm nhìn về Thiên cơ hoặc về Toàn thể lớn hơn và thấy được nơi mà nó phù hợp vào bức tranh lớn hơn, cuộc sống sẽ có ý nghĩa . Ý nghĩa được tạo ra khi bất kỳ bộ phận nào có liên quan thích hợp với toàn thể của nó. Tầm nhìn của phàm ngã luôn là một phần; tầm nhìn của linh hồn là rộng lớn. Khi sự bác ái và minh triết của linh hồn thấm nhập vào tâm thức phàm ngã, những điều bình thường của cuộc sống được nhìn dưới một ánh sáng mới và có ý nghĩa . Một cái gì đó “vượt ngoài cái bình thường” được chỉ ra. Không có gì trong đời sống phàm ngã mà không liên quan đến một mục đích rộng lớn hơn. Mọi thứ được coi là có vị trí của nó trong “hệ thống của sự vật”. Không có gì xuất hiện mà lại không có sự liên quan. |
People endow their experience with meaning according to the particular ray quality of their soul. The soul’s ray quality determines the manner in which they “make sense of things.” There will be seven different “frames of reference” by means of which people organize their world view. For instance, as a generalization, some people may interpret (or “frame”) all their experience in terms of beauty, others in terms of the scientific quest for knowledge, still others, in terms of power and law, and so forth for the remaining ray influences. No one framework is all inclusive; each framework is indicative of the particular ray ‘coloration’ of soul. |
Mọi người phú cho trải nghiệm của họ ý nghĩa tùy theo phẩm tính cung cụ thể của linh hồn họ. Phẩm tính cung của linh hồn xác định cách mà họ “hiểu ra mọi thứ”. Sẽ có bảy “hệ quy chiếu” khác nhau mà mọi người tổ chức thế giới quan của họ. Ví dụ, như một cách khái quát, một số người có thể giải thích (hoặc “đóng khung”) tất cả kinh nghiệm của họ theo sự mỹ lệ, những người khác theo nhiệm vụ khoa học tìm kiếm tri thức, còn những người khác, theo quyền lực và luật lệ, v.v… tương tự như thế cho những ảnh hưởng các cung còn lại. Không có một khuôn khổ nào là bao gồm tất cả; mỗi khuôn khổ là biểu hiện của ‘màu sắc’ cung cụ thể của linh hồn. |
In general then, soul influence bestows meaning, and the particular ray quality of the soul (as it impresses the incarnated soul within the personality) determines the nature of the world view through which meaning will be realized. From a clear and simplistic point of view, the esoteric psychologist searching for the influence of the soul in personal life may simply inquire, “What do you find most meaningful?” |
Nói chung, ảnh hưởng của linh hồn mang lại ý nghĩa, và phẩm tính cung cụ thể của linh hồn (vì nó gây ấn tượng lên linh hồn nhập thế bên trong phàm ngã) quyết định bản chất của thế giới quan mà qua đó ý nghĩa sẽ được nhận ra. Từ một quan điểm rõ ràng và đơn giản, nhà tâm lý học nội môn tìm kiếm ảnh hưởng của linh hồn trong cuộc sống cá nhân có thể chỉ đơn giản hỏi, “Bạn thấy điều gì có ý nghĩa nhất?” |
6. Source of one’s sense of the sacred: The sacred is not necessarily the “religious,” or even what is normally called “spiritual.” For those who are gradually developing soul infusion, however, there are certain activities, certain contacts, certain people or places which are intensely special —endowed with what might be called an ‘aura of sanctity.’ Such experiences are sacred, numinous, touched with the “sense sublime of something [307] far more deeply interfused”; they lead to a growing identification with the divine wholeness, or “holiness.” When the soul field is manifesting powerfully in the personal life, and when soul-inspired activities are being pursued, the sense of the sacred will be almost palpable, pervading all that is being done. The esoteric psychologist seeking the soul within an individual, must be sensitive and alert to the particular quality of that which inspires a sense of the sublime. What an individual values as sacred is a key to the quality of his soul. |
6. Nguồn gốc ý thức của một người về điều thiêng liêng: Điều thiêng liêng không nhất thiết phải là “tôn giáo”, hay thậm chí những gì thường được gọi là “tinh thần”. Tuy nhiên, đối với những người đang dần phát triển sự hợp nhất với linh hồn, có một số hoạt động nhất định, một số liên hệ nhất định, một số người hoặc một số địa điểm vô cùng đặc biệt — được ban tặng cho thứ có thể được gọi là ‘hào quang của sự thiêng liêng.’ Những trải nghiệm như vậy thật thiêng liêng, bí ẩn, cảm động với “ý thức cao siêu về một cái gì đó [307] hoà hợp sâu sắc hơn nhiều”; chúng dẫn đến sự đồng nhất ngày càng tăng với sự toàn vẹn thiêng liêng, hay “sự thánh thiện”. Khi trường linh hồn đang thể hiện một cách mạnh mẽ trong đời sống cá nhân, và khi các hoạt động lấy cảm hứng từ linh hồn đang được theo đuổi, ý thức về điều thiêng liêng sẽ gần như có thể sờ thấy được, bao trùm tất cả những gì đang được thực hiện. Nhà tâm lý học nội môn tìm kiếm linh hồn bên trong một cá nhân, phải nhạy cảm và tỉnh táo trước phẩm tính đặc biệt của nó vốn thôi thúc ý thức cao siêu. Những gì một cá nhân coi như thiêng liêng là một chìa khóa cho phẩm tính của linh hồn y. |
7. Source of one’s “heart’s desire”: The deep desire of the heart is a reflection of the will of the soul. There are many lesser desires, and the entire story of human evolution can be seen as the relinquishing of lower desire in favor of progressively higher desires. But there is something at the root of all individuals which is their motivating power, the real reason they have “taken incarnation.” It is that which inspires them, and which is “closest to their heart.” Indeed, the soul lies at “the heart of the matter.” |
7. Nguồn gốc “ước muốn của trái tim” của một người: Ước muốn sâu xa của trái tim là sự phản ánh ý chí của linh hồn. Có nhiều ham muốn thấp hơn, và toàn bộ câu chuyện về sự tiến hóa của con người có thể được coi là sự từ bỏ ham muốn thấp kém để dần chuyển sang ham muốn cao hơn. Nhưng có một điều gì đó ở tận gốc rễ của tất cả các cá nhân vốn là sức mạnh thúc đẩy của họ, lý do thực sự mà họ đã “nhập thế”. Đó là điều truyền cảm hứng cho họ, và là thứ “gần gũi nhất với trái tim họ”. Thật vậy, linh hồn nằm ở “trái tim của vật chất”. |
Often the influence of the soul seems difficult to discern, obscured by many competing energies and impulses. But finding the soul is as simple as “going straight to the heart.” There, can be found the stream of purest desire longing to be actualized. Despite the many frustrations caused by conditions and circumstance, the “heart’s desire” patiently awaits its day of fulfillment. When people are asked to reveal the deepest desire of their heart (especially during the later stages of evolution, when the heart center is more fully developed), that desire will reveal the soul. The words “heart’s desire” are almost mantric; rarely do they fail to evoke that which is most sacred and most essential to the individual. [308] |
Thường thì ảnh hưởng của linh hồn dường như khó nhận biết, bị che lấp bởi nhiều năng lượng và xung lực cạnh tranh. Tuy nhiên, việc tìm thấy linh hồn cũng đơn giản như “đi thẳng vào trái tim”. Ở đó, có thể tìm thấy luồng ước muốn thuần khiết nhất khao khát được hiện thực hóa. Bất chấp nhiều điều thất vọng do điều kiện và hoàn cảnh gây ra, “ước muốn của trái tim” vẫn kiên nhẫn chờ ngày hoàn thiện. Khi con người được yêu cầu bộc lộ ước muốn sâu xa nhất của trái tim họ (đặc biệt là trong giai đoạn sau của quá trình tiến hóa, khi trung tâm lực tim đã phát triển đầy đủ hơn), ước muốn đó sẽ làm hiển lộ linh hồn. Các từ “ước muốn của trái tim” gần như là câu thần chú; hiếm khi chúng không khơi gợi được điều thiêng liêng nhất và thiết yếu nhất đối với cá nhân. [308] |
The Personality Faculty within the Personality Field —Năng lực của Phàm ngã trong Trường Phàm ngã
Within the teaching of esotericism, the personality occupies an ambiguous place, for it is both valued and depreciated. From one point of view it is the soul’s most valuable instrument of expression, comprising as it does a synthesis of the three lower fields— the mental, emotional and etheric-physical fields; from another point of view, it is the soul’s primary opposition, preventing, blocking or distorting soul expression within the three worlds of human evolution. |
Trong giáo lý nội môn, phàm ngã chiếm một vị trí không rõ ràng, vì nó vừa được coi trọng vừa bị đánh giá thấp. Theo một quan điểm, nó là khí cụ biểu đạt có giá trị nhất của linh hồn, nó bao gồm sự tổng hợp của ba trường thấp hơn — thể trí, cảm xúc và dĩ thái-thể xác; ở một quan điểm khác, nó là sự đối lập chính của linh hồn, ngăn cản, làm tắc nghẽn hoặc bóp méo sự biểu hiện của linh hồn trong ba cõi tiến hóa của con người. |
It is important for the esoteric psychologist to be conversant with both roles played by the personality, consequently, both positive and negative personality traits will be presented and discussed. |
Điều quan trọng đối với nhà tâm lý học nội môn là phải đối thoại được với cả hai vai trò của phàm ngã, do đó, cả những đặc điểm phàm ngã tích cực và tiêu cực sẽ được trình bày và thảo luận. |
It must here be remembered that, just as all people do not express themselves as souls, because the alignment between soul and personality has not been achieved, so, not all people are personalities. Unless the three lower vehicles or fields have been successfully integrated, and can perform simultaneously with efficiency, it is not technically correct to describe the human being in question as a personality . However, even prior to the time of complete personality integration, temporary moments of integration begin to occur; at such times one can observe “personality” in action, and can detect the ray quality which will eventually manifest with relative consistency once the fusion of mind, emotions and the etheric-physical nature is an irrevocably accomplished fact. |
Ở đây cần phải nhớ rằng, cũng như tất cả mọi người không tự thể hiện mình như là những linh hồn, bởi vì sự chỉnh hợp giữa linh hồn và phàm ngã vẫn chưa đạt được, do đó, không phải tất cả mọi người đều là những phàm ngã. Trừ khi ba vận cụ hoặc trường thấp hơn đã được tích hợp thành công và đồng thời có thể hoạt động hiệu quả, nếu không sẽ không đúng về mặt kỹ thuật khi mô tả con người được đề cập như một phàm ngã . Tuy nhiên, ngay cả trước thời điểm phàm ngã tích hợp hoàn toàn, những khoảnh khắc tích hợp tạm thời bắt đầu xảy ra; tại những thời điểm như vậy, người ta có thể quan sát “phàm ngã” trong hành động, và có thể phát hiện phẩm tính cung mà cuối cùng sẽ biểu hiện với tính nhất quán tương đối một khi sự hợp nhất của thể trí, cảm xúc và bản chất dĩ thái-thể xác là một thực tế không thể thay đổi. |
It must also be remembered, though it is difficult to apprehend, that a faculty is not a field . The faculty of mind is not the mental field; sentiency is not the emotional field; and the power to act upon the etheric-physical plane is not the etheric-physical field. Nor is the combined power to be a thinking, feeling, acting personality the same as the integrated fields through which this personality functions. All faculties are inherent in the man himself . This means, ultimately, that faculties are inherent in the Monad and are projected by the Monad into the various states of ‘immersion.’ (For instance, the faculties of atma, buddhi and manas are projected into the fields of the Spiritual Triad— this is the first state of immersion; the projection of the spiritual will, spiritual love and spiritual mind into the causal field represent the second and denser state of immersion; and the further projection or attenuation of will, love and mind in each of the personality vehicles, in descending order, represent progressively denser states of immersion.) |
Cũng cần phải nhớ rằng, mặc dù rất khó để hiểu rằng một năng lực không phải là một trường . Năng lực thể trí không phải là trường trí tuệ; khả năng cảm giác không phải là trường tình cảm; và năng lực hành động trên cõi dĩ thái-vật lý không phải là trường dĩ thái-vật lý. Năng lực kết hợp để là một phàm ngã có tư duy, cảm giác, hành động không giống như các trường tích hợp mà qua đó phàm ngã này hoạt động. Tất cả mọi năng lực đều vốn có trong chính bản thân con người . Cuối cùng, điều này có nghĩa là các năng lực vốn có trong Chân Thần và được Chân Thần phóng chiếu vào các trạng thái ‘đắm chìm’ khác nhau. (Ví dụ, các năng lực của atma, bồ đề và manas được phóng chiếu vào các trường của Tam nguyên Tinh thần — đây là trạng thái đắm chìm đầu tiên; sự phóng chiếu của ý chí tinh thần, tình thương tinh thần và trí tuệ tinh thần vào trường nguyên nhân đại diện cho trạng thái đắm chìm thứ hai đậm đặc hơn; và sự phóng chiếu hoặc suy giảm thêm của ý chí, tình thương và trí tuê trong mỗi khí cụ phàm ngã, theo thứ tự giảm dần, đại diện cho các trạng thái đắm chìm đậm đặc hơn .) |
Faculties need fields through which to manifest, but they are not the medium of manifestation. When one considers the foundational trinity of subject, object and the relation between, then the subject is the man himself (the Monad in various states of projection and immersion), the identity which never changes no matter what the form through which it appears; the object is the field through which the subject manifests; and the relation between is the power or faculty by means of which the subject manifests in a particular field or vibratory environment. |
Các năng lực cần các trường để biểu lộ thông qua đó, nhưng chúng không phải là phương tiện biểu lộ. Khi người ta xem xét bộ ba nền tảng của chủ thể, khách thể và mối quan hệ giữa chúng , thì chủ thể là chính con người (Chân Thần trong các trạng thái phóng chiếu và đắm chìm khác nhau), bản sắc không bao giờ thay đổi cho dù nó xuất hiện dưới hình thức nào; khách thể là trường mà qua đó chủ thể biểu lộ; và mối quan hệ giữa chúng là khả năng hoặc năng lực mà chủ thể biểu lộ trong một trường hoặc môi trường rung động nhất định. |
Our language is not very exact when it comes to making these distinctions, and for purposes of explanation, one cannot forever be distinguishing, for instance, between the personality as a faculty or power of the essential man, and the personality field through which the essential man manifests by means of that faculty. Nevertheless, in the interests of accuracy, it is an important distinction to bear in mind. |
Ngôn ngữ của chúng ta không thật chính xác khi nói đến những sự khác biệt này, và vì mục đích giải thích, người ta vĩnh viễn không thể phân biệt được, chẳng hạn, giữa phàm ngã với tư cách là năng lực hay khả năng của con người thiết yếu, và trường phàm ngã mà thông qua đó con người cốt yếu biểu lộ bằng phương tiện của năng lực đó. Tuy nhiên, vì lợi ích của tính chính xác, nó là một điểm khác biệt quan trọng cần ghi nhớ. |
Some Key Functions, Operations and Characteristic Dynamics of the Personality as a Faculty within the Personality Field —Một số Chức năng, Hoạt động và Động lực Đặc trưng Chính của Phàm ngã với tư cách là một năng lực trong Trường Phàm ngã
Positive Personality Dynamics Considering the Personality as the: |
Những Động lực Tích cực của Phàm ngã là: |
1. Primary instrument for expressing the soul or Ego within the three worlds of human evolution. |
1. Khí cụ chính để thể hiện linh hồn hoặc Chân ngã trong ba cõi tiến hóa của nhân loại. |
2. Primary means (and result) of integrating the mental, sentient and etheric-physical fields. |
2. Phương tiện chính (và kết quả) của việc tích hợp các trường trí tuệ, cảm dục và dĩ thái-vật lý. |
3. Primary means of coordinating and directing physical plane activity. |
3. Phương tiện chính để điều phối và chỉ đạo hoạt động thuộc cõi vật chất. |
4. Primary means of establishing the identity of the lower ego, or personal identity. |
4. Phương tiện chính để thiết lập bản sắc của bản ngã thấp, hoặc bản sắc cá nhân. |
5. Primary means of establishing genuine self-reliance, distinction from the mass, and originality. |
5. Phương tiện chính để thiết lập tính tự lực chân chính, sự khác biệt với số đông và tính độc đáo. |
6. Primary means of establishing the preliminary vocation. |
6. Các phương tiện chính để thiết lập thiên tính ban đầu. |
Commentary on Positive Personality Dynamics |
Giải thích về Những Động Lực Tích Cực của Phàm Ngã |
1. Primary means of expressing soul or Ego within the three worlds of human evolution: The soul needs the personality. This is often forgotten by spiritually inclined students who think that to live as a soul (or Ego) one must despise or, at least, ignore the personality. If we were disembodied souls, such might be the case, but we are souls in manifestation, and our purpose is to express the inherent pattern of the soul in the three lower worlds of manifestation—the mental, emotional and etheric-physical planes of vibration. The personality field (considered as a totality) is our only available means for this expression. |
1. Phương tiện chính để thể hiện linh hồn hay Chân ngã trong ba cõi tiến hóa của con người: Linh hồn cần có phàm ngã. Điều này thường bị lãng quên bởi những học viên thiên về tinh thần, những người nghĩ rằng để sống như một linh hồn (hay Chân ngã) người ta phải coi thường hoặc ít nhất là bỏ qua phàm ngã. Nếu chúng ta là những linh hồn rời rạc, có thể là như vậy, nhưng chúng ta là những linh hồn đang hiển lộ, và mục đích của chúng ta là thể hiện khuôn mẫu vốn có của linh hồn trong ba cõi biểu lộ thấp — cõi trí, cõi cảm dục và cõi dĩ thái-vật lý của rung động. Trường phàm ngã (được coi là tổng thể) là phương tiện khả dụng duy nhất của chúng ta cho sự biểu lộ này. |
There are numerous definitions of personality. From the point of view of the Ageless Wisdom, the personality field is comprised of the union of the three lower fields—the mental, sentient and bio-fields. Just as the vehicles or fields through which are expressed the lower mental faculty, the sentient faculty and the faculty of etheric-physical sensation are, in fact, elementals (involutionary lives or entities swept into the service [ 310] of the soul), so the vehicle for personality consciousness is also an elemental life which embraces the lesser three vehicles or fields. Because involutionary lives blindly seek to involve themselves ever more deeply in matter, their ‘instincts’ run counter to that of the essential human being (the soul in incarnation) for whom they serve as the outer (though living) garment. This fact is the cause of the initial and natural antagonism between the evolving human unit and his involutionary vehicles or fields. |
Có rất nhiều định nghĩa về phàm ngã. Theo quan điểm của Minh Triết Ngàn Đời, trường phàm ngã bao gồm sự kết hợp của ba trường thấp hơn — trường trí tuệ, tri giác và sinh học. Cũng giống như các vận cụ hoặc các trường mà qua đó năng lực hạ trí, năng lực tri giác và năng lực cảm giác vật lý-dĩ thái biểu hiện, trên thực tế, là các tinh linh (các sinh linh hoặc các thực thể theo đường giáng hạ tiến hoá bị cuốn vào việc phụng sự [310] của linh hồn). Vì vậy vận cụ cho tâm thức của phàm ngã cũng là một sự sống thuộc tinh linh bao gồm ba vận cụ hoặc trường nhỏ hơn. Bởi vì các sinh linh theo đường tiến hóa giáng hạ luôn tìm cách cuốn chính nó vào vật chất sâu hơn một cách mù quáng, nên ‘bản năng’ của chúng ngược lại với ‘bản năng’ của con người cốt yếu (linh hồn khi lâm phàm), người mà chúng phục vụ với vai trò như chiếc áo khoác ngoài (mặc dù sống động). Thực tế này là nguyên nhân của sự đối kháng ban đầu và tự nhiên giữa đơn vị con người đang tiến hóa với các vận hoặc trường theo lối tiến hóa giáng hạ của anh ta. |
The more sensitive and responsive the personality field is to the soul, the more successfully the soul can express itself within the three worlds. The entire theme of evolution deals with the aeonian preparation of the three personal fields, and finally, of the integrated personality field as a whole, in preparation for its fusion with (and absorption into) the soul field. This fusion is known in religious terminology as the “Transfiguration,” and when it is complete, the personality field has become a perfected means of expression for the soul, the Ego, the Transpersonal Self. |
Trường phàm ngã càng nhạy cảm và đáp ứng với linh hồn, thì linh hồn càng có thể biểu hiện thành công bản thân trong tam giới. Toàn bộ chủ đề của quá trình tiến hóa liên quan đến quá trình chuẩn bị hàng thiên kỷ của ba trường cá nhân, và cuối cùng, của trường phàm ngã tích hợp như một tổng thể, để chuẩn bị cho sự hợp nhất của nó với (và hấp thụ vào) trường linh hồn. Sự hợp nhất này được biết đến trong thuật ngữ tôn giáo là “Sự biến dung”, và khi sự hợp nhất hoàn tất, trường phàm ngã đã trở thành một phương tiện biểu đạt hoàn hảo cho linh hồn, Chân ngã, Siêu Ngã. |
2. Primary means (and result) of integrating the mental, sentient and etheric- physical fields: The personality field only emerges into prominence when there is a high level of coordination among the three lower fields. This coordination means that these fields can “act as one.” The human being can then think, feel and act simultaneously and effectively. In the Ageless Wisdom, this state is called personality integration ; colloquially, it is called “getting one’s act together.” The growing personal consciousness within the personality field is the faculty or power which enforces the integration. |
2. Phương tiện chính (và kết quả) của việc tích hợp các trường trí tuệ, cảm xúc và vật lý-dĩ thái: Trường phàm ngã chỉ nổi bật khi có sự phối hợp cao độ giữa ba trường thấp hơn. Sự phối hợp này có nghĩa là các trường này có thể “hoạt động như một”. Sau đó, con người có thể suy nghĩ, cảm nhận và hành động đồng thời và hiệu quả. Theo Minh Triết Ngàn Đời, trạng thái này được gọi là sự tích hợp phàm ngã ; nói chung, nó được gọi là “tổ chức lại chính bạn theo một cách hiệu quả hơn.” Tâm thức cá nhân ngày càng tăng trong trường phàm ngã là năng lực hoặc khả năng thực thi việc hợp nhất. |
Before personality integration is achieved there is struggle (even warfare) among three aspects of the personality—not to mention division and conflict within the various personality fields themselves. However, personality is endowed with what might be called ‘the centralizing force of selfhood,’ and because of its intensifying sense of being a distinct and separate self needing self-expression, it disciplines and coordinates the lower vehicles, compelling them to function as one, thus serving the objectives of the integrated lower self. |
Trước khi đạt được phàm ngã tích hợp, có sự đấu tranh (thậm chí là chiến tranh) giữa ba khía cạnh của phàm ngã — chưa kể đến sự phân chia và xung đột trong chính bản thân các trường thuộc phàm ngã. Tuy nhiên, phàm ngã được phú cho thứ có thể được gọi là ‘sức mạnh tập trung của tính vị kỷ,’ và vì ý thức ngày càng mạnh mẽ là một cái tôi riêng biệt và chia tách cần tự biểu lộ, nó rèn luyện và điều phối các vận cụ thấp hơn, buộc chúng phải hoạt động như một, do đó phục vụ các mục tiêu của bản ngã thấp đã tích hợp. |
The energy of the personality becomes more dominant than any of the three lower energies. These three are made subservient, and must acquiesce or harmonize with the energy exerted from the personality center. The particular dynamics of this process depend upon the particular ray energy of the personality, and with the astrological factors which are associated with the personality—especially the Sun sign. |
Năng lượng của phàm ngã trở nên nổi trội hơn bất kỳ năng lượng nào trong ba năng lượng thấp hơn. Ba yếu tố này bị khuất phục, và phải chấp nhận hoặc hài hòa với năng lượng phát ra từ trung tâm phàm ngã. Các động lực cụ thể của quá trình này phụ thuộc vào năng lượng cung cụ thể của phàm ngã, và với các yếu tố chiêm tinh có liên quan đến phàm ngã — đặc biệt là dấu hiệu Mặt trời. |
3. Primary means of coordinating and directing physical plane activity: From one point of view, personalities are effective human beings; they are people who “stand out” and who make a difference. The personality is the third aspect within the trinity of “periodic vehicles”—Monad, soul and personality. It is, therefore, related to matter, which is the third aspect in the trinity—spirit, soul, matter. In the lower three worlds, the matter aspect is most related to the physical plane, and so is personality (just as soul is related to the sentient field, and the Monad to the mental field). The natural field of [311] application for the personality as a whole is the concrete, physical plane. For long ages the human being is not especially intelligent or effective in his approach to this dense physical world. During the stage in which the personality becomes an integrated whole, all this is changed. The personality “takes charge;” it becomes a directing and self- directing agency. It bends circumstances to its will and its focused desires; its particular method for doing so, again, will depend upon the ray and astrological energies which condition it. |
3. Các phương tiện chính để điều phối và chỉ đạo hoạt động trên cõi vật lý: Từ một góc nhìn, phàm ngã là những con người hiệu quả ; họ là những người “nổi bật” và tạo ra sự khác biệt. Phàm ngã là khía cạnh thứ ba trong bộ ba “vận cụ tuần hoàn” —Chân Thần, linh hồn và phàm ngã. Do đó, nó liên quan đến vật chất, là khía cạnh thứ ba trong ba ngôi — tinh thần, linh hồn, vật chất. Trong ba cõi thấp, khía cạnh vật chất liên quan nhiều nhất đến cõi vật lý, và phàm ngã cũng vậy (giống như linh hồn liên quan đến lĩnh vực cảm xúc, và Chân thần liên quan đến lĩnh vực trí tuệ). Trường ứng dụng tự nhiên [311] cho phàm ngã như một tổng thể là cõi vật lý cụ thể. Trong một thời gian dài, con người không đặc biệt thông minh hoặc hiệu quả trong cách tiếp cận với thế giới vật lý đậm đặc này. Trong giai đoạn mà phàm ngã trở thành một tổng thể tích hợp, tất cả những điều này đều bị thay đổi. Phàm ngã “đảm trách;” nó trở thành một cơ quan chỉ đạo và tự định hướng. Nó uốn cong hoàn cảnh theo ý muốn và những ham muốn tập trung của nó; Phương pháp cụ thể mà nó sử dụng để làm như vậy, một lần nữa, sẽ phụ thuộc vào năng lượng cung và chiêm tinh vốn quy định nó. |
4. Primary means of establishing the identity of the lower ego, or centralized identity: Centralized identity is the key to understanding personality consciousness. “Personality” is a force which characterizes the human entity who has been transformed from a member of the mass into a distinct person. From indistinctness to distinctness; from being very much like all the others, to being “one of a kind;” from being just a “nobody” to being “somebody;” from usualness to unusualness, and from ordinariness to uniqueness; this is what it means to emerge upon the “stage of life” as a personality. No longer simply a member of nation, tribe, family, class, profession, etc., a personality stands at the center of its world, possessed of an inalienable identity. |
4. Phương tiện chính để thiết lập bản sắc của phàm ngã, hay bản sắc trung tâm: Bản sắc trung tâm là chìa khóa để hiểu ý thức của phàm ngã. “Phàm ngã” là một mãnh lực đặc trưng cho thực thể con người đã được biến đổi từ một thành viên của số đông thành một con người biệt lập. Từ sự không biệt lập đến sự biệt lập; từ thực thể rất giống tất cả thực thể khác, trở thành “có một không hai;” từ chỉ là một thực thể “không là ai” trở thành thực thể “là một ai đó;” từ bình thường đến khác thường, và từ sự tầm thường đến sự độc nhất; tức là xuất hiện ở “giai đoạn của cuộc sống” với tư cách là một phàm ngã. Không còn đơn giản là một thành viên của quốc gia, bộ lạc, gia đình, giai cấp, nghề nghiệp, v.v., một phàm ngã đứng ở trung tâm thế giới của nó, sở hữu một bản sắc bất khả xâm phạm. |
What passes for personal consciousness prior to the stage of personality integration is very diffused. The sense of self, of ego (small “e”), is amorphous. The attention of the human entity is randomly focused at various points within the three personality vehicles—mental, emotional and physical, but the distinct sense of center is missing. Personality, however, is a centralizing force. It refers all experience (internal and external) to the centralized point of selfhood , an “I”—illusory though this “I” may be in an ultimate sense. |
Những gì trải qua đối với ý thức cá nhân trước giai đoạn phàm ngã tích hợp là rất phân tán. Ý thức về bản thân, về cái tôi (ego, chữ “e” nhỏ), là vô định hình. Sự chú ý của thực thể con người được tập trung một cách ngẫu nhiên vào các điểm khác nhau trong ba phương tiện phàm ngã — trí tuệ, cảm xúc và thể chất, nhưng thiếu ý thức về trung tâm biệt lập. Tuy nhiên, phàm ngã là một mãnh lực tập trung. Nó đề cập đến tất cả kinh nghiệm (bên trong và bên ngoài) đến điểm trung tâm của sự vị kỷ , một “cái tôi” —ảo tưởng, mặc dù cái “tôi” này có thể là một nghĩa tối thượng. |
The intensifying act of centralization brings with it power, effectiveness and recogni- tion. Personal selfhood means focus; focus means efficiency. Once the personal ego is well-established as the seemingly permanent center of identity, it does all it can to perpetuate that center. |
Hành động tăng cường sự tập trung hóa mang lại cho nó sức mạnh, sự hiệu quả và sự công nhận. Vị kỷ cá nhân có nghĩa là tập trung; tập trung có nghĩa là hiệu quả. Một khi cái tôi cá nhân được thiết lập tốt như là trung tâm của bản sắc dường như thường tồn, nó sẽ làm tất cả những gì có thể để duy trì trung tâm đó. |
Dangerous though the stage of personality emphasis may be when prolonged, it is entirely necessary. The soul needs the personality, and only an integrated personality can express the soul to any degree of adequacy. |
Mặc dù, điều nguy hiểm là giai đoạn nhấn mạnh phàm ngã này có thể kéo dài, nó lại hoàn toàn cần thiết. Linh hồn cần phàm ngã, và chỉ một phàm ngã tích hợp mới có thể biểu lộ linh hồn ở bất kỳ mức độ thỏa đáng nào. |
5. Primary means of establishing genuine self-reliance, distinction from the mass, and originality: Before the human consciousness finds its center as a person, it attaches itself to many people, many things, and many parts of its own energy system. It is in a condition of dependence, reliance and imitativeness. It leans on others (consciously or unconsciously) and has “nothing of its very own” (so it often thinks) to offer. An entity in this immature condition cannot enter into conscious cooperation with the soul or Transpersonal Self. |
5. Phương tiện chính để thiết lập tính tự lực chân chính, sự khác biệt với số đông và tính độc đáo: Trước khi ý thức con người tìm thấy trung tâm của nó là một con người, nó đã gắn bó chính mình với nhiều người, nhiều sự vật và nhiều bộ phận trong hệ thống năng lượng của chính nó. Nó ở trong tình trạng lệ thuộc, dựa dẫm và bắt chước. Nó dựa vào người khác (một cách có ý thức hoặc vô thức) và “không có gì của riêng nó” (vì vậy nó thường nghĩ) để đưa ra. Một thực thể trong tình trạng chưa trưởng thành này không thể tham gia vào việc hợp tác có ý thức với linh hồn hoặc Bản ngã Siêu cá nhân. |
Personality integration must precede soul infusion. The centralizing force of personality enables the human entity manifesting in the three worlds to become self-reliant, and [ 312] to see itself as a distinct and independent point of consciousness and power, a point of origin, and thus (despite limitations) a point of originality . A personality wants and is able to do things its own way — because, it recognizes that, at last, it has a way. A personality can “do its own thing,” because its separation and distinction from the mass has given it something all its own . |
Một phàm ngã tích hợp phải đi trước sự thấm nhập của linh hồn. Mãnh lực tập trung của phàm ngã cho phép thực thể con người biểu hiện trong tam giới trở nên tự chủ, và [312] tự coi mình như một điểm riêng biệt và độc lập của ý thức và sức mạnh, một điểm xuất phát, và do đó (bất chấp những hạn chế) một điểm của sự độc đáo . Một phàm ngã muốn và có thể làm mọi thứ theo cách riêng của nó— bởi vì, nó nhận ra rằng cuối cùng thì nó có một cách riêng. Phàm ngã có thể “làm những thứ của riêng mình,” bởi vì sự tách biệt và khác biệt với số đông đã cho nó một cái gì đó của riêng nó. |
In a state of pre-integrated dependency one cannot begin thinking for oneself; one will not consider oneself a source. But a personality can and will. To a man deeply involved in the state of personality, the self becomes the most important reference point. Whatever arises within that self becomes valued for that very reason. The will of that self, its desires, its urges, its plans, its intentions all receive priority. Personality is, therefore, a necessary state of limited individuality which prepares the incarnated soul for fusion with the soul itself—the real Individual. |
Trong trạng thái phụ thuộc trước khi tích hợp, người ta không thể bắt đầu suy nghĩ cho chính mình; một người sẽ không coi mình là một nguồn. Nhưng một phàm ngã có thể và sẽ như vậy. Đối với một người đi sâu vào trạng thái của phàm ngã, bản thân trở thành điểm tham chiếu quan trọng nhất. Bất cứ điều gì nảy sinh bên trong cái tôi đó đều trở nên có giá trị vì chính lý do đó. Ý chí của bản thân, mong muốn của nó, thôi thúc của nó, kế hoạch của nó, những dự định của nó đều được ưu tiên. Do đó, phàm ngã là một trạng thái cần thiết của giới hạn cá nhân chuẩn bị cho linh hồn nhập thể để hòa hợp với chính linh hồn — trở thành một Cá nhân thực sự. |
6. Primary means of establishing the preliminary vocation: Under the force of personality, we emerge into recognition; we are noticed for what we are; we do something that others can “count upon;” we achieve a preliminary distinction. We find our first vocation, our first “calling” and “make our way in the world.” A mere job is not a vocation. Personalities are, to use the psychological term, “individualized,” and they do (or strive to do) something in the world that suits them . Ordinary jobs are like slots into which standardized parts (and standardized people) can fit. Personalities (when expressing their true pattern) have distinctness, and they do not fit the established molds. Even when forced to “take a job,” they bring something of their own to it— something to express their growing individuality. |
6. Các phương tiện chính để thiết lập thiên hướng sơ khai: Dưới sức mạnh của phàm ngã, chúng ta xuất hiện để được nhận ra; chúng ta được chú ý vì những gì chúng ta là; chúng ta làm điều gì đó mà những người khác có thể “tin tưởng vào;” chúng ta đạt được một sự khác biệt sơ khai. Chúng ta tìm thấy thiên hướng đầu tiên của mình, “sự kêu gọi” đầu tiên của chúng ta và “tạo ra con đường của chúng ta trên thế gian”. Một công việc đơn thuần không phải là một thiên hướng. Sử dụng thuật ngữ tâm lý học, Các phàm ngã được “biệt ngã hóa”, và chúng thực hiện (hoặc cố gắng thực hiện) điều gì đó trên thế gian phù hợp với chúng. Các công việc bình thường giống như các vị trí trong các cơ quan được tiêu chuẩn hóa (và những người được tiêu chuẩn hóa) có thể phù hợp. Các phàm ngã (khi thể hiện khuôn mẫu đích thực của chúng) có sự khác biệt, và chúng không phù hợp với những khuôn mẫu đã được thiết lập sẵn. Ngay cả khi bị buộc phải “nhận một công việc”, chúng vẫn mang theo thứ gì đó của riêng mình—thứ gì đó để thể hiện cá tính đang phát triển của chúng. |
Even when a vocation is found which suits the personality (and even though the success be great), it is not usually the one which suits the soul. Crisis ensues, and the powerful personality is weaned from its attractions to particular activities and forms of expression, while being spiritually compelled to serve the calling of the soul—the true vocation. Nevertheless, early or preliminary vocation (if truly worthy of the term “vocation”) is usually dictated by the energy pattern of the personality. Through the use of personality energy we “carve out a niche for ourselves” rather than forcing ourselves to fit into one. |
Ngay cả khi tìm thấy một thiên hướng phù hợp với phàm ngã (và mặc dù thành công là rất lớn), nó chưa chắc đã là thiên hướng phù hợp với linh hồn. Khủng hoảng xảy ra, và phàm ngã mạnh mẽ bị dứt khỏi sự hấp dẫn nó tới các hoạt động cụ thể và hình tướng của biểu hiện, trong khi bị cưỡng ép về mặt tinh thần để phục vụ tiếng gọi của linh hồn—thiên hướng đích thực. Tuy nhiên, thiên hướng ban đầu hoặc sơ khai (nếu thực sự xứng đáng với thuật ngữ “thiên hướng”) thường được quy định bởi khuôn mẫu năng lượng của phàm ngã. Thông qua việc sử dụng năng lượng của phàm ngã, chúng ta “tạo ra một vị trí thích hợp cho chính mình” thay vì buộc bản thân phải phù hợp với một lĩnh vực nào đó. |
Negative Personality Dynamics — Những Động Lực Tiêu Cực của Phàm Ngã
Considering the Personality as the: |
Coi Phàm ngã như: |
1. Primary means of standing in the way of the Higher Self. |
1. Phương tiện chính trong việc cản đường Chân Ngã. |
2. Primary means of evading or failing to respond to the “higher calling.” |
2. Phương tiện chính trong việc trốn tránh hoặc thất bại trong việc đáp ứng lại “tiếng gọi cao hơn”. |
3. Primary means of limiting expansion and refusing to grow. |
3. Phương tiện chính trong việc hạn chế sự mở rộng và từ chối phát triển. |
4. Primary means of expressing selfishness and separateness. |
4. Phương tiện chính trong việc thể hiện tính ích kỷ và chia rẽ. |
5. Primary means of self-centering and self-referencing. [ 313] |
5. Phương tiện chính trong việc lấy bản thân làm trung tâm và tự tham chiếu. [313] |
Commentary on Negative Personality Dynamics |
Bình giải về Những Động Lực Tiêu Cực của Phàm Ngã |
1. Primary means of standing in the way of the Higher Self: Personality can be opaque or translucent. When translucent, it is the valued instrument of the soul, faithfully transmitting soul light into the three lower worlds. When opaque, it blocks the light of the soul. As personalities, we often stand in our own light —for we are also souls. |
1. Phương tiện chính trong việc cản đường Chân Ngã: Phàm ngã có thể đục hoặc trong. Khi trong, nó là công cụ có giá trị của linh hồn, truyền một cách trung thực ánh sáng linh hồn vào tam giới. Khi đục, nó chặn ánh sáng của linh hồn. Là những phàm ngã, chúng ta thường đứng trong ánh sáng của riêng mình —vì chúng ta cũng là những linh hồn. |
The soul and personality are another of the many “pairs of opposites.” Until they are reconciled to each other, they have fundamentally different motives. Regardless of ray, the essential nature of the soul is love; that of the personality is intelligence—again, regardless of ray. The soul is fundamentally altruistic; the personality—fundamentally selfish. If the personality is allowed to proceed in an unbridled, undisciplined manner it will reinforce itself as a center, and prevent consciousness from achieving the decentralized attitude of the loving soul. In fact, the undisciplined personality, “full of itself,” and standing in its own light, will utterly fail to see (sense or hear) the soul. The personality becomes so focused upon itself as the sole point of reference for all experience, that the ‘eye of consciousness’ becomes inflexibly focused on a field confined by selfhood—the personality field. |
Linh hồn và phàm ngã là một trong nhiều “các cặp đối lập”. Cho đến khi chúng hòa giải được với nhau, về cơ bản chúng có những động cơ khác nhau. Bất kể thuộc cung nào, bản chất cốt yếu của linh hồn là tình yêu thương; phàm ngã là trí thông minh—một lần nữa, cũng bất kể thuộc cung nào. Linh hồn về cơ bản là vị tha; phàm ngã — về cơ bản là ích kỷ. Nếu phàm ngã được phép tiến hành một cách không kiểm soát, vô kỷ luật, nó sẽ củng cố bản thân mình như một trung tâm, và ngăn cản tâm thức đạt được thái độ phi tập trung của linh hồn yêu thương. Trên thực tế, phàm ngã vô kỷ luật, “hoàn toàn chỉ biết đến mình,” đứng trong ánh sáng của chính nó, và sẽ hoàn toàn không thể nhìn thấy (cảm nhận hoặc nghe thấy) linh hồn. Phàm ngã trở nên tập trung vào bản thân nó như là điểm tham chiếu duy nhất cho mọi trải nghiệm, đến nỗi ‘con mắt của tâm thức’ trở nên tập trung một cách cứng nhắc vào một trường bị giới hạn bởi tính ích kỷ—trường phàm ngã. |
2. Primary means of evading the “higher calling:” The soul calls to the personality. The “voice of the soul” is not only heard as a voice, but it manifests as special attractions and interests, and as special circumstances and opportunities which present themselves to the personal consciousness. However, it is possible for the personality not to hear, see or recognize divine urges. Personality preoccupation deflects the ‘divine intrusion’ of the soul. |
2. Phương tiện chính trong việc trốn tránh “tiếng gọi cao hơn:” Linh hồn kêu gọi phàm ngã. “Tiếng nói của linh hồn” không chỉ được nghe như một tiếng nói, mà nó còn biểu hiện như những sự thu hút và sở thích đặc biệt, cũng như những hoàn cảnh và cơ hội đặc biệt thể hiện trong tâm thức cá nhân. Tuy nhiên, phàm ngã có thể không nghe thấy, nhìn thấy hoặc nhận ra những sự thôi thúc thiêng liêng. Mối bận tâm về phàm ngã làm chệch hướng sự ‘xâm nhập thiêng liêng’ của linh hồn. |
It might seem that the influence of the soul, promising as it does a fuller life, would be eagerly welcomed by the personal consciousness. But there is a phenomenon called the “repression of the sublime” (paralleling the better known repression of unacceptable, disreputable impulses). Higher impulses, too, are (quite unconsciously) refused recognition, just as the lower. Both, after all, are disruptive to the psychological comfort of the personal ego; the human tendency to inertia and to the preservation of comfort is great. In other words, the will and purpose of the soul may have a hard time “getting through.” |
Có vẻ như ảnh hưởng của linh hồn, hứa hẹn một cuộc sống viên mãn hơn, sẽ được tâm thức cá nhân chào đón một cách háo hức. Nhưng có một hiện tượng được gọi là “sự đàn áp của cái siêu phàm” (song song với sự đàn áp được biết đến nhiều hơn của những xung động ô uế, không thể chấp nhận được). Các xung động cao hơn cũng (khá vô thức) từ chối nhận thức, giống như xung lực thấp hơn. Xét cho cùng, cả hai đều phá vỡ sự thoải mái về tâm lý của cái tôi cá nhân; Con người có khuynh hướng quán tính và duy trì sự thoải mái là rất lớn. Nói cách khác, ý chí và mục đích của linh hồn có thể có một thời gian khó khăn khi “vượt qua” nó. |
The personality is that particular force, which, more than others, renders the consciousness unresponsive to the voice of the soul. Personality, having established itself as the center of consciousness, does not want to relinquish that position. Personality con- sumes the time and attention which otherwise might be given to soul recognition. Many are the strategies of the personality to ignore, deflect, evade, distort, or render ineffec- tual the “higher calling.” It must be remembered that such ‘evasive maneuvers’ are emanating from an involutionary, elemental life-form intent upon ‘burrowing’ ever deeper into matter. St. Paul recognized that he was at war with his “members” (the [ 314] elemental aspects of his energy system)—and it is a war to the death (hopefully, the symbolic “death” of the elementals). |
Phàm ngã là lực lượng cụ thể, hơn những thứ khác, khiến tâm thức không đáp ứng với tiếng nói của linh hồn. Phàm ngã, đã tự xác lập mình là trung tâm của tâm thức và không muốn từ bỏ vị trí đó. Phàm ngã tiêu tốn thời gian và sự chú ý mà lẽ ra có thể được dành cho việc nhận biết linh hồn. Có nhiều chiến lược của phàm ngã để phớt lờ, chệch hướng, trốn tránh, bóp méo, hoặc làm cho “lời kêu gọi cao hơn” không thể thực hiện được. Cần phải nhớ rằng những ‘bước né tránh’ như vậy phát ra từ một dạng sống tinh linh giáng hạ tiến hóa khi mải mê ‘đào sâu’ hơn nữa vào vật chất. Thánh Paul nhận ra rằng Ngài đang chiến đấu với các “thành viên” ([314] khía cạnh tinh linh trong hệ thống năng lượng của Ngài) —và đó là cuộc chiến sinh tử (hy vọng đó là “cái chết” mang tính biểu tượng của các tinh linh). |
The personality elementals are creatures of habit, and they are instinctually disinclined to change their ways. Under the regime of the soul, their orientation would be reversed, and a new program of action would be imposed upon them. This, they naturally (though not consciously) resist. Spiritual training means, initially, the training of the elemental lives so they will serve, and not reject, the design of the soul. Each of these elemental lives is characterized by a certain ray quality. The nature of the ray determines the nature of the resistance , and the nature of the training to be instituted in order to master wayward elemental impulses. |
Các tinh linh phàm ngã là những sinh vật của thói quen, và theo một cách bản năng chúng không muốn thay đổi cách thức của mình. Dưới cách quản của linh hồn, định hướng của chúng sẽ bị đảo ngược và một chương trình hành động mới sẽ được áp đặt lên chúng. Chúng đương nhiên (dù không có ý thức) chống lại điều này. Huấn luyện tinh thần ban đầu có nghĩa là huấn luyện các đời sống tinh linh để chúng phục vụ, chứ không phải từ chối bản thiết kế của linh hồn. Mỗi đời sống tinh linh này được đặc trưng bởi một phẩm tính cung nhất định. Bản chất của cung xác định bản chất của lực cản và bản chất của quá trình huấn luyện cần được thực hiện để làm chủ các xung động tinh linh ương bướng. |
3. Primary means of limiting expansion and refusing to grow: The personality, according to the Ageless Wisdom, is the chief of the “lunar lords”—i.e., the lunar elemental lives comprising the human energy system. The lunar influence (related as it is to the influence of Saturn) contributes to repetition and crystallization. Once the personality is formed, and establishes its “ways,” it progressively tends to get set in those ways. In psychology this is called the preservation of ego structure. The defensive ramparts of the ego are meant to guarantee the survival of the very limited personal identity. At all costs, the “I” (as it thinks and feels itself to be) wants to survive. |
3. Các phương tiện chính để hạn chế sự mở rộng và từ chối phát triển: theo Minh Triết Ngàn đời, phàm ngã là thủ lĩnh của “các nguyệt tinh quân” — tức là, các đời sống nguyệt tinh linh bao gồm hệ thống năng lượng của con người. Ảnh hưởng thuộc nguyệt tinh (liên quan đến ảnh hưởng của Sao Thổ) góp phần tạo ra sự lặp lại và kết tinh. Một khi phàm ngã được hình thành và thiết lập “những cách thức” của nó, nó dần dần có xu hướng trở nên ổn định theo những cách đó. Trong tâm lý học, điều này được gọi là bảo tồn cấu trúc bản ngã. Các thành lũy phòng thủ của cái tôi có nghĩa là để đảm bảo sự tồn tại của bản sắc cá nhân rất hạn chế. Bằng mọi giá, cái “tôi” (như nó nghĩ và cảm thấy là như vậy) muốn tồn tại. |
The soul with its greater vision, however, realizes that growth is endless, expansion (under the law) inevitable. Soul impulses promote growth, and a relinquishing of old boundaries. The personal ego, fearing its own annihilation (and the fear is justified), resists the entry of those impulses which will alter self-conception. People define themselves carefully so that they may feel secure. That pseudo-security is bought at a great price. After a well-defined ego structure is in place, the personal ego wants it to stay that way. To this lower ego, continual ‘self-redefinition’ is psychologically painful—but under the relentless infusion of soul energy, the redefinition of personal identity is “the only way to go” and ‘the only way to grow.’ Personality is that intractable force which does all it can to retain its present structure, preferring the psychological security of well-defined boundaries to the adventure of continuous, soul-impelled transformation. |
Tuy nhiên, linh hồn với tầm nhìn xa hơn, nhận ra rằng sự phát triển là vô tận, sự mở rộng (theo định luật) là không thể tránh khỏi. Các xung lực từ linh hồn thúc đẩy sự phát triển và xóa bỏ các ranh giới cũ. Bản ngã sợ sự hủy diệt của chính nó (và nỗi sợ là chính đáng), chống lại sự xâm nhập của những xung động sẽ làm thay đổi quan niệm về bản thân. Mọi người định nghĩa kỹ càng bản thân để có thể cảm thấy yên tâm. Bảo bối rởm đó được mua với giá rất hời. Sau khi một cấu trúc bản ngã được xác định rõ ràng vị trí của nó, bản ngã cá nhân muốn giữ nguyên như vậy. Đối với bản ngã thấp này, việc liên tục ‘tự xác định lại bản thân’ gây đau đớn về mặt tâm lý — nhưng dưới sự truyền tải không ngừng của năng lượng linh hồn, việc xác định lại bản sắc cá nhân là “con đường duy nhất để đi” và “cách duy nhất để phát triển.” Phàm ngã là lực lượng cứng đầu làm tất cả những gì có thể để giữ lại cấu trúc hiện tại của nó, ưa thích sự an toàn tâm lý của những ranh giới được xác định rõ ràng hơn là cuộc phiêu lưu của sự biến đổi liên tục được thúc đẩy từ linh hồn. |
4. Primary means of expressing selfishness and separateness: Man is two beings— one of them selfish, the other selfless. It is impossible to escape the dynamic of SELF; the entire theme of life is the Higher Self (and, ultimately, the ONE SELF). But will self be large or small? Will the Higher Self (and, eventually, the ONE SELF) be realized, or will identification with one particular little self (or worse, a series of identifications with many fragmentary, partial, ‘subpersonal’ selves—i.e., “subpersonalities”) supplant the great and possible divine identification? Selfishness is a reduction of the sense of Self . A selfish person has chosen less instead of more—a little self instead of a greater. [ 315] |
4. Phương tiện chính để thể hiện tính vị kỷ và tính chia rẽ: Con người là hai bản thể— một vị kỷ, một vị tha. Không thể thoát khỏi động lực của ĐẠI NGÃ; toàn bộ chủ đề của sự sống là Chân ngã Cao siêu (và cuối cùng là ĐẠI NGÃ DUY NHẤT). Nhưng bản ngã sẽ lớn hay nhỏ? Liệu Chân ngã Cao siêu (và cuối cùng là ĐẠI NGÃ DUY NHẤT) có được nhận ra không, hay sẽ đồng nhất hoá với một cái ngã nhỏ bé riêng (hoặc tệ hơn, một loạt sự đồng nhất hoá với nhiều bản ngã rời rạc, một phần, ‘dưới cá nhân—subpersonal’ —tức là, “phàm ngã phụ”) thay thế cho sự đồng nhất hoá thiêng liêng vĩ đại và khả thi? Tính vị kỷ là giảm ý thức về Chân ngã . Một người vị kỷ lựa chọn ít hơn thay vì nhiều hơn — một cái ngã nhỏ bé thay vì một cái lớn hơn. [315] |
The personality, we know, tries to keep things small (regardless of the commonly-found tendency to personality inflation and grandiosity; such aberrations are still small). The uninspired personality will always choose the part instead of the whole. Selfishness is the mistaken identification of consciousness with the part, and its attempt to maintain that misidentification at all costs—the main cost being separation from all the other parts. |
Phàm ngã, như chúng ta biết, cố gắng giữ cho mọi thứ nhỏ bé (bất kể xu hướng thổi phồng phàm ngã và sự vĩ đại thường thấy; những sai lệch như vậy vẫn còn nhỏ). Phàm ngã không được cảm hứng sẽ luôn chọn cái bộ phận thay vì cái toàn thể. Vị kỷ là sự đồng nhất sai lầm của tâm thức với cái bộ phận và cố gắng duy trì sự đồng hoá sai lầm đó bằng mọi giá — cái giá phải trả chính là sự chia rẽ khỏi tất cả các phần khác. |
The term “skin-encapsulated ego” has recently become popular in New Age circles. This is a good image for the self-concept of the selfish person. Implied in this image are limitation and separateness. The unspiritualized personality will do whatever it can to keep its definition of itself ‘local’—i.e., within the boundaries of its own lunar nature. The natural, spiritual connection of the soul to all other beings is not experienced. |
Thuật ngữ “cái tôi được bọc da” gần đây đã trở nên phổ biến trong giới Thời đại Mới. Đây là một hình ảnh phù hợp cho quan niệm tự thân của cá nhân vị kỷ. Ngụ ý trong hình ảnh này là sự giới hạn và tách biệt. Phàm ngã chưa được tinh thần hóa sẽ làm bất cứ điều gì có thể để giữ định nghĩa về bản thân ‘cục bộ’ — tức là trong ranh giới của bản chất nguyệt tinh của chính nó. Sự kết nối tự nhiên và tinh thần của linh hồn với tất cả những sinh linh khác không được trải nghiệm. |
The strategies for ‘personal localization’ (selfishness and separateness) will vary according to the ray of the personality. There are many ways to refer continuously to the limited self, and to maintain the gulf between oneself and others. These ray methods will be explored in the next section of the book. |
Các chiến lược để ‘bản địa hóa cá nhân’ (vị kỷ và chia rẽ) sẽ khác nhau tùy theo cung phàm ngã. Có nhiều cách để liên tục đề cập đến cái ngã hạn chế và để duy trì hố sâu khoảng cách giữa bản thân nó và người khác. Các phương pháp cung này sẽ được tìm hiểu trong phần tiếp theo của cuốn sách. |
5. Primary means of self-centering and self-referencing: The unenlightened personality keeps its eyes upon itself; the soul sees itself in all other selves. Because of the force of the personality, consciousness fails to achieve ‘escape velocity,’ and is kept ‘localized.’ It may wish to reach out to wider identification, but it is always recaptured by the gravitational pull of the personal center, and brought back to that center. When the personality is strong and unspiritualized, the “I” becomes inescapable. The Tibetan was prompted to write to one of his students, “Never for a moment do you forget yourself.” It is the inclination of the personality to ensure that the consciousness, in fact, never forgets . Self-forgetfulness is of the soul, which is characterized by an attitude of decentralization (or ‘multi-centralization’—the discovery of oneself in many other selves); a numbing, spiritually-stifling remembrance of the ‘I-center’ is the way of the personality. [316] |
5. Phương tiện chính của việc tự trung tâm hoá và tự quy chiếu: Phàm ngã chưa giác ngộ luôn để mắt đến bản thân; linh hồn nhìn thấy chính nó trong tất cả các bản thể khác. Do mãnh lực của phàm ngã, tâm thức không đạt được ‘tốc độ để thoát ra’ và bị giữ nơi ‘cục bộ’. Nó có thể muốn tiếp cận với sự đồng nhất rộng lớn hơn, nhưng nó luôn bị giữ lại bởi sức lôi kéo của lực hấp dẫn của trung tâm cá nhân, và đưa trở lại trung tâm đó. Khi phàm ngã mạnh mẽ và chưa được tinh thần hóa, cái “tôi” trở nên không thể tránh khỏi. Chân sư Tây Tạng đã được thúc giục viết cho một trong những học trò của mình, “Không một giây phút nào bạn quên chính mình.” Đó là khuynh hướng của phàm ngã đảm bảo rằng trên thực tế, tâm thức không bao giờ quên . Tính quên mình thuộc về linh hồn, được đặc trưng bởi một thái độ phi tập trung (hay ‘đa trung tâm hóa’ — sự khám phá bản thân trong nhiều cái ngã khác); một ký ức tê liệt và ngột ngạt ở khía cạnh tinh thần về ‘cái tôi trung tâm’ là con đường của phàm ngã. [316] |
The Concrete Mental Faculty within the Lower Mental Field — Quan năng Trí Cụ Thể trong trường Hạ trí
Elaborate studies of mental functioning have been undertaken for years by experts in the field, yet no true consensus exists as to the true nature of the mind. Is it an epiphenomenon of brain physiology? Or is it a faculty or principle, the existence of which is independent of (though interactive with) the substance of the brain? The occult point of view is more in accordance with the latter perspective, and stresses the concept of “mind over matter.” Occultism proposes that the concrete mental faculty, as it works within the substance of the mental field, initiates what might be called certain ‘modes of motion’ which, in their aggregate can be recognized as familiar mental processes. These processes are reflected in brain processes, and hence, the opportunity for confusion. |
Các nghiên cứu công phu về chức năng trí tuệ đã được thực hiện trong nhiều năm bởi các chuyên gia trong lĩnh vực này, nhưng vẫn chưa có sự đồng thuận thực sự nào về bản chất thực sự của cái trí. Nó có phải là một biểu hiện của sinh lý não bộ không? Hay nó là một năng lực hoặc nguyên lý mà sự tồn tại của nó độc lập (mặc dù tương tác) với chất liệu của não bộ? Quan điểm huyền linh phù hợp hơn với quan điểm thứ hai và nhấn mạnh khái niệm “cái trí cao hơn vật chất”. Huyền linh học đề xuất rằng năng lực trí cụ thể, khi hoạt động bên trong chất liệu của trường trí tuệ, khởi xướng cái có thể được gọi là ‘các phương thức chuyển động’ nhất định, mà tổng thể của chúng có thể được công nhận là các quá trình trí tuệ quen thuộc. Những quá trình này được phản ánh trong các quá trình của não bộ, và do đó, tạo cơ hội cho sự nhầm lẫn. |
The following approach to understanding the mind will be cognitive and psychological rather than physiological. Those who have studied the mind in this way have isolated a number of mental functions, some of which have been listed and described in this chapter. The lists and descriptions are far from exhaustive; rather, they are meant to bring to the student’s attention a few of the more important and recognizable of the many functions. It is of the utmost importance that students examine the functioning of their mind introspectively and as objectively as possible, attempting to recognize the various mental faculties at work. |
Cách tiếp cận sau đây để hiểu về cái trí sẽ mang tính nhận thức và tâm lý hơn là sinh lý. Những người đã nghiên cứu cái trí theo cách này đã cô lập một số chức năng trí tuệ, một số chức năng trong số đó đã được liệt kê và mô tả trong chương này. Các danh sách và mô tả còn xa mới đầy đủ; thay vào đó, chúng nhằm thu hút sự chú ý của môn sinh về một số chức năng quan trọng hơn và dễ nhận biết hơn trong số nhiều chức năng. Điều quan trọng nhất là môn sinh kiểm tra hoạt động của cái trí của họ một cách nội tâm và khách quan nhất có thể, cố gắng nhận ra các năng lực trí tuệ khác nhau khi làm việc. |
Some Key Functions, Operations and Characteristic Dynamics of the Concrete Mental Faculty within the Lower Mental Field — Một Số Chức Năng, Hoạt Động Và Động Lực Đặc Trưng Chính Của Năng Lực Trí Cụ Thể Trong Trường Hạ Trí
1. Creating thoughtforms |
1. Tạo các hình tư tưởng |
2. Power of thought fixation |
2. Sức mạnh của sự cố định tư tưởng |
3. Concentration |
3. Tập trung |
4. Analysis |
4. Phân tích |
5. Synthesis |
5. Tổng hợp |
6. Association, aggregation, sorting |
6. Liên kết, tổng hợp, sắp xếp |
7. Comparison and contrast |
7. So sánh và đối chiếu (tương phản) |
8. Deduction and induction |
8. Rút gọn và quy nạp |
9. Correlation |
9. Tương quan |
10. Detection of causes and effects |
10. Phát hiện nguyên nhân và hệ quả |
11. Manipulation, arrangement, combination |
11. Tạo tác, sắp xếp, kết hợp |
12. Generalization and Particularization |
12. Tổng quát hóa và cụ thể hóa |
13. Creative visualization |
13. Hình dung sáng tạo |
14. ‘Signation’ and labeling |
14. ‘Ký hiệu’ và dán nhãn |
15. Symbolization |
15. Biểu tượng |
16. Memory |
16. Ký ức |
17. Intuition |
17. Trực giác |
Commentary |
Bình luận |
1. Creating thoughtforms: One of the key functions of the mind is to formulate thought. When vibrations from the three lower worlds impact the mental field, mental substance configures itself into various “forms” which correspond to the nature of the vibrations. These mental configurations have visual, auditory, tactile, and even olfactory and gustatory qualities. They are not thoughts so much as the “raw material” of thought—the contents of the mental field stored within the mental field as memories. |
1. Tạo ra các hình tư tưởng: Một trong những chức năng chính của cái trí là tạo hình tư tưởng. Khi các rung động từ ba thế giới thấp hơn tác động đến trường trí tuệ, chất liệu trí tuệ tự cấu hình thành các “hình dạng” khác nhau tương ứng với bản chất của các rung động. Những cấu hình trí tuệ này có các phẩm chất thị giác, thính giác, xúc giác, thậm chí cả khứu giác và vị giác. Chúng là những tư tưởng không giống như “nguyên liệu thô” của tư tưởng — nội dung của trường trí tuệ được lưu trữ trong trường trí tuệ dưới dạng các ký ức. |
During the early phases of evolution, there is very little conscious thought. The soul-in-incarnation is not focused within the mental field. This means that although the mental field has received many impressions (especially from the three worlds), and is filled with many memories, the field is, for the most part, a passive receptor; the creative faculty by means of which the soul-in-incarnation consciously manipulates the configurations caused by the impressions is dormant. |
Trong giai đoạn đầu của quá trình tiến hóa, có rất ít tư tưởng có ý thức. Linh hồn đang nhập thế không tập trung bên trong trường trí tuệ. Điều này có nghĩa là mặc dù trường trí tuệ đã nhận được nhiều ấn tượng (đặc biệt là từ tam giới), và đầy ký ức, nhưng trường này phần lớn là một thể tiếp nhận thụ động; năng lực sáng tạo mà qua đó linh hồn nhập thể vận dụng một cách có ý thức các cấu hình gây ra bởi các ấn tượng này là không hoạt động. |
When the identity (or soul-in-incarnation) begins to function consciously in the mental field, it begins arranging and rearranging (manipulating) stored configurations (memories), selecting various contents of the mental field and combining them, welding or fixing them into new configurations or forms of thought—i.e., thought-forms . Such configurations are internally produced by the creative faculty of the mind, and are not simply the reflexive response of the mental field to impression. The substance of the mental field always retains its tendency to configure itself in response to impression; this, however, is an automatic, unconscious response and not a creative activity of the mental faculty. The mental faculty has the power to deliberately, ‘will-fully,’ create new combinations from existing configurations. In one respect, we are pointing out the distinction between unconscious and conscious (hence creative) thoughtform building. |
Khi bản sắc (hoặc linh hồn nhập thể) bắt đầu hoạt động một cách có ý thức trong trường trí tuệ, nó bắt đầu sắp xếp và tái sắp xếp (vận dụng ) các cấu hình được lưu trữ (các ký ức), lựa chọn các nội dung khác nhau của trường trí tuệ và kết hợp chúng lại , gắn kết hoặc đưa chúng vào những cấu hình hoặc hình dạng mới của tư tưởng – tức là những hình tư tưởng. Những cấu hình như vậy được tạo ra bên trong bởi khả năng sáng tạo của cái trí, và không chỉ đơn giản là phản ứng phản xạ của trường trí tuệ đối với ấn tượng. Chất liệu của trường trí tuệ luôn duy trì xu hướng tự cấu hình để đáp ứng lại với ấn tượng; Tuy nhiên, đây là một phản ứng tự động, vô thức và không phải là một hoạt động sáng tạo của năng lực trí tuệ. Năng lực trí tuệ có khả năng tạo ra các kết hợp mới từ các cấu hình hiện có một cách có chủ tâm và ‘hoàn toàn ý chí ‘. Ở một khía cạnh nào đó, chúng ta đang chỉ ra sự khác biệt giữa việc xây dựng hình tư tưởng vô thức và có ý thức (do đó là sáng tạo). |
2. Power of thought fixation: The mind is the repository of countless impressions; it keeps a record of them all. The “mind-stuff” (the substance of the mental field) is in continuous flux, as are the memories, and innumerable forms of thought resident within the mental field. To create a new thoughtform, aspects of a number of already established thoughtforms have to be assembled and held together . The mind applies the power of fixation to the contents of a thoughtform in order to stabilize it and give it coherent endurance. Concentration, clear mental focus and repetition are the mental faculties which contribute to successful fixation. |
2. Sức mạnh của việc cố định tư tưởng: Cái trí là kho chứa vô số ấn tượng; nó lưu giữ một bản ghi về tất cả chúng. “Chất trí” (chất liệu của trường trí tuệ) là dòng chảy liên tục, cũng như ký ức, và vô số hình tư tưởng cư trú trong trường trí tuệ. Để tạo ra một hình tư tưởng mới, các khía cạnh của một số hình tư tưởng đã được thiết lập phải được tập hợp và tổ chức lại với nhau . Cái trí áp dụng sức mạnh của việc cố định vào nội dung của một hình tư tưởng để ổn định nó và mang lại cho nó sự bền bỉ nhất quán. Định trí, tập trung trí tuệ rõ ràng và lặp đi lặp lại là những khả năng trí tuệ góp phần vào việc cố định thành công. |
3. Concentration: Within the mental field are diverse thoughts. The mind has the power to focus upon any of these thoughts to the exclusion of any other. The ‘thought-in-focus’ becomes the center of the field of ‘mental vision.’ Concentration is related to the power of fixation; through the faculty of concentration the thinker establishes a well-defined center within his field of thought and holds the mental ‘gaze’ (the attention) [318] fixed upon that center. Concentration brings heightened awareness and subsequent revelation. |
3. Sự tập trung: Trong trường trí tuệ là những tư tưởng đa dạng. Cái trí có khả năng tập trung vào bất kỳ tư tưởng nào trong số này để loại trừ bất kỳ tư tưởng nào khác. ‘Tư tưởng được tập trung’ trở thành trung tâm của trường ‘tầm nhìn trí tuệ.’ Sự tập trung có liên quan đến sức mạnh của sự cố định; thông qua khả năng tập trung, nhà tư tưởng thiết lập một trung tâm được xác định rõ ràng trong trường tư tưởng của mình và duy trì một ‘cái nhìn’ trí tuệ (sự chú ý) [318] cố định trên trung tâm đó. Sự tập trung mang lại nhận thức được nâng cao và sau đó là sự mặc khải . |
4. Analysis: This is one of the most characteristic functions of the lower mind. An analysis of the word “analysis” reveals its origin in the Greek word “analyein” (to break up); “lyein” means “to loosen.” Analysis is a faculty which divides the object of the mind’s attention into smaller and smaller parts in the attempt to understand the relationship of the parts to the whole and the interrelationship of the parts to themselves. The goal of analysis is clear separation —a clarification of the boundaries of the “thing” (the “thing” being an isolated object of perception or apperception). Without analysis there is confusion —a promiscuous fusing of one thing with another making it difficult or impossible to discriminate one thing from another. Ideally, analysis brings real differences to light. |
4. Phân tích: Đây là một trong những chức năng đặc trưng nhất của hạ trí. Một phân tích của từ “phân tích” cho thấy nguồn gốc của nó trong từ “analyein” trong tiếng Hy Lạp (phá vỡ); “Lyein” có nghĩa là “nới lỏng.” Phân tích là một khả năng phân chia đối tượng chú ý của cái trí thành các phần ngày càng nhỏ hơn để cố gắng hiểu mối quan hệ của các bộ phận với tổng thể và mối quan hệ qua lại của các bộ phận với bản thân chúng. Mục tiêu của phân tích là sự tách biệt rõ ràng — làm rõ ranh giới của “sự vật” (“sự vật” là một đối tượng biệt lập của tri giác hoặc nhận thức). Nếu không có sự phân tích thì sẽ có sự nhầm lẫn — sự kết hợp bừa bãi giữa thứ này với thứ khác khiến cho việc phân biệt thứ này với thứ khác trở nên khó khăn hoặc không thể. Lý tưởng nhất là việc phân tích mang những khác biệt thực sự tới ánh sáng. |
5. Synthesis: An analysis of the word “synthesis” shows that it derives from the Greek word “syntithenai” (to put together). If the process of analysis takes things apart, synthesis puts them together. Synthesis is a fusing process which relates, links or binds one thing to another. Analysis is based upon recognizing or creating separation between things; synthesis is based upon overcoming separation and recognizing the unity of things. After clarity has been achieved through analysis, wholeness is restored through synthesis. |
5. Tổng hợp: một p hân tích về từ “tổng hợp” cho thấy rằng nó bắt nguồn từ từ “syntithenai” trong tiếng Hy Lạp (để ghép lại với nhau). Nếu quá trình phân tích tách rời mọi thứ, thì tổng hợp sẽ đặt chúng lại với nhau. Tổng hợp là một quá trình hợp nhất liên quan, liên kết hoặc gắn kết một thứ này với một thứ khác. Phân tích dựa trên việc nhận ra hoặc tạo ra sự tách biệt giữa các sự vật; còn tổng hợp dựa trên việc khắc phục sự tách biệt và thừa nhận tính thống nhất của sự vật. Sau khi đạt được sự rõ ràng thông qua phân tích, tính toàn vẹn được khôi phục thông qua tổng hợp. |
6. Association, aggregation, sorting, classification: The innumerable contents of the mental field (memories, current thoughts, unformulated impressions, vibratory potentials) are not devoid of an instinctual organizing principle. “Like” tends to associate with “like.” Within the mental field, mental contents which are characterized by similarity of vibration, tend to aggregate. Such similar contents are automatically sorted and stored with each other in “chains of association.” |
6. Liên kết, tập hợp, sắp xếp, phân loại: Vô số nội dung của trường trí tuệ (ký ức, tư tưởng hiện tại, ấn tượng không định dạng, tiềm năng rung động) không phải là không có một nguyên tắc tổ chức bản năng. “Cái giống nhau” có xu hướng kết hợp với “nhau”. Trong trường trí tuệ, các nội dung trí tuệ vốn được đặc trưng bởi sự rung động tương tự, có xu hướng kết hợp lại. Những nội dung tương tự như vậy được tự động sắp xếp và lưu trữ với nhau trong “chuỗi liên kết”. |
An example of such a chain of association would be the series of thoughts: water, rain, tears, bathing, purification, ocean, nirvana, etc. All these terms have a logical link to one another; they share a resonance of meaning and are not casually or accidentally associated. Associations, however, can also be casual or accidental , with the associated thoughts organized around a strong impression, but having no essential similarities of quality. An example of such an “accidental association” might be: brakes, green light, dog, grief, etc. These thoughts or memories are situationally rather than logically related. An associative chain of this nature might occur if, for instance, a driver, doing everything he could to apply his brakes, could not help but hit a dog which ran in front of his car—the accident occurring on a green light, and causing him much remorse. Such an experience would generate a strong emotional charge which would create a bond of association between otherwise unrelated thought contents. Although each of the series of thoughts has no logical connection with any of the others, they would be welded together by the binding power of shock . In either case (whether of natural or [ 319] accidental association), any one thought in the chain of association might trigger all or any of the others. |
Ví dụ về một chuỗi liên kết như vậy sẽ là một chuỗi các tư tưởng: nước, mưa, nước mắt, tắm rửa, thanh lọc, đại dương, niết bàn, v.v. Tất cả các thuật ngữ này đều có liên kết logic với nhau; chúng chia sẻ một sự cộng hưởng ý nghĩa và được liên kết với nhau một cách không hề ngẫu nhiên hay vô tình. Tuy nhiên, các liên tưởng cũng có thể là tình cờ hoặc ngẫu nhiên , với những tư tưởng liên kết được tổ chức xung quanh một ấn tượng mạnh, nhưng không có những điểm tương đồng về tính chất. Ví dụ về “sự liên kết ngẫu nhiên” như vậy có thể là: phanh, đèn xanh, con chó, đau buồn, v.v. Những tư tưởng hoặc ký ức này là tình huống thay vì liên quan đến lôgic . Ví dụ, một chuỗi liên kết có tính chất này có thể xảy ra nếu một người lái xe đã làm mọi cách để đạp phanh nhưng không thể tránh tông vào một con chó chạy phía trước xe — vụ tai nạn xảy ra khi đèn xanh và khiến anh ấy hối hận nhiều. Một trải nghiệm như vậy sẽ tạo ra một cảm xúc mạnh mẽ, tạo ra mối liên kết giữa các nội dung tư tưởng không liên quan. Mặc dù mỗi chuỗi tư tưởng không có kết nối logic với bất kỳ tư tưởng nào khác, nhưng chúng sẽ được nối lại với nhau bằng sức mạnh liên kết của cú sốc . Trong cả hai trường hợp (dù là liên kết tự nhiên hay [319] ngẫu nhiên), bất kỳ một tư tưởng nào trong chuỗi liên kết có thể kích hoạt tất cả hoặc bất kỳ tư tưởng nào khác. |
Thus, within the mental field, it is natural for certain thoughts to be associated with each other automatically and unconsciously. The mind, however, is also equipped with the faculty of associating or (more properly) classifying thoughts consciously and deliberately. When utilizing this faculty, the thinker within the field of thought consciously classifies various mental contents on the basis of their similarities and differences (with the natural, automatic and unconscious ‘filing system’ of the mind assisting in the process). The faculty of mental organization (classifying, sorting and arranging in categories) requires much discipline and a sustained point of mental tension. The automatic and instinctive, associative tendency of the mind, requires no such tension or attention. |
Vì vậy, trong trường trí tuệ, một số tư tưởng được liên kết với nhau một cách tự động và vô thức là điều tự nhiên. Tuy nhiên, cái trí cũng được trang bị khả năng liên kết hoặc (đúng hơn) phân loại các tư tưởng một cách có ý thức và cẩn trọng. Khi sử dụng phương pháp này, người suy tưởng trong trường tư tưởng phân loại một cách có ý thức các nội dung trí tuệ khác nhau trên cơ sở những điểm giống và khác nhau của chúng (với ‘hệ thống lưu trữ’ tự nhiên, tự động và vô thức của cái trí hỗ trợ trong quá trình này). Khả năng tổ chức trí tuệ (phân loại và sắp xếp trong các hạng mục) đòi hỏi nhiều kỷ luật và một điểm chú tâm căng thẳng của cái trí. Xu hướng liên kết tự động và bản năng của cái trí không cần đến sự chú tâm hay chú ý như vậy. |
There is also what might be called the ‘faculty of conscious free association ,’ in which the automatic associative processes of the mental field are allowed to proceed freely (observed by the watching consciousness), without any conscious constraints or enforced categorization of mental contents. Certain psychotherapeutic techniques, such as the Jüngian technique of “active imagination,” are based upon conscious free association. |
Ngoài ra còn có cái có thể được gọi là ‘năng lực liên kết tự do có ý thức ‘, trong đó các quá trình liên kết tự động của trường trí tuệ được phép tiến hành một cách tự do (được quan sát bởi tâm thức quan sát), mà không có bất kỳ ràng buộc ý thức nào hoặc phân loại bắt buộc các nội dung trí tuệ. Một số kỹ thuật trị liệu tâm lý, chẳng hạn như kỹ thuật Jüngian về “trí tưởng tượng tích cực”, dựa trên việc liên kết tự do của tâm thức. |
7. Comparison and contrast: In the process of classification, it is necessary to determine which mental contents should be classified in the same categories. The mind’s ability to compare and contrast is very useful in this regard. |
7. So sánh, đối chiếu: Trong quá trình phân loại, cần xác định nội dung trí tuệ nào nên xếp vào cùng loại. Khả năng so sánh và đối chiếu của cái trí rất hữu ích trong vấn đề này. |
In the process of comparing and contrasting, two mental contents are held side-by-side, in the “mind’s eye,” in order to note similarities and differences. By comparing and contrasting, lines of relationship and points of distinction are noted, and proper classification can follow. |
Trong quá trình so sánh và đối chiếu, hai nội dung trí tuệ được đặt cạnh nhau trong “nhãn quan của cái trí” để ghi nhận những điểm giống và khác nhau. Bằng cách so sánh và đối chiếu, các đường lối quan hệ và điểm phân biệt được ghi nhận, và sau đó có thể phân loại thích hợp. |
The process of comparing and contrasting always begins with at least two objects of mental attention. Analysis can begin simply with one such object, which is then subdivided and seen, consequently, as an increasing number of smaller objects. Intrinsically, comparing and contrasting are methods of recognizing and evaluating the relationship between things. Analysis is a method of recognizing and evaluating relationship within a thing itself, but almost inevitably, as analysis proceeds, the faculty of comparing and contrasting is utilized. |
Quá trình so sánh và đối chiếu luôn bắt đầu với ít nhất hai đối tượng của sự chú ý về mặt trí tuệ. Quá trình phân tích có thể bắt đầu đơn giản với một đối tượng như vậy, sau đó được chia nhỏ, và do đó được nhìn thấy khi số lượng đối tượng nhỏ hơn ngày càng tăng. Về bản chất, so sánh, đối chiếu là phương pháp nhìn nhận và đánh giá mối quan hệ giữa các sự vật. Phân tích là một phương pháp nhận biết và đánh giá mối quan hệ bên trong bản thân một sự vật, nhưng hầu như tất yếu năng lực so sánh và đối chiếu được sử dụng khi tiến hành phân tích. |
It should be said that such mental faculties as comparison, contrast, analysis, classification, etc., rarely occur alone and unrelated to each other. These faculties are all interdependent and complementary. |
Cần phải nói rằng những năng lực trí tuệ như so sánh, đối chiếu, phân tích, phân loại, v.v., hiếm khi xảy ra đơn lẻ và không liên quan đến nhau. Các yếu tố này đều phụ thuộc lẫn nhau và bổ sung cho nhau. |
8. Deduction and induction: The mind is intended to be an organ of revelation. Different thoughts have differing power to reveal. Some thoughts carry great light; [ 320] some do not. Deduction and induction are mental paths to increased light (at least, ideally). |
8. Diễn dịch và qui nạp: Cái trí được dự định là một cơ quan của sự tiết lộ. Những tư tưởng khác nhau có sức mạnh khác nhau để tiết lộ. Một số tư tưởng mang theo ánh sáng lớn lao; [ 320] một số thì không. Diễn dịch và qui nạp là những đường lối trí tuệ để tăng cường ánh sáng (ít nhất là một cách lý tưởng). |
By the power of deduction, the thinker begins with a general principle or premise, and creates a chain of thoughts (in which each thought must necessarily follow upon the preceding) leading to more specific, concrete thoughts which are called conclusions. By the power of induction, the thinker assembles specific data, and then creates a chain of thoughts (each of which, again, must follow upon the preceding) leading to more general, abstract thoughts, and, finally, to the supposition of a general principle or premise which can account, logically, for the data which was used as a point of departure for the inductive process. Deduction leads away from a premise and is a method of determining effects , whereas induction leads towards a premise, and is a method for determining causes . Both are methods of concatenation in which one thought is linked or ‘chained’ to another by logic; from this point of view, logic is the lawful progression of thought leading (providing all premises are sound and all relevant data is assembled) inescapably to illuminating conclusions. |
Bằng sức mạnh của sự diễn dịch, nhà tư tưởng bắt đầu với một nguyên tắc hoặc tiền đề chung, và tạo ra một chuỗi các tư tưởng (trong đó mỗi tư tưởng nhất thiết phải tuân theo phần trước) dẫn đến những tư tưởng cụ thể và đặc trưng hơn được gọi là các kết luận. Bằng sức mạnh của qui nạp, nhà tư tưởng tập hợp các dữ liệu cụ thể, và sau đó tạo ra một chuỗi tư tưởng (mỗi tư tưởng trong số đó, một lần nữa, phải tuân theo phần trước) dẫn đến các tư tưởng trừu tượng, tổng quát hơn, và cuối cùng, dẫn đến giả định về một nguyên lý chung hoặc tiền đề có thể giải thích một cách l ô gic dữ liệu được sử dụng làm điểm khởi đầu cho quá trình quy nạp. Diễn dịch dẫn đến ra khỏi tiền đề và là một phương pháp xác định các các hệ quả , trong khi quy nạp dẫn đến tiền đề và là một phương pháp để xác định các nguyên nhân . Cả hai đều là phương pháp móc nối trong đó một tư tưởng được liên kết hoặc ‘xâu chuỗi ‘ với một tư tưởng khác bằng logic; theo quan điểm này, logic là tiến trình tư tưởng đúng luật dẫn đến (cung cấp tất cả các tiền đề hợp lý và tất cả các dữ liệu liên quan được thu thập) các kết luận sáng tỏ một cách không thể tránh khỏi. |
Both deduction and induction are tools which make exact thinking (ratiocination) possible. When thinking is exact, each thought in the chain of thoughts is tied by lawful necessity to the preceding and the succeeding thoughts in the sequence. Both deduction and induction, when performed rigorously , prevent the thinker from “jumping to conclusions” or making “intuitive leaps” (though, in practice, the use of the intuition is invaluable and is usually “many jumps ahead” of a rigid, laborious, pedestrian deductive or inductive process). |
Cả việc diễn dịch và quy nạp đều là những công cụ giúp cho việc suy nghĩ chính xác (suy luận) trở nên khả thi. Khi việc suy nghĩ là chính xác, mỗi tư tưởng trong chuỗi tư tưởng được ràng buộc bởi sự cần thiết đúng luật với những tư tưởng trước đó và những tư tưởng tiếp theo trong chuỗi tư tưởng. Cả việc diễn dịch và quy nạp, khi được thực hiện một cách nghiêm ngặt , sẽ ngăn cản nhà tư tưởng khỏi việc “nhảy đến kết luận” hoặc “nhảy vọt trực giác” (tuy nhiên, trong thực tế, việc sử dụng trực giác là vô giá và thường là “nhiều bước nhảy vọt về phía trước ” so với một công việc cứng nhắc, tốn nhiều công sức và tẻ nhạt của quá trình diễn dịch hoặc quy nạp). |
9. Correlation: The mind has the power, not only to determine similarities and differences, but to determine co-relations, i.e., how one thing changes when another thing changes (co-variation). An example of a simple correlation is as follows: when the temperature rises, people tend to wear less clothing; when the temperature falls, they tend to wear more clothing. A correlation may or may not be causative. There may be an undetectable event which is the actual cause of both variations. By noticing what might be called ‘patterns of mutual variation,’ it becomes possible to gradually determine the laws of any group of elements or system under observation. In simplest terms, through the mental faculty of correlation, the soul-in-incarnation is able to determine how things are related to each other. |
9. Tương quan: Thể trí có sức mạnh, không chỉ xác định những điểm giống và khác nhau, mà còn xác định những quan hệ tương đồng, tức là một vật thay đổi như thế nào khi một vật khác thay đổi (đồng biến). Một ví dụ về mối tương quan đơn giản như sau: khi nhiệt độ tăng, mọi người có xu hướng mặc ít quần áo hơn; khi nhiệt độ giảm, họ có xu hướng mặc nhiều quần áo hơn. Mối tương quan có thể có hoặc không mang tính nhân quả. Có thể có một sự kiện không thể phát hiện được vốn là nguyên nhân thực sự của cả hai biến thể. Bằng cách nhận thấy cái có thể được gọi là ‘các khuôn mẫu của biến thể hỗ tương’, có thể dần dần xác định được các định luật của bất kỳ nhóm yếu tố hoặc hệ thống nào đang được quan sát. Nói một cách đơn giản nhất, thông qua năng lực tương quan trí tuệ, linh hồn nhập thể có thể xác định mọi thứ có liên quan với nhau như thế nào. |
10. Detection of causes and effects: There are many complexities surrounding the question of “cause and effect,” and the process is really far more intricate than it might otherwise seem, but for practical purposes, the normally accepted, simplified view of the cause-and-effect relationships can be considered. |
10. Phát hiện các nguyên nhân và các kết quả: Có rất nhiều sự phức tạp xung quanh câu hỏi về “nguyên nhân và kết quả”, và quá trình này thực sự phức tạp hơn nhiều so với cái mà nó dường như có thể là , nhưng vì mục đích thực tế, cách nhìn nhận đơn giản thường được chấp nhận về mối quan hệ nhân-quả có thể được xem xét. |
The mind is inclined to notice that certain events naturally and normally follow certain other events. Thunder, for instance, naturally and normally follows upon lightning (unless the lightning has struck the observer!). Two events can be correlated, however, [321] without being in a cause-and-effect relationship. Cause-and-effect is a specialized case of correlation. One event is the cause of a second event, if the second event occurs as a direct or indirect result of the first event. The temperature goes up and people wear less clothing. The rise in temperature is the cause (or at least part of the chain of causation) resulting in the wearing of less clothing. |
Cái trí có xu hướng để ý rằng các sự kiện nhất định một cách tự nhiên và bình thường theo sau một số sự kiện khác. Ví dụ, sấm theo sau sét một cách tự nhiên và bình thường (trừ khi sét đánh trúng người quan sát!). Tuy nhiên, hai sự kiện có thể tương quan với nhau [321] mà không nằm trong mối quan hệ nhân – quả. Nhân – quả là một trường hợp tương quan đặc thù. Một sự kiện là nguyên nhân của sự kiện thứ hai, nếu sự kiện thứ hai xảy ra là kết quả trực tiếp hoặc gián tiếp của sự kiện thứ nhất. Nhiệt độ tăng lên và mọi người mặc ít quần áo hơn. Sự gia tăng nhiệt độ là nguyên nhân (hoặc ít nhất là một phần của chuỗi nguyên nhân) dẫn đến việc mặc ít quần áo hơn. |
To illustrate the difference between cause and correlation, let us list three related events: the temperature goes up, the mercury in the thermometer rises, and people wear less clothing. Do these three events constitute a chain of causation? Suppose it is noticed that every time the thermometer rises people wear less clothing. Those who were unable to distinguish between cause and correlation might name this second event in the chain as the cause of the third. They would, of course, be incorrect. Suppose the thermometer had been artificially heated, or suppose the atmospheric pressure holding down the mercury had been artificially reduced: the mercury in the thermometer would still rise, but the people would not wear less clothing, because the first event in the chain, which is the true cause of both the second and the third would be missing. They would have mistaken a correlation for a cause. The rise in the thermometer is certainly correlated with the removal of clothing (both having the same cause), but it is not the cause itself. |
Để minh họa sự khác biệt giữa nguyên nhân và mối tương quan, chúng ta hãy liệt kê ba sự kiện liên quan: nhiệt độ tăng lên, thủy ngân trong nhiệt kế tăng lên và mọi người mặc ít quần áo hơn. Ba sự kiện này có tạo thành một chuỗi nhân quả không? Giả sử nhận thấy rằng mỗi khi nhiệt kế tăng lên người ta ít mặc quần áo hơn. Những người không thể phân biệt giữa nguyên nhân và mối tương quan có thể đặt tên sự kiện thứ hai này trong chuỗi là nguyên nhân của sự kiện thứ ba. Tất nhiên, chúng sẽ không chính xác. Giả sử nhiệt kế đã được làm nóng nhân tạo, hoặc giả sử áp suất khí quyển giữ thủy ngân giảm đi một cách nhân tạo: thủy ngân trong nhiệt kế sẽ vẫn tăng lên, nhưng mọi người sẽ không mặc ít quần áo hơn, bởi vì sự kiện đầu tiên trong chuỗi là nguyên nhân thực sự của cả hai sự kiện thứ hai và thứ ba đã bị thiếu. Họ sẽ nhầm lẫn mối tương quan với một nguyên nhân. Sự gia tăng nhiệt kế chắc chắn có tương quan với việc cởi bỏ quần áo (cả hai đều có cùng một nguyên nhân), nhưng bản thân nó không phải là nguyên nhân . |
11. Manipulation, arrangement, combination: The mind moves thoughts about within the mental field. The creative or thought-form-making faculty of the mind (the ‘hand of the mind’, so to speak) continuously arranges and rearranges thoughts so that an intended combination of thoughts may eventuate. This is mental manipulation, and is a valuable ability rather than a detriment (as the usual connotations of “manipulation” would suggest). Minds differ in their facility for ‘handling’ the contents of the mental field. The faculty of mental manipulation is, perhaps, the mind’s foundational ‘mode of motion.’ |
11. Tạo tác, sắp xếp, kết hợp: Thể trí di chuyển những tư tưởng bên trong trường trí tuệ. Năng lực sáng tạo hoặc tạo – hình – tư – tưởng của cái trí (có thể nói là ‘bàn tay của thể trí ‘) liên tục sắp xếp và tái sắp xếp các tư tưởng để sự kết hợp có chủ đích của các tư tưởng có thể xảy ra. Đây là sự tạo tác trí tuệ, và là một khả năng có giá trị chứ không phải là sự tổn hại (như ý nghĩa thông thường của “ tạo tác ” sẽ gợi ý). Các thể trí khác nhau về khả năng để ‘xử lý’ các nội dung của trường trí tuệ. Năng lực tạo tác trí tuệ có lẽ là ‘phương thức vận động’ cơ bản của thể trí. |
12. Generalization and particularization: The data provided by the senses (as well as the data of the astral and mental planes, and occasionally higher planes) are impressed upon the mental field and create mental contents. The faculties of comparison and correlation reveal to the mind similarities and differences between various mental contents. No two contents of the mind are identical in every particular (even when the source of the contents is apparently identical). For instance, a church seen at sunrise and the same church seen at sunset create contrasting impressions within the mental field; no moment of perception can be repeated in all exactitude. The object to be perceived (or apperceived), and the apparatus of perception, are both affected by countless variables which are never in quite the same relation to each other from one instant to the next. Therefore, no two things are exactly alike, and, from moment to moment, a thing is not even identical with itself. Naturally, the thoughts or mental impressions which arise from perceiving nonidentical things cannot, themselves, be identical. Every thought is different from every other thought, even though the difference may be minute. [ 322] |
12. Tổng quát hóa và cụ thể hóa: Dữ liệu được cung cấp bởi các giác quan (cũng như dữ liệu của các cõi cảm dục và trí tuệ, và đôi khi là các cõi cao hơn) gây ấn tượng lên trường trí tuệ và tạo ra các nội dung trí tuệ. Các năng lực so sánh và liên kết tiết lộ cho cái trí những điểm tương đồng và khác biệt giữa các nội dung trí tuệ khác nhau. Không có hai nội dung nào của thể trí giống hệt nhau trong mọi trường hợp cụ thể (ngay cả khi nguồn gốc của nội dung rõ ràng là giống hệt nhau). Ví dụ, một nhà thờ được nhìn thấy vào lúc mặt trời mọc và cùng một nhà thờ được nhìn thấy vào lúc hoàng hôn tạo ra những ấn tượng tương phản trong trường trí tuệ; không một khoảnh khắc nào của tri giác có thể được lặp lại hoàn toàn chính xác . Đối tượng được nhận thức (hoặc được tổng giác ) và bộ máy nhận thức, đều bị ảnh hưởng bởi vô số biến số không bao giờ có mối quan hệ hoàn toàn giống nhau giữa chúng từ thời điểm này sang thời điểm tiếp theo. Do đó, không có hai thứ nào hoàn toàn giống nhau, và từ thời điểm này sang thời điểm khác, một thứ thậm chí còn không giống với chính nó. Tất nhiên, những tư tưởng hoặc ấn tượng trí tuệ nảy sinh từ việc nhận thức những thứ khác nhau, bản thân chúng không thể giống hệt nhau. Mỗi tưởng đều khác với mọi tư tưởng khác, mặc dù sự khác biệt có thể chỉ rất nhỏ . [ 322] |
Despite the inevitable differences between things (and the thoughts which represent these things) the mind has the ability to notice broad and general similarities between the impressions which impinge upon it, and the mental configurations which arise as a result of these impressions. For instance, though the chair in the kitchen is very different from the chair in the living room, they do have certain features in common and are, nevertheless (for practical purposes), both chairs . |
Bất chấp những khác biệt không thể tránh khỏi giữa các sự vật (và những tư tưởng đại diện cho những sự vật đó ), thể trí vẫn có khả năng nhận thấy những điểm tương đồng rộng rãi và tổng quát giữa những ấn tượng vốn ảnh hưởng lên nó và những cấu hình trí tuệ nảy sinh do những ấn tượng này. Ví dụ, mặc dù ghế trong nhà bếp rất khác với ghế trong phòng khách, tuy vậy chúng chắc chắn có những điểm chung nhất định và (vì mục đích thực tiễn) cả hai đều là những chiếc ghế . |
This capacity of the mind to see two objects as generally the same (even though they are, technically, not identical), is based upon the mind’s ability to overlook particular differences, and emphasize broader points in common. It is achieved through a slight blurring of the mental focus in order to produce categories. If mental focus were kept exquisitely acute, and only the differences it revealed were emphasized, there could be no such thing as a category. Every perception, every content of the mental field would be utterly unique, and unrelated to every other. The world would appear forever fragmented. In terms of practical living, such an emphasis upon the particular would be a maladaptive. It would also be but a partial perspective because it would fail to recognize macro-similarities because of an undue emphasis upon micro-dissimilarities. |
Năng lực này của thể trí nhìn thấy hai đối tượng nói chung là giống nhau (mặc dù về mặt kỹ thuật , chúng không giống hệt nhau) dựa trên khả năng của thể trí để bỏ qua những khác biệt cụ thể và nhấn mạnh những điểm chung rộng lớn hơn. Nó được đạt đến thông qua việc làm mờ đi một chút sự tập trung trí tuệ để tạo ra các phạm trù . Nếu sự tập trung trí tuệ được duy trì một cách sắc nét và chỉ nhấn mạnh những điểm khác biệt mà nó bộc lộ ra, thì không thể có thứ gọi là một phạm trù. Mọi nhận thức, mọi nội dung của trường trí tuệ sẽ hoàn toàn là duy nhất và không liên quan đến nhau. Thế giới sẽ mãi mãi bị chia cắt. Trong đời sống thực tế, việc nhấn mạnh như vậy vào cái cụ thể sẽ là một phương pháp sai lầm. Nó cũng sẽ chỉ là một góc nhìn phiến diện bởi vì nó sẽ không thể nhận ra những điểm tương đồng vĩ mô do quá chú trọng vào những khác biệt vi mô. |
The faculty of generalization —which asserts the similarity of things which are superficially different, though essentially similar—is simply a change of mental focus . Generalization results from a “far-away look”—the “long view” of things. Just as close observation emphasizes differences, a view from a greater distance causes the differences to fall out of focus, and the larger similarities appear. An oak tree and a maple tree are two entirely different objects when seen from a few feet away, but seen from a vantage point miles away, it would be difficult to distinguish those differences, and they would both be identified simply as trees—a general category. |
Năng lực khái quát hóa — vốn khẳng định sự giống nhau của những thứ chỉ khác biệt ở bề ngoài, mặc dù về cơ bản là giống nhau — chỉ đơn giản là một thay đổi của sự tập trung trí tuệ . Khái quát hoá là kết quả của một “tầm nhìn xa” — “trông rộng ” về sự vật. Cũng giống như việc quan sát gần nhấn mạnh các điểm khác biệt, một cái nhìn từ khoảng cách xa hơn làm cho các điểm khác biệt bị mất tiêu điểm và các điểm tương đồng lớn hơn xuất hiện. Một cây sồi và một cây phong là hai vật thể hoàn toàn khác nhau khi được nhìn thấy từ khoảng cách vài feet, nhưng nhìn từ một vị trí thuận lợi cách xa hàng dặm, sẽ rất khó để phân biệt những điểm khác biệt đó và cả hai đều được xác định đơn giản là cây — cùng một loại. |
The mind can consistently change its focus; this is one of its most important faculties. From a vantage point infinitely close, each thing is particular and distinct. From a vantage point infinitely distant, all fuses and blends—everything seems the same. There are psychospiritual parallels to physical closeness and distance. |
Thể trí có thể thay đổi trọng tâm một cách thích hợp ; đây là một trong những năng lực quan trọng nhất của nó. Từ một vị trí thuận lợi cực gần, mỗi thứ đều đặc biệt và riêng biệt. Từ một điểm thuận lợi cực xa, tất cả hợp nhất và hòa trộn — mọi thứ dường như giống nhau. Có những tương đồng về mặt tâm lý-tinh thần với sự gần gũi và khoảng cách vật lý . |
13. Creative visualization: Imagination is often considered a faculty of the emotional body arising from desire. Desire is a form-building faculty, and from its exercise, picture-forms of that which is desired arise. The imagination is immediately and spontaneously stimulated by desire. The imagination can also be deliberately shaped and guided by the power of the mind, in which case it becomes the creative imagination . The ‘hand of the mind’ can work upon the “raw material” provided by the imagination, and shape an image to any intended design. The faculty of creative visualization is directly related to thoughtform building, except that it works more particularly at the level of pure image . Creative visualization evokes and mentally manipulates mental/ visual images and mental tones (and, occasionally, the mental ‘images’ which are reflections of the sense of touch, taste and smell). To “hear words in one’s head” and [323] manipulate those words, is more thoughtform building than an act of creative imagination, for a word is a symbolic form at least once removed from pure “stuff” of mentally seen color and mentally heard tone. |
13. Hình dung sáng tạo: Tưởng tượng thường được coi là một năng lực của thể cảm xúc phát sinh từ ham muốn. Ham muốn là một năng lực xây dựng hình tướng, và từ việc thực hiện nó, các hình tướng tưởng tượng của cái được ham muốn khởi sinh. Sự tưởng tượng được kích thích ngay lập tức và tự phát bởi ham muốn. Sự tưởng tượng cũng có thể được định hình và hướng dẫn một cách có chủ ý bởi sức mạnh của cái trí, trong trường hợp đó, nó trở thành sự tưởng tượng sáng tạo . ‘Bàn tay của cái trí ‘ có thể hoạt động dựa trên “nguyên liệu thô” do sự tưởng tượng cung cấp và tạo hình ảnh cho bất kỳ thiết kế dự kiến nào. Năng lực hình dung sáng tạo liên quan trực tiếp đến việc xây dựng hình tư tưởng, ngoại trừ việc nó hoạt động đặc biệt hơn ở cấp độ hình ảnh thuần khiết . Sự hình dung sáng tạo gợi lên và vận dụng một cách trí tuệ các hình ảnh thuộc thị giác/ thuộc trí tuệ và tông màu trí tuệ (và đôi khi, ‘các hình ảnh’ trí tuệ vốn là sự phản ánh của xúc giác, vị giác và khứu giác). Để “nghe những từ trong đầu của một người” và [323] thao tác những từ đó, là việc xây dựng hình tư tưởng hơn là một hành động của sự tưởng tượng sáng tạo, vì một từ là một hình tướng có tính biểu tượng ít nhất một lần bị loại bỏ khỏi “chất” thuần túy của màu sắc được nhìn thấy trong trí tuệ và âm điệu được nghe thấy trong trí tuệ . |
14. ‘Signation’ and labeling: This is the mind’s ability to abbreviate or make signs. The Law of Economy finds a natural field of expression in the mind as that mind seeks to convey an idea in a minimum number of words. A sign can be even more efficient. Traffic signs are a practical demonstration of the mind’s ability to condense and compress information. A traffic sign showing the drawing of a truck on a steep incline conveys information far more concisely that posting many words warning truck drivers about the hazards of a steep grade. A yellow line drawn on the driver’s side of a two lane highway is much more arresting and descriptive than the display of words telling when one may not pass another vehicle and when one may resume passing. |
14. ‘Ký hiệu’ và dán nhãn: Đây là khả năng của thể trí để tóm tắt hoặc ra hiệu. Định luật Tiết kiệm tìm thấy một trường biểu hiện tự nhiên trong cái trí khi cái trí đó tìm cách truyền đạt một ý tưởng bằng một số lượng từ tối thiểu. Một ký hiệu thậm chí có thể hiệu quả hơn. Biển báo giao thông là một minh chứng thực tế về khả năng cô đọng và nén thông tin của cái trí. Một biển báo giao thông cho thấy hình vẽ một chiếc xe tải trên đường dốc truyền tải thông tin ngắn gọn hơn nhiều là có nhiều lời cảnh báo người lái xe tải về sự nguy hiểm của đường dốc. Vạch màu vàng vẽ ở phía người lái xe của đường cao tốc hai làn có tính mô tả và thu hút sự chú ý hơn nhiều so với việc hiển thị các từ cho biết khi nào người ta không được vượt xe khác và khi nào người ta có thể tiếp tục vượt. |
‘Signation’ is related to the power of abstraction. A mentally created sign or label stands for many words, and conveys instructions in a simplified form. Naming , which is an act performed by the mind, is an aspect of ‘signation’ or labeling. A name is basically an abbreviation for a complex process. That which we call John Doe is a multidimensional process . A name allows us to deal mentally with the John Doe process all at once , and to see that process in relation to other processes (like the process named Mary Smith) with a maximum of flexibility and simplicity. Signation is an example of the mind’s capacity to simplify . |
‘Ký hiệu’ có liên quan đến năng lực của sự trừu tượng. Ký hiệu hoặc nhãn được tạo bằng trí tuệ là viết tắt của nhiều từ và chuyển tải các hướng dẫn ở dạng đơn giản hóa. Đặt tên , là một hành động được thực hiện bởi cái trí, là một khía cạnh của ‘ký hiệu’ hoặc dán nhãn. Một cái tên về cơ bản là chữ viết tắt của một quá trình phức tạp. Cái mà chúng ta gọi là John Doe là một quá trình đa chiều . Một cái tên cho phép chúng ta giải quyết tất cả quy trình John Doe cùng một lúc và xem quy trình đó trong mối quan hệ với các quy trình khác (như quy trình có tên Mary Smith) với sự linh hoạt và đơn giản tối đa. Ký hiệu là một ví dụ về khả năng đơn giản hóa của cái trí. |
15. Symbolization: Symbolization (related to the faculty of abstraction and generalization) is the mind’s ability to choose an image or a word which embodies a whole range of experiences or of mental contents. A sign may be worth a few words, but a symbol is worth a thousand. The average symbol may, indeed, originate within the mind, but the most profound symbols arise from the higher layers of the mind, the super-consciousness—the realm of the soul and spirit. The power of a symbol is determined by the number and depth of the experiences it embodies. One may discover a symbol for each day, each year and even for a lifetime. Some of the worlds greatest symbols (such as the cross or the lotus) embody and relate to the experiences of millions of people across centuries, and no doubt there are symbols for great planetary cycles, and beyond. |
15. Sự tượng trưng: Sự tượng trưng (liên quan đến năng lực trừu tượng và khái quát hóa) là khả năng của thể trí để lựa chọn một hình ảnh hoặc một từ thể hiện toàn bộ các trải nghiệm hoặc nội dung trí tuệ. Một ký hiệu có thể có giá trị bằng một vài từ, nhưng một biểu tượng có giá trị bằng một nghìn từ . Thực tế, biểu tượng ở mức độ thông thường có thể bắt nguồn từ trong thể trí, nhưng những biểu tượng sâu sắc nhất phát sinh từ tầng cao hơn của thể trí, siêu ý thức — cõi giới của linh hồn và tinh thần . Sức mạnh của một biểu tượng được xác định bởi số lượng và độ sâu của những trải nghiệm mà nó thể hiện. Người ta có thể khám phá ra một biểu tượng cho mỗi ngày, mỗi năm và thậm chí cho cả cuộc đời. Một số biểu tượng vĩ đại nhất của thế giới (chẳng hạn như cây thánh giá hoặc hoa sen) thể hiện và liên quan đến trải nghiệm của hàng triệu người qua nhiều thế kỷ, và chắc chắn có những biểu tượng cho các chu kỳ hành tinh lớn và hơn thế nữa. |
Incidentally, on the subject of naming—most given names are signs , mere labels. One’s true name, expressed in pure tone, color and line, is a symbol . Irrespective of the depth or power of the symbols it produces, the mind has the power of essentializing by fusing many contents of the mental field into one particular content. |
Ngẫu nhiên, về chủ đề đặt tên — hầu hết các tên được đặt là các ký hiệu , nhãn đơn thuần. Tên thật của một người, được thể hiện bằng âm sắc, màu sắc và đường nét, là một biểu tượng . Bất kể độ sâu hay sức mạnh của các biểu tượng mà nó tạo ra, thể trí có sức mạnh thiết yếu hóa bằng cách kết hợp nhiều nội dung của trường trí tuệ thành một nội dung cụ thể. |
16. Memory: All functioning of the lower, concrete mind is based upon memory—the accumulated registration of impression. The contents of the mental field are the reflection within that field of former sensory (or higher dimensional) impression. The mind deals with the past—with that which has been recorded. The lower mental field [ 324] stores the accumulated impressions of a life time; the mental unit (the true location of which is the causal field—the field of the Transpersonal Self) stores the accumulated impressions of many life times. Memory is the data base of mind, but it is not mind itself. |
16. Ký ức: Tất cả các hoạt động của hạ trí, cái trí cụ thể đều dựa trên ký ức — sự ghi nhận tích lũy ấn tượng. Nội dung của trường trí tuệ là sự phản ánh bên trong trường ấn tượng tri giác cũ (hoặc chiều kích cao hơn) đó. Cái trí liên hệ với quá khứ — với điều đã được ghi lại. Trường hạ trí [324] lưu trữ những ấn tượng tích lũy của một kiếp sống; đơn vị hạ trí (vị trí thực sự của nó là trường nguyên nhân — trường của Chân ngã Xuyên qua các kiếp sống ) lưu trữ những ấn tượng tích lũy của nhiều kiếp sống. Ký ức là cơ sở dữ liệu của cái trí, nhưng bản thân nó không phải là cái trí. |
17. Intuition: Intuition is more properly a faculty of the buddhic vehicle as reflected in the soul or “Son of Mind.” However, the lower mind can and must become responsive to the intuition. When the “mind stuff” is clear and still, then supra-logical apprehension becomes possible, and mental reasoning is transcended. Straight knowledge takes the place of cogitation, though cogitation will be necessary to formulate and apply that which is intuitively apprehended. |
17. Trực giác: Trực giác đúng hơn là một năng lực của vận cụ bồ đề được phản ánh trong linh hồn hay “Con của Trí Tuệ ”. Tuy nhiên, hạ trí có thể và phải trở nên nhạy bén với trực giác. Khi “trí tuệ chất ” trong trẻo và tĩnh lặng, thì khả năng hiểu biết siêu logic trở nên khả thi, vượt qua suy luận trí tuệ. Kiến thức trực tiếp thay thế cho việc suy ngẫm, mặc dù việc suy ngẫm sẽ là cần thiết để hình thành và áp dụng những gì được hiểu bằng trực giác. |
The Sentient Faculty within the Sentient Field — Năng lực Cảm giác trong trường Cảm giác
Some Key Functions, Operations and Characteristic Dynamics of the Sentient Faculty within the Sentient Field |
Một số Chức năng, Hoạt động và Động lực Đặc trưng chính của Năng lực Cảm giác trong Trường Cảm giác |
1. Desire |
1. Ham muốn |
2. Contact and attachment |
2. Tiếp xúc và gắn bó |
3. Feeling |
3. Cảm giác |
4. Emotion |
4. Cảm xúc |
5. Aspiration |
5. Khát vọng |
6. Valuation |
6. Đánh giá |
7. Attraction and repulsion |
7. Hút và Đẩy |
8. Fear |
8. Nỗi sợ |
9. Mood—emotional elevation and depression |
9. Tâm trạng — sự thăng lên và trầm xuống của cảm xúc |
10. Equilibrium |
10. Trạng thái cân bằng |
Commentary |
Bình luận |
1. Desire: Desire, from one point of view, provides the motive force for all movement within our solar system. Our system is said to be a system of love and desire. Ultimately, desire is the longing of the separated parts for union with each other and with the whole. |
1. Ham muốn: Theo một quan điểm, ham muốn cung cấp động lực cho mọi chuyển động trong thái dương hệ của chúng ta. Hệ thống của chúng ta được cho là một hệ thống của tình yêu thương và ham muốn. Cuối cùng, ham muốn là khao khát của các bộ phận bị tách rời để kết hợp với nhau và với tổng thể. |
Considering desire from the human point of view, the human being is incomplete and wants that which he lacks, that which will complete him and make him more whole. Desire (when properly directed) is an instinctive reaching for the next evolutionary completion (which is always registered by the individual as a satisfaction). When improperly directed, desire is an instinctive reaching for an imaginary, illusory completion—a spurious fulfillment which, at best, can offer satisfaction only to an aspect of himself which should no longer lay claim to his attention (an aspect which, for one at his stage of evolution, is a lower aspect). |
Xem xét ham muốn từ quan điểm của con người, con người không hoàn thiện và muốn cái mà y thiếu, cái sẽ hoàn thiện y và làm cho y toàn vẹn hơn. Ham muốn (khi được hướng dẫn đúng cách) là sự vươn tới theo bản năng để hoàn thành quá trình tiến hóa tiếp theo (luôn được cá nhân ghi nhận như một sự thỏa mãn). Khi được hướng dẫn một cách không thích hợp, ham muốn là sự vươn tới theo bản năng để đạt được sự hoàn thiện tưởng tượng, ảo tưởng — một sự hoàn thành giả tạo, tốt nhất, có thể chỉ mang lại sự thỏa mãn cho một khía cạnh của bản thân mà không còn khiến y phải chú ý (một khía cạnh mà, vì ở một giai đoạn tiến hóa của y, là một khía cạnh thấp hơn). |
Desire is a special case of the systemic Law of Attraction. Under desire, a human being always attempts to draw closer to the object of desire (or to the state of satisfied desire), whether that object or state is good or evil. The field of sentiency (the emotional field) provides the energy which creates what might be called a ‘bond of longing’ (or cathexis) between the human being and the desired object or state. A magnetic condition is established within the field; this results in what is called an attachment between the sentient field of the one who desires, and that which is desired. All desire leads to attachment of some kind—even the desire not to desire leads to an attachment to the imagined state of nondesirableness, for one can be as attached to ideas and ideals as to more tangible things. |
Ham muốn là một trường hợp đặc biệt của Định Luật Hấp dẫn hệ thống. Dưới ham muốn, con người luôn cố gắng đến gần đối tượng ham muốn (hoặc trạng thái thỏa mãn ham muốn), cho dù đối tượng hoặc trạng thái đó là thiện hay ác. Trường cảm giác (trường cảm xúc) cung cấp năng lượng tạo ra thứ có thể được gọi là ‘mối liên kết khao khát’ (hoặc ống thông) giữa con người và đối tượng hoặc trạng thái ham muốn. Một điều kiện từ tính được thiết lập trong trường này; điều này dẫn đến cái được gọi là sự gắn bó giữa trường cảm giác của người ham muốn và cái được ham muốn. Mọi ham muốn đều dẫn đến một loại ràng buộc nào đó — ngay cả sự mong muốn không ham muốn cũng dẫn đến sự bám chấp vào trạng thái tưởng tượng của sự không ham muốn, vì người ta có thể gắn bó với những ý tưởng và lý tưởng giống như với những thứ hữu hình hơn. |
2. Contact and attachment: The sentient field, being primarily a manifestation of the Law of Attraction, is the organ through which people attach themselves to each other and remain attached. This field is the source of personal love, and is animated by the sixth Systemic Law—the Law of Love. The warmth that establishes and maintains human contact is generated and expressed, to a great extent, through this field (though later, “heart and soul” expressing through a purified emotional vehicle becomes the source of motivation for loving human relationships). The sentient field (or astral body, as it is commonly called) has an intensely magnetic, adhesive quality. So long as an object of desire provides satisfaction, the ‘grip’ of attachment will not be relinquished. When satiety occurs, the astral body releases its magnetic grip, and new contacts and attachments are desired and pursued. |
2. Tiếp xúc và gắn bó: trường cảm giác , chủ yếu là biểu hiện của Định Luật Hấp dẫn, là cơ quan mà qua đó con người gắn bó với nhau và ràng buộc . Trường này là nguồn gốc của tình yêu cá nhân, và được làm sinh động bởi Định luật Hệ thống thứ sáu — Định luật của Tình yêu thương . Sự ấm áp thiết lập và duy trì liên lạc giữa con người với nhau được tạo ra và thể hiện ở một mức độ lớn, thông qua trường này (mặc dù sau này, “trái tim và linh hồn” thể hiện thông qua vận cụ tình cảm được thanh lọc trở thành nguồn động lực cho các mối quan hệ yêu thương giữa con người với nhau). Trường cảm giác (hay thể cảm dục, như thường được gọi) có tính chất kết dính, từ tính rất mạnh. Miễn là đối tượng của ham muốn mang lại sự thỏa mãn, thì ‘sự bám víu’ ràng buộc sẽ không thể được dứt bỏ. Khi cảm giác thoả mãn xảy ra, thể cảm dục giải phóng lực bám từ tính của nó, đồng thời nó ham muốn và theo đuổi các tiếp xúc và các gắn bó mới. |
3. Feeling: The field of sentiency (the astral body) is one of great sensitivity. Unlike the mental field, it is related to the sense of touch rather than the sense of sight. Feeling is a kind of astral touching in which the sentient faculty appraises ( non rationally, not irrationally) the nature and value of that which is touched. The appraisal is based to a great extent upon the condition of the astral body, and is experienced along a continuum ranging from attraction to repulsion, including the possibility of many intermediate states, including neutrality. |
3. Cảm nhận : trường cảm giác (thể cảm dục) là một trong những trường rất nhạy cảm. Không giống như trường trí tuệ, nó liên quan đến xúc giác hơn là thị giác. Cảm nhận là một loại xúc chạm thuộc cảm dục , trong đó năn g lực cảm giác đánh giá (một cách phi lý trí , không phải là không hợp lý) bản chất và giá trị của cái được tiếp xúc . Việc đánh giá dựa trên nhiều mức độ tùy thuộc vào tình trạng của thể cảm dục, và được trải qua một chuỗi liên tục từ sự hút đến sự đẩy, bao gồm khả năng xảy ra nhiều trạng thái trung gian, bao gồm cả trạng thái trung lập. |
4. Emotion: Emotion is a stirring of the sentient field. It results from a combination of feeling and thought, and is, essentially, a product of “kama-manas” (the blended interaction of the astral and mental principles). While feeling is a faculty of perception within the sentient field (conveying information about that which is felt), emotion is a nonperceptual reaction to the feeling (conveying no further information). The process of feeling initiates a vibratory impression within the sentient field, which impression (immediately or more slowly) develops into an emotion, especially once the mental implications of the feeling are realized. |
4. Tình cảm: Tình cảm là sự khuấy động của trường cảm giác. Nó là kết quả của sự kết hợp giữa cảm nhận và suy nghĩ, và về cơ bản, là sản phẩm của “trí-cảm” (sự tương tác pha trộn giữa nguyên khí trí tuệ và cảm dục). Trong khi cảm nhận là một năng lực của nhận thức trong trường cảm giác (truyền đạt thông tin về cái được cảm nhận), tình cảm là một phản ứng phi tri giác đối với sự cảm nhận (không truyền tải thêm thông tin). Quá trình cảm nhận bắt đầu một ấn tượng rung động trong trường cảm giác, ấn tượng này (ngay lập tức hoặc chậm chạp hơn) phát triển thành một tình cảm, đặc biệt là khi các tác động trí tuệ của cảm giác được nhận ra. |
People emote or react emotionally depending upon what a situation means to them. The concept of “meaning” immediately suggests the involvement of mind. Thus emotion depends largely on the intervention of mind—feeling does not. ‘E-motion’ can be a mobilization for action, a motivating power, a driving force. The word “emotion” derives from Middle French, “emouvoir” (to stir up), and from the Latin, “exmovere” (to move away, disturb). Emotion is movement away from a state of equilibrium. Emotion is a sentient-field disturbance with the potential of leading to the physical or mental action which will restore sentient-field equilibrium. |
Mọi người biểu lộ tình cảm hoặc phản ứng theo tình cảm tùy thuộc vào tình huống có ý nghĩa như thế nào đối với họ. Khái niệm “ý nghĩa” ngay lập tức gợi ý đến sự tham gia của thể trí. Vì vậy, tình cảm phụ thuộc phần lớn vào sự can thiệp của trí tuệ — còn cảm nhận thì không. ‘E-motion ’ có thể là một động lực để hành động, một sức mạnh thúc đẩy, một động lực. Từ “tình cảm” bắt nguồn từ tiếng Pháp thời Trung đại, “emouvoir” (khuấy động), và từ tiếng Latinh, “exmovere” (di chuyển ra xa, làm phiền). Tình cảm là chuyển động ra khỏi trạng thái cân bằng. Tình cảm là sự xáo trộn trường cảm giác với khả năng dẫn đến hành động thể chất hoặc trí tuệ sẽ khôi phục trạng thái cân bằng của trường cảm giác. |
People differ in their demonstrativeness—the degree to which they demonstrate or manifest emotion. Those upon the 2-4-6 ray line of force are liable to be more demonstrative, and allow the disequilibrating disturbance in the sentient field to become magnified. Those upon the 1-3-5-7 ray line are prone to be less expressive or demonstrative, and to translate the sentient feeling (which could have been magnified [ 328] into an emotional reaction) more directly into physical or mental action . In general— the less demonstrated emotion, the more constructive action, and vise versa. |
Mọi người khác nhau về khả năng thể hiện của họ — mức độ mà họ thể hiện hoặc biểu lộ tình cảm. Những người thuộc đường lối cung 2-4-6 có khả năng thể hiện rõ ràng hơn và khiến cho sự nhiễu loạn mất cân bằng trong trường cảm giác bị phóng đại. Những người thuộc đường lối cung 1-3-5-7 có xu hướng ít biểu cảm hoặc ít biểu hiện hơn, và chuyển cảm nhận có tri giác (vốn có thể đã được phóng đại [328] thành phản ứng tình cảm) trực tiếp hơn thành hành động thể chất hoặc trí tuệ . Nói chung— tình cảm càng ít được thể hiện, thì hành động càng mang tính xây dựng và ngược lại. |
For those who may be interested in a fascinating discussion distinguishing feeling from emotion, pp. 623-625 of Discipleship in the New Age, Vol. II , are strongly recommended. |
Đối với những ai có thể quan tâm đến một cuộc thảo luận hấp dẫn về phân biệt cảm nhận và tình cảm, trang 623-625 của Đường đạo trong Kỷ nguyên mới, Tập. II, được khuyến khích mạnh mẽ. |
5. Aspiration: Desire, according to the usual connotation, is out reaching (or ‘ down – reaching’); aspiration is ‘ up -reaching’—it is elevated desire. Aspiration is a special case of desire. Aspiration is a fiery power. It can, in part, be generated through correct breathing. One learns to inhale (subtle) fire. Emotional reactions will often upset one’s breathing and (should the emotion be especially ‘watery’) extinguish the fire; conversely, regular rhythmic breathing can restore emotional equilibrium. When emotionally upset, people are advised to take deep breaths repeatedly; this begins the process of redirecting energy up and away from the lower part of the solar plexus. |
5. Nguyện vọng : Ham muốn, theo cách hiểu thông thường, là sự vươn ra ngoài (hay ‘vươn xuống ’); nguyện vọng là “vươn lên ” — nó là ham muốn được nâng lên. Nguyện vọng là một trường hợp đặc biệt của ham muốn. Nguyện vọng là một sức mạnh rực lửa. Một phần, nó có thể được tạo ra thông qua việc thở đúng cách. Người ta học cách hít vào lửa (vi tế). Các phản ứng tình cảm thường sẽ làm rối loạn nhịp thở của một người và (đặc biệt nếu tình cảm ‘như nước’ [‘ướt át’]) sẽ dập tắt ngọn lửa; ngược lại, hít thở nhịp nhàng đều đặn có thể khôi phục trạng thái cân bằng cảm xúc. Khi buồn bã về cảm xúc, mọi người được khuyên nên hít thở sâu nhiều lần; điều này bắt đầu quá trình chuyển năng lượng hướng lên và ra khỏi phần bên dưới của luân xa tùng thái dương. |
Emotional reaction (which can also be understood as an increased flow of energy into the solar plexus chakra) can, nevertheless, be empowering when properly and promptly redirected to a higher destination. Emotion is, however, extremely debilitating when intemperately released, unwisely suppressed, or simply not translated into constructive action. In the best case, emotion can ignite the ‘fire’ which can then be redirected, raised, or transmuted into aspiration. In this dynamic, the sentient field is stirred, and its vibration then raised; strongly activated desire and emotion are thus transmuted into aspiration. |
Tuy nhiên, phản ứng về mặt tình cảm (cũng có thể được hiểu là dòng năng lượng gia tăng vào luân xa tùng thái dương) có thể mang lại sức mạnh khi được chuyển hướng đúng cách và kịp thời tới một điểm đến cao hơn. Tuy nhiên, tình cảm cực kỳ suy yếu khi được giải phóng một cách mãnh liệt, bị kìm hãm một cách thiếu khôn ngoan hoặc đơn giản là không được chuyển thành hành động mang tính xây dựng. Trong trường hợp tốt nhất, tình cảm có thể đốt cháy ‘ngọn lửa’ mà sau đó có thể được chuyển hướng, lớn lên hoặc biến đổi thành nguyện vọng. Trong động lực này, trường cảm giác được khuấy động, và rung động của nó sau đó được nâng lên; do đó, ham muốn và tình cảm đã kích hoạt mạnh mẽ được biến đổi thành nguyện vọng. |
Sometimes violent emotional reactions seem necessary before the fires of aspiration can be ignited. This emotional catharsis has a liberating effect, and often precedes the reorientation of astral energy. However, much energy is wasted in extravagant emotional reaction, and it would be better and faster if aspiration could be stimulated directly, without a stressful expenditure of emotional energy. In speaking of the relation between emotion and aspiration, we are, in part, suggesting that ‘water’ can be alchemically transmuted into ‘fire.’ |
Đôi khi những phản ứng về tình cảm bạo lực dường như cần thiết trước khi những ngọn lửa nguyện vọng có thể bùng cháy. Sự xúc tác tình cảm này có tác dụng giải phóng, và thường đi trước sự tái định hướng của năng lượng cảm dục. Tuy nhiên, nhiều năng lượng bị lãng phí trong phản ứng tình cảm ngông cuồng, và sẽ tốt hơn và nhanh hơn nếu nguyện vọng có thể được kích thích trực tiếp, mà không gây căng thẳng về năng lượng tình cảm. Khi nói về mối quan hệ giữa tình cảm và nguyện vọng, một phần nào đó, chúng ta đang gợi ý rằng ‘nước’ qua thuật giả kim có thể được biến đổi thành ‘lửa’. |
6. Evaluation: Evaluation is not always a conscious, mental process; the feelings often reveal the value or desirability of people, objects and circumstances. The sentient field is closely tied to the vast subconscious reservoir of past experience; this reservoir contains (or has access to) a kind of “wisdom”—the wisdom garnered from many incarnations and stored within the soul. Unexplainable attractions and aversions are the result of these often ancient experiences, and should be acknowledged, and even trusted. While the sentient field is not the originating source of wisdom distilled from experience, the feelings are often the initial contact point for a chain of psychospiritual faculties which ultimately lead to and tap the wisdom of the soul, and the “straight-knowledge” of the intuition. If the feelings are ignored, the wisdom remains inaccessi- ble, and it becomes impossible to evaluate experience meaningfully. [329] |
6. Đánh giá: Đánh giá không phải lúc nào cũng là một quá trình trí tuệ có ý thức; cảm giác thường tiết lộ giá trị hoặc mong muốn của con người, đối tượng và hoàn cảnh. Trường cảm thức được gắn chặt với bể chứa tiềm thức rộng lớn của kinh nghiệm trong quá khứ; bể chứa này chứa (hoặc có quyền truy cập) một loại “minh triết” — minh triết thu được từ nhiều lần tái sinh và được lưu trữ trong linh hồn. Những sự thu hút và sự thù địch không thể giải thích được là kết quả của những trải nghiệm thường xa xưa này, và cần được thừa nhận, thậm chí là đáng tin cậy. Trong khi trường cảm thức không phải là nguồn gốc của minh triết được chắt lọc từ kinh nghiệm, cảm giác thường là điểm tiếp xúc ban đầu cho một chuỗi các khả năng tâm lý, cuối cùng dẫn đến và khai thác minh triết của linh hồn, và “kiến thức trực tiếp” của trực giác. Nếu những cảm giác bị bỏ qua, thì minh triết vẫn không thể tiếp cận và không thể đánh giá trải nghiệm một cách có ý nghĩa. [329] |
On the other hand, if the sentient field is not properly related to higher faculties, feelings can be notoriously misleading, because they are distorted by glamor. An astral field filled with glamor will “lose its touch” and, because of distorted emotional values, be unable to evaluate anyone or anything truly. |
Mặt khác, nếu trường cảm thức không liên quan thích hợp đến các năng lực cao hơn, cảm giác có thể bị sai lệch rõ rệt, bởi vì chúng bị bóp méo bởi ảo cảm. Một trường cảm dục tràn ngập ảo cảm sẽ “mất liên lạc” và bởi vì các giá trị tình cảm bị bóp méo, nó thực sự không thể đánh giá bất kỳ ai hay bất cứ điều gì. |
7. Attraction and repulsion: Within the sentient field, one of the principle processes is that of attraction and repulsion. The dynamic of approach and avoidance is pronounced. The normal sentient nature is attracted to that which is pleasurable and repelled by that which is painful. Considering the sentient nature as an organ within the human energy system, it is constantly evaluating its environment (internal and external) in terms of love and hate, desire and aversion, pleasure and pain, attraction and repulsion, fight and flight, comfort and discomfort, harmony and dissonance, etc.; the sentient field operates subject to what the Ageless Wisdom calls the “pairs of opposites.” |
7. Sự hút và sự đẩy: Trong trường cảm thức, một trong những quá trình nguyên tắc là sự hút và sự đẩy. Động lực của việc tiếp cận và tránh né được quy định. Bản chất cảm thức bình thường bị thu hút bởi điều vui thích và bị đẩy lùi bởi điều đau khổ. Coi bản chất cảm thức như một cơ quan trong hệ thống năng lượng của con người, nó liên tục đánh giá môi trường của mình (bên trong và bên ngoài) về yêu và ghét, ham muốn và thù ghét, vui vẻ và đau khổ, hấp dẫn và đẩy lùi, chiến đấu và bỏ chạy, thoải mái và khó chịu, hòa hợp và bất hòa, v.v …; trường cảm thức vận hành theo cái mà Minh triết Ngàn đời gọi là “các cặp đối lập”. |
Until the soul field has infused the personality field, the attractions and repulsions are liable to be very “personal.” They will have little to do with the inherent attractiveness or repulsiveness of a given object, and everything to do with the level of desires, values and attitudes of a particular individual. The old saying, “One man’s meat is another man’s poison,” applies here directly. |
Cho đến khi trường linh hồn thấm nhập vào trường phàm ngã, thì sự hút và sự đẩy có thể là rất “cá nhân”. Chúng sẽ không liên quan nhiều đến sự thu hút hay sự đẩy lùi vốn có của một đối tượng nhất định, và mọi thứ liên quan đến mức độ của ham muốn, giá trị và thái độ của một cá nhân cụ thể. Câu nói cổ “Thức ăn của người này là thuốc độc của người khác” được áp dụng trực tiếp ở đây. |
The energy pattern of an individual is another important cause of his attractions and repulsions. The sentient field is very responsive to harmony and dissonance, to accord and discord. Different energy patterns have differing patterns of vibration. Some frequencies contacted will reinforce and harmonize with a given energy pattern; other frequencies will disrupt and clash with the same pattern. Without recourse to laborious mental analysis, the sentient faculty is immediately aware of whether or not it is “on the same (or complementary) wave-length” as an object it contacts. If it is, it is attracted; if contact with the “wave length” sets up an “interference pattern,” then the sentient nature is repelled. |
Kiểu mẫu năng lượng của một cá nhân là một nguyên nhân quan trọng khác gây ra lực hút và lực đẩy của y. Trường cảm thức rất nhạy cảm với sự hài hòa và bất hòa, sự thống nhất và sự đối nghịch. Các kiểu mẫu năng lượng khác nhau có các kiểu mẫu rung động khác nhau. Một số tần số được tiếp xúc sẽ củng cố và hài hòa với một kiểu mẫu năng lượng nhất định; các tần số khác sẽ gây cản trở và xung đột với cùng một kiểu mẫu. Không cần tốn công để phân tích về mặt trí tuệ , năng lực cảm thức có thể ngay lập tức nhận thức liệu nó có “cùng bước sóng (hay bổ sung nhau )” với một đối tượng mà nó tiếp xúc hay không. Nếu có thì nó sẽ bị thu hút; nếu sự tiếp xúc với “bước sóng” thiết lập một “kiểu mẫu gây nhiễu ”, thì bản chất cảm thức sẽ bị đẩy xa. |
8. Fear: Fear is a negative emotion related to aversion and repulsion. It is not a sentient faculty or function; rather, it is a malfunction, but so important in human evolution that it merits special attention. |
8. Sợ hãi: Sợ hãi là một cảm xúc tiêu cực liên quan đến sự chán ghét và xua đuổi. Nó không phải là một năng lực hoặc chức năng cảm thức; đúng hơn, nó là sự hoạt động sai , nhưng rất quan trọng trong quá trình tiến hóa của loài người nên nó đáng được chú ý đặc biệt. |
Within the human energy system, the sentient field is the field in which fear principally manifests. The content of the mental field is also involved in the fear reaction, and intensifies the negative fear emotion demonstrating through the sentient field. |
Trong hệ thống năng lượng của con người, nỗi sợ hãi biểu hiện chủ yếu trong trường cảm thức . Trường trí tuệ cũng góp phần tham gia vào phản ứng sợ hãi, và tăng cường cảm xúc sợ hãi tiêu cực thể hiện qua trường cảm thức. |
Fear in its many guises is the principle deterrent to evolutionary progress. Just as positive emotion mobilizes, fear immobilizes and paralyzes. The condition of the ‘e-motions’ can determine whether the human being moves forward or not. |
Sự sợ hãi trong nhiều vỏ bọc của nó là yếu tố cơ bản ngăn cản diễn trình tiến hóa. Cũng giống như cảm xúc tích cực thì vận động, còn nỗi sợ hãi gây bất động và tê liệt. Điều kiện của ‘ e -motions (cảm xúc) ‘ có thể xác định liệu con người có tiến lê n phía trước hay không. |
Those on the different rays differ in their susceptibility to fear. This susceptibility is one of the important features distinguishing them. When the soul begins to infuse the [ 330] personality, and when the love of the soul begins to pour into the sentient field, then the fear reaction begins to dwindle, for “perfect love casteth out fear.” |
Những người ở các cung khác nhau thì có mức độ nhạy cảm với nỗi sợ hãi khác nhau . Tính nhạy cảm này là một trong những đặc điểm quan trọng để phân biệt giữa họ. Khi linh hồn bắt đầu thấm nhập vào [330] phàm ngã, và khi tình thương của linh hồn bắt đầu tràn vào trường cảm thức, thì phản ứng sợ hãi bắt đầu giảm dần, vì “tình thương hoàn hảo loại bỏ sợ hãi.” |
9. Mood—emotional elevation and depression: The condition of the sentient field contributes greatly to the mood of every individual—to the degree of emotional elevation or depression, of happiness or sadness. Mood is related to the satisfaction of desire. When there is uninterrupted movement towards the satisfaction of desire, the mood is elevated—the sentient field is healthy, vital and vibrant; when blocks appear and persist, depression ensues—sentient vitality dwindles. It is as if the sentient field is ‘fed’ by a clear, unimpeded connection with the object of its desire. This connection occurs in the form of vision . As long as individuals can see the possibility of fulfilling their desires (as long as they continue to “see light at the end of the tunnel”) they remain animated sentiently; when they lose sight of the possibility of fulfillment, they lose hope and faith, and begin to wilt (sentiently). The Biblical statement, “Where there is no vision, the people perish,” can be seen to relate to the state of depression, despair and eventual physical disease which ensues when sentient tone is lowered through the incessant expectation of thwarted desire, or thwarted desire itself. |
9. Tâm trạng — cảm xúc thăng hoa và trầm cảm: Tình trạng của trường cảm thức góp phần rất lớn vào tâm trạng của mỗi cá nhân — ở mức độ cảm xúc thăng hoa hay trầm cảm, hạnh phúc hay buồn bã. Tâm trạng có liên quan đến sự thỏa mãn ham muốn. Khi có chuyển động liên tục hướng tới sự thỏa mãn ham muốn, tâm trạng sẽ được nâng cao — trường cảm thức là lành mạnh, sống động và sôi động; khi trở ngại xuất hiện và tồn tại, sự trầm cảm xảy ra — sức sống cảm thức bị suy giảm. Như thể trường cảm thức được ‘nuôi dưỡng’ bởi một kết nối rõ ràng, không bị cản trở với đối tượng mong muốn của nó. Sự kết nối này xảy ra dưới dạng tầm nhìn . Miễn là các cá nhân có thể nhìn thấy khả năng thực hiện mong muốn của họ (miễn là họ tiếp tục “nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm”) thì họ vẫn hoạt động một cách điềm tĩnh; khi họ đánh mất khả năng hoàn thành, họ mất hy vọng và niềm tin, và bắt đầu héo mòn (một cách tạm thời). Câu nói trong Kinh thánh, “Nơi không có tầm nhìn, con người sẽ diệt vong”, có thể được coi là liên quan đến trạng thái trầm cảm, tuyệt vọng và cuối cùng bệnh tật xảy ra khi tông điệu cảm thức bị hạ thấp do sự mong đợi ham muốn bị ngăn cản không ngừng hoặc chính ham muốn bị ngăn cản. |
It must be said that desire (like hope) “springs eternal in the human breast,” and that new desires can take the place of those that are blocked. In fact, this substitution is the normal and healthy procedure. It is only under what might be called the ‘illusion of annihilated options’ that what might be called the ‘eye of desire’ ceases to see, the vision fades and depression ensues. The condition of the sentient field, therefore, is very much involved in the phenomenon of happiness, based as it is upon the satisfaction (or anticipated satisfaction) of desire. |
Cần phải nói rằng ham muốn (giống như hy vọng) “nảy sinh vĩnh viễn trong lồng ngực con người,” và những ham muốn mới có thể thay thế cho những ham muốn bị ngăn cản . Trên thực tế, sự thay thế này là quy trình bình thường và lành mạnh. Chỉ dưới cái có thể được gọi là ‘ảo tưởng về việc hết sự lựa chọn’ thì thứ có thể được gọi là ‘con mắt của ham muốn’ không còn nhìn thấy nữa, tầm nhìn mờ dần và trầm cảm xảy ra sau đó. Do đó, tình trạng của trường cảm thức có liên quan rất nhiều đến hiện tượng hạnh phúc, dựa trên sự thỏa mãn (hay sự thỏa mãn được mong đợi) của ham muốn. |
10. Equilibrium: The sentient nature, so sensitive to harmony and inharmony, reveals the felt quality of an individual’s relationship with his environment. When conditions of life are hospitable to the fulfillment of desire, the feeling is one of emotional comfort—of dynamic equilibrium. No equilibrating adjustments are needed except the continued pursuit of desire. When there is such blockage that movement towards the fulfillment of desire is halted, disequilibrium is experienced. Emotional pain is the signal for the existence of a cleavage between an individual’s desires and the situation (internal and/or external) in which he finds himself. The sentient nature signals disequilibrium and provides the emotional charge (‘e-motion’) which moves the individual to overcome it. [ 331] |
10. Trạng thái cân bằng: Bản chất cảm thức, rất nhạy cảm với sự hài hòa và bất hòa, tiết lộ chất lượng cảm nhận của mối quan hệ giữa một cá nhân với môi trường của y. Khi các điều kiện của cuộc sống thích hợp để thực hiện ham muốn, cảm xúc là một trong những thoải mái về tình cảm — của trạng thái cân bằng động. Không cần điều chỉnh cân bằng ngoại trừ việc tiếp tục theo đuổi ham muốn. Khi có sự cản trở nào đó khiến chuyển động hướng tới việc thực hiện ham muốn bị dừng lại, sự mất cân bằng sẽ xảy ra. Đau đớn về tình cảm là tín hiệu cho thấy sự tồn tại của sự chia rẽ giữa ham muốn của một cá nhân và hoàn cảnh (bên trong và/hoặc bên ngoài) nơi y tìm thấy chính mình. Bản chất cảm thức báo hiệu sự mất cân bằng và cung cấp sự tích nạp tình cảm ( ‘e-motion’ ) vốn sẽ đưa y vượt qua sự mất cân bằng đó . [331] |
The Physico-Dynamic Faculty Within the Bio-field — Năng lực Động lực-Vật lý trong Trường Sinh học
It has often been said in the Ageless Wisdom Teaching, that the physical body is not a principle, but rather an automaton. When considering the bio-field, we are confronted with two aspects of the physical nature—one recognizably physical, the other etheric (formed of a higher type of physical substance). The etheric field is the true physical body, and its movements are responsible for the more tangible activities of its dense physical counterpart. Any discussion about the etheric-physical mechanism, then, should focus primarily upon the etheric aspect, but at our present stage of knowledge this is not possible. |
Người ta thường nói trong Giáo lý Minh triết Ngàn đời, rằng cơ thể vật lý không phải là một nguyên khí, mà là một cơ chế tự động. Khi xem xét trường sinh học, chúng ta phải đối mặt với hai khía cạnh của bản chất vật lý — một khía cạnh vật lý có thể nhận biết được, còn khía cạnh kia là dĩ thái (được hình thành từ một loại chất liệu vật lý cao hơn). Trường dĩ thái là cơ thể vật lý thực sự, và các chuyển động của nó chịu trách nhiệm cho các hoạt động hữu hình hơn của đối phần vật lý đậm đặc của nó. Vì vậy, bất kỳ cuộc thảo luận nào về bộ máy vật lý -dĩ thái nên tập trung chủ yếu vào khía cạnh dĩ thái, nhưng ở giai đoạn kiến thức hiện tại của chúng ta thì điều này là không thể. |
The lowest faculty of the inner man, might be called the physico-dynamic faculty, the purpose of which is to translate volition into action through the utilization of the etheric-physical field upon the etheric-physical plane. While, in the occult sense, this vehicle is the least important, at our present stage of evolution (and especially while in incarnation) it influences our life profoundly. All that we may be subjectively must be expressed through this mechanism. Understood and properly utilized, it can be an invaluable instrument for manifestation; misunderstood and mistreated, it will prove a great limitation, thwarting the physical plane demonstration of the real, subjective individual. |
Năng lực thấp nhất của con người bên trong, có thể được gọi là năng lực động lực – vật lý, mục đích của nó là chuyển ý chí thành hành động thông qua việc sử dụng trường vật lý – dĩ thái trên cõi vật lý – dĩ thái. Trong khi, theo nghĩa nội môn, phương tiện này là ít quan trọng nhất, thì ở giai đoạn tiến hóa hiện tại của chúng ta (và đặc biệt là trong khi nhập thể), nó ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của chúng ta. Tất cả những gì chúng ta là về mặt nội tại phải được thể hiện thông qua bộ máy này. Được hiểu và sử dụng đúng cách, nó có thể là một công cụ vô giá để biểu hiện; bị hiểu lầm và bị ngược đãi, nó sẽ chứng tỏ một hạn chế lớn, cản trở việc thể hiện trên cõi trần của con người thực bên trong. |
Some Key Functions and Operations and Characteristic Dynamics of the Physico-Dynamic Faculty within the Bio-field — Một số chức năng, hoạt động chính và động lực đặc trưng của năng lực vật lý-động lực trong trường sinh học
1. Movement |
1. Sự chuyển động |
2. Action and coordination |
2. Hành động và phối hợp |
3. Reception and expression |
3. Sự tiếp nhận và biểu lộ |
4. Vitalization |
4. Sự truyền sức sống |
5. Anchorage |
5. Sự neo đậu |
Commentary |
Bình luận |
1. Movement: The purpose of the physical body is to be an instrument of the soul on the physical plane. Its effectiveness as an instrument is largely dependent upon the degree to which it can “make the right moves”—moving about through the physical environment, fulfilling desires, mental intentions and spiritual demands. The strength, flexibility, coordination, and rate of activity of the etheric-physical body are all pertinent factors in its success as the soul’s instrument within the “outer sphere”—the “frozen world” of dense matter, under the aegis of Saturn. |
1. Sự chuyển động: Mục đích của cơ thể vật lý là trở thành một công cụ của linh hồn trên cõi vật lý. Hiệu quả của nó với tư cách là một công cụ phụ thuộc phần lớn vào mức độ mà nó có thể “thực hiện những chuyển động đúng đắn” — chuyển động thông qua môi trường vật chất, thoả mãn các ham muốn, các ý định trí tuệ và các nhu cầu tinh thần. Sức mạnh, tính linh hoạt, khả năng phối hợp và tốc độ hoạt động của thể vật lí – dĩ thái đều là những yếu tố thích hợp tạo nên sự thành công của nó với tư cách là vận cụ của linh hồn trong “hình cầu bên ngoài” — “thế giới đóng băng ” của vật chất thô đặc, dưới sự bảo hộ của Sao Thổ. |
2. Action: The etheric-physical nature acts ; as it does so, its actions inevitably affect the dense physical plane. One of the major purposes of the incarnated human being is to make a purposeful, loving and intelligent impact upon the physical plane. The higher the level of evolution, the more the soul on its own plane expects the soul-in-incarnation to make a significant difference in the life of the physical plane. Certain kinds and qualities of action will be appropriate, skillful and effective; others will not. The nature of the actions undertaken by each individual will determine his “mark” upon the usually resistant outer world. |
2. Hành động: Bản chất vật lí – dĩ thái hành động ; khi nó làm như vậy, các hành động của nó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến cõi vật lý thô đặc . Một trong những mục đích chính của con người nhập thể là tạo ra tác động có mục đích, yêu thương và thông tuệ trên cõi vật lý. Mức độ tiến hóa càng cao, linh hồn trên cõi của chính nó càng mong đợi linh hồn đang nhập thể tạo ra sự khác biệt đáng kể trong cuộc sống cõi vật lý. Một số loại và phẩm tính của hành động sẽ phù hợp, khéo léo và hiệu quả; những loại khác thì không. Bản chất của các hành động được thực hiện bởi mỗi cá nhân sẽ xác định “dấu ấn” của họ đối với thế giới bên ngoài thường chống đối. |
The quality of the etheric-physical body conditions to an appreciable degree the quality of an individual’s physical plane actions, and thus, the strength, scope and quality of his practical impact. The physical plane poses many challenges to the subjective individual, chief among which is the challenge to “come through,” and be upon the outer plane what one is upon the higher planes. The individual who “comes through” is a “spiritual success,” and the degree of this emergence depends (more than we might like to think) upon the quality, refinement, strength and endurance of the etheric-physical mechanism as it attempts to express spiritual intention through concrete action. |
Phẩm tính của thể vật lý – dĩ thái quy định một mức độ đáng kể phẩm tính của các hành động trên cõi vật lý của một cá nhân và do đó, sức mạnh, phạm vi và phẩm tính của tác động thực tế. Cõi vật lý đặt ra nhiều thách thức đối với cá nhân bên trong, chủ yếu trong số đó là thách thức phải “vượt qua,” và thể hiện trên cõi giới bên ngoài những gì mà y chính là trên các cõi cao hơn. Cá nhân “vượt qua” là một “thành công về mặt tinh thần” và mức độ của sự xuất hiện này phụ thuộc (nhiều hơn những gì chúng ta có thể nghĩ) vào phẩm tính, sự tinh tế, sức mạnh và độ bền của bộ máy vật lí -dĩ thái khi nó cố gắng để thể hiện ý định tinh thần thông qua hành động cụ thể. |
3. Reception and expression: The physical body (and its controlling terminal—the physical brain) is the instrument of reception and expression upon the physical plane for the psychospiritual principles of the human being. According to the body’s strength, density, flexibility and coordination; according to the brain’s sensitivity, receptivity to internal impression, etc., so will the incarnated individual be effective or not in anchoring and expressing the quality of the inner psychological and spiritual principles. |
3. Tiếp nhận và biểu lộ: thể xác (và thiết bị đầu cuối điều khiển nó — bộ não vật lý) là công cụ tiếp nhận và biểu lộ trên cõi vật lý đối với các nguyên khí tâm lý tinh thần của con người. Theo sức mạnh, mật độ, tính linh hoạt và sự phối hợp của cơ thể; tùy theo độ nhạy cảm của não bộ, khả năng tiếp thu đối với ấn tượng bên trong, v.v., cá nhân nhập thế có hiệu quả hay không trong việc neo giữ và thể hiện phẩm tính của các nguyên khí tâm lý và tinh thần bên trong. |
4. Vitalization: The etheric mechanism is the source and effective distributor of vital energy (prana) within the human bio-field. The health, vitality and overall energy level of the physical mechanism (and, thus, the degree to which it can serve as a faithful agent of inner intention) is directly dependent upon the condition of the etheric field. The strength and clarity of the connection between these two aspects of the physical nature are also crucial to the vital coherence of the physical mechanism. The etheric-physical mechanism is ultimately meant to be the individual’s means of distributing the life aspect upon the physical plane. |
4. Sự tiếp sinh lực: Cơ chế dĩ thái là nguồn và nơi phân phối hiệu quả năng lượng sống (prana) trong trường sinh học của con người. Sức khỏe, sức sống và mức năng lượng tổng thể của bộ máy vật lý (và do đó, mức độ mà nó có thể phục vụ như một tác nhân trung thành của ý định bên trong) phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện của trường dĩ thái. Sức mạnh và sự rõ ràng của mối liên hệ giữa hai khía cạnh này của bản chất vật lý cũng rất quan trọng đối với sự gắn kết sinh lực của bộ máy vật lý. Bộ máy vật lý -dĩ thái cuối cùng có ý nghĩa là phương tiện của cá nhân để phân phối khía cạnh sự sống trên cõi vật lý . |
5. Anchorage: The etheric-physical vehicle anchors the inner man upon the outer plane. The quality of this vehicle (determined by soul purpose and karmic law) conditions the sturdiness and duration of the anchorage (i.e., how long the individual will “live” upon the physical plane in any one incarnation). [ 334] |
5. Sự neo đậu: Vận cụ vật lý -dĩ thái neo con người bên trong vào cõi giới bên ngoài. Phẩm tính của vận cụ này (được xác định bởi mục đích linh hồn và luật nhân quả) quy định độ bền và kì hạn neo đậu (tức là cá nhân sẽ “sống” bao lâu trên cõi vật lý trong bất kỳ lần nhập thế nào). [334] |
Some Important Differentiations Between Fields |
Một số khác biệt quan trọng giữa các trường |
We have now concluded a preliminary examination of the five major fields of the human energy system. We have explored particular functions, operations and characteristic dynamics for each field. One of the chief purposes for doing so was to help students understand what each of the fields ‘does’ (or more technically and accurately, what each of the five faculties functioning within their five respective fields ‘does’), and further, how the combination of each faculty and field (i.e., each principle and sheath) ‘works.’ It is impossible to understand the dynamics of the human energy system, and the expression of the various ray qualities conjoined to that system, without some working idea of the general dynamics of each of the five major faculties and fields which comprise what (at this point in human evolution) must be regarded as the whole human being. |
Hiện chúng ta đã kết thúc một cuộc kiểm tra sơ bộ về năm trường chính của hệ thống năng lượng con người. Chúng ta đã khám phá các chức năng, hoạt động và động lực tiêu biểu cho từng trường. Một trong những mục đích chính của việc làm như vậy là giúp học viên hiểu được từng trường ‘làm’ gì (hoặc về mặt kỹ thuật và chính xác hơn, từng năng lực trong số năm năng lực hoạt động trong năm trường tương ứng của chúng ‘làm gì), và hơn nữa, cách mà sự kết hợp của từng năng lực và trường (tức là từng nguyên khí và vỏ bọc) ‘ hoạt động ’ . Không thể hiểu được các động lực của hệ thống năng lượng của con người và sự thể hiện của các phẩm tính cung khác nhau gắn liền với hệ thống đó, nếu không có một số ý tưởng hoạt động về các động lực chung của từng thứ trong số năm năng lực và trường chính bao gồm những gì (tại thời điểm này trong quá trình tiến hóa của con người) phải được coi là toàn bộ con người. |
Before we proceed with assigning ray qualities to each of the five fields, and determining (either observationally/empirically or rationally/speculatively) how each field functions when qualified by a given ray energy, let us attempt to throw some light on distinctions between field functions which are sometimes found confusing. These distinctions will be presented in tabulation form to emphasize the distinctions more clearly. |
Trước khi chúng ta tiến hành gán những phẩm tính cung cho từng trường trong số năm trường và xác định (theo quan sát/theo kinh nghiệm hoặc duy lí/suy đoán) cách mỗi trường hoạt động như thế nào khi đủ điều kiện bởi một năng lượng cung nhất định, chúng ta hãy thử làm sáng tỏ sự khác biệt giữa các chức năng trường đôi khi bị nhầm lẫn. Các phân biệt này sẽ được trình bày dưới dạng bảng để nhấn mạnh sự phân biệt rõ ràng hơn. |
As a point of clarification on a difficult matter, it should be noted that whereas fields have diverse rays , which may, in the case of the personality fields, change life after life, and in the case of the soul or causal field, change at wide and infrequent intervals—faculties or principles are all differentiated powers of the one essential identity—the Monad, and therefore, all faculties, no matter through which fields they may be functioning (Triadal, causal, mental, emotional, etheric-physical) are essentially qualified by the ray of the Monad , since the Monad is the only true identity— all other fields (no matter how intimately bound up with that identity) being essentially extraneous to it. In a very real sense, the essential man, forever and always, has only one primary ray—the ray of the Monad. Because, however, the differentiated and attenuated faculties of the Monad must express through various fields (all qualified by different rays), the man seems to be characterized by all these rays. But, essentially, it is not so. |
Để làm rõ một vấn đề khó, cần lưu ý rằng trong khi các trường có các cung đa dạng , trong trường hợp các trường phàm ngã, có thể thay đổi từ kiếp này sang kiếp khác, còn trong trường hợp của linh hồn hoặc trường nguyên nhân, thay đổi diễn ra trong các khoảng thời gian rộng lớn và hiếm khi xảy ra — các năng lực hoặc nguyên khí đều là sức mạnh khác biệt của một bản sắc thiết yếu — Chân Thần, và do đó, tất cả các năng lực, bất kể chúng có thể hoạt động trong trường nào (Tam thượng thể, nguyên nhân, trí tuệ , cảm xúc, dĩ thái-vật lý) về cơ bản đều được phẩm định bởi cung của Chân Thần , vì Chân thần là bản sắc thực sự duy nhất — tất cả các trường khác (bất kể có ràng buộc mật thiết đến mức nào với bản sắc đó) về cơ bản không liên quan đến nó. Theo một nghĩa rất thực tế, bản chất con người, mãi mãi và luôn luôn chỉ có một cung chính — cung của Chân Thần. Tuy nhiên, bởi vì các năng lực khác biệt và yếu ớt của Chân Thần phải thể hiện qua các trường khác nhau (tất cả đều bị phẩm định bởi các cung khác nhau), con người dường như được đặc trưng bởi tất cả các cung này. Nhưng, về bản sắc, nó không phải như vậy. |
Some Distinctions Between the Soul Faculty and Field and the Personality Faculty and Field — Một số khác biệt giữa Năng lực và Trường Linh hồn với Năng lực và Trường Phàm ngã
This, perhaps, is the easiest of the distinctions to be listed, because soul and personality are one of the many “pairs of opposites.” For the sake of clarity, the personality will be considered as it is prior to absorbing the influence of the soul ; its qualities will thereby stand in bolder relief compared to soul qualities. It must be realized that the personality has its higher aspects as well as lower, and that after it has been trained by the soul, and submitted to what might be called ‘soul-culture’ for a significant period of time, it becomes what the Tibetan calls a “high grade personality,” and has much of value to offer the soul and the world. The soul qualities listed will not be so much those of the soul on its own plane, but more of the soul as it manifests within the human kingdom. |
Đây có lẽ là sự khác biệt dễ dàng nhất được liệt kê, bởi vì linh hồn và phàm ngã là một trong nhiều “cặp đối lập”. Vì mục đích làm rõ, phàm ngã sẽ được xem xét như nó vốn là trước khi hấp thụ ảnh hưởng của linh hồn ; do đó phẩm tính của nó sẽ nổi bật lên so với phẩm tính của linh hồn. Cần phải nhận ra rằng phàm ngã có những khía cạnh cao hơn cũng như thấp hơn, và sau khi nó được linh hồn thanh luyện và phục tùng cái có thể gọi là ‘văn hóa-linh hồn’ trong một khoảng thời gian đáng kể, nó sẽ trở thành cái mà Chân Sư Tây Tạng gọi là “phàm ngã tiến hóa” và có nhiều giá trị để cống hiến cho linh hồn và thế giới. Những phẩm tính linh hồn được liệt kê sẽ không phải là những phẩm tính của linh hồn trên cõi riêng của nó, mà là những phẩm tính linh hồn thể hiện bên trong vương quốc loài người. |
Đây có lẽ là sự khác biệt dễ dàng nhất được liệt kê, bởi vì linh hồn và phàm ngã là một trong nhiều “cặp đối lập”. Vì mục đích làm rõ, phàm ngã sẽ được xem xét như nó vốn là trước khi hấp thụ ảnh hưởng của linh hồn ; do đó phẩm tính của nó sẽ nổi bật lên so với phẩm tính của linh hồn. Cần phải nhận ra rằng phàm ngã có những khía cạnh cao hơn cũng như thấp hơn, và sau khi nó được linh hồn thanh luyện và phục tùng cái có thể gọi là ‘văn hóa-linh hồn’ trong một khoảng thời gian đáng kể, nó sẽ trở thành cái mà Chân Sư Tây Tạng gọi là “phàm ngã tiến hóa” và có nhiều giá trị để cống hiến cho linh hồn và thế giới. Những phẩm tính linh hồn được liệt kê sẽ không phải là những phẩm tính của linh hồn trên cõi riêng của nó, mà là những phẩm tính linh hồn thể hiện bên trong vương quốc loài người. |
Đây có lẽ là sự khác biệt dễ dàng nhất được liệt kê, bởi vì linh hồn và phàm ngã là một trong nhiều “cặp đối lập”. Vì mục đích làm rõ, phàm ngã sẽ được xem xét như nó vốn là trước khi hấp thụ ảnh hưởng của linh hồn ; do đó phẩm tính của nó sẽ nổi bật lên so với phẩm tính của linh hồn. Cần phải nhận ra rằng phàm ngã có những khía cạnh cao hơn cũng như thấp hơn, và sau khi nó được linh hồn thanh luyện và phục tùng cái có thể gọi là ‘văn hóa-linh hồn’ trong một khoảng thời gian đáng kể, nó sẽ trở thành cái mà Chân Sư Tây Tạng gọi là “phàm ngã tiến hóa” và có nhiều giá trị để cống hiến cho linh hồn và thế giới. Những phẩm tính linh hồn được liệt kê sẽ không phải là những phẩm tính của linh hồn trên cõi riêng của nó, mà là những phẩm tính linh hồn thể hiện bên trong vương quốc loài người. |
|
|
|
|
Soul vs. Linh hồn với. |
Soul vs. Linh hồn với. |
Personality Phàm ngã |
|
spiritual tinh thần |
spiritual tinh thần |
material vật chất |
|
the life sự sống |
the life sự sống |
the form hình tướng |
|
animator người làm sinh động |
animator người làm sinh động |
animated được làm sinh động |
|
loving Tình thương |
loving Tình thương |
intelligent thông tuệ |
|
Egoistic Chân ngã |
Egoistic Chân ngã |
egoistic bản ngã |
|
the actor diễn viên |
the actor diễn viên |
the mask (“persona”) mặt nạ |
|
the design thiết kế |
the design thiết kế |
the expression biểu lộ |
|
impressive gây ấn tượng |
impressive gây ấn tượng |
impressed bị ấn tượng |
|
the idea ý tưởng |
the idea ý tưởng |
the ideal lý tưởng |
|
giving cho |
giving cho |
taking nhận |
|
Distributive phân phát |
Distributive phân phát |
accumulative tích lũy |
|
seeks nothing in return không cần sự đáp trả |
seeks nothing in return không cần sự đáp trả |
wants something for the lower self— “payoffs” muốn một cái gì đó cho bản ngã thấp hơn — “những phần thưởng” |
|
the heart trái tim |
the heart trái tim |
the solar plexus tùng thái dương |
|
Inclusive bao gồm |
Inclusive bao gồm |
exclusive loại trừ |
|
united to others hợp nhất với người khác |
united to others hợp nhất với người khác |
separated from others tách khỏi người khác |
|
Expansive mở rộng |
Expansive mở rộng |
confined hạn chế |
|
Altruistic vị tha |
Altruistic vị tha |
selfish ích kỉ |
|
identified with others đồng nhất với người khác |
identified with others đồng nhất với người khác |
identified with self đồng nhất với bản thân |
|
group conscious tâm thức nhóm |
group conscious tâm thức nhóm |
self-conscious tâm thức cá nhân |
|
Decentralizing phi tập trung hoá |
Decentralizing phi tập trung hoá |
centralizing tập trung hóa |
|
Cooperative hợp tác |
Cooperative hợp tác |
individualistic chủ nghĩa cá nhân |
|
spiritually innovative đổi mới tinh thần |
spiritually innovative đổi mới tinh thần |
repetitive lặp đi lặp lại |
|
spiritually adaptive thích ứng về mặt tinh thần |
spiritually adaptive thích ứng về mặt tinh thần |
habit bound thói quen ràng buộc |
|
Panoramic toàn cảnh |
Panoramic toàn cảnh |
myopic cận cảnh |
|
spiritually sighted có tầm nhìn về tinh thần |
spiritually sighted có tầm nhìn về tinh thần |
spiritually blind mù lòa về tinh thần |
|
Contemplative chiêm nghiệm |
Contemplative chiêm nghiệm |
action-oriented hành động theo định hướng |
|
free of time and space tự do về thời gian và không gian |
free of time and space tự do về thời gian và không gian |
bound by time and space ràng buộc bởi thời gian và không gian |
|
aeonian vĩnh viễn |
aeonian vĩnh viễn |
ephemeral sớm nở tối tàn |
Some Distinctions Between The Personality Faculty and Field and the Mental Faculty and Field — Một số khác biệt giữa Trường và Năng lực Phàm ngã với Trường và Năng lực Thể trí
This is one of the more difficult distinctions, and a source of considerable confusion for those who attempt to discriminate between the different aspects of the human energy system. The distinction, somewhat difficult in theory, is even more difficult in practice, because personality and mind so frequently function simultaneously. Mind and the personality are very closely related because mental polarization is the “sine qua non” of the integrated personality. Personality, we know, is genetically associated with intelligence, just as soul is associated with love and magnetism. |
— Đây là một trong những điểm khó phân biệt hơn, và là nguồn gốc gây nhầm lẫn đáng kể cho những ai cố gắng phân biệt giữa các khía cạnh khác nhau của hệ thống năng lượng con người. Sự phân biệt hơi khó trên lý thuyết, thậm chí còn khó hơn trong thực tế, bởi vì phàm ngã và thể trí thường hoạt động đồng thời. Thể trí và phàm ngã có quan hệ mật thiết với nhau bởi vì sự phân cực trí tuệ là “điều kiện tiên quyết” của phàm ngã tích hợp. Phàm ngã, như chúng ta biết, về mặt di truyền gắn liền với sự thông tuệ, cũng như linh hồn gắn liền với tình thương và từ tính. |
Personality vs. Phàm ngã với |
Personality vs. Phàm ngã với |
Mind Thể trí |
pervaded by the sense of “I”; identity-centered tràn ngập bởi ý thức về “tôi”, lấy bản sắc làm trung tâm |
pervaded by the sense of “I”; identity-centered tràn ngập bởi ý thức về “tôi”, lấy bản sắc làm trung tâm |
functions without reference to the dimension of identity hoạt động không cần tham chiếu đến chiều kích của bản sắc |
multidimensional (includes three subfields) đa chiều kích/ đa hướng (bao gồm ba trường phụ) |
multidimensional (includes three subfields) đa chiều kích/ đa hướng (bao gồm ba trường phụ) |
unidimensional đơn chiều/ đơn hướng |
“triggers” emotions or ego defenses “kích hoạt” cảm xúc hoặc phòng vệ bản ngã |
“triggers” emotions or ego defenses “kích hoạt” cảm xúc hoặc phòng vệ bản ngã |
functions more independently of the emotions hoạt động độc lập với cảm xúc |
subject to a specific kind of fear reaction according to its ray chịu một loại phản ứng sợ hãi cụ thể tùy theo cung của nó |
subject to a specific kind of fear reaction according to its ray chịu một loại phản ứng sợ hãi cụ thể tùy theo cung của nó |
not, in itself, subject to fear bản thân nó không chịu sự sợ hãi. |
self-referencing tự tham chiếu |
self-referencing tự tham chiếu |
focused on the subject tập trung vào chủ đề/ đối tượng |
refers the meaning of data to the self đề cập đến ý nghĩa của dữ liệu đối với bản thân |
refers the meaning of data to the self đề cập đến ý nghĩa của dữ liệu đối với bản thân |
refers to the data itself đề cập đến chính dữ liệu |
more attached to body which is often seen as the self, and connected with personal self-image; (the physical body will at times reflect the quality of the personality ray) nhiều bám chấp với thể xác thường được coi là cái tôi, và kết nối với hình ảnh bản thân cá nhân; (thể xác vật lý sẽ có lúc phản ánh phẩm chất của cung phàm ngã) |
more attached to body which is often seen as the self, and connected with personal self-image; (the physical body will at times reflect the quality of the personality ray) nhiều bám chấp với thể xác thường được coi là cái tôi, và kết nối với hình ảnh bản thân cá nhân; (thể xác vật lý sẽ có lúc phản ánh phẩm chất của cung phàm ngã) |
more detached from body tách rời nhiều hơn khỏi thế xác |
obscures purely mental functioning through self-interest and self-reference che khuất hoạt động trí tuệ thuần túy thông qua tư lợi và tự tham chiếu |
obscures purely mental functioning through self-interest and self-reference che khuất hoạt động trí tuệ thuần túy thông qua tư lợi và tự tham chiếu |
craves purely mental functioning khao khát hoạt động trí tuệ thuần túy |
distorts or uses answers for its own ends—good or bad bóp méo hoặc sử dụng câu trả lời cho mục đích riêng của nó — tốt hoặc xấu |
distorts or uses answers for its own ends—good or bad bóp méo hoặc sử dụng câu trả lời cho mục đích riêng của nó — tốt hoặc xấu |
seeks answers for their own sake tìm kiếm câu trả lời vì lợi ích riêng của chúng |
subject to likes and dislikes as it protects its boundaries and “territory” phụ thuộc vào những cái thích và những cái không thích bởi vì nó bảo vệ ranh giới và “lãnh thổ” của mình |
subject to likes and dislikes as it protects its boundaries and “territory” phụ thuộc vào những cái thích và những cái không thích bởi vì nó bảo vệ ranh giới và “lãnh thổ” của mình |
less innately influenced by likes and dislikes ít bị ảnh hưởng một cách bẩm sinh bởi những cái thích và những cái không thích |
biased and partial thiên vị và không vô tư |
biased and partial thiên vị và không vô tư |
essentially impartial when not under the impress of personality về cơ bản vô tư khi không bị ấn tượng của phàm ngã |
revolves around its own center chuyển động xung quanh trung tâm của chính nó |
revolves around its own center chuyển động xung quanh trung tâm của chính nó |
unhampered by a center around which it is constrained to revolve không bị cản trở bởi một trung tâm mà nó bị ràng buộc phải xoay quanh đó |
characterized by self-investment in all outcomes được đặc trưng bởi sự tự đầu tư vào tất cả các kết quả |
characterized by self-investment in all outcomes được đặc trưng bởi sự tự đầu tư vào tất cả các kết quả |
conclusions reached without the self necessarily being invested đạt được kết luận mà không cần sự đầu tư của bản thân |
emerges under stress of threat— especially when personal status or sovereignty are challenged nổi lên khi bị đe dọa căng thẳng — đặc biệt khi địa vị cá nhân hoặc chủ quyền bị thách thức |
emerges under stress of threat— especially when personal status or sovereignty are challenged nổi lên khi bị đe dọa căng thẳng — đặc biệt khi địa vị cá nhân hoặc chủ quyền bị thách thức |
emerges when mental problem-solving is required nổi lên khi cần giải quyết vấn đề về trí tuệ |
emerges more when doing nổi lên nhiều hơn khi hành động |
emerges more when doing nổi lên nhiều hơn khi hành động |
emerges more when sitting still, alone and learning nổi lên nhiều hơn khi ngồi yên lặng, một mình và học hỏi |
wants permanence and security; wants to survive as a separate entity Muốn thường tồn và an toàn; muốn sống sót như một thực thể riêng rẽ |
wants permanence and security; wants to survive as a separate entity Muốn thường tồn và an toàn; muốn sống sót như một thực thể riêng rẽ |
wants stimulation and activity muốn kích thích và hoạt động |
has a strong social dimension; emerges most characteristically in the presence of others, or in the imagined presence of others (whether incarnate or discarnate) có một chiều hướng xã hội mạnh mẽ; nổi lên đặc trưng nhất khi có sự hiện diện của người khác, hoặc trong sự hiện diện tưởng tượng của người khác (dù nhập thế hay không nhập thế) |
has a strong social dimension; emerges most characteristically in the presence of others, or in the imagined presence of others (whether incarnate or discarnate) có một chiều hướng xã hội mạnh mẽ; nổi lên đặc trưng nhất khi có sự hiện diện của người khác, hoặc trong sự hiện diện tưởng tượng của người khác (dù nhập thế hay không nhập thế) |
a-social; functions equally well, whether in the presence of others or not phi xã hội; hoạt động tốt như nhau, cho dù có hay không có sự hiện diện của người khác. |
the master; the superior chủ nhân, cấp trên |
the master; the superior chủ nhân, cấp trên |
the servant; the subordinate đầy tớ, cấp dưới |
instrumental in determining the vocation and life-direction khí cụ để xác định thiên hướng và định hướng cuộc sống |
instrumental in determining the vocation and life-direction khí cụ để xác định thiên hướng và định hướng cuộc sống |
subordinate in the determination of the vocation and life-direction phụ thuộc vào việc xác định thiên hướng và định hướng cuộc sống |
source of motivation nguồn động lực |
source of motivation nguồn động lực |
guided by the direction of motivation được hướng dẫn bởi định hướng của động lực |
emerges especially in situations calling for “action on one’s own” đặc biệt xuất hiện trong tình huống kêu gọi “tự mình hành động” |
emerges especially in situations calling for “action on one’s own” đặc biệt xuất hiện trong tình huống kêu gọi “tự mình hành động” |
emerges in all kinds of situations xuất hiện trong tất cả các tình huống |
Commentary |
Bình luận |
Bình luận |
Although personality and mind are difficult to distinguish, it is important to do so. It is quite possible for mind to function without the impress of self, if the personality can succeed in “staying out of its own thinking.” This is more likely to occur away from social situations, because in social situations the individual experiences pressure to appear as an identity, a distinct person—in other words, to be someone , and all resources of the personality, including the mind, will be turned to this end. When the individual is alone, however, and not pressed by social expectations (and unmindful of internalized social expectations as well), the mind will emerge unobscured by the personality— especially when the individual is exclusively engaged in the act of learning. |
Mặc dù phàm ngã và thể trí rất khó phân biệt, nhưng việc phân biệt là quan trọng . Thể trí hoàn toàn có thể hoạt động mà không cần ấn tượng về bản ngã, nếu phàm ngã có thể thành công trong việc “tránh xa suy nghĩ của chính mình”. Điều này có nhiều khả năng xảy ra hơn tách khỏi các tình huống xã hội, bởi vì trong các tình huống xã hội, cá nhân trải qua áp lực phải xuất hiện như một bản sắc, một con người khác biệt — nói cách khác, trở thành một ai đó , và tất cả các nguồn lực của phàm ngã, bao gồm cả thể trí, sẽ đi đến kết cục như vậy. Tuy nhiên, khi cá nhân chỉ có một mình, không bị các kỳ vọng xã hội thúc ép (và bên trong cũng không bị ảnh hưởng bởi các kỳ vọng xã hội), thể trí sẽ xuất hiện mà không bị phàm ngã che khuất— đặc biệt là khi cá nhân chỉ tham gia vào hoạt động học tập. |
Mặc dù phàm ngã và thể trí rất khó phân biệt, nhưng việc phân biệt là quan trọng . Thể trí hoàn toàn có thể hoạt động mà không cần ấn tượng về bản ngã, nếu phàm ngã có thể thành công trong việc “tránh xa suy nghĩ của chính mình”. Điều này có nhiều khả năng xảy ra hơn tách khỏi các tình huống xã hội, bởi vì trong các tình huống xã hội, cá nhân trải qua áp lực phải xuất hiện như một bản sắc, một con người khác biệt — nói cách khác, trở thành một ai đó , và tất cả các nguồn lực của phàm ngã, bao gồm cả thể trí, sẽ đi đến kết cục như vậy. Tuy nhiên, khi cá nhân chỉ có một mình, không bị các kỳ vọng xã hội thúc ép (và bên trong cũng không bị ảnh hưởng bởi các kỳ vọng xã hội), thể trí sẽ xuất hiện mà không bị phàm ngã che khuất— đặc biệt là khi cá nhân chỉ tham gia vào hoạt động học tập. |
The personality (or, rather, the human entity when functioning as a personality) cares about outcomes or results. It has certain desires and a certain self-image to maintain, and outcomes naturally affect these. The mind is more like a machine. It has a certain way of approaching the various mental operations, but it does not care about itself; the mind, unlike the personality, is not inherently self- protective and self-referencing . The personality’s concern about outcomes is embodied in such questions as: “What will the outcome mean to me? Here we see the personality’s tendency to refer all things to a center, a limited “I,” conceived of as that intangible but stubbornly present thing called a self . In itself, the mind is not particularly inclined to reinforce or magnify this personal ‘I-center;’ under the impress of personality, however, the mind becomes the servant of the self, in which case its thinking is no longer pure thinking but is tainted or skewed by self-reference. |
Phàm ngã (hay nói đúng hơn là thực thể con người khi hoạt động như một phàm ngã) quan tâm đến hậu quả hoặc kết quả. Nó có những mong muốn nhất định và một hình ảnh bản thân nhất định cần duy trì, và kết quả ảnh hưởng đến những điều này một cách tự nhiên. Thể trí giống như một cái máy hơn. Nó có cách nhất định để tiếp cận các hoạt động trí tuệ khác nhau, nhưng nó không quan tâm đến bản thân nó; thể trí, không giống như phàm ngã , vốn dĩ không có khả năng tự bảo vệ và tự quy chiếu . Mối quan tâm của phàm ngã về kết quả được thể hiện trong những câu hỏi như: “Kết quả sẽ có ý nghĩa gì đối với tôi ? Ở đây, chúng ta thấy xu hướng của phàm ngã muốn quy tất cả mọi thứ về một trung tâm, một cái “tôi” giới hạn, được hình thành như một thứ hiện hữu vô hình nhưng cố chấp được gọi là cái tôi . Tự nó, thể trí không có khuynh hướng đặc biệt củng cố hay phóng đại ‘cái tôi trung tâm’ của cá nhân này; tuy nhiên, dưới sự ấn tượng của phàm ngã , thể trí trở thành đầy tớ của cái tôi, trong trường hợp đó, tư duy của nó không còn là tư duy thuần túy nữa mà là bị ô nhiễm hoặc bị lệch lạc do tự quy chiếu. |
Phàm ngã (hay nói đúng hơn là thực thể con người khi hoạt động như một phàm ngã) quan tâm đến hậu quả hoặc kết quả. Nó có những mong muốn nhất định và một hình ảnh bản thân nhất định cần duy trì, và kết quả ảnh hưởng đến những điều này một cách tự nhiên. Thể trí giống như một cái máy hơn. Nó có cách nhất định để tiếp cận các hoạt động trí tuệ khác nhau, nhưng nó không quan tâm đến bản thân nó; thể trí, không giống như phàm ngã , vốn dĩ không có khả năng tự bảo vệ và tự quy chiếu . Mối quan tâm của phàm ngã về kết quả được thể hiện trong những câu hỏi như: “Kết quả sẽ có ý nghĩa gì đối với tôi ? Ở đây, chúng ta thấy xu hướng của phàm ngã muốn quy tất cả mọi thứ về một trung tâm, một cái “tôi” giới hạn, được hình thành như một thứ hiện hữu vô hình nhưng cố chấp được gọi là cái tôi . Tự nó, thể trí không có khuynh hướng đặc biệt củng cố hay phóng đại ‘cái tôi trung tâm’ của cá nhân này; tuy nhiên, dưới sự ấn tượng của phàm ngã , thể trí trở thành đầy tớ của cái tôi, trong trường hợp đó, tư duy của nó không còn là tư duy thuần túy nữa mà là bị ô nhiễm hoặc bị lệch lạc do tự quy chiếu. |
Personality is that which, to a great extent, determines direction in life, especially once a person begins to show independence and to take life “into his own hands.” Mind may have a tendency towards certain kinds of motions or “modifications” (and therefore a predilection for certain kinds of activities), but it is the personality which determines the arena in which mind will, per force, be active. The choosing of life activities (before the point of real soul influence is reached) is the prerogative of the personality, and the mind must go along. (Of course, the quality of the mind, very frequently, is taken into [ 338] account in the personality’s choice). The mind, however, definitely serves personality ends. In the case of the integrated personality, personality is master, and mind is the servant. Personality is higher on the hierarchical scale than mind; occultly, it is an elemental of a higher order. |
Phàm ngã, ở một mức độ rộng lớn, quyết định hướng đi trong cuộc sống, đặc biệt là khi một người bắt đầu thể hiện sự độc lập và “chính tay mình” điều khiển cuộc sống. Thể trí có thể có xu hướng đối với một số loại chuyển động hoặc “ thay đổi” (và do đó là khuynh hướng đối với một số loại hoạt động), nhưng chính phàm ngã sẽ quyết định khu vực mà thể trí sẽ hoạt động theo từng mãnh lực. Việc lựa chọn các hoạt động sống (trước khi đạt được điểm ảnh hưởng thực sự của linh hồn) là đặc quyền của phàm ngã, và thể trí phải đi cùng. (Tất nhiên, phẩm chất của thể trí, rất thường xuyên, được [338] xét đến dưới sự lựa chọn của phàm ngã). Tuy nhiên, thể trí chắc chắn phục vụ mục đích của phàm ngã. Trong trường hợp của phàm ngã tích hợp, phàm ngã là chủ nhân, và thể trí là đầy tớ. Phàm ngã cao hơn trên thang thứ bậc so với thể trí; một cách huyền bí, nó là một tinh linh ở một bậc cao hơn. |
Phàm ngã, ở một mức độ rộng lớn, quyết định hướng đi trong cuộc sống, đặc biệt là khi một người bắt đầu thể hiện sự độc lập và “chính tay mình” điều khiển cuộc sống. Thể trí có thể có xu hướng đối với một số loại chuyển động hoặc “ thay đổi” (và do đó là khuynh hướng đối với một số loại hoạt động), nhưng chính phàm ngã sẽ quyết định khu vực mà thể trí sẽ hoạt động theo từng mãnh lực. Việc lựa chọn các hoạt động sống (trước khi đạt được điểm ảnh hưởng thực sự của linh hồn) là đặc quyền của phàm ngã, và thể trí phải đi cùng. (Tất nhiên, phẩm chất của thể trí, rất thường xuyên, được [338] xét đến dưới sự lựa chọn của phàm ngã). Tuy nhiên, thể trí chắc chắn phục vụ mục đích của phàm ngã. Trong trường hợp của phàm ngã tích hợp, phàm ngã là chủ nhân, và thể trí là đầy tớ. Phàm ngã cao hơn trên thang thứ bậc so với thể trí; một cách huyền bí, nó là một tinh linh ở một bậc cao hơn. |
The key questions are: “Which situations cause the personality to emerge into prominence, and which cause the mind to do so?” It is possible to become so interested in thinking about something that one “loses oneself.” It is also possible to be so concerned about oneself that one cannot “think straight.” |
Các câu hỏi quan trọng là: “Tình huống nào khiến phàm ngã trở nên nổi bật, và nguyên nhân nào khiến thể trí làm như vậy?” Có khả năng trở nên quan tâm đến việc nghĩ về điều gì đó đến nỗi một người “đánh mất chính mình”. Cũng có thể lo lắng về bản thân đến mức không thể “suy nghĩ chín chắn ”. |
Các câu hỏi quan trọng là: “Tình huống nào khiến phàm ngã trở nên nổi bật, và nguyên nhân nào khiến thể trí làm như vậy?” Có khả năng trở nên quan tâm đến việc nghĩ về điều gì đó đến nỗi một người “đánh mất chính mình”. Cũng có thể lo lắng về bản thân đến mức không thể “suy nghĩ chín chắn ”. |
At all times when one is forced to stand before other people, and be who one imagines oneself to be (or be who they imagine one to be!), the personality emerges. When a person has responsibility ( personal responsibility) to perform a task independently (a task calling for the mobilization of all resources of the energy system) the personality will emerge. What happens when one has to stand alone? In a situation where one’s personal rights and prerogatives (one’s scope for independent action) are being challenged, the personality will emerge. And in all situations of risk or crisis, or under threat, the personality will emerge, and frequently will stand as a block against the complete performance of right (i.e., selfless) action. |
Bất cứ lúc nào khi một người bị buộc phải đứng trước những người khác, và trở thành người mà người ta tưởng tượng mình trở thành (hoặc là người mà họ tưởng tượng là mình sẽ trở thành!), thì phàm ngã lại nổi lên. Khi một người có trách nhiệm (trách nhiệm cá nhân ) thực hiện một nhiệm vụ một cách độc lập (một nhiệm vụ kêu gọi huy động mọi nguồn lực của hệ thống năng lượng) thì phàm ngã sẽ xuất hiện. Điều gì xảy ra khi một người phải đứng một mình? Trong tình huống mà quyền cá nhân và đặc quyền của một người (phạm vi hành động độc lập của một người) đang bị thách thức, phàm ngã sẽ xuất hiện. Và trong tất cả các tình huống rủi ro hoặc khủng hoảng, hoặc bị đe dọa, phàm ngã sẽ xuất hiện, và thường sẽ đứng như một khối chống lại việc thực hiện hoàn toàn hành động đúng (tức là vị tha). |
Bất cứ lúc nào khi một người bị buộc phải đứng trước những người khác, và trở thành người mà người ta tưởng tượng mình trở thành (hoặc là người mà họ tưởng tượng là mình sẽ trở thành!), thì phàm ngã lại nổi lên. Khi một người có trách nhiệm (trách nhiệm cá nhân ) thực hiện một nhiệm vụ một cách độc lập (một nhiệm vụ kêu gọi huy động mọi nguồn lực của hệ thống năng lượng) thì phàm ngã sẽ xuất hiện. Điều gì xảy ra khi một người phải đứng một mình? Trong tình huống mà quyền cá nhân và đặc quyền của một người (phạm vi hành động độc lập của một người) đang bị thách thức, phàm ngã sẽ xuất hiện. Và trong tất cả các tình huống rủi ro hoặc khủng hoảng, hoặc bị đe dọa, phàm ngã sẽ xuất hiện, và thường sẽ đứng như một khối chống lại việc thực hiện hoàn toàn hành động đúng (tức là vị tha). |
The mind is so frequently under the sway of personality will or personality desire that it is difficult to isolate its independent functioning. It must usually be seen through the screen of personality. When analyzing the mind, one must almost forget “who the person is,” and simply look at the manner of handling thoughts, as, for instance, in situations which are given purely to learning or other strictly mental operations. Crisis too, will draw out the mind, especially in its capacity for decision, but it also is likely to draw forth a great expression of personality, because in crisis the whole lower man is affected. Thus, crisis situations, as valuable as they may be for seeing the personality clearly, may not be best for distinguishing the quality of the mind. But away from crisis, when “nothing personal is at stake,” personality tendencies will often subside sufficiently to reveal the mind. At those moments when it is possible to sit down alone, or sit together with others, and just think with no personal investment in the results of thinking, and “desiring nothing for the personal self” (as the esoteric injunction goes), the mind and its quality may stand in bolder relief. [ 339] |
Thể trí thường xuyên bị ảnh hưởng bởi ý chí của phàm ngã hoặc ham muốn của phàm ngã đến mức rất khó để cô lập chức năng hoạt động độc lập của nó. Thông thường nó được nhìn thấy qua bức màn của phàm ngã . Khi phân tích thể trí, người ta gần như phải quên “người đó là ai” và chỉ đơn giản là nhìn vào cách xử lý suy nghĩ, chẳng hạn như trong các tình huống hoàn toàn dành cho việc học hoặc các hoạt động tinh thần nghiêm ngặt khác. Khủng hoảng cũng vậy, sẽ làm suy yếu thể trí, đặc biệt là khả năng quyết định của nó, nhưng nó cũng có khả năng tạo ra một biểu hiện lớn về phàm ngã, bởi vì trong khủng hoảng, toàn bộ con người thấp đều bị ảnh hưởng. Do đó, các tình huống khủng hoảng, dù có giá trị như thế nào đối với việc nhìn thấy rõ phàm ngã, có thể không tốt nhất để phân biệt phẩm chất của thể trí. Nhưng tránh xa khủng hoảng, khi “không có gì thuộc về cá nhân bị đe dọa”, các khuynh hướng của phàm ngã thường sẽ giảm dần đủ để bộc lộ tâm trí. Vào những thời điểm có thể ngồi xuống một mình, hoặc ngồi cùng với những người khác, và chỉ nghĩ mà không đầu tư cá nhân vào kết quả của việc suy nghĩ, và “không mong muốn gì cho cái tôi cá nhân” (như lời huấn thị bí truyền), thể trí và phẩm tính của nó có thể giảm nhẹ hơn. [339] |
Thể trí thường xuyên bị ảnh hưởng bởi ý chí của phàm ngã hoặc ham muốn của phàm ngã đến mức rất khó để cô lập chức năng hoạt động độc lập của nó. Thông thường nó được nhìn thấy qua bức màn của phàm ngã . Khi phân tích thể trí, người ta gần như phải quên “người đó là ai” và chỉ đơn giản là nhìn vào cách xử lý suy nghĩ, chẳng hạn như trong các tình huống hoàn toàn dành cho việc học hoặc các hoạt động tinh thần nghiêm ngặt khác. Khủng hoảng cũng vậy, sẽ làm suy yếu thể trí, đặc biệt là khả năng quyết định của nó, nhưng nó cũng có khả năng tạo ra một biểu hiện lớn về phàm ngã, bởi vì trong khủng hoảng, toàn bộ con người thấp đều bị ảnh hưởng. Do đó, các tình huống khủng hoảng, dù có giá trị như thế nào đối với việc nhìn thấy rõ phàm ngã, có thể không tốt nhất để phân biệt phẩm chất của thể trí. Nhưng tránh xa khủng hoảng, khi “không có gì thuộc về cá nhân bị đe dọa”, các khuynh hướng của phàm ngã thường sẽ giảm dần đủ để bộc lộ tâm trí. Vào những thời điểm có thể ngồi xuống một mình, hoặc ngồi cùng với những người khác, và chỉ nghĩ mà không đầu tư cá nhân vào kết quả của việc suy nghĩ, và “không mong muốn gì cho cái tôi cá nhân” (như lời huấn thị bí truyền), thể trí và phẩm tính của nó có thể giảm nhẹ hơn. [339] |
Some Distinction Between the Mental Faculty and Mental Field and the Functions of the Etheric-Physical Brain — Một Vài Khác Biệt giữa Năng lực Trí Tuệ và Trường Trí Tuệ và các Chức Năng của Bộ Não Hồng Trần
This is one of the most important and basic distinctions that can be made—and, perhaps the most difficult. Modern science does not recognize a difference between mind and brain. The materialistic bias of the scientific community is one reason for the present difficulty distinguishing the two, but there are other more important reasons. Mind and brain work as a virtually inseparable unit. While in physical incarnation, it is extremely rare (and, perhaps, even impossible) to engage in mental activity without some degree of brain activation. |
Đây là một trong những điểm khác biệt cơ bản và quan trọng nhất có thể được thực hiện — và có lẽ là khó nhất. Khoa học hiện đại không thừa nhận sự khác biệt giữa thể trí và bộ não. Thành kiến duy vật của cộng đồng khoa học là một lý do dẫn đến khó khăn trong việc phân biệt hai điều này, nhưng còn có những lý do khác quan trọng hơn. Thể trí và bộ não hoạt động như một đơn vị gần như không thể tách rời. Khi nhập thế trong thể xác , rất hiếm khi (và, có lẽ, thậm chí là không thể) có sự tham gia vào hoạt động trí tuệ mà không có sự kích hoạt của não bộ ở một mức độ nào đó. |
The following list may ignore many important areas of mental or brain functioning, because it focuses only on areas which are useful in differentiating one from the other. |
Danh sách sau đây có thể bỏ qua nhiều phạm vi quan trọng của hoạt động trí tuệ hoặc não bộ, bởi vì nó chỉ tập trung vào những phạm vi hữu ích trong việc phân biệt cái này với cái kia. |
Mind vs. Thể Trí |
Brain Não Bộ |
thinks suy nghĩ |
does not think không suy nghĩ |
instrument for generating thought công cụ để sinh ra tư tưởng |
instrument for registering and expressing thought upon the physical plane công cụ để ghi nhận và biểu đạt tư tưởng trên cõi vật lý |
content nội dung |
conduit kênh dẫn |
Cause nguyên nhân |
effect kết quả |
repository of ancient and recent personal memory kho ký ức cá nhân cổ xưa và hiện nay |
an instrument resonant with ancient racial memory through the heredity of the brain cells công cụ cộng hưởng với ký ức chủng tộc cổ xưa thông qua tính di truyền của các tế bào não |
determines the content and quality of thought quyết định nội dung và chất lượng của tư tưởng |
determines only the etheric-physical expression of thought chỉ quyết định sự biểu hiện vật lý-dĩ thái của tư tưởng |
stores innumerable thoughts which are not expressed through the physical brain lưu trữ vô số những tư tưởng không được thể hiện thông qua bộ não hồng trần |
does not store thoughts; can only receive and express thought on the physical plane from moment to moment không lưu trữ các tư tưởng; chỉ có thể tiếp nhận và bày tỏ suy nghĩ trên cõi vật lý từ thời điểm này sang thời điểm khác |
responds directly to the will đáp ứng trực tiếp với ý chí |
does not naturally respond directly to the will; the deliberate thought precedes the act không tự nhiên đáp ứng trực tiếp với ý chí; tư tưởng có chủ ý có trước hành động |
the organ with which leaning is deliberately accomplished cơ quan mà nhờ đóhọc tập được hoàn thành một cách có chủ ý |
the organ which coordinates learned patterns of behavior (upon the physical plane) without the necessity of concurrent thought. Once a habit is formed one need not think about it. cơ quan điều phối các mẫu hành vi đã học (trên cõi vật lý) mà không cần suy nghĩ đồng thời. Một khi thói quen được hình thành, người ta không cần nghĩ đến nó. |
the organ which learns cơ quan phụ trách việc học |
the organ which is conditioned by the learning cơ quan được huấn luyện qua việc học |
if mind is active, some aspect of brain must be activated nếu thể trí hoạt động, một số khía cạnh của não bộ phải được kích hoạt |
brain can be active without mind being activated não bộ có thể hoạt động mà không cần thể trí được kích hoạt |
does not directly regulate the processes of the physical body không trực tiếp điều chỉnh các quá trình của cơ thể vật lý |
directly controls and coordinates the autonomic processes of the physical body trực tiếp kiểm soát và điều phối các quá trình thần kinh tự động của cơ thể vật lý |
functions on planes higher than the etheric-physical hoạt động trên các cõi cao hơn cõi vật lý-dĩ thái |
functions only on the etheric- physical plane chỉ hoạt động trên cõi vật lý-dĩ thái |
can function free of sense perception có thể hoạt động không thông qua nhận thức giác quan |
imposes sense perception upon the mind (during waking hours) áp đặt nhận thức giác quan lên thể trí (trong lúc thức) |
controls emotional response (largely positive to emotions) kiểm soát phản ứng cảm xúc (phần lớn là tích cực đối với cảm xúc) |
automatically responsive to emotions (negative to emotions) tự động phản ứng với cảm xúc (tiêu cực với cảm xúc) |
manipulates sensory input vân5 dụng đầu vào giác quan |
receives and transmits sensory input to mind nhận và truyền đầu vào giác quan đến thể trí |
essentially independent of physical rhythms (though its ease of expression upon the physical plane may be conditioned by the rhythms of the physical mechanism) về cơ bản độc lập với nhịp điệu vật lý (mặc dù tính dễ biểu hiện của nó trên cõi vật lý có thể được huấn luyện bởi nhịp điệu của cơ chế vật lý) |
regulator of physical rhythms bộ điều chỉnh nhịp điệu vật lý |
Commentary |
Bình luận |
It may almost be necessary to have an “out-of-body experience” to be convinced that the mind is not the brain. On the physical plane they function together for the great majority of the time. There are numerous moments, however, when conscious thought ceases and brain function continues. For instance, many people have had the tiring experience of driving a car for long hours; the mind ceases to function (at least, no thought is registered within consciousness), but the brain continues in charge of regulating the already-learned patterns of behavior (habits) which make driving possible. While it is possible for the registration of thought to cease temporarily, some degree of brain function must always continue, or the vital processes of the body discontinue and physical death ensues. |
Hầu như cần phải có “trải nghiệm bên ngoài cơ thể” để tin rằng thể trí không phải là bộ não. Trên cõi vật lý, chúng hoạt động cùng nhau trong phần lớn thời gian. Tuy nhiên, có rất nhiều khoảnh khắc khi suy nghĩ có ý thức chấm dứt và chức năng não vẫn tiếp tục. Ví dụ, nhiều người đã có cảm giác mệt mỏi khi lái một chiếc xe hơi trong nhiều giờ; thể trí ngừng hoạt động (ít nhất, không có suy nghĩ nào được ghi nhận trong ý thức), nhưng bộ não tiếp tục chịu trách nhiệm điều chỉnh các mô hình hành vi đã được học (thói quen) giúp cho việc lái xe trở nên khả thi. Mặc dù việc ghi nhận suy nghĩ có thể tạm thời chấm dứt, nhưng một số mức độ chức năng của não phải luôn tiếp tục, nếu không các quá trình sinh lực của cơ thể ngừng và cái chết thể xác xảy ra. |
The brain is like a reducing valve or semipermeable membrane which allows only certain contents of the inner worlds to express within the outer worlds. The Tibetan often points out cases in which inner spiritual development is much greater than outer expression; what is ‘within’ simply doesn’t “get through.” Thus, the brain and the physical body, fundamentally condition our expression upon the physical plane; they condition the extent to which our inner, subjective nature appears upon the plane of outer manifestation. |
Bộ não giống như một van giảm hoặc màng bán thấm chỉ cho phép một số nội dung nhất định của thế giới bên trong biểu hiện ra thế giới bên ngoài. Chân Sư Tây Tạng thường chỉ ra những trường hợp mà sự phát triển tâm linh bên trong lớn hơn nhiều so với biểu hiện bên ngoài; những gì là “bên trong” chỉ đơn giản là không “vượt qua được.” Do đó, bộ não và cơ thể vật lý về cơ bản qui địnhsự biểu hiện của chúng ta trên cõi vật lý ; chúng quy định mức độ mà bản chất bên trong, chủ quan của chúng ta xuất hiện trên cõi biểu lộ bên ngoài. |
It is the mind, not the brain, which is the area of ‘storage’ for thought. Mind is the repository for memory. The quality and speed of memory will depend, however, on the functioning of the brain, which determines the extent and speed of access to this repository. It is, then, the coordination between mind and brain which conditions the effectiveness of memory. As certain aspects of the brain begin to deteriorate in later years, the power of memory fades, but the thoughts which cannot be remembered are still present—in the mind. |
Chính thể trí, chứ không phải bộ não, là nơi ‘lưu trữ’ tư tưởng . Thể trí là kho lưu trữ cho ký ức . Tuy nhiên, chất lượng và tốc độ của ký ức sẽ phụ thuộc vào hoạt động của bộ não, yếu tố quyết định mức độ và tốc độ truy cập vào kho lưu trữ này. Do đó, sự phối hợp giữa thể trí và não bộ sẽ tạo điều kiện cho sự hiệu quả của trí nhớ. Khi một số khía cạnh nhất định của não bắt đầu kém đi trong những năm sau đó, sức mạnh của trí nhớ sẽ mất dần, nhưng những tư tưởng không thể nhớ được vẫn hiện hữu — trong thể trí. |
As C.G. Jüng has pointed out, there is a “personal unconscious” and a “collective unconscious.” The term “unconscious” can be understood as referring to those contents of the mental field (and, in this case, the contents of the sentient field as well) which are not registered by the brain. The personal unconscious has more than one [ 341] layer. Those thoughts which exist as forms within the mental/emotional auric field (and to which access may be had without great difficulty), but which are presently unregistered by the brain, constitute the most superficial layer of the personal unconscious. There is also, within the mental unit and astral permanent atom, the vibratory potential to reactivate ancient thought and feeling reservoirs from previous incarnations. This is a deeper level of the personal unconscious. The contents of this aspect of the personal unconscious are deeply unconscious because it is impossible for the brain to casually access such voluminous and deeply layered contents, at least, unless special techniques are employed, in which case the mental/astral auric fields become filled with ancient thought and desire forms which the brain can more easily register. |
Như C.G. Jüng đã chỉ ra rằng có “vô thức cá nhân” và “vô thức tập thể”. Thuật ngữ “vô thức” có thể được hiểu là đề cập đến những nội dung của trường trí tuệ (và, trong trường hợp này, nội dung của trường tri giác) không được não bộ ghi nhận. Vô thức cá nhân có nhiều hơn một [341] lớp. Những suy nghĩ tồn tại như các hình dạng trong trường năng lượng trí tuệ /cảm dục (và có thể dễ dàng tiếp cận với nó), nhưng hiện tại không được não bộ ghi nhận , tạo thành lớp ngoài cùng của vô thức cá nhân. Ngoài ra, bên trong đơn vị hạ trí và nguyên tử thường tồn cảm dục , tiềm năng rung động để kích hoạt lại các kho lưu trữ tư tưởng và cảm giác cổ xưa từ những lần nhập thế trước đó. Đây là mức độ sâu hơn của vô thức cá nhân. Những n ội dung trong khía cạnh này của vô thức cá nhân là vô thức sâu bởi vì não bộ không thể tình cờ truy cập vào những nội dung khổng lồ và nhiều lớp sâu như vậy, ít nhất, trừ khi sử dụng các kỹ thuật đặc biệt, trong trường hợp đó các trường thể trí/cảm dục trở nên đầy những hình tư tưởng và ham muốn cổ xưa mà não bộ có thể dễ dàng ghi nhận hơn. |
The personal unconscious relates to past personal experience; the collective unconscious refers to the past experience of the race of human beings as a whole, to be found with the mental and astral auric fields of the entire human family. Within the permanent atoms of an individual’s energy system (which, themselves, it should be remembered, are included within the causal body or field) are stored personal memories; the individual’s mental unit is the chief repository of these personal memories. The matter or substance of the physical brain, however, relates an individual to certain, particular contents of the collective unconscious which are most ‘resonant’ to the physical race in which the individual is born. This racial type strongly conditions the physical substance and heredity of the brain. A particular kind of brain substance sensitizes an individual to a particular kind of racial memory —thought/feelings which have arisen over time from the experience of a particular group of people within the human family. Although the brain does not generate or create thought, the substance of the brain can, nonetheless, be more resonant to and evocative of certain kinds of thought currents than others. |
Vô thức cá nhân liên quan đến kinh nghiệm cá nhân trong quá khứ; vô thức tập thể đề cập đến kinh nghiệm trong quá khứ của toàn bộ loài người như là một tổng thể , được tìm thấy với các trường hào quang trí tuệ và cảm dục của toàn bộ gia đình nhân loại. Trong các nguyên tử thường tồn của một hệ thống năng lượng cá nhân (và cần ghi nhớ, bản thân chúng được bao gồm trong thể hoặc trường nguyên nhân) nơi lưu trữ các ký ức cá nhân; đơn vị hạ trí của cá nhân là kho lưu trữ chính của những ký ức cá nhân này. Tuy nhiên, vật chất hay chất liệu của bộ não vật lý liên quan đến một cá nhân với một số nội dung cụ thể nhất định của vô thức tập thể, thứ có tính ‘cộng hưởng’ nhiều nhất với chủng tộc về mặt vật lý mà cá nhân đó được sinh ra. Kiểu chủng tộc này tạo những điều kiện mạnh mẽ về thể chất và tính di truyền của não bộ. Một loại chất liệu não bộ cụ thể nhạy cảm một cá nhân với một loại ký ức chủng tộc cụ thể — suy nghĩ / cảm xúc nảy sinh theo thời gian từ trải nghiệm của một nhóm người cụ thể trong gia đình nhân loại . Mặc dù bộ não không tạo ra hoặc sản sinh suy nghĩ, nhưng chất liệu của bộ não vẫn có thể cộng hưởng và gợi lên một số kiểu suy nghĩ này hơn là kiểu suy nghĩ khác. |
It is very important to realize that the brain does not really think; the mind thinks. Even more accurately, the Thinker thinks (the Thinker being an attenuation of the Monad resident within the mental field). The Thinker uses the field of the mind for the creation and manipulation of thought. During waking hours (i.e., when the brain is ‘awake’) the brain registers this thought. When thought occurs and the brain is ‘asleep,’ the brain may not (in fact, mostly does not) register (remember) the content of thought. (Perhaps in moments of “lucid dreaming,” the brain is simultaneously registering that which the combined astral/mental principles are experiencing). It is also possible to enter states of such deep meditation, that the brain will have difficulty remembering what transpired when consciousness was abstracted from the normal brain-conditioned “waking-state.” |
Điều rất quan trọng là phải nhận ra rằng não bộ không thực sự suy nghĩ; thể trí mới suy nghĩ. Thậm chí chính xác hơn, Người suy tưởng suy nghĩ (Người suy tưởng là sự suy giảm của Chân Thần trong trường thể trí). Người suy tưởng sử dụng trường thể trí để tạo ra và điều khiển tư tưởng . Trong khi đang thức (tức là khi não bộ ở trạng thái “thức”), não bộ sẽ ghi lại tư tưởng này. Khi tư tưởng xuất hiện và não bộ đang ‘ngủ’, não có thể không (trên thực tế, phần lớn là không) ghi lại (ghi nhớ) nội dung của tư tưởng . (Có lẽ trong những khoảnh khắc “mơ trong suốt”, não bộ đang đồng thời ghi nhận những gì mà các nguyên khí kết hợp của thể trí/thể cảm dục đang trải qua). Cũng có thể khi đi vào trạng thái thiền định sâu như vậy, não sẽ khó nhớ được những gì đã truyền tải khi tâm thức bị trừu xuất khỏi “trạng thái thức” được quy định bởi não bộ lúc bình thường . |
Whenever mind thinks (during the waking state) there is always a parallel brain activity, but the function of the brain emerges most clearly (in distinction from the mind) when the sphere of physical action is considered. Quite simplistically, the brain coordinates and regulates physical plane activity, and so, when attempting to assess the ray of the [342] brain and physical body, the quality of the activity and behavior of that body in the physical environment must be studied. |
Bất cứ khi nào thể trí suy nghĩ (trong trạng thái thức) luôn có một hoạt động não bộ song song, nhưng chức năng của não bộ nổi lên rõ ràng nhất (phân biệt với thể trí) khi xem xét trường hoạt động vật lý . Nói một cách đơn giản, não bộ điều phối và điều chỉnh hoạt động trên cõi vật lý, và do đó, khi cố gắng đánh giá cung của [342] bộ não và thể xác, phẩm tính của hoạt động và hành vi của cơ thể đó trong môi trường vật lý phải được nghiên cứu. |
Through the etheric body (and, hence, through the physical) pass all the energies which are seeking expression upon the physical plane. The sources of these energies may be many (the various planes higher than the etheric-physical plane), and it may well be that the ray quality of the etheric-physical brain (and body) determine the kinds of energies which are most easily received and expressed. |
Thông qua thể dĩ thái (và do đó, thông qua thể xác) tất cả các năng lượng truyền qua đang tìm cách biểu hiện trên cõi vật lý. Các nguồn của những năng lượng này có thể rất nhiều (các cõi khác nhau cao hơn cõi vật lý-dĩ thái), và cũng có thể là phẩm tính cung của bộ não (và cơ thể) dĩ thái-vật lý xác định loại năng lượng nhận được và biểu lộ dễ dàng nhất. |
As far as it is possible to judge (and despite some learned opinions to the contrary), not only are the ray of the brain and body the same, but the ray of the etheric body and etheric brain are the same as the ray of the physical body and physical brain (one just being a subtler counterpart of the other). It may be that certain development of the chakras within the etheric body (with subsequent effects upon the physical glandular system) will reveal the ray of the physical body. For instance, perhaps the thyroid gland would be more developed or active in those with a third ray body and brain, while the adrenals (which correspond with the center at the base of the spine) would be more developed in those having a seventh ray body (the seventh ray corresponding, from one point of view, with the basal center). |
Theo những gì có thể đánh giá (và mặc dù một số ý kiến được biết lại trái ngược), không chỉ cung của não bộ và thể xác giống nhau, mà cung của thể dĩ thái và não bộ dĩ thái cũng giống như cung của thể xác và não bộ vật lý (cái này chỉ là một đối phần tinh tế hơn của cái kia). Có thể sự phát triển nhất định của các luân xa trong thể dĩ thái (với các tác động tiếp theo lên hệ thống tuyến vật lý) sẽ tiết lộ cung của thể xác . Ví dụ, có lẽ tuyến giáp sẽ phát triển hoặc hoạt động mạnh hơn ở những người có thể xác và não bộ cung ba, trong khi tuyến thượng thận (tương ứng với luân xa ở đáy cột sống) sẽ phát triển hơn ở những người có thể xác cung bảy (từ một quan điểm, cung bảy tương ứng với luân xa đáy cột sống ). |
There seem to be a number of ways to begin assessing the ray of the etheric-physical mechanism: 1) the functioning of the brain, 2) the quality of activity of the physical body, 3) the form of the physical body, 4) the development of the centers within the etheric body, 5) the nature of the glandular development within the physical body, 6) the quality of etheric-physical energy received and distributed, etc. There are, no doubt, other revealing areas worthy of examination. Some of these areas are easier to understand than others, and much research is needed before the ray quality of the etheric-physical mechanism can be conclusively determined. [343] |
Dường như có một số cách để bắt đầu đánh giá cung của bộ máy vật lý-dĩ thái: 1) hoạt động của não, 2) phẩm tính hoạt động của thể xác , 3) hình thức của thể xác , 4) sự phát triển của các luân xa bên trong thể dĩ thái, 5) bản chất của sự phát triển tuyến trong thể xác , 6) phẩm tính của năng lượng vật lý-dĩ thái được nhận và phân phối, v.v… Không nghi ngờ gì nữa, có các phạm vi tiết lộ khác đáng được xem xét . Một số trong những phạm vi này dễ hiểu hơn những phạm vi khác, và cần có nhiều nghiên cứu trước khi đặc tính cung của bộ máy vật lý dĩ thái có thể được xác định một cách chắc chắn. [343] |
Important Variable Attributes of the Three Personality Fields — Những Thuộc Tính Biến Số Quan Trọng của Ba Trường Phàm Ngã
Now that we have concluded our examination of the functions, operations and characteristic dynamics of each of the five vehicles of the human energy system, and examined some of the key differences between those vehicles the functions of which are often difficult to distinguish, we have a better idea of just what each of these vehicles actually does . We are now almost prepared to discuss how each vehicle functions when qualified by different ray energies. Before we do so, however, it would be advantageous to list some of the attributes of each personality vehicle which vary considerably when the vehicle is conditioned by different ray energies. |
Bây giờ chúng ta đã kết thúc việc xem xét các chức năng, hoạt động và động lực học đặc trưng của từng loại trong số năm vận cụ thuộc hệ thống năng lượng của con người, và xem xét một số điểm khác biệt chính giữa các vận cụ này mà các chức năng của chúng thường khó phân biệt, chúng ta có ý tưởng tốt hơn về những gì mỗi phương tiện này thực sự thực hiện . Bây giờ chúng ta gần như đã chuẩn bị để thảo luận về cách thức hoạt động của mỗi vận cụ khi được phẩm định bởi các cung năng lượng khác nhau. Tuy nhiên, trước khi chúng ta làm như vậy, sẽ rất hữu ích nếu liệt kê một số thuộc tính của từng loại vận cụ khác nhau đáng kể của phàm ngã khi vận cụ này được quy định bởi các cung năng lượng khác nhau. |
|
|
The Mental Field — Trường Thể Trí
Mental Attributes Which Vary Most Frequently According to the Ray of the Mental Field—Những Thuộc Tính Thể Trí Khác Biệt Nhất Thường Gặp Xét Theo Cung của Trường Thể Trí
FROM TỪ |
ATTRIBUTE THUỘC TÍNH |
TO ĐẾN |
clarity of thoughtform outline (definiteness) sự rõ ràng của phác thảo hình tư tưởng (sự xác định) |
Accuracy and Delineation Tính chính xác và Sự mô tả |
vagueness of thoughtform outline (indefiniteness) sự mơ hồ của phác thảo hình tư tưởng (sự vô định) |
firmness and fixity tính vững chắc và tính cố định |
Flexibility Tính linh hoạt |
fluidity and mobility tính lưu động và tính di động |
decisiveness sự quyết đoán |
Resolution Chính kiến |
indecisiveness sự thiếu quyết đoán |
persistence sự bền bỉ |
Endurance Sức bền |
flightiness sự nhanh nhẹn |
ability to manage detail khả năng quản lý chi tiết |
Particularity Đặc thù |
inability to manage detail không có khả năng quản lý chi tiết |
simplicity sự giản đơn |
Fragmentation Phân mảnh |
complexity sự phức tạp |
analysis phân tích |
Analysis and Synthesis Phân tích và Tổng hợp |
synthesis tổng hợp |
narrowness hẹp |
Scope Phạm vi |
comprehensiveness bao hàm |
brevity sự ngắn gọn |
Fecundity Sinh sôi |
prolixity sự rườm rà |
straightness sự thẳng thắn |
Directionality Định hướng |
indirectness sự gián tiếp |
linearly tuyến tính |
Mode of Progression Phương thức tiến hành |
nonlinearly phi tuyến tính |
convergence sự hội tụ |
Focus Sự tập trung |
divergence sự phân tán |
concretion sự đông kết |
Literalism Bám sát nghĩa đen |
abstraction sự trừu tượng |
rationality lý trí |
Cognitive Orientation Định hướng Nhận thức |
intuition trực giác |
combining and recombining kết hợp và tái kết hợp |
Creativity Sáng tạo |
noncombining không kết hợp |
logic hợp lý |
Method of Linking Phương pháp Liên kết |
free association tự do liên kết |
orderliness có trật tự |
Organization Tính tổ chức |
disorderliness lộn xộn |
incessancy không ngừng |
Spacing of Thought Khoảng cách suy nghĩ |
intermittence or rhythm ngắt quãng hoặc nhịp điệu |
rapidity sự nhanh chóng |
Speed Tốc độ |
slowness and deliberation sự chậm chạp và thong thả |
thinking in sound suy nghĩ bằng âm thanh |
Preferred Sensory Modality Phương thức ưa thích của giác quan |
thinking in visual images suy nghĩ qua hình ảnh trực quan |
color important in the thinking process màu sắc quan trọng trong quá trình suy nghĩ |
Color Màu sắc |
color not important in the thinking process màu sắc không quan trọng trong quá trình suy nghĩ |
retention khả năng ghi nhớ |
Memory Ghi nhớ |
nonretention không có khả năng ghi nhớ |
The Emotional (Sentient) Field — Trường Cảm Dục
Emotional Attributes Which Vary Most Frequently According to the Ray of the Emotional Field—Những Thuộc Tính Thể Cảm Dục Khác Biệt Nhất Thường Gặp Xét Theo Cung của Trường Cảm Dục
TB5 — TB5
FROM TỪ |
ATTRIBUTE THUỘC TÍNH |
TO ĐẾN |
emotional serenity cảm xúc thanh thản |
Volatility Tính không ổn định |
emotional flammability cảm xúc bùng lên |
emotional lassitude cảm xúc uể oải |
Charge Nạp |
vibrant emotional intensity cảm xúc mãnh liệt sôi nổi |
equanimity of mood tâm trạng quân bình |
Stability Sự ổn định |
violent alternation of mood tâm trạng thay đổi dữ dội |
fixed desire ham muốn không thay đổi |
Steadfastness of Orientation Tính chắc chắn của Định hướng |
inconstant desire ham muốn dễ thay đổi |
rigid and set emotional responses cứng nhắc và thiết lập các phản ứng cảm xúc |
Variety of Emotional Response Các Phản ứng Cảm xúc Đa dạng |
emotional fluidity and adaptability tính linh hoạt và khả năng thích ứng cảm xúc |
monochromatism đơn sắc |
Emotional ‘Color’ ‘Màu sắc’ Cảm xúc |
polychromatism đa sắc |
emotional frigidity cảm xúc lạnh lùng |
‘Temperature’ ‘Nhiệt độ’ |
emotional ardor nhiệt tâm |
intense detachment (rejection and rebuff) tách biệt dữ dội (từ chối và khước từ) |
Adhesion Kết dính |
intense attachment (clinging) gắn bó mãnh liệt (bám víu) |
extreme fearlessness không hề sợ hãi |
Aversiveness Sự đối nghịch |
extreme fearfulness sợ hãi tột độ |
callousness and insensitivity nhẫn tâm và vô cảm |
Responsiveness and Sensitivity Khả năng đáp ứng và Độ nhạy |
compassion and sensitivity lòng trắc ẩn và sự nhạy cảm |
strict emotional discipline tình cảm tuân theo kỷ luật nghiêm ngặt |
Control Sự kiểm soát
|
emotional upheaval and chaos biến động và hỗn loạn cảm xúc |
emotional narrowness and exclusiveness cảm xúc hạn hẹp và độc quyền |
Scope of Emotional Response Phạm vi Phản ứng Xúc cảm
|
emotional breadth and inclusiveness chiều rộng cảm xúc và tính bao trùm |
The Etheric-Physical Field — Trường Dĩ Thái-Vật Lý
Etheric-Physical Attributes Which Vary Most Frequently According to the Ray of the Etheric Physical Body—Những Thuộc Tính Dĩ Thái-Vật Lý Khác Biệt Nhất Thường Gặp Xét Theo Cung của Thể Dĩ Thái-Vật Lý
TB6 — TB6
FROM TỪ |
ATTRIBUTE THUỘC TÍNH |
ATTRIBUTE THUỘC TÍNH |
TO ĐẾN |
inertia quán tính |
Degree of Activity Mức độ Hoạt động |
Degree of Activity Mức độ Hoạt động |
hyperactivity hiếu động thái quá |
precision and skillfulness chính xác và khéo léo |
Precision of Activity Độ chính xác của Hoạt động |
Precision of Activity Độ chính xác của Hoạt động |
imprecision and clumsiness thiếu chính xác và vụng về |
stiffness and rigidity sự cứng nhắc và khắt khe |
Flexibility Sự linh hoạt |
Flexibility Sự linh hoạt |
suppleness and compliancy sự mềm mại và dễ dãi |
orderliness and regulation trật tự và điều tiết |
Orderliness of Activity Tính trật tự của Hoạt động |
Orderliness of Activity Tính trật tự của Hoạt động |
disorderliness and chaos lộn xộn và hỗn loạn |
cyclic, rhythmic activity hoạt động theo chu kỳ, nhịp nhàng |
Rhythm Nhịp điệu |
Rhythm Nhịp điệu |
random, arrhythmic activity hoạt động ngẫu nhiên, loạn nhịp |
strength, hardiness mạnh mẽ, cứng rắn |
Strength and Endurance Sức mạnh và Độ bền |
Strength and Endurance Sức mạnh và Độ bền |
weakness and susceptibility yếu đuối và nhạy cảm |
sensitive and impressionable to inner and outer impacts nhạy cảm và dễ bị ấn tượng với các tác động bên trong và bên ngoài |
Sensitivity and Refinement Độ nhạy và Sàng lọc |
Sensitivity and Refinement Độ nhạy và Sàng lọc |
insensitive and unresponsive to inner and outer impacts thiếu nhạy cảm và không phản ứng với các tác động bên trong và bên ngoài |
exuberant vitality sức sống dồi dào |
Vitalization and Health Sức sống và Sức khỏe |
Vitalization and Health Sức sống và Sức khỏe |
low vitality sức sống thấp |
high magnetism; attracting từ tính cao, thu hút |
Animal Magnetism Từ tính xác thịt |
Animal Magnetism Từ tính xác thịt |
‘antimagnetic’; repelling ‘phản từ tính’; đẩy lùi |
extreme hardness cực kỳ cứng |
Muscle Tone Cơ bắp |
Muscle Tone Cơ bắp |
extreme softness cực kỳ mềm |
Morphology (Body Shape) |
Morphology (Body Shape) |
Hình thái học (Hình dáng cơ thể) |
Hình thái học (Hình dáng cơ thể) |
A number of basic features are found in connection with each ray. Physiognomical and phrenological characteristics should be noted as well as the general shape of the body. |
A number of basic features are found in connection with each ray. Physiognomical and phrenological characteristics should be noted as well as the general shape of the body. |
Một số tính năng cơ bản được tìm thấy liên quan đến mỗi cung. Cần lưu ý các đặc điểm sinh lý và hình thái học cũng như hình dáng chung của cơ thể. |
Một số tính năng cơ bản được tìm thấy liên quan đến mỗi cung. Cần lưu ý các đặc điểm sinh lý và hình thái học cũng như hình dáng chung của cơ thể. |
Hình thái học (Hình dáng cơ thể) |
Hình thái học (Hình dáng cơ thể) |
Luân xa Dĩ thái và Hoạt động của Tuyến |
Luân xa Dĩ thái và Hoạt động của Tuyến |
Một số tính năng cơ bản được tìm thấy liên quan đến mỗi cung. Cần lưu ý các đặc điểm sinh lý và hình thái học cũng như hình dáng chung của cơ thể. |
Một số tính năng cơ bản được tìm thấy liên quan đến mỗi cung. Cần lưu ý các đặc điểm sinh lý và hình thái học cũng như hình dáng chung của cơ thể. |
Về mặt giả thuyết, những điều này có phần khác nhau đối với từng loại cơ thể, với sự nhấn mạnh vào (các) luân xa và (các) tuyến tương ứng với cung quy định cơ thể. Cần chú ý các chức năng chiếm ưu thế hoặc suy giảm. [348] |
Về mặt giả thuyết, những điều này có phần khác nhau đối với từng loại cơ thể, với sự nhấn mạnh vào (các) luân xa và (các) tuyến tương ứng với cung quy định cơ thể. Cần chú ý các chức năng chiếm ưu thế hoặc suy giảm. [348] |
Etheric Center and Glandular Activation |
Etheric Center and Glandular Activation |
Luân xa Dĩ thái và Hoạt động của Tuyến |
Luân xa Dĩ thái và Hoạt động của Tuyến |
Hypothetically, these differ somewhat for each body type, with an emphasis upon the chakra and gland(s) which correspond to the ray conditioning the body. Dominant or diminished functions should be noticed. [ 348] |
Hypothetically, these differ somewhat for each body type, with an emphasis upon the chakra and gland(s) which correspond to the ray conditioning the body. Dominant or diminished functions should be noticed. [ 348] |
Về mặt giả thuyết, những điều này có phần khác nhau đối với từng loại cơ thể, với sự nhấn mạnh vào (các) luân xa và (các) tuyến tương ứng với cung quy định cơ thể. Cần chú ý các chức năng chiếm ưu thế hoặc suy giảm. [348] |
Về mặt giả thuyết, những điều này có phần khác nhau đối với từng loại cơ thể, với sự nhấn mạnh vào (các) luân xa và (các) tuyến tương ứng với cung quy định cơ thể. Cần chú ý các chức năng chiếm ưu thế hoặc suy giảm. [348] |