WEBINAR 41
Pages 490 – 493
Abstract
|
Content for The Rays and the Initiations, Part II Webinar Commentary, Program 41, Antahkaranic Projection. 1 hr, 1 min: pages 490-493. |
Nội dung cho Các Cung và Điểm Đạo, Phần II Bình luận Webinar, Chương trình 41, Phóng chiếu Antahkaranic. 1 giờ, 1 phút: trang 490-493. |
|
Continuing The Six Stages of the Building Process. Now we work on the factor of Projection. Work on the mental plane. The Word is projected upwards rather than downwards. The thread anchors in the permanent atoms. The projection has to pass through the permanent atoms of the spiritual triad. The antakarana is the medium of abstraction. The first ray is implicated. Even the soul body is destroyed. How the Temple is created. The buddhic energies are great organizers. Mentality carries the will. All qualities are found within the Monad. The knowledge petals begin to disintegrate. The gift of the third initiation. The “power to renounce.” The correspondence between the three rows of egoic petals and the planetary centres. Sacrifice as the achievement of bliss and ecstasy. Requirements for evoking the will. The involvement of the Monad. The second death. Drawing upon the powers of the soul and Monad. Sacrifice makes the bridge possible. |
Tiếp tục Sáu Giai Đoạn của Quá Trình Xây Dựng. Bây giờ chúng ta làm việc trên yếu tố Phóng chiếu. Làm việc trên cõi trí. Linh từ được phóng chiếu lên trên thay vì xuống dưới. Sợi dây neo vào các nguyên tử trường tồn. Phóng chiếu phải đi qua các nguyên tử trường tồn của tam nguyên tinh thần. Antahkarana là phương tiện của sự trừu tượng. Cung một được liên quan. Ngay cả thể hồn cũng bị phá hủy. Cách ngôi đền được tạo ra. Các năng lượng bồ đề là những nhà tổ chức vĩ đại. Tâm trí mang theo ý chí. Tất cả phẩm chất đều được tìm thấy trong Chân Thần. Các cánh hoa tri thức bắt đầu tan rã. Món quà của lần điểm đạo thứ ba. “Quyền năng từ bỏ.” Sự tương ứng giữa ba hàng cánh hoa chân ngã và các trung tâm hành tinh. Sự hy sinh như là thành tựu của hạnh phúc và ngây ngất. Yêu cầu để khơi dậy ý chí. Sự tham gia của Chân Thần. Cái chết thứ hai. Sử dụng các quyền năng của linh hồn và Chân Thần. Sự hy sinh làm cho cây cầu trở nên khả thi. |
Text
|
3. Projection. The task of the disciple has now reached a most critical point. Many aspirants reach this particular stage and—having developed a real capacity to visualise, and having therefore constructed by its means the desired form, and organised the substance which is to be employed in this later phase of the building process—find themselves unable to proceed any further. What then is the matter? Primarily, an inability to use the Will in the process of projection. This process is a combination of will, further and continued visualisation, and the use of the ray Word of Power. Up to the present stage in the process, the method for all the seven rays is identical; but at this point there comes a change. Each disciple, having successfully organised the bridge substance, having brought into activity the will aspect, and being consciously aware of process and performance, proceeds now to move the organised substance forward, so that from the centre of force which he has succeeded in accumulating there appears a line of light-substance or projection. This is sent forward upon a [491] Word of Power, as in the logoic creative process. This is in reality a reversal of the process of the Monad when It sent forth the thread of life which finally anchored itself in the soul. The soul, in reality, came into being through the means of this anchoring; then came the later process, when the soul in its turn sent forth a dual thread which finally found anchorage in the head and the heart of the lower threefold man, the personality. The disciple is focussed in the centre which he has constructed upon the mental plane, and is drawing all his resources (those of the threefold personality and the soul combined) into activity; he now projects a line towards the Monad. |
3. Phóng chiếu. Nhiệm vụ của người đệ tử hiện đã đạt đến một điểm hết sức then chốt. Nhiều người chí nguyện đạt đến giai đoạn đặc biệt này và — sau khi đã phát triển một năng lực hình dung thực sự, và nhờ đó đã kiến tạo hình thể mong muốn, và đã tổ chức chất liệu sẽ được sử dụng trong giai đoạn sau của tiến trình xây dựng — nhận thấy mình không thể tiến xa hơn được nữa. Vậy thì vấn đề là gì? Trước hết là sự bất lực trong việc sử dụng Ý Chí trong tiến trình phóng chiếu. Tiến trình này là một sự kết hợp của ý chí, hình dung tiếp tục và sâu hơn, cùng với việc sử dụng linh từ Quyền năng của cung. Cho đến giai đoạn hiện tại trong tiến trình, phương pháp cho cả bảy cung là giống nhau; nhưng tại điểm này có một sự thay đổi. Mỗi đệ tử, sau khi đã tổ chức thành công chất liệu cây cầu, đã kích hoạt được khía cạnh ý chí, và đang có ý thức về tiến trình và hiệu quả công việc, giờ đây tiến hành di chuyển chất liệu đã được tổ chức về phía trước, sao cho từ trung tâm mãnh lực mà y đã tích tụ thành công sẽ xuất hiện một đường chất liệu ánh sáng hay sự phóng chiếu. Điều này được gửi đi trên một [491] Linh từ Quyền năng, giống như trong tiến trình sáng tạo của Thượng đế. Đây thực ra là một sự đảo ngược tiến trình của Chân thần khi Nó đã phóng ra sợi dây sự sống vốn cuối cùng đã neo đậu vào linh hồn. Thật ra, linh hồn được hình thành nhờ vào sự neo đậu này; sau đó là tiến trình kế tiếp, khi linh hồn, đến lượt mình, phóng ra một sợi dây kép vốn cuối cùng được neo đậu trong đầu và tim của con người tam phân thấp hơn, tức là phàm ngã. Người đệ tử tập trung vào trung tâm mà y đã kiến tạo trên cõi trí, và đang huy động tất cả các nguồn lực của mình (những nguồn lực của phàm ngã tam phân và của linh hồn hợp nhất) vào hoạt động; giờ đây y phóng chiếu một sợi dây hướng về Chân Thần. |
|
It is along this line that the final withdrawal of the forces takes place, the forces which—upon the downward way or the involutionary path—focussed themselves in the personality and the soul. The antahkarana per se, completed by the bridge built by the disciple, is the final medium of abstraction or of the great withdrawal. It is with the antahkarana that the initiate is concerned in the fourth initiation, called sometimes the Great Renunciation—the renunciation or the withdrawal from form life, both personal and egoic. After this initiation neither of these aspects can hold the Monad any more. The “veil of the Temple” is rent in twain from the top to the bottom—that veil which separated the Outer Court (the personality life) from the Holy Place (the soul) and from the Holy of Holies (the Monad) in the Temple at Jerusalem. The implications and the analogies will necessarily be clear to you. |
Chính dọc theo sợi dây này mà sự rút lui sau cùng của các mãnh lực diễn ra—những mãnh lực vốn, trên con đường đi xuống hay con đường giáng hạ tiến hoá, đã tập trung vào phàm ngã và linh hồn. Antahkarana tự thân, được hoàn tất bởi cây cầu do người đệ tử kiến tạo, là phương tiện cuối cùng cho sự trừu xuất hay sự rút lui vĩ đại. Chính với antahkarana mà vị điểm đạo đồ liên quan trong lần điểm đạo thứ tư, đôi khi được gọi là Cuộc Từ Bỏ Vĩ Đại—sự từ bỏ hay rút lui khỏi đời sống hình tướng, cả cá nhân lẫn chân ngã. Sau lần điểm đạo này, không một trong hai phương diện ấy còn có thể giam giữ Chân Thần nữa. “Bức màn của Đền Thờ” bị xé làm đôi từ trên xuống dưới—bức màn ấy vốn ngăn cách giữa Sân Ngoài (đời sống phàm ngã) và Nơi Thánh (linh hồn), cũng như Nơi Cực Thánh (Chân Thần) trong Đền Thờ tại Jerusalem. Những hệ quả và sự tương đồng của điều này dĩ nhiên sẽ rõ ràng với các bạn. |
|
In order, therefore, to bring about the needed projection of the accumulated energies, organised by the creative imagination and brought to a point of excessive tension by the focussing of the mental impulse (an aspect of the will), the disciple then calls upon the resources of his soul, stored up in what is technically called “the jewel in the lotus.” This is the anchorage of the Monad—a point which must not be forgotten. The aspects of the soul which we call knowledge, love and sacrifice, and which are expressions of the causal body, are only effects of this monadic radiation. [492] |
Do đó, để tạo ra được sự phóng chiếu cần thiết của các mãnh lực đã được tích tụ, được tổ chức bởi sự tưởng tượng sáng tạo và được đưa đến điểm tập trung nhất tâm cực độ bởi sự tập trung của xung lực trí tuệ (một khía cạnh của ý chí), người đệ tử sau đó kêu gọi đến những tài nguyên của linh hồn mình, được lưu giữ trong cái mà về mặt kỹ thuật được gọi là “viên ngọc trong hoa sen.” Đây là nơi Chân thần neo đậu — một điểm không được quên. Những khía cạnh của linh hồn mà chúng ta gọi là tri thức, tình thương và hy sinh, và vốn là những biểu hiện của thể nguyên nhân, chỉ là các hiệu ứng của sự phát xạ từ Chân thần [492]. |
|
Therefore, before the bridge can be truly built and “projected on the upward way, providing safe travelling for the pilgrim’s weary feet” (as the Old Commentary puts it), the disciple must begin to react in response to the closed lotus bud or jewel at the centre of the opened lotus. This he does when the sacrifice petals of the egoic lotus are assuming control in his life, when his knowledge is being transmuted into wisdom, and his love for the whole is growing; to these is being added the “power to renounce”. These three egoic qualities—when functioning with a measure of potency—produce an increased activity at the very centre of soul life, the heart of the lotus. It should be remembered that the correspondences in the egoic lotus to the three planetary centres are as follows: |
Do đó, trước khi cây cầu có thể thực sự được kiến tạo và “được phóng chiếu trên con đường đi lên, tạo điều kiện an toàn cho đôi chân mệt mỏi của người hành hương” (như Cổ Luận nói), người đệ tử phải bắt đầu phản hồi đáp ứng với nụ hoa sen khép kín hay viên ngọc nơi trung tâm của hoa sen đang nở. Y làm được điều này khi các cánh hoa hy sinh của hoa sen chân ngã đang nắm quyền kiểm soát trong đời sống của y, khi tri thức của y đang được chuyển hoá thành minh triết, và tình thương của y đối với toàn thể đang lớn dần lên; kèm theo đó là “năng lực xả bỏ.” Ba phẩm tính chân ngã này — khi vận hành với một mức độ hiệu lực nhất định — tạo ra một hoạt động gia tăng nơi chính trung tâm của đời sống linh hồn, tức là trái tim của hoa sen. Cần ghi nhớ rằng những điểm tương ứng trong hoa sen chân ngã với ba trung tâm hành tinh như sau: |
|
Shamballa. . . . The jewel in the lotus. |
Shamballa . . . . Viên ngọc trong hoa sen. |
|
Hierarchy . . . . The three groups of petals. |
Thánh đoàn . . . . Ba nhóm cánh hoa. |
|
Humanity . . . .The three permanent atoms within the aura of the lotus. |
Nhân loại . . . . Ba nguyên tử trường tồn trong hào quang của hoa sen. |
|
Students should also bear in mind that they need to rid themselves of the usual idea of sacrifice as a process of giving-up, or renunciation of all that makes life worth living. Sacrifice is, technically speaking, the achievement of a state of bliss and of ecstasy because it is the realisation of another divine aspect, hidden hitherto by both the soul and the personality. It is understanding and recognition of the will-to-good which made creation possible and inevitable, and which was the true cause of manifestation. Ponder on this, for it is very different in its significance to the usual concepts anent sacrifice. |
Các học viên cũng cần ghi nhớ rằng họ cần loại bỏ ý niệm thông thường về hy sinh như là một tiến trình từ bỏ, hay buông bỏ tất cả những gì khiến đời sống trở nên đáng sống. Hy sinh, nói một cách kỹ thuật, là sự thành tựu một trạng thái phúc lạc và ngây ngất vì đó là sự nhận biết một khía cạnh thiêng liêng khác, vốn bị che khuất từ trước đến nay bởi cả linh hồn lẫn phàm ngã. Đó là sự thấu hiểu và công nhận Ý Chí – Hướng Thiện vốn đã làm cho sự sáng tạo trở nên khả hữu và tất yếu, và là nguyên nhân thật sự của sự biểu lộ. Hãy suy ngẫm điều này, vì ý nghĩa của nó rất khác với những khái niệm thông thường về hy sinh. |
|
When the disciple has gained the fruit of experience which is knowledge and is learning to transmute it into wisdom, when his objective is to live truly and in reality, and when the will-to-good is the crowning goal of his daily life, then he can begin to evoke the Will. This will make the link between the lower and the higher minds, between spirit and matter and between Monad and personality a definite and existent fact. Duality then supervenes upon [493] triplicity, and the potency of the central nucleus in the egoic vehicle destroys—at the fourth initiation—the three surrounding expressions. They disappear, and then the so-called destruction of the causal body has taken place. This is the true “second death”—death to form altogether. |
Khi người đệ tử đã thu hoạch được thành quả của kinh nghiệm, tức là tri thức, và đang học cách chuyển hoá nó thành minh triết, khi mục tiêu của y là sống một cách chân thực và thực tế, và khi Ý Chí – Hướng Thiện là mục tiêu tối thượng trong đời sống hàng ngày của y, thì y có thể bắt đầu triệu gọi Ý Chí. Điều này sẽ tạo ra mối liên kết giữa hạ trí và thượng trí, giữa tinh thần và vật chất, và giữa Chân thần và phàm ngã trở thành một sự thật cụ thể và hiện hữu. Khi đó nhị nguyên thay thế [493] tam phân, và năng lực của hạt nhân trung tâm trong thể chân ngã tiêu huỷ — tại lần điểm đạo thứ tư — ba biểu hiện bao quanh. Chúng biến mất, và khi đó cái gọi là sự tiêu hủy của thể nguyên nhân đã xảy ra. Đây chính là “cái chết thứ hai” thực sự — sự chết đối với hình tướng trên mọi phương diện. |
|
This is practically all that I can tell you anent the process of projection. It is a living process, growing out of the conscious daily experience and dependent upon the expression of the divine aspects in the life upon the physical plane, as far as is possible. Where there is an attempt to approximate the personality life to the demands of the soul and to use the intellect on behalf of humanity, love is beginning to control; and then the significance of the “divine sacrifice” is increasingly understood and becomes a natural, spontaneous expression of individual intention. Then it becomes possible to project the bridge. The vibration is then set up on lower levels of divine manifestation and becomes strong enough to produce response from the higher. Then, when the Word of Power is known and rightly used, the bridge is rapidly built. |
Đó gần như là tất cả những gì tôi có thể nói với các bạn về tiến trình phóng chiếu. Đây là một tiến trình sống động, phát sinh từ kinh nghiệm hữu thức hàng ngày và tùy thuộc vào mức độ biểu hiện của các khía cạnh thiêng liêng trong đời sống trên cõi trần, trong phạm vi có thể. Khi có một nỗ lực để đưa đời sống phàm ngã tiệm cận với các yêu cầu của linh hồn và sử dụng trí tuệ vì lợi ích nhân loại, thì tình thương bắt đầu kiểm soát; và khi đó ý nghĩa của “sự hy sinh thiêng liêng” được thấu hiểu ngày càng sâu sắc và trở thành một biểu hiện tự nhiên, tự phát của ý định cá nhân. Khi ấy việc phóng chiếu cây cầu trở nên khả thi. Rung động khi ấy được thiết lập trên các cấp độ thấp hơn của sự biểu lộ thiêng liêng và trở nên đủ mạnh để tạo ra sự đáp ứng từ cấp cao hơn. Rồi, khi Linh từ Quyền năng được biết đến và được sử dụng đúng cách, cây cầu sẽ được kiến tạo một cách nhanh chóng. |
|
Students need feel in no way discouraged by this picture. Much can happen on the inner planes where there is right intention, as well as occult intention (purpose and tension combined), and the bridge reaches stages of definite outline and structure long before the disciple is aware of it. |
Các học viên không cần cảm thấy nản lòng bởi bức tranh này. Nhiều điều có thể xảy ra trên các cõi nội giới khi có ý định đúng đắn, cũng như có ý định huyền môn (kết hợp giữa mục đích và điểm nhất tâm), và cây cầu sẽ đạt đến những giai đoạn có hình dạng và cấu trúc rõ rệt từ rất lâu trước khi người đệ tử nhận thức được điều đó. |
Text with notes
|
When the disciple has trained himself to be consciously aware of the simultaneity of this threefold work, then it goes forward successfully and almost automatically. This he does through the power of visualization. A current of force is set up between these pairs of opposites (astral-buddhic) and—as it passes through the reservoir of force upon the mental plane—it produces an interior activity and an organization of the substance present. There then supervenes a steadily mounting potency, until the third stage is reached and the work passes out of the phase of subjectivity into that of objective reality—objective from the standpoint of the spiritual man. |
Khi đệ tử đã tự rèn luyện để có ý thức về sự đồng thời của công việc tam phân này, thì nó tiến triển thành công và gần như tự động. Y thực hiện điều này thông qua sức mạnh của sự hình dung. Một dòng mãnh lực được thiết lập giữa các cặp đối lập này (cảm dục-bồ đề) và—khi nó đi qua hồ chứa mãnh lực trên cõi trí—nó tạo ra một hoạt động nội tại và một tổ chức của chất liệu hiện diện. Sau đó, một sức mạnh tăng dần đều xuất hiện, cho đến khi đạt đến giai đoạn thứ ba và công việc chuyển từ giai đoạn chủ quan sang thực tế khách quan—khách quan từ quan điểm của người tinh thần. |
|
[END of RAIWC #40, 10Janl7 pp. 486—490…] |
[END of RAIWC #40, 10Janl7 pp. 486—490…] |
|
[Beginning of RAIWC #40, 15Janl7, 490—…] |
[Beginning of RAIWC #40, 15Janl7, 490—…] |
|
[1] |
|
|
3. Projection. The task of the disciple has now reached a most critical point. Many aspirants reach this particular stage and—having developed a real capacity to visualize, and having therefore constructed by its means the desired form, [the form of two-colored antahkarana…] and organized the substance which is to be employed in this later phase of the building process—find themselves unable to proceed any further. What then is the matter? Primarily, an inability to use the Will in the process of projection. This process is a combination of will, further and continued visualization, and the use of the ray Word of Power. Up to the present stage in the process, the method for all the seven rays is identical; but at this point there comes a change. Each disciple, having successfully organised the bridge substance, having brought into activity the will aspect, and being consciously aware of process and performance, proceeds now to move the organised substance forward, so that from the centre of force which he has succeeded in accumulating [on the lower mental plane…] there appears a line of light-substance or projection. This is sent forward upon a [Page 491] Word of Power, as in the logoic creative process. This is in reality a reversal of the process of the Monad when It sent forth the thread of life which finally anchored itself in the soul. [This thread anchors in the permanent atoms of the spiritual triad…] The soul, in reality, came into being through the means of this anchoring; [first there must be a monadic anchoring BEFORE the primary form of the petals begins to appear…] then came the later process, when the soul in its turn sent forth a dual thread which finally [suggesting a previous process …] found anchorage in the head and the heart of the lower threefold man, the personality. The disciple is focussed in the centre which he has constructed upon the mental plane and is drawing all his resources (those of the threefold personality and the soul combined) into activity; he now projects a line towards the Monad. [This projection has to pass through the permanent atoms of the spiritual triad, on the way to the Monad…] When we are doing this at first, the buddhic vehicle and the atmic vehicle are NOT YET coordinated …] |
3. Phóng chiếu. Nhiệm vụ của đệ tử hiện đã đạt đến một điểm quan trọng nhất. Nhiều người chí nguyện đạt đến giai đoạn cụ thể này và—đã phát triển được khả năng thực sự để hình dung, và do đó đã xây dựng bằng phương tiện của nó hình thức mong muốn, [hình thức của antahkarana hai màu…] và tổ chức chất liệu sẽ được sử dụng trong giai đoạn sau của quá trình xây dựng—tìm thấy mình không thể tiến xa hơn. Vậy thì vấn đề là gì? Chủ yếu, là sự không thể sử dụng Ý Chí trong quá trình phóng chiếu. Quá trình này là sự kết hợp của ý chí, sự hình dung tiếp tục và việc sử dụng linh từ của cung. Cho đến giai đoạn hiện tại trong quá trình, phương pháp cho tất cả bảy cung là giống nhau; nhưng tại điểm này có một sự thay đổi. Mỗi đệ tử, sau khi đã tổ chức thành công chất liệu cầu, đã kích hoạt khía cạnh ý chí, và có ý thức về quá trình và hiệu suất, bây giờ tiến hành di chuyển chất liệu đã tổ chức về phía trước, để từ trung tâm mãnh lực mà y đã tích lũy được [trên cõi hạ trí…] xuất hiện một dòng chất liệu ánh sáng hoặc phóng chiếu. Điều này được gửi đi trên một [Trang 491] Từ Quyền Năng, như trong quá trình sáng tạo của Thượng đế. Đây thực sự là một sự đảo ngược của quá trình của Chân Thần khi Ngài gửi đi sợi dây sự sống cuối cùng neo vào linh hồn. [Sợi dây này neo vào các nguyên tử trường tồn của tam nguyên tinh thần…] Linh hồn, thực sự, đã xuất hiện thông qua phương tiện của sự neo này; [trước tiên phải có một sự neo của Chân Thần TRƯỚC KHI hình thức sơ khai của các cánh hoa bắt đầu xuất hiện…] sau đó đến quá trình sau, khi linh hồn đến lượt mình gửi đi một sợi dây kép cuối cùng [gợi ý một quá trình trước đó…] tìm thấy nơi neo trong đầu và tim của người ba phân thấp hơn, phàm ngã. Đệ tử tập trung vào trung tâm mà y đã xây dựng trên cõi trí, và đang thu hút tất cả các nguồn lực của mình (những nguồn lực của phàm ngã tam phân và linh hồn kết hợp) vào hoạt động; y bây giờ phóng chiếu một dòng về phía Chân Thần. [Phóng chiếu này phải đi qua các nguyên tử trường tồn của tam nguyên tinh thần, trên đường đến Chân Thần…] Khi chúng ta đang làm điều này lúc đầu, thể bồ đề và thể atma CHƯA ĐƯỢC phối hợp…] |
|
[2] |
|
|
It is along this line that the final withdrawal of the forces takes place, [a Path of Withdrawal and of ‘escape’…] the forces which—upon the downward way or the involutionary path—focussed themselves in the personality and the soul. The antahkarana per se, completed by the bridge built by the disciple, is the final medium of abstraction or of the great withdrawal, [the first ray is implicated…] It is with the antahkarana that the initiate is concerned in the fourth initiation, [the Ray of the Destroyer is active in this initiation of death and the first resurrection…] called sometimes the Great Renunciation [saying ‘No’ to a certain aspect of desire—…] the renunciation or the withdrawal from form life, both personal and egoic. After this initiation neither of these aspects can hold the Monad any more, [even the soul body is sufficiently destroyed that the Monad-in-extension can no longer be held by it…] The “veil of the Temple” is rent in twain from the top to the bottom—that veil which separated the Outer Court (the personality life) from the Holy Place (the soul) and from the Holy of Holies (the Monad) in the Temple at Jerusalem. The implications and the analogies will necessarily be clear to you. |
Chính dọc theo dòng này mà sự rút lui cuối cùng của các mãnh lực diễn ra, [một Con Đường Rút Lui và ‘thoát khỏi’…] các mãnh lực mà—trên con đường đi xuống hoặc con đường giáng hạ tiến hoá—tập trung vào phàm ngã và linh hồn. Antahkarana tự nó, hoàn thành bởi cây cầu được xây dựng bởi đệ tử, là phương tiện cuối cùng của sự trừu tượng hoặc của sự rút lui lớn, [cung một được liên quan…] Chính với antahkarana mà điểm đạo đồ quan tâm trong lần điểm đạo thứ tư, [Cung của Kẻ Hủy Diệt hoạt động trong lần điểm đạo của cái chết và sự phục sinh đầu tiên…] đôi khi được gọi là Sự Từ Bỏ Vĩ Đại [nói ‘Không’ với một khía cạnh của dục vọng—…] sự từ bỏ hoặc sự rút lui khỏi đời sống hình tướng, cả cá nhân và chân ngã. Sau lần điểm đạo này, không khía cạnh nào trong số này có thể giữ Chân Thần nữa, [ngay cả thể hồn cũng bị phá hủy đủ để Chân Thần-trong-sự-mở-rộng không còn bị giữ lại bởi nó…] “màn của Đền Thờ” bị xé đôi từ trên xuống dưới—màn đó tách biệt Tòa Ngoại (đời sống phàm ngã) khỏi Nơi Thánh (linh hồn) và khỏi Nơi Thánh của Thánh (Chân Thần) trong Đền Thờ tại Jerusalem. Những ý nghĩa và sự tương đồng sẽ rõ ràng với bạn. |
|
[3] |
|
|
In order, therefore, to bring about the needed projection of the accumulated energies, organised by the creative imagination [the buddhic energies are great organizers—after all pure reason is the capacity of the buddhic plane…] and brought to a point of excessive tension [as much tension as we can generate …] by the focussing of the mental impulse (an aspect of the will), [mentality carries the will…] the disciple then calls upon the resources of his soul, stored up in what is technically called “the jewel in the lotus.” This is the anchorage of the Monad—a point which must not be forgotten. The aspects of the soul which we call knowledge, love and sacrifice, and which are expressions of the causal body, are only effects of this monadic radiation. [all qualities are found within the Monad and the seven principles as well] [Call upon the monadic radiation in order to project…] [492] |
Do đó, để mang lại sự phóng chiếu cần thiết của các năng lượng tích lũy, được tổ chức bởi sự tưởng tượng sáng tạo [các năng lượng bồ đề là những nhà tổ chức vĩ đại—sau tất cả lý trí thuần túy là khả năng của cõi bồ đề…] và được đưa đến một điểm trụ nhất tâm quá mức [càng nhiều căng thẳng mà chúng ta có thể tạo ra…] bằng cách tập trung xung lực trí tuệ (một khía cạnh của ý chí), [tâm trí mang theo ý chí…] đệ tử sau đó kêu gọi các nguồn lực của linh hồn mình, được lưu trữ trong cái mà về mặt kỹ thuật được gọi là “viên ngọc trong hoa sen.” Đây là nơi neo của Chân Thần—một điểm không được quên. Các khía cạnh của linh hồn mà chúng ta gọi là tri thức, tình thương và hy sinh, và là những biểu hiện của thể nhân quả, chỉ là những hiệu ứng của sự phát xạ chân thần này. [tất cả phẩm chất đều được tìm thấy trong Chân Thần và cả bảy nguyên lý] [Kêu gọi sự phát xạ chân thần để phóng chiếu…] [492] |
|
[4] |
|
|
Therefore, before the bridge can be truly built and “projected on the upward way, providing safe travelling for the pilgrim’s weary feet” (as the Old Commentary puts it), the disciple must begin to react in response to the closed lotus bud or jewel at the center of the opened lotus. This he does when the sacrifice petals of the egoic lotus are assuming control in his life, [These petals are completely opened at the third initiation …] when his knowledge is being transmuted into wisdom, [thus the knowledge petals are beginning to disintegrate …] and his love for the whole is growing; [this is the gift of the third initiation …] to these is being added the “power to renounce”, [first ray power related to the fourth degree …] These three egoic qualities [as above] —…] when functioning with a measure of potency—produce an increased activity at the very centre of soul life, the heart of the lotus. It should be remembered that the correspondences in the egoic lotus to the three planetary centres are as follows: |
Do đó, trước khi cây cầu có thể thực sự được xây dựng và “phóng chiếu trên con đường đi lên, cung cấp sự di chuyển an toàn cho đôi chân mệt mỏi của người hành hương” (như Cổ Luận đã nói), đệ tử phải bắt đầu phản ứng đáp lại nụ hoa sen hoặc viên ngọc ở trung tâm của hoa sen đã mở. Y thực hiện điều này khi các cánh hoa hy sinh của hoa sen chân ngã đang nắm quyền kiểm soát trong cuộc sống của y, [Những cánh hoa này hoàn toàn mở ra ở lần điểm đạo thứ ba…] khi tri thức của y đang được chuyển hóa thành minh triết, [do đó các cánh hoa tri thức bắt đầu tan rã…] và tình thương của y đối với toàn thể đang phát triển; [đây là món quà của lần điểm đạo thứ ba…] vào những điều này được thêm vào “quyền năng từ bỏ”, [sức mạnh của cung một liên quan đến cấp độ thứ tư…] Ba phẩm chất chân ngã này [như trên—…] khi hoạt động với một mức độ sức mạnh—tạo ra một hoạt động gia tăng tại trung tâm của đời sống linh hồn, trái tim của hoa sen. Cần nhớ rằng các sự tương ứng trong hoa sen chân ngã với ba trung tâm hành tinh như sau: |
|
– Shamballa—The jewel in the lotus. |
Shamballa—Viên ngọc trong hoa sen. |
|
– Hierarchy—The three groups of petals. |
Huyền Giai—Ba nhóm cánh hoa. |
|
– Humanity—The three permanent atoms within the aura of the lotus. [three members of the atomic triangle…] |
Nhân loại—Ba nguyên tử trường tồn trong hào quang của hoa sen. [ba thành viên của tam giác nguyên tử…] |
|
[5] |
|
|
Students should also bear in mind that they need to rid themselves of the usual idea of sacrifice as a process of giving-up, or renunciation of all that makes life worth living. Sacrifice is, technically speaking, the achievement of a state of bliss and of ecstasy because it is the realization of another divine aspect, hidden hitherto by both the soul and the personality. It is understanding and recognition of the will-to-good [we enter into the realization of a great Will-to-Good of the Planetary Logos…] which made creation possible and inevitable, and which was the true cause of manifestation. Ponder on this, for it is very different in its significance to the usual concepts anent sacrifice. |
Các học viên cũng nên ghi nhớ rằng họ cần loại bỏ ý tưởng thông thường về sự hy sinh như một quá trình từ bỏ, hoặc từ bỏ tất cả những gì làm cho cuộc sống đáng sống. Hy sinh, về mặt kỹ thuật, là sự đạt được trạng thái hạnh phúc và ngây ngất vì đó là sự nhận thức về một khía cạnh thiêng liêng khác, vốn bị che giấu trước đây bởi cả linh hồn và phàm ngã. Đó là sự hiểu biết và nhận thức về ý chí-hướng-thiện [chúng ta bước vào sự nhận thức về một Ý Chí-Hướng-Thiện vĩ đại của Hành Tinh Thượng đế…] đã làm cho sự sáng tạo trở nên khả thi và không thể tránh khỏi, và đó là nguyên nhân thực sự của sự biểu hiện. Suy ngẫm về điều này, vì nó rất khác biệt về ý nghĩa so với các khái niệm thông thường về sự hy sinh. |
|
[6] |
|
|
When the disciple has gained the fruit of experience which is knowledge and is learning to transmute it into wisdom, [knowledge which is always so and has deep significance…] when his objective is to live truly and in reality, and when the will-to-good is the crowning [crowning means Mastership…] goal of his daily life, then he can begin to evoke the Will, [such requirements before we can evoke the Will …] This will make the link between the lower and the higher minds, between spirit and matter and between Monad and personality a definite and existent fact. Duality then supervenes upon [Page 493] triplicity, [this suggests the Technique of Duality …] and the potency of the central nucleus in the egoic vehicle destroys—at the fourth initiation—the three surrounding expressions, [the Monad is also involved in order to give the central nucleus the POWER it needs to destroy the surrounding expressions …] so-called destruction of the causal body has taken place. This is the true “second death”—death to form altogether, [we have to wait until the fourth initiation for the second death to occur…] |
Khi đệ tử đã đạt được trái ngọt của kinh nghiệm là tri thức và đang học cách chuyển hóa nó thành minh triết, [tri thức luôn như vậy và có thâm nghĩa sâu sắc…] khi mục tiêu của y là sống thực sự và trong thực tế, và khi ý chí-hướng-thiện là mục tiêu tối cao [tối cao có nghĩa là Huấn Sư…] của cuộc sống hàng ngày của y, thì y có thể bắt đầu khơi dậy Ý Chí, [những yêu cầu như vậy trước khi chúng ta có thể khơi dậy Ý Chí…] Điều này sẽ tạo ra liên kết giữa hạ trí và thượng trí, giữa tinh thần và vật chất và giữa Chân Thần và phàm ngã một cách rõ ràng và hiện hữu. Nhị nguyên sau đó thay thế cho [Trang 493] tam phân,[điều này gợi ý về Kỹ Thuật Nhị Nguyên…] và sức mạnh của hạt nhân trung tâm trong thể chân ngã phá hủy—ở lần điểm đạo thứ tư—ba biểu hiện xung quanh, [Chân Thần cũng tham gia để cung cấp cho hạt nhân trung tâm SỨC MẠNH cần thiết để phá hủy các biểu hiện xung quanh…] cái gọi là sự phá hủy của thể nhân quả đã diễn ra. Đây là “cái chết thứ hai” thực sự—cái chết đối với hình tướng hoàn toàn, [chúng ta phải chờ đến lần điểm đạo thứ tư để cái chết thứ hai xảy ra…] |
|
[7] |
|
|
This is practically all that I can tell you anent the process of projection, [we are having to think deeply if we want to go further…] |
Đây là hầu hết những gì tôi có thể nói với bạn về quá trình phóng chiếu, [chúng ta phải suy nghĩ sâu sắc nếu muốn tiến xa hơn…] |
|
It is a living process, growing out of the conscious dally experience and dependent upon the expression of the divine aspects in the life upon the physical plane, as far as is possible. [Not only are we drawing upon the energies from below also upon the powers of the soul and of the Monad within the “Jewel In the Lotus” …] Where there is an attempt to approximate the personality life to the demands of the soul and to use the intellect on behalf of humanity, love is beginning to control; and then the significance of the “divine sacrifice” is increasingly understood and becomes a natural, spontaneous expression of individual intention. [Without sacrifice there will be no response from the Will and higher potencies… …] Then it becomes possible to project the bridge. [We might say that sacrifice makes possible the evocation of the higher potencies… …] The vibration is then set up on lower levels of divine manifestation and becomes strong enough to produce response from the higher. [We must be working at a very high point of tension to really evoke response from the higher energies …] Then, when the Word of Power is known and rightly used, the bridge is rapidly built. [We escape from the confines the “darkened chamber”//usually the personality but from one perspective also the soul body …] |
Đó là một quá trình sống động, phát triển từ kinh nghiệm hàng ngày có ý thức và phụ thuộc vào sự biểu hiện của các khía cạnh thiêng liêng trong cuộc sống trên cõi hồng trần, trong phạm vi có thể. [Không chỉ chúng ta đang rút ra các năng lượng từ bên dưới mà còn từ các quyền năng của linh hồn và của Chân Thần trong “Viên Ngọc Trong Hoa Sen”…] Khi có một nỗ lực để gần gũi cuộc sống phàm ngã với các yêu cầu của linh hồn và sử dụng trí tuệ vì lợi ích của nhân loại, tình thương bắt đầu kiểm soát; và sau đó ý nghĩa của “sự hy sinh thiêng liêng” ngày càng được hiểu và trở thành một biểu hiện tự nhiên, tự phát của ý định cá nhân. [Không có sự hy sinh sẽ không có phản hồi từ Ý Chí và các sức mạnh cao hơn… …] Sau đó, có thể phóng chiếu cây cầu. [Chúng ta có thể nói rằng sự hy sinh làm cho việc khơi dậy các sức mạnh cao hơn trở nên khả thi… …] Rung động sau đó được thiết lập trên các cấp độ thấp hơn của sự biểu hiện thiêng liêng và trở nên đủ mạnh để tạo ra phản hồi từ cấp độ cao hơn. [Chúng ta phải làm việc ở một điểm trụ nhất tâm rất cao để thực sự khơi dậy phản hồi từ các năng lượng cao hơn…] Sau đó, khi Linh từ được biết và sử dụng đúng cách, cây cầu được xây dựng nhanh chóng. [Chúng ta thoát khỏi giới hạn của “phòng tối”//thường là phàm ngã nhưng từ một góc độ cũng là thể hồn…] |
|
Students need feel in no way discouraged by this picture. Much can happen on the inner planes where there Is right intention, [loving intention …] as well as occult intention (purpose and tension combined), and the bridge reaches stages of definite outline and structure long before the disciple is aware of it. [BUT the Master is thus aware… it takes faith to build something you do not see, but perhaps begin to feel…] |
Các học viên không cần cảm thấy nản lòng bởi bức tranh này. Nhiều điều có thể xảy ra trên các cõi nội tại nơi có ý định đúng đắn, [ý định yêu thương…] cũng như ý định huyền bí (mục đích và căng thẳng kết hợp), và cây cầu đạt đến các giai đoạn có hình dạng và cấu trúc rõ ràng lâu trước khi đệ tử nhận thức được nó. [NHƯNG Chân sư nhận thức được điều đó… cần có niềm tin để xây dựng một thứ mà bạn không thấy, nhưng có thể bắt đầu cảm nhận…] |
|
END of RAIWC 41,15Jan17 pp. 490-493 |
END of RAIWC 41,15Jan17 pp. 490-493 |
|
Beginning of RAIWC 42, 15Janl7 |
Beginning of RAIWC 42, 15Janl7 |
Commentary
|
Okay. Hi everybody, and welcome to our The Rays and The Initiations Webinar commentary number 41. We’re continuing in the second part of the book, and I’m doing this as frequently as I possibly can, given my other responsibilities, and I’m broadcasting these webinar in here with myself but sending the results onto you here in the Temple of Silence here in Finland. I guess while I’m talking it’s not so silent but what is silence anyway but the synthesis of all the sounds. |
Chào mọi người, và chào mừng đến với bình luận Webinar Các Cung và Điểm Đạo số 41. Chúng ta đang tiếp tục phần thứ hai của cuốn sách và tôi đang làm điều này thường xuyên nhất có thể, với các trách nhiệm khác của tôi, và tôi đang phát sóng các webinar này ở đây với chính mình nhưng gửi kết quả đến bạn ở đây trong Đền Thờ Im Lặng ở Phần Lan. Tôi đoán trong khi tôi nói thì không im lặng lắm nhưng im lặng là gì ngoài sự tổng hợp của tất cả các âm thanh. |
|
Now, we have worked on the first two stages of intention in building the antahkarana, and also what we call visualization. So a few of these programs have been given to that effect. Now, we are going to work on the factor of Projection which is a very important sort of first ray aspect of this work. So, these are, it tends to be spontaneous programs, and I’m doing my best to add some commentary which you may find useful in understanding what DK said, or impossibly elaborating what he has discussed. |
Bây giờ chúng ta đã làm việc trên hai giai đoạn đầu tiên của Ý Định trong việc xây dựng antahkarana, và cũng là cái mà chúng ta gọi là hình dung. Vì vậy, một vài chương trình đã được thực hiện cho mục đích đó. Bây giờ chúng ta sẽ làm việc trên yếu tố Phóng chiếu, một khía cạnh rất quan trọng của cung một trong công việc này. Đây là những chương trình có xu hướng tự phát, và tôi đang cố gắng hết sức để thêm một số bình luận mà bạn có thể thấy hữu ích trong việc hiểu những gì Chân sư DK đã nói, hoặc có thể mở rộng những gì Ngài đã thảo luận. |
|
3. Projection. The task of the disciple has now reached a most critical point. Many aspirants reach this particular stage and—having developed a real capacity to visualise, and having therefore constructed by its means the desired form, and organised the substance which is to be employed in this later phase of the building process—find themselves unable to proceed any further. What then is the matter? Primarily, an inability to use the Will in the process of projection. This process is a combination of will, further and continued visualisation, and the use of the ray Word of Power. Up to the present stage in the process, the method for all the seven rays is identical; but at this point there comes a change. Each disciple, having successfully organised the bridge substance, having brought into activity the will aspect, and being consciously aware of process and performance, proceeds now to move the organised substance forward, so that from the centre of force which he has succeeded in accumulating there appears a line of light-substance or projection. This is sent forward upon a [491] Word of Power, as in the logoic creative process. This is in reality a reversal of the process of the Monad when It sent forth the thread of life which finally anchored itself in the soul. The soul, in reality, came into being through the means of this anchoring; then came the later process, when the soul in its turn sent forth a dual thread which finally found anchorage in the head and the heart of the lower threefold man, the personality. The disciple is focussed in the centre which he has constructed upon the mental plane, and is drawing all his resources (those of the threefold personality and the soul combined) into activity; he now projects a line towards the Monad. |
3. Phóng chiếu. Nhiệm vụ của người đệ tử hiện đã đạt đến một điểm hết sức then chốt. Nhiều người chí nguyện đạt đến giai đoạn đặc biệt này và — sau khi đã phát triển một năng lực hình dung thực sự, và nhờ đó đã kiến tạo hình thể mong muốn, và đã tổ chức chất liệu sẽ được sử dụng trong giai đoạn sau của tiến trình xây dựng — nhận thấy mình không thể tiến xa hơn được nữa. Vậy thì vấn đề là gì? Trước hết là sự bất lực trong việc sử dụng Ý Chí trong tiến trình phóng chiếu. Tiến trình này là một sự kết hợp của ý chí, hình dung tiếp tục và sâu hơn, cùng với việc sử dụng linh từ Quyền năng của cung. Cho đến giai đoạn hiện tại trong tiến trình, phương pháp cho cả bảy cung là giống nhau; nhưng tại điểm này có một sự thay đổi. Mỗi đệ tử, sau khi đã tổ chức thành công chất liệu cây cầu, đã kích hoạt được khía cạnh ý chí, và đang có ý thức về tiến trình và hiệu quả công việc, giờ đây tiến hành di chuyển chất liệu đã được tổ chức về phía trước, sao cho từ trung tâm mãnh lực mà y đã tích tụ thành công sẽ xuất hiện một đường chất liệu ánh sáng hay sự phóng chiếu. Điều này được gửi đi trên một [491] Linh từ Quyền năng, giống như trong tiến trình sáng tạo của Thượng đế. Đây thực ra là một sự đảo ngược tiến trình của Chân thần khi Nó đã phóng ra sợi dây sự sống vốn cuối cùng đã neo đậu vào linh hồn. Thật ra, linh hồn được hình thành nhờ vào sự neo đậu này; sau đó là tiến trình kế tiếp, khi linh hồn, đến lượt mình, phóng ra một sợi dây kép vốn cuối cùng được neo đậu trong đầu và tim của con người tam phân thấp hơn, tức là phàm ngã. Người đệ tử tập trung vào trung tâm mà y đã kiến tạo trên cõi trí, và đang huy động tất cả các nguồn lực của mình (những nguồn lực của phàm ngã tam phân và của linh hồn hợp nhất) vào hoạt động; giờ đây y phóng chiếu một sợi dây hướng về Chân Thần. |
|
The task of the disciple has now reached the most critical point. Many aspirants |
Nhiệm vụ của đệ tử hiện đã đạt đến điểm quan trọng nhất. Nhiều người chí nguyện đạt đến… |
|
And that’s what we already reached |
Và đó là những gì chúng ta đã đạt được |
|
… this particular stage and— having developed a real capacity to visualize, and having therefore constructed by its means the desired form, |
… giai đoạn cụ thể này và—đã phát triển được khả năng thực sự để hình dung, và nhờ đó đã xây dựng hình thức mong muốn, |
|
Will we say, the form of the two-color antahkarana |
Chúng ta sẽ nói, hình thức antahkarana hai màu |
|
… and organize the substance which is to be employed in the later phase of the building process— |
… và tổ chức chất liệu sẽ được sử dụng trong giai đoạn sau của quá trình xây dựng— |
|
And that’s because the visualization is drawn up into relationship with the pool of the retained mental substance at a point of tension on the fourth subplane of the mental plane. Well, they’ve done all that, but they |
Đó là vì sự hình dung được kéo lên để liên kết với hồ chứa chất liệu trí tuệ được giữ lại tại một điểm trụ nhất tâm trên cõi phụ thứ tư của cõi trí. Vâng, họ đã làm tất cả điều đó, nhưng họ |
|
… find themselves unable to proceed any further. What then is the matter? |
… tìm thấy mình không thể tiến xa hơn được nữa. Vậy thì vấn đề là gì? |
|
Well, |
Vâng, hãy xem Ngài giải thích |
|
Primarily an inability to use the will in the process of projection |
Chủ yếu là sự không thể sử dụng ý chí trong quá trình phóng chiếu |
|
Now, we know how difficult it is to understand what the will really is, as DK has told us. We probably know very little about it actually, and |
Bây giờ, chúng ta biết khó khăn như thế nào để hiểu ý chí thực sự là gì. Như DK đã nói với chúng ta, thực sự chúng ta có lẽ biết rất ít về nó, và |
|
This process… |
Quá trình này… |
|
Of projection |
Quá trình phóng chiếu |
|
… is a combination of the will, further and continued visualization and the use of a ray word of power |
… là sự kết hợp của ý chí, sự hình dung tiếp tục, và việc sử dụng quyền năng từ của cung |
|
And these words of power even though they are for all the Seven Rays, they are worked upon by the first ray, we might say. There’s a lot of first ray in this area of projection. |
Và những Quyền năng Từ này, dù được dùng cho cả Bảy Cung, lại chịu sự tác động của Cung Một, có thể nói là như vậy. Có rất nhiều năng lượng của Cung Một trong lĩnh vực phóng chiếu này. |
|
Up to the present stage in the process, the method for all the seven rays is identical; but at this point there comes a change. |
Cho đến giai đoạn hiện tại trong quá trình, phương pháp cho tất cả bảy cung là giống nhau; nhưng tại điểm này có một sự thay đổi. |
|
Sometimes when we work in group form, we simply use the second word ray of power because this is such a second ray teaching in general. But now when working on these individually there comes this change. |
Đôi khi, khi chúng ta làm việc trong hình thức nhóm, chúng ta chỉ sử dụng linh từ của cung hai vì đây là một giáo huấn của cung hai nói chung. Nhưng bây giờ, khi làm việc trên những điều này một cách cá nhân, có sự thay đổi này. |
|
Each disciple, having successfully organized the bridge substance, having brought into activity the will aspect |
Mỗi đệ tử, sau khi đã tổ chức thành công chất liệu của cây cầu, đã kích hoạt khía cạnh ý chí |
|
A part of it is by being willing |
Một phần của nó |
|
… and being consciously aware of process and performance |
… và có ý thức về quá trình và hiệu quả của nó |
|
How many things at which we must be aware |
Có bao nhiêu điều mà chúng ta phải nhận thức |
|
… proceeds now to move the organized substance forward |
… bây giờ tiến hành để di chuyển chất liệu đã tổ chức về phía trước |
|
To move it over so this becomes a dynamic |
Di chuyển nó để điều này trở thành một động lực |
|
… so that from the center of force which he has succeeded in accumulating |
… để từ trung tâm mãnh lực mà y đã tích lũy được |
|
On the mental plane |
Trên cõi trí |
|
… there appears a line of light-substance or projection |
… xuất hiện một dòng chất liệu ánh sáng-hoặc sự phóng chiếu |
|
Now, we’ve been building in light anyway, but this is something new, and usually I’m using the color white here, because the bridge is built of the two colors of your soul and personality ray. |
Bây giờ, chúng ta đã xây dựng trong ánh sáng, nhưng đây là điều gì đó mới, và thường tôi sử dụng màu trắng ở đây vì cây cầu được xây dựng từ hai màu của cung linh hồn và phàm ngã của bạn. Vì vậy |
|
… this line of light-substance there appears, a line of light-substance or projection. |
… dòng chất liệu ánh sáng này xuất hiện, một dòng chất liệu ánh sáng hoặc phóng chiếu. |
|
This is sent forward upon a [491] Word of Power, as in the logoic creative process. |
Nó được gửi đi trên một [491] Linh từ, như trong quá trình sáng tạo của Thượng đế. |
|
Only in that particular case, I suppose, the word of power is directed downward so that manifestation can occur. This is a word of power directed upward or towards the mental permanent atom, and towards the buddhic and atmic permanent atoms, and even towards the Monad. |
Chỉ trong trường hợp cụ thể đó [trong trường hợp của Thượng đế] tôi cho rằng linh từ được hướng xuống dưới để sự biểu hiện có thể xảy ra. Đây là một linh từ được hướng lên trên hoặc về phía nguyên tử trường tồn trí tuệ, về phía các nguyên tử trường tồn bồ đề và atma, và thậm chí về phía Chân Thần. |
|
This is in reality a reversal of the process of the Monad when It sent forth the thread of life which finally anchored itself in the soul. |
Điều này thực sự là một sự đảo ngược của quá trình của Chân Thần khi Ngài phóng sợi dây sự sống cuối cùng neo vào linh hồn. |
|
What does it do first? |
Trước tiên nó làm gì? |
|
… then this thread anchors in the permanent atoms |
… sau đó sợi dây này neo vào các nguyên tử trường tồn |
|
We have the thread anchors in the permanent atoms of the spiritual triad. |
Chúng ta có sợi dây neo vào các nguyên tử trường tồn của tam nguyên tinh thần. |
|
So, first it does that and that is in the second great Outpouring, we are told. And then finally into the soul when that intermediary has been constructed on the higher mental plane of higher mental substance with the aid of the Solar Angel. |
Vì vậy, trước tiên nó làm điều đó, và đó là trong Lần Tuôn Đổ thứ hai, chúng ta được cho biết như thế. Sau đó cuối cùng vào linh hồn khi trung gian đó đã được xây dựng trên cõi thượng trí với sự trợ giúp của Thái dương Thiên Thần |
|
The soul, in reality, came into being through the means of this anchoring |
Thực Sự, linh hồn đã xuất hiện thông qua phương tiện của sự neo đậu này |
|
I suppose it seems to suggest that first there must be an anchoring, a monadic anchoring before the primary form of the petals begins to up here, and that probably that monadic anchoring alerts the Solar Angel that has a particular concern with the human being involved that an intermediary structure is needed |
Tôi cho rằng điều này dường như hàm ý rằng trước hết phải có một sự neo đậu của Chân Thần trước khi hình dạng sơ khởi của các cánh hoa bắt đầu xuất hiện, và có lẽ chính sự neo đậu này của Chân Thần đã báo cho Thái dương Thiên Thần — Đấng đặc biệt quan tâm đến con người có liên quan — rằng cần phải có một cấu trúc trung gian. |
|
… then came the later process when the soul in its turn sent forth a dual thread which finally |
… sau đó đến quá trình sau này khi cuối cùng linh hồn đến lượt mình gửi đi một sợi dây kép |
|
I wonder what that finally is all about. It seems to suggest a previous process, |
Tôi tự hỏi từ cuối cùng đó là về điều gì. Nó dường như gợi ý một quá trình trước đó, |
|
… which finally found anchorage in the head and the heart of the threefold lower man, the personality |
… cuối cùng tìm thấy nơi neo trong đầu và tim của phàm nhân tam phân thấp, phàm ngã |
|
Even when that being is not yet what we would call an expressive personality because it hasn’t really integrated the vehicles, and because the lower aspect has to be built up first and then the astral and then the mental, so it takes a long time before it’s a real personality in the expressive sense. |
Ngay cả khi thực thể đó chưa phải là cái mà chúng ta gọi là một phàm ngã biểu hiện, vì nó chưa thực sự tích hợp các thể của nó, và vì khía cạnh thấp hơn phải được xây dựng trước và sau đó là cảm dục và sau đó là trí tuệ, vì vậy phải mất một thời gian dài trước khi nó là một phàm ngã thực sự trong ý nghĩa biểu hiện. |
|
The disciple is focused in the center which he has constructed on the mental plane |
Đệ tử tập trung vào trung tâm mà y đã kiến tạo trên cõi trí |
|
That’s that point of tension which has appeared on the fourth level of the mental |
Đó là điểm trụ nhất tâm đã xuất hiện trên cõi phụ thứ tư của cõi trí |
|
… and is drawing all his resources (those of the threefold personality and the soul combined) into activity |
… và đang thu hút tất cả các nguồn lực của y (những nguồn lực của phàm ngã tam phân và linh hồn kết hợp) vào hoạt động |
|
This is very important. When we do our preparation for full moon meditations, we always draw down the will aspect of the Egoic Lotus, and we draw up the vitality of the etheric body, and we draw up the formative power of the creative imagination. |
Điều này rất quan trọng. Khi chúng ta thực hiện sự chuẩn bị cho tham thiền trăng tròn, chúng ta luôn kéo khía cạnh ý chí của Hoa Sen Chân Ngã xuống và kéo sinh lực của thể dĩ thái và sức mạnh tạo hình của sự tưởng tượng sáng tạo lên. |
|
He now projects a line towards the monad |
Y bây giờ phóng chiếu một tuyến về phía Chân Thần |
|
And of course in a way this projection has to pass through the permanent atoms of the Spiritual Triad on the way to the Monad, so that can probably be visualized. |
Tất nhiên, theo một cách nào đó, sự phóng chiếu phải đi qua các nguyên tử trường tồn của Tam Nguyên Tinh Thần trên đường đến Chân Thần. Vì vậy, điều đó có thể được hình dung. |
|
Now, it may be when we are doing this at first, the buddhic vehicle and the atmic vehicle are not yet organized or coordinated, but they are on their way, and increasingly after the third degree the buddhic vehicle will be coordinated, and then I suppose after the fourth degree, the atmic vehicle will be coordinated into its final form, so that later one can enter in full consciousness into that of the monadic vehicle. |
Có thể lúc đầu khi chúng ta làm điều này, thể bồ đề và thể atma chưa được tổ chức hoặc phối hợp, nhưng chúng đang xảy ra, và ngày càng tăng, sau cấp độ thứ ba thể bồ đề sẽ được phối hợp, và tôi cho rằng sau đó sau cấp độ thứ tư thể atma sẽ được phối hợp vào hình thức cuối cùng của nó, để sau đó một người có thể đi vào thể của Chân Thần trong ý thức đầy đủ. |
|
So, we now projects the line towards the Monad, the Monad has projected earlier toward the Soul, has signaled the Solar Angels in a way that soul bodies to be created, and then the soul has projected a dual thread of heart and consciousness, the heart thread is the life thread, the sutratma, and the consciousness thread is anchored in the head. So those are two of the different threads which make personality activity possible. |
Vì vậy, chúng ta bây giờ phóng chiếu tuyến ánh sáng về phía Chân Thần. Trước đó, Chân Thần đã phóng chiếu về phía Linh Hồn, báo hiệu cho các Thái Dương Thiên Thần theo một cách nào đó rằng các thể linh hồn cần được tạo ra, và sau đó linh hồn đã phóng chiếu một sợi dây kép của tim và tâm thức, sợi dây tim là sợi dây sự sống, sutratma, và sợi dây tâm thức được neo vào đầu. Đó là hai trong số các sợi dây khác nhau làm cho hoạt động của phàm ngã trở nên khả thi. |
|
[2] |
|
|
It is along this line that the final withdrawal of the forces takes place, the forces which—upon the downward way or the involutionary path—focussed themselves in the personality and the soul. The antahkarana per se, completed by the bridge built by the disciple, is the final medium of abstraction or of the great withdrawal. It is with the antahkarana that the initiate is concerned in the fourth initiation, called sometimes the Great Renunciation—the renunciation or the withdrawal from form life, both personal and egoic. After this initiation neither of these aspects can hold the Monad any more. The “veil of the Temple” is rent in twain from the top to the bottom—that veil which separated the Outer Court (the personality life) from the Holy Place (the soul) and from the Holy of Holies (the Monad) in the Temple at Jerusalem. The implications and the analogies will necessarily be clear to you. |
Chính dọc theo sợi dây này mà sự rút lui sau cùng của các mãnh lực diễn ra—những mãnh lực vốn, trên con đường đi xuống hay con đường giáng hạ tiến hoá, đã tập trung vào phàm ngã và linh hồn. Antahkarana tự thân, được hoàn tất bởi cây cầu do người đệ tử kiến tạo, là phương tiện cuối cùng cho sự trừu xuất hay sự rút lui vĩ đại. Chính với antahkarana mà vị điểm đạo đồ liên quan trong lần điểm đạo thứ tư, đôi khi được gọi là Cuộc Từ Bỏ Vĩ Đại—sự từ bỏ hay rút lui khỏi đời sống hình tướng, cả cá nhân lẫn chân ngã. Sau lần điểm đạo này, không một trong hai phương diện ấy còn có thể giam giữ Chân Thần nữa. “Bức màn của Đền Thờ” bị xé làm đôi từ trên xuống dưới—bức màn ấy vốn ngăn cách giữa Sân Ngoài (đời sống phàm ngã) và Nơi Thánh (linh hồn), cũng như Nơi Cực Thánh (Chân Thần) trong Đền Thờ tại Jerusalem. Những hệ quả và sự tương đồng của điều này dĩ nhiên sẽ rõ ràng với các bạn. |
|
It is along this line |
… chính dọc theo tuyến này |
|
That is projected towards the Monad |
Tuyến được phóng chiếu về phía Chân Thần |
|
… that the final withdrawal of the forces take place |
… mà sự rút lui cuối cùng của các mãnh lực diễn ra. |
|
So it is in a way a path of withdrawal and of escape as it is sometimes called—escape from the confines of the lower world |
Vì vậy, nó là một con đường rút lui và thoát khỏi, như đôi khi nó được gọi—thoát khỏi giới hạn của thế giới thấp hơn |
|
… the forces which—upon the downward way or the involutionary path—focussed themselves in the personality and the soul |
… các mãnh lực mà—trên con đường đi xuống hoặc con đường giáng hạ tiến hoá—tập trung vào phàm ngã và linh hồn |
|
These forces which were involutionary and which descended into the personality and soul can be withdrawn along the antahkarana. So, we are a building our method of withdrawal and escape into the higher world, so of course every high initiate and master has done this, and this is the way that we will no longer be confined in the darkened room. It takes a lot of courage, I think, to go through this process, but innately as a monad, we have the courage, although maybe we have somewhat forgotten it because we’ve been so confined in the lower stages of consciousness. |
Những mãnh lực vốn giáng hạ và đi xuống phàm ngã và linh hồn có thể được rút lui theo antahkarana. Vì vậy, chúng ta đang xây dựng phương pháp rút lui và thoát khỏi để vào thế giới cao hơn. Do đó, tất nhiên các điểm đạo đồ bậc cao và các Chân sư đã làm điều này, và đây là cách mà chúng ta sẽ không còn bị giới hạn trong căn phòng tối. Tôi nghĩ, cần rất nhiều can đảm để đi qua quá trình này, nhưng bẩm sinh, như một Chân Thần, chúng ta có can đảm đó, mặc dù có thể chúng ta đã quên mất nó, vì chúng ta đã bị giới hạn trong các giai đoạn thấp hơn của tâm thức. |
|
The antahkarana per se, completed by the bridge built by the disciple, is the final medium of abstraction or of the great withdrawal |
Bản thân Antahkarana, được hoàn thành bởi cây cầu mà người đệ tử xây dựng, là phương tiện cuối cùng của sự trừu xuất, hoặc sự rút lui lớn |
|
Nobody’s going to do this for us, although there is the sense in which when we build, the Father comes forth from His house and meets the disciple halfway. There is a certain kind of reciprocity that is called evocation in the fourth stage of this building, but nevertheless, this is our responsibility. |
Không ai sẽ làm điều này cho chúng ta, mặc dù có cảm giác rằng khi chúng ta xây dựng, Cha từ nhà của Ngài đến và gặp người đệ tử ở giữa đường. Vì vậy, có một loại tương hỗ nào đó được gọi là khơi gợi trong giai đoạn thứ tư của việc xây dựng này. Nhưng dù sao, đây là trách nhiệm của chúng ta |
|
The antahkarana per se, completed by the bridge built by the disciple, is the final medium of abstraction or of the great withdrawal |
Bản thân Antahkarana, được hoàn thành bởi cây cầu mà người đệ tử xây dựng, là phương tiện cuối cùng của sự trừu xuất hoặc của sự rút lui lớn |
|
Again, don’t you see that when he starts talking about abstraction, the first ray is implicated, because it is the great ray of abstraction. |
Một lần nữa, bạn không thấy rằng khi Ngài bắt đầu nói về sự trừu xuất, cung một có liên quan vì đó là cung lớn của sự trừu xuất. |
|
It is with the antahkarana that the initiate is concerned in the fourth initiation |
Chính với antahkarana mà điểm đạo đồ quan tâm trong lần điểm đạo thứ tư |
|
It’s a an initiation where the fourth ray is very active, but so is the Ray of the Destroyer, although it may be more powerful at the 5th initiation, is active in this initiation of death and the first resurrection. This Renunciation is not the final Resurrection which we call the seventh initiation, which is sometimes called the Great Renunciation, and we know how important it is to use the first ray in all process of a Renunciation, because basically we’re saying ‘No’ to a certain aspect of our desire. We have to be able to do this. |
Đây là một cuộc điểm đạo mà Cung Bốn hoạt động rất mạnh mẽ, nhưng Cung của Đấng Hủy Diệt cũng vậy—dù có thể mãnh liệt hơn ở lần điểm đạo thứ năm—vẫn đang hoạt động trong cuộc điểm đạo của sự chết và của lần Phục Sinh thứ nhất này. Sự Từ Bỏ này không phải là cuộc Phục Sinh sau cùng mà chúng ta gọi là lần điểm đạo thứ bảy, đôi khi được gọi là Cuộc Từ Bỏ Vĩ Đại, và chúng ta biết tầm quan trọng của việc sử dụng Cung Một trong mọi tiến trình của sự Từ Bỏ, bởi vì về cơ bản, chúng ta đang nói “Không” với một khía cạnh nào đó của dục vọng của mình. Chúng ta phải có khả năng làm được điều này. |
|
… the renunciation or the withdrawal from form life, both personal and egoic. |
… sự từ bỏ hoặc sự rút lui khỏi đời sống hình tướng, cả cá nhân và chân ngã. |
|
And as I said, if you want a very beautiful description of this, you go to the tenth law in Esoteric Healing, and it talks about withdrawal from the personal sphere and from the egoic sphere, and the entering into Shambhala, or the presence at least of the Lord of the World. |
Và như tôi đã nói, nếu bạn muốn một mô tả rất đẹp về điều này, bạn hãy đến định luật thứ mười trong Trị Liệu Huyền Môn nói về sự rút lui khỏi lĩnh vực cá nhân và khỏi lĩnh vực chân ngã, và việc nhập vào Shambhala, hoặc ít nhất là vào sự hiện diện của Đức Chúa Tể Thế Giới. |
|
LAW X |
ĐỊNH LUẬT X |
|
Hearken, O Chela, to the call which comes from the Son to the Mother, and then obey. The Word goes forth that form has served its purpose. The principle of mind (the fifth principle. A.A.B.) then organises itself, and then repeats the Word. The waiting form responds and drops away. The soul stands free. |
Hãy lắng nghe, Hỡi Đệ tử, lời kêu gọi đến từ Con đến Mẹ, và sau đó tuân theo. Linh từ phát ra rằng hình tướng đã phục vụ mục đích của nó. Nguyên lý trí tuệ (nguyên lý thứ năm. A.A.B.) sau đó tự tổ chức, và sau đó lặp lại Linh từ. Hình tướng đang chờ đợi phản ứng và rơi đi. Linh hồn đứng tự do. |
|
[Page 502] |
[Trang 502] |
|
Respond, O Rising One, to the call which comes within the sphere of obligation; recognize the call emerging from the Ashram or from the Council Chamber where waits the Lord of Life Himself. The Sound goes forth. Both soul and form together must renounce the Principle of life and thus Permit the Monad to stand free. The soul responds. The form then shatters the connection. Life is now liberated, owning the quality of conscious knowledge and the fruit of all experience. These are the gifts of soul and form combined. |
Hỡi Đấng Đang Trỗi Dậy, hãy đáp ứng tiếng gọi vang lên trong phạm vi của bổn phận; hãy nhận biết tiếng gọi phát ra từ Ashram hay từ Phòng Hội Đồng, nơi mà chính Đức Chúa Tể Sự Sống đang chờ đợi. Âm thanh vang dội ra. Cả linh hồn lẫn hình tướng đều phải cùng nhau từ bỏ Nguyên khí của sự sống và do đó cho phép Chân Thần được đứng tự do. Linh hồn đáp ứng. Khi ấy, hình tướng phá vỡ mối liên kết. Sự sống giờ đây được giải thoát, sở hữu phẩm tính của tri thức có ý thức và kết quả của mọi kinh nghiệm. Đó là những tặng phẩm do linh hồn và hình tướng hợp nhất mà có. |
|
All of this lies ahead, but the Tibetan is so marvelously clear about it so that we certainly should develop a great incentive to tread the way that leads in this direction. |
Tất cả điều này đang ở phía trước nhưng Chân sư Tây Tạng rất rõ ràng về điều đó để chúng ta chắc chắn phát triển một động lực lớn để đi theo con đường dẫn đến hướng này. |
|
After this initiation, neither of these aspects can hold the Monad anymore |
Sau lần điểm đạo này, không khía cạnh nào trong số này có thể cầm giữ Chân Thần nữa |
|
Because we might say that even the soul body is sufficiently destroyed that the Monad-in- extension can no longer be held by it. And we learn in Rule 10, |
Vì chúng ta có thể nói rằng ngay cả thể linh hồn cũng bị phá hủy đủ để Chân Thần trong sự mở rộng không còn bị giữ lại bởi nó, và chúng ta học trong quy luật Điểm đạo số 10, |
|
The “veil of the Temple” is rent in twain from the top to the bottom— |
“Màn của Đền Thờ” bị xé đôi từ trên xuống dưới— |
|
And this is what the Christ did. He made it possible for so many people to take the fourth initiation. And what did he rent? That which was stopping the will of God from entering more deeply into the consciousness of humanity. |
Và đây là điều mà Đức Christ đã làm. Ngài đã làm cho nhiều người hơn có thể thực hiện lần điểm đạo thứ tư. Và Ngài đã xé điều gì? Điều đã ngăn cản ý chí của Thượng đế đi sâu hơn vào tâm thức của nhân loại. Vì vậy |
|
… the veil of the temple was rent in twain from the top to the bottom. |
… màn che của đền thờ bị xé đôi từ trên xuống dưới. |
|
There was a veil in the early Hebrew temple, and it did separate the Holy Place from the Holy of Holies |
Trong ngôi đền Do Thái cổ, có một bức màn che, và nó đã phân tách Nơi Thánh khỏi Nơi Chí Thánh. |
|
… that veil which separated the Outer Court (the personality life) from the Holy Place (the soul) and from the Holy of Holies (the Monad) in the Temple at Jerusalem |
… Bức màn ấy đã phân tách Ngoại Viện (đời sống phàm ngã) khỏi Nơi Thánh (linh hồn) và khỏi Nơi Chí Thánh (Chân Thần) trong Đền Thờ tại Giê-ru-sa-lem. |
|
So, there was a tremendous symbolism there, and there was an understanding of what it meant. Of course the Priests tend to get proud about that kind of thing, and then along comes a Popularizer like Jesus or like the prince Siddhartha, and they want to give this information out to everybody. But the priesthood considers it their own prerogative, and it’s not that they disbelieve in the powers and understanding and capacity of these Revealers like Jesus and the Buddha or Christ and the Buddha. They just don’t want to share. And I wonder if this was the case with the Tibetans in their monasteries before the Chinese came, and basically forced a tremendous expulsion which resulted in a world sharing. Sometimes the method of making sure that a sharing occurs is not the most pleasant. But anyway, this gives us a sense of how the Temple was created and also the symbolism that is involved here. |
Vì vậy, có một biểu tượng hết sức sâu xa ở đó, và người ta hiểu được ý nghĩa của nó. Dĩ nhiên, các Tư tế thường trở nên kiêu hãnh về những điều như thế, rồi bỗng xuất hiện một người phổ truyền như Đức Jesus hay hoàng tử Siddhartha, và các Ngài muốn ban phát tri thức ấy cho mọi người. Nhưng hàng tư tế lại xem đó là đặc quyền của riêng họ; không phải là họ không tin vào quyền năng, sự thấu hiểu hay năng lực của những Đấng Mặc Khải như Đức Jesus và Đức Phật, hay Đức Christ và Đức Phật, mà chỉ là họ không muốn chia sẻ. Tôi tự hỏi liệu điều này có từng xảy ra với người Tây Tạng trong các tu viện của họ trước khi người Trung Quốc đến, và trên thực tế đã buộc phải có một cuộc trục xuất vĩ đại dẫn đến sự chia sẻ cho toàn thế giới hay không. Đôi khi, phương cách để bảo đảm rằng sự chia sẻ ấy xảy ra lại không hề dễ chịu. Dù sao đi nữa, điều này giúp chúng ta hiểu được cách mà Đền Thờ được kiến tạo cũng như ý nghĩa biểu tượng ẩn chứa trong đó. |
|
The outer court |
Tòa Ngoại |
|
The Tabernacle in the Wilderness, the |
Nhà Tạm trong hoang mạc, |
|
Holy Place |
Nơi Thánh |
|
The Temple of Solomon, and the |
Đền Thờ của Solomon, và |
|
Holy of Holies |
Nơi Chí Thánh |
|
The temple of Ezekiel, the vehicle of the Monad, and he says |
Đền thờ của Ezekiel, phương tiện của Chân Thần, và Ngài nói |
|
… the implications and the analogies will necessarily be clear to you, |
… những ý nghĩa và sự tương đồng sẽ rõ ràng với bạn, |
|
To us, and I suppose it’s clear enough theoretically, although we have a lot yet to do before this is applicable immediately to our situation. |
Với chúng ta, và tôi cho rằng nó đủ rõ ràng về mặt lý thuyết, mặc dù chúng ta còn rất nhiều việc phải làm trước khi điều này áp dụng ngay lập tức vào tình huống của chúng ta. |
|
[3] |
|
|
In order, therefore, to bring about the needed projection of the accumulated energies, organised by the creative imagination and brought to a point of excessive tension by the focussing of the mental impulse (an aspect of the will), the disciple then calls upon the resources of his soul, stored up in what is technically called “the jewel in the lotus.” This is the anchorage of the Monad—a point which must not be forgotten. The aspects of the soul which we call knowledge, love and sacrifice, and which are expressions of the causal body, are only effects of this monadic radiation. [492] |
Do đó, để tạo ra được sự phóng chiếu cần thiết của các mãnh lực đã được tích tụ, được tổ chức bởi sự tưởng tượng sáng tạo và được đưa đến điểm tập trung nhất tâm cực độ bởi sự tập trung của xung lực trí tuệ (một khía cạnh của ý chí), người đệ tử sau đó kêu gọi đến những tài nguyên của linh hồn mình, được lưu giữ trong cái mà về mặt kỹ thuật được gọi là “viên ngọc trong hoa sen.” Đây là nơi Chân thần neo đậu — một điểm không được quên. Những khía cạnh của linh hồn mà chúng ta gọi là tri thức, tình thương và hy sinh, và vốn là những biểu hiện của thể nguyên nhân, chỉ là các hiệu ứng của sự phát xạ từ Chân thần [492]. |
|
In order, therefore, to bring about the needed projection of the accumulated energy, |
Do đó, để mang lại sự phóng chiếu cần thiết của các năng lượng tích lũy, |
|
Is both of the creative imagination and of that pool of mental energies that we retained at a point of tension |
cả của sự tưởng tượng sáng tạo và của hồ chứa năng lượng trí tuệ mà chúng ta đã giữ lại tại một điểm trụ nhất tâm |
|
… organized by the creative imagination and brought to a point of excessive tension by the focusing of the mental impulse (an aspect of the will) the disciple then calls upon the resources of his soul, stored up in what is technically called “the jewel in the Lotus” |
… được tổ chức bởi sự tưởng tượng sáng tạo, và được đưa đến một điểm trụ nhất tâm cực độ bằng cách tập trung xung lực trí tuệ (một khía cạnh của ý chí), người đệ tử sau đó kêu gọi các nguồn lực của linh hồn của mình, được lưu trữ trong cái mà về mặt kỹ thuật được gọi là “viên ngọc trong Hoa Sen” |
|
Now that’s very important. Sometimes I don’t think I’ve paid enough attention to that particular sentence, but where are we going to get the power to make this projection successful? So we need of course the will of the soul, but we need also the power of the jewel in the Lotus which really pretty permeates every aspect of the egoic Lotus. Let’s look at that again in order to bring about the needed projection. |
Điều đó rất quan trọng. Đôi khi, tôi nghĩ tôi đã không chú ý đủ đến câu cụ thể đó, nhưng chúng ta sẽ lấy sức mạnh từ đâu để làm cho sự phóng chiếu này thành công? Tất nhiên, chúng ta cần ý chí của linh hồn, nhưng chúng ta cũng cần sức mạnh của viên ngọc trong Hoa Sen, vốn thực sự thấm nhuần mọi khía cạnh của Hoa Sen Chân Ngã. Chúng ta hãy nhìn lại câu đó để tạo ra sự phóng chiếu cần thiết. |
|
The accumulated energies organized by the creative imagination |
Các năng lượng tích lũy được tổ chức bởi sự tưởng tượng sáng tạo |
|
And you know ultimately from the buddhic plane, so the buddhic energies are great organizers. After all, pure reason is the capacity of the buddhic plane. So, this is interesting, it will just the way the fourth ether in a lower sense is an organizer, so here’s the buddhic plane. Anyway |
Cuối cùng, nó đến từ cõi bồ đề. Rốt cuộc, lý trí thuần khiết là năng lực của cõi bồ đề. Vì vậy, điều này thật thú vị—giống như cách mà dĩ thái thứ tư, ở tầng ý nghĩa thấp hơn, là yếu tố tổ chức, thì cõi bồ đề cũng vậy. |
|
… it’s organized by the creative imagination |
… nó được tổ chức bởi sự tưởng tượng sáng tạo |
|
Under the impress of the buddhic plane |
Dưới sự ấn tượng của cõi bồ đề |
|
… and brought to a point of excessive tension |
… và được đưa đến một điểm tập trung nhất tâm cực độ |
|
Excessive it means probably as much attention as we can generate, |
Cực độ, có lẽ hàm ý sự chú ý nhiều nhất mà chúng ta có thể tạo ra, |
|
[really as much attention as we can generate |
[thực sự là sự chú ý nhiều nhất mà chúng ta có thể tạo ra |
|
… by the focusing of the mental impulse (an aspect of the will) the disciple then calls upon the resources of his soul stored up in what is technically called the jewel in the Lotus |
… bằng cách tập trung xung lực trí tuệ (một khía cạnh của ý chí), người đệ tử sau đó kêu gọi các nguồn lực của linh hồn mình được lưu trữ trong cái mà về mặt kỹ thuật được gọi là viên ngọc trong Hoa Sen |
|
The relationship between mentality and will, both along the hard line—one, three, five, seven—is something we always have to keep in mind, that mentality carries the will. Sometimes we say to people, ‘Well, you should mind me’, which means you should obey my will. So, we see the way in which mentality is a means of expressing the will. |
Mối quan hệ giữa trí tuệ và ý chí, cả hai đều nằm trên đường cung cứng—một-ba-năm-bảy—là điều mà chúng ta luôn phải ghi nhớ, rằng tâm trí mang ý chí, và đôi khi chúng ta nói với mọi người, ‘Này, bạn nên chú ý đến tôi’ có nghĩa là bạn nên tuân theo ý chí của tôi. Vì vậy, chúng ta thấy cách mà tâm trí là một phương tiện để biểu hiện ý chí. |
|
This is the Anchorage of the Monad in the jewel in the lotus, a point which must not be forgotten. |
Đây là nơi neo giữ của Chân Thần trong viên ngọc trong hoa sen, một điểm không được quên. |
|
So, let us not forget it. |
Vì vậy, chúng ta đừng quên điều đó. |

|
Actually what I want to do is show you again the picture here which I have not. It’ll take me a second to get it up… Here we have the image which shows how from the will aspects of the Monad, there is a direct descent to the very center of the causal body, or to that nucleus around which the causal body will be built. We kind of wonder, it is to the second level of the higher mental plane that this descent occurs, because, in a way, the egoic Lotus never moves any higher than the second sublevel of the mental plane, and it is destroyed there. So, it doesn’t really move on to the first sublevel as some people have theorized, but there are some obscure references which seem to suggest that the jewel in the egoic lotus may hover between the boundary of the higher mental plane and the buddhic plane. We will have to look that up and confirm. |
Thực sự, muốn chỉ cho bạn thấy lại bức tranh mà tôi chưa có sẵn ở đây, sẽ mất một vài giây để tôi lấy nó lên… Ở đây, chúng ta có hình ảnh cho thấy cách, từ các khía cạnh ý chí của Chân Thần có một sự giáng xuống trực tiếp đến trung tâm của thể nhân quả, hoặc đến hạt nhân mà xung quanh nó thể nhân quả sẽ được xây dựng, và tôi tự hỏi, liệu đó có phải là phân cảnh giới thứ hai của cõi thượng trí mà sự hạ xuống này xảy ra, vì Hoa Sen Chân Ngã không bao giờ di chuyển cao hơn cõi phụ thứ hai của cõi trí, nó bị phá hủy ở đó. Vì vậy, nó không thực sự di chuyển lên cõi phụ thứ nhất, như một số người đã giả thuyết. Nhưng có một số tham chiếu mơ hồ dường như gợi ý rằng viên ngọc trong hoa sen chân ngã có thể lơ lửng giữa ranh giới của cõi thượng trí và cõi bồ đề[1]. Chúng ta sẽ phải tìm hiểu và xác nhận điều đó. |
|
In any case, this is the Anchorage for the Monad, the jewel in the Lotus |
Vì vậy, trong bất kỳ trường hợp nào đây là nơi neo đậu của Chân Thần, viên ngọc trong Hoa Sen |
|
The aspects of the soul which we call knowledge, love and sacrifice, and which are expressions of the causal body, are only effects of this monadic radiation |
Các khía cạnh của linh hồn mà chúng ta gọi là tri thức, tình thương và hy sinh, và là những biểu hiện của thể nhân quả, chỉ là những hiệu ứng của sự phát xạ chân thần này |
|
This is very interesting, because all qualities and principles are contained within the Monad, and the seven principles as well. |
Điều này rất thú vị, vì tất cả phẩm chất và nguyên lý đều được chứa đựng trong Chân Thần, và cả bảy nguyên khí cũng vậy. |
|
It’s Monadic radiation and everything comes from the monad. And when you think about it, that which we are as a personality, and that which we are as a soul, is really the Monad in various formulations and modes of projection. |
Đó là sự phát xạ chân thần, và mọi thứ đến từ Chân Thần. Và khi bạn nghĩ về nó, cái mà chúng ta là như một phàm ngã và cái mà chúng ta là như một linh hồn thực sự là Chân Thần trong các hình thức và phương thức phóng chiếu khác nhau. |
|
So, we have to call upon this monadic radiation in order to project. That’s something that maybe I have not emphasized sufficiently, |
Vì vậy, chúng ta phải kêu gọi sự phát xạ chân thần này để phóng chiếu. Đó là điều mà có lẽ tôi chưa nhấn mạnh đủ, |
|
[call upon the Monadic radiation in order to project. |
[kêu gọi sự phát xạ chân thần để phóng chiếu. |
|
There’s so many things to remember here, and so many things to do simultaneously until it all becomes kind of second nature to us somehow and then it flows smoothly. |
Có rất nhiều điều cần nhớ ở đây, và rất nhiều điều cần làm đồng thời cho đến khi tất cả trở thành bản chất tự nhiên thứ hai đối với chúng ta, và sau đó nó tuôn chảy một cách suôn sẻ. |
|
Shamballa—The jewel in the lotus. |
Shamballa—Viên ngọc trong hoa sen. |
|
Hierarchy—The three groups of petals. |
Huyền Giai—Ba nhóm cánh hoa. |
|
Humanity—The three permanent atoms within the aura of the lotus. |
Nhân loại—Ba nguyên tử trường tồn trong hào quang của hoa sen. |
|
[4] |
|
|
Therefore, before the bridge can be truly built and “projected on the upward way, providing safe travelling for the pilgrim’s weary feet” (as the Old Commentary puts it), the disciple must begin to react in response to the closed lotus bud or jewel at the centre of the opened lotus. This he does when the sacrifice petals of the egoic lotus are assuming control in his life, when his knowledge is being transmuted into wisdom, and his love for the whole is growing; to these is being added the “power to renounce”. These three egoic qualities—when functioning with a measure of potency—produce an increased activity at the very centre of soul life, the heart of the lotus. It should be remembered that the correspondences in the egoic lotus to the three planetary centres are as follows: |
Do đó, trước khi cây cầu có thể thực sự được kiến tạo và “được phóng chiếu trên con đường đi lên, tạo điều kiện an toàn cho đôi chân mệt mỏi của người hành hương” (như Cổ Luận nói), người đệ tử phải bắt đầu phản hồi đáp ứng với nụ hoa sen khép kín hay viên ngọc nơi trung tâm của hoa sen đang nở. Y làm được điều này khi các cánh hoa hy sinh của hoa sen chân ngã đang nắm quyền kiểm soát trong đời sống của y, khi tri thức của y đang được chuyển hoá thành minh triết, và tình thương của y đối với toàn thể đang lớn dần lên; kèm theo đó là “năng lực xả bỏ.” Ba phẩm tính chân ngã này — khi vận hành với một mức độ hiệu lực nhất định — tạo ra một hoạt động gia tăng nơi chính trung tâm của đời sống linh hồn, tức là trái tim của hoa sen. Cần ghi nhớ rằng những điểm tương ứng trong hoa sen chân ngã với ba trung tâm hành tinh như sau: |
|
Shamballa. . . . The jewel in the lotus. |
Shamballa . . . . Viên ngọc trong hoa sen. |
|
Hierarchy . . . . The three groups of petals. |
Thánh đoàn . . . . Ba nhóm cánh hoa. |
|
Humanity . . . .The three permanent atoms within the aura of the lotus. |
Nhân loại . . . . Ba nguyên tử trường tồn trong hào quang của hoa sen. |
|
Therefore before the bridge can be truly built and “projected on the upward way providing safe traveling the pilgrim’s weary feet” |
Do đó trước khi cây cầu có thể thực sự được xây dựng và “phóng chiếu trên con đường đi lên cung cấp sự di chuyển an toàn cho đôi chân mệt mỏi của người hành hương” |
|
Having experienced millions and millions of years in the darkened chamber, and having run around here and there, looking for what we desire, and then looking for the truth, we are weary indeed. This will provide a safe passage, and we will not be side tracked as is so easy to happen when we are pursuing desires or pursuing illusions or glamorous kinds of things. |
Sau khi đã trải qua hàng triệu và hàng triệu năm trong căn phòng tối, đã chạy quanh đây và đó, tìm kiếm những gì chúng ta mong muốn, và sau đó tìm kiếm sự thật, chúng ta thực sự mệt mỏi. Điều này sẽ cung cấp một lối đi an toàn và chúng ta sẽ không bị lạc hướng, điều rất dễ xảy ra khi chúng ta đang theo đuổi những dục vọng hoặc theo đuổi những ảo cảm hoặc những thứ hào nhoáng. |
|
Therefore the bridge can be truly build and “projected on the upward way providing safe travelling for the pilgrim’s weary feet”, (as the Old Commentary puts it), the disciple must begin to react in response to the Egoic Lotus bud or jewel at the center of the opened lotus. |
Do đó, cây cầu có thể thực sự được xây dựng và “phóng chiếu trên con đường đi lên, cung cấp sự di chuyển an toàn cho đôi chân mệt mỏi của người hành hương”, như Cổ Luận đã nói, Đệ tử phải bắt đầu phản ứng đáp lại nụ hoa sen chân ngã hoặc viên ngọc ở trung tâm của hoa sen đã mở |
|
Until we have taken the fourth initiation, the three central petals around the jewel in the Lotus don’t really burst open, revealing the jewel, though there is increasing light from the jewel. So, it depends on what reference you read. It does seem that there is a gradual unfoldment at the very center of the sort of jewel in the Lotus, the three synthesis petals are buddhic in their nature, and there seems to be an atmic connection with the jewel in the Lotus itself, since Monad itself and the atmic plane are very closely related in terms of will. |
Cho đến khi chúng ta trải qua lần điểm đạo thứ tư, ba cánh hoa trung tâm xung quanh viên ngọc trong Hoa Sen chưa thực sự nở tung, để lộ ra viên ngọc, mặc dù ánh sáng từ viên ngọc ngày càng tăng lên. Vì vậy, điều đó còn tuỳ thuộc vào tài liệu tham khảo mà bạn đọc. Có vẻ như có một tiến trình khai mở dần dần ngay tại trung tâm của cái gọi là viên ngọc trong Hoa Sen—ba cánh hoa tổng hợp đó có bản chất bồ đề, và dường như có một mối liên hệ ở tầng atma với chính viên ngọc trong Hoa Sen, vì Chân Thần và cõi atma có mối liên hệ rất mật thiết với nhau về mặt ý chí. |
|
… the disciple must begin to react to the closed Lotus bud |
… đệ tử phải bắt đầu phản ứng đáp lại nụ hoa sen khép kín |
|
For us, it’s going to be relatively closed, and at each initiation a little bit of the synthesis power comes forth, revealing a little bit more light in the temple, in the Egoic Lotus, but there’s not really that bursting open that occurs just before the fourth initiation. |
Đối với chúng ta, nó sẽ tương đối đóng, và ở mỗi lần điểm đạo một chút sức mạnh tổng hợp xuất hiện, tiết lộ một chút ánh sáng hơn trong đền thờ, trong Hoa Sen Chân Ngã nhưng không thực sự có sự nở bung ra xảy ra ngay trước lần điểm đạo thứ tư. |
|
So, we begin to react to, let’s call them, relatively closed lotus petals, to the lotus bud, the bud itself is not fully disclosed. |
Vì vậy, chúng ta bắt đầu phản ứng với các cánh hoa sen tương đối đóng, với nụ hoa sen, bản thân nụ hoa chưa hoàn toàn được tiết lộ. |
|
This he does when the sacrifice petals of the egoic lotus are assuming control in his life, |
Y thực hiện điều này khi các cánh hoa hy sinh của hoa sen chân ngã đang nắm quyền kiểm soát trong cuộc sống của y, |
|
Now, these petals are completely opened at the third initiation |
Những cánh hoa này hoàn toàn mở ra ở lần điểm đạo thứ ba |
|
… when his knowledge is being transmuted into wisdom, |
… khi tri thức của y đang được chuyển hóa thành minh triết |
|
and thus the knowledge petals are beginning to disintegrate |
Do đó các cánh hoa tri thức bắt đầu tan rã |
|
… and his love for the whole is growing |
… và tình thương của y đối với toàn thể đang phát triển |
|
And the love for the whole is a gift of the third initiation, |
Và tình thương đối với toàn thể là món quà của lần điểm đạo thứ ba, |
|
… to these is being added the “power to renounce”, |
Thêm vào đó là “quyền năng từ bỏ”, |
|
That the first ray power related to the fourth degree. |
Đó là sức mạnh của cung một liên quan đến cấp độ thứ tư. |
|
So, the sacrifice petals are assuming controlled in the life, and for any initiate of the second degree or third degree, that must be really the case, and the first degree initiate is learning so to do. |
Vì vậy, các cánh hoa hy sinh đang nắm quyền kiểm soát trong cuộc sống, và với bất kỳ điểm đạo đồ của cấp độ thứ hai hoặc cấp độ thứ ba, điều đó phải thực sự xảy ra, và điểm đạo đồ cấp độ thứ nhất đang học cách làm điều đó. |
|
These three egoic qualities when functioning with a measure of potency producing increased activity at the very center of soul life, the heart of the Lotus |
Ba phẩm chất chân ngã này khi hoạt động với một mức độ sức mạnh tạo ra một hoạt động gia tăng tại trung tâm của đời sống linh hồn, trái tim của Hoa Sen |
|
So let’s see what are those capacities with three potencies? Well, there’s |
Vì vậy, hãy xem những khả năng đó là gì với ba sức mạnh? Có |
|
… the power to renounce. |
… quyền năng từ bỏ. |
|
That’s one of them; and then the |
Đó là một trong số chúng; và sau đó là |
|
… love of the whole |
… tình thương đối với toàn thể |
|
Is growing, and that’s another one; and knowledge and wisdom, let’s call it |
Đang phát triển, và đó là một trong những điều khác; và tri thức và minh triết. Chúng ta hãy gọi nó là |
|
… wisdom |
… minh triết |
|
Because knowledge come on has been transmuted into wisdom. So wisdom, love of the whole, the power to renounce are all growing and we can assume that at the third degree they have assumed relative strength and importance. |
Bởi vì tri thức đã được chuyển hoá thành minh triết. Do đó, minh triết, tình thương đối với toàn thể, và quyền năng từ bỏ đều đang phát triển, và chúng ta có thể cho rằng ở lần điểm đạo thứ ba, chúng đã đạt được sức mạnh và tầm quan trọng tương đối. |
|
… these three egoic qualities, |
… ba phẩm chất chân ngã này, |
|
And let’s just say, as above, |
liệt kê ở trên, |
|
… when functioning with a measure of potency produce an increase activity at the very center of soul life |
… khi hoạt động với một mức độ sức mạnh tạo ra một hoạt động gia tăng tại trung tâm của đời sống linh hồn |
|
Well, at each initiation there is a little bit of unfoldment of the synthesis petals, the knowledge synthesis petal at the first degree, the love synthesis petal at the second, and the wisdom or love with some sacrifice emphasis petal at the third degree, but not anything completely like a bursting open of these three petals revealing the jewel in the Lotus. There is just increasing on in increasing unfoldment, but the jewel in the Lotus, for all practical purposes, in terms of what it really is the still concealed. |
Ở mỗi lần điểm đạo, có một chút mở rộng của các cánh hoa tổng hợp—cánh hoa tổng hợp tri thức ở cấp độ thứ nhất, cánh hoa tổng hợp tình thương ở cấp độ thứ hai, và cánh hoa tổng hợp minh triết hoặc tình thương với một chút nhấn mạnh hy sinh ở cấp độ thứ ba, nhưng không có gì hoàn toàn giống như một sự nở bung của ba cánh hoa tiết lộ viên ngọc trong Hoa Sen. Chỉ có sự mở rộng ngày càng tăng, nhưng viên ngọc trong Hoa Sen, trong tất cả các mục đích thực tế, nó thực sự là gì vẫn còn bị che giấu. |
|
It should be remembered that the correspondences in the Egoic Lotus to the three planetary centers is as follows |
Cần nhớ rằng các sự tương ứng trong Hoa Sen Chân Ngã với ba trung tâm hành tinh là như sau |
|
Let’s look at that |
Chúng ta hãy nhìn vào điều này |
|
– Shamballa—The jewel in the lotus. |
Shamballa—Viên ngọc trong hoa sen. |
|
– Hierarchy—The three groups of petals. |
Huyền Giai—Ba nhóm cánh hoa. |
|
– Humanity—The three permanent atoms within the aura of the lotus. |
Nhân loại—Ba nguyên tử trường tồn trong hào quang của hoa sen. |
|
Or let’s call it, the three members of the atomic triangle, two of which are atomic atoms. |
Hoặc chúng ta hãy gọi đó là ba thành viên của tam giác nguyên tử, hai trong số đó là các nguyên tử. |
|
So, all of the petals, I guess, relate to Hierarchy, and I suppose it’s the three synthesis petals that relate pretty much to whatever the correspondence in the hierarchy is, to the spiritual triad, and then Shambala, the jewel in the Lotus. |
Tôi cho là tất cả các cánh hoa đều liên hệ với Thánh Đoàn, và tôi cho rằng chính ba cánh hoa tổng hợp liên hệ rất rõ với bất kỳ sự tương ứng nào trong Thánh Đoàn với Tam nguyên tinh thần. Sau đó là Shamballa—tức viên ngọc trong Hoa Sen. |
|
So, all of these connections are very important to retain in the consciousness. The analogies hold good and are illuminative. Three powers of the soul, three egoic potencies, knowledge into wisdom, love for the whole, power to renounce, and they are related respectively to the three tiers of petals out of the nine, but not so much the synthesis petals. Maybe them synthesis petals somehow gather to them a greater wisdom, a greater love, and a greater power to renounce, but first, each tier of three out of the nine petals, not the twelve. |
Tất cả những mối liên kết này rất quan trọng để ghi nhớ trong tâm thức. Các sự tương đồng là chính xác và có tính soi sáng. Ba quyền năng của linh hồn—ba mãnh lực của chân ngã—bao gồm: tri thức đã trở thành minh triết, tình thương dành cho toàn thể, và năng lực từ bỏ, chúng tương ứng lần lượt với ba tầng cánh hoa trong chín cánh hoa (không tính đến các cánh tổng hợp), chứ không phải mười hai. Có thể các cánh hoa tổng hợp bằng cách nào đó tiếp nhận cho chúng một minh triết lớn hơn, một tình thương lớn hơn, và một năng lực từ bỏ lớn hơn. Nhưng trước hết, mỗi tầng ba cánh trong chín cánh hoa đó—không phải mười hai—là nơi ba mãnh lực chân ngã ấy bắt đầu phát triển. |
|
When do the sacrifice petals really assume control in our life? Before we can project, we’ve got to be responding to the power of the jewel in the Lotus, and these three egoic potencies have to begin growing. |
Khi nào thì các cánh hoa hy sinh thực sự nắm quyền điều khiển trong đời sống chúng ta? Trước khi chúng ta có thể thực hiện sự phóng chiếu, chúng ta phải đáp ứng với quyền năng của viên ngọc trong Hoa Sen, và ba mãnh lực chân ngã này phải bắt đầu tăng trưởng. |
|
So when we try a projection, to what degree do we have the wisdom? Is the love of the whole really growing? Is the power to renounce really there? Then we will be successful |
Vì vậy, khi chúng ta cố gắng thực hiện một sự phóng chiếu, câu hỏi đặt ra là: chúng ta có mức độ minh triết đến đâu? Tình thương đối với toàn thể thực sự đang lớn lên hay không? Năng lực từ bỏ có thực sự hiện diện hay không? Khi đó, chúng ta mới có thể thành công. |
|
Students should also bear in mind that they need to rid themselves of the usual idea of sacrifice as a process of giving-up, or renunciation of all that makes life worth living. Sacrifice is, technically speaking, the achievement of a state of bliss and of ecstasy because it is the realisation of another divine aspect, hidden hitherto by both the soul and the personality. It is understanding and recognition of the will-to-good which made creation possible and inevitable, and which was the true cause of manifestation. Ponder on this, for it is very different in its significance to the usual concepts anent sacrifice. |
Các học viên cũng cần ghi nhớ rằng họ cần loại bỏ ý niệm thông thường về hy sinh như là một tiến trình từ bỏ, hay buông bỏ tất cả những gì khiến đời sống trở nên đáng sống. Hy sinh, nói một cách kỹ thuật, là sự thành tựu một trạng thái phúc lạc và ngây ngất vì đó là sự nhận biết một khía cạnh thiêng liêng khác, vốn bị che khuất từ trước đến nay bởi cả linh hồn lẫn phàm ngã. Đó là sự thấu hiểu và công nhận Ý Chí – Hướng Thiện vốn đã làm cho sự sáng tạo trở nên khả hữu và tất yếu, và là nguyên nhân thật sự của sự biểu lộ. Hãy suy ngẫm điều này, vì ý nghĩa của nó rất khác với những khái niệm thông thường về hy sinh. |
|
Students should also bear in mind that they need to rid themselves of the usual idea of sacrifice as the process of giving up, or renunciation of all that makes life worthwhile. |
Các học viên cũng nên ghi nhớ rằng họ cần loại bỏ ý tưởng thông thường về sự hy sinh như một quá trình từ bỏ, hoặc từ bỏ tất cả những gì làm cho cuộc sống đáng sống. |
|
And that is a persistent misapprehension, and that is why when you start to discuss sacrifice with people, and they really have an aversion to it, because they think of it in terms of loss rather than gain. But as I’ve often said, and as master Morya has written, when have you ever become less through sacrifice? |
Đó là một sự hiểu lầm dai dẳng, và đó là lý do tại sao khi bạn bắt đầu thảo luận về sự hy sinh với mọi người , họ thực sự có một sự ác cảm với nó, vì họ nghĩ về nó theo nghĩa mất mát hơn là đạt được. Nhưng như tôi đã thường nói, và như chân sư Morya đã viết, có khi nào bạn đã từng trở nên ít hơn thông qua sự hy sinh? |
|
Sacrifice is, technically speaking, the achievement of a state of bliss and of ecstasy because it is the realization of another divine aspect hidden hitherto by both the soul and personality |
Hy sinh, về mặt kỹ thuật, là sự đạt được trạng thái hạnh phúc và ngây ngất vì đó là sự nhận thức về một khía cạnh thiêng liêng khác, vốn bị che giấu trước đây bởi cả linh hồn và phàm ngã |
|
This is fantastic! |
Điều này thật tuyệt vời! |
|
The sacrifice is technically the achievement of a state of bliss |
Sự hy sinh là về mặt kỹ thuật là sự đạt được trạng thái hạnh phúc |
|
How it goes? Happiness, joy and bliss—bliss of the Spirit, and it really must be pointed out, although I’m sure that people like ourselves are not yet there in the bliss, maybe we have fleeting moments. |
Nó diễn tiến như thế nào? Hạnh phúc, niềm vui, và phúc lạc—phúc lạc của Tinh thần, và điều này thật sự cần được nhấn mạnh, mặc dù tôi chắc rằng những người như chúng ta thì vẫn chưa thật sự đạt đến trạng thái phúc lạc đó—có lẽ chúng ta chỉ có những khoảnh khắc thoáng qua. |
|
It is understanding and recognition of the will-to-good which made creation possible and inevitable, and which was the true cause of manifestation. |
Đó là sự hiểu biết và nhận thức về ý chí-hướngthiện đã làm cho sự sáng tạo trở nên khả thi và không thể tránh khỏi, và đó là nguyên nhân thực sự của sự biểu hiện. |
|
So, somehow we enter into realization of a great Will-to-Good of the Planetary Logos. The Will-to-Good, if we could only understand that, and somehow we begin to understand that, that we enter into sacrifice, and we understand something of the great Will-to-Good, and how our own sacrifices will promote the expression of that Will-to-Good of the Planetary Logos. |
Như thế, bằng cách nào đó, chúng ta đi vào sự nhận thức về một Ý Chí-hướng Thiện vĩ đại của Hành Tinh Thượng đế. Ý Chí-hướng Thiện—giá như chúng ta có thể thấu hiểu điều đó—và bằng cách nào đó, chúng ta bắt đầu thấu hiểu rằng chúng ta đang bước vào sự hy sinh, và chúng ta hiểu được phần nào về Ý Chí-hướng Thiện vĩ đại ấy, cũng như cách mà chính những hy sinh của chúng ta sẽ thúc đẩy sự biểu lộ của Ý Chí-hướng Thiện từ Hành Tinh Thượng đế. |
|
Ponder on this, for it is very different in its significance to the usual concepts anent sacrifice |
Suy ngẫm về điều này, vì nó rất khác biệt về ý nghĩa so với các khái niệm thông thường về sự hy sinh |
|
It’s hard to get rid of the old sense of grief and despair and loss and diminishment and all that kind of thing. It’s so ingrained, and a certain interpretation of Christianity has given us this ingraining of the false understanding of sacrifice. But if we ponder it, He says lives change because of the pondering. When you deeply contemplate certain things like love, we learn how to love. So, deep contemplation on certain qualities actually brings them into expression as a faculty for the human being who is thus contemplating. I just feel obliged to just look at this and just ponder it. |
Thật khó để gạt bỏ cảm giác cũ về đau buồn, tuyệt vọng, mất mát và suy giảm cùng tất cả những điều tương tự như thế. Nó đã ăn sâu bén rễ, và một cách lý giải nhất định của Thiên Chúa giáo đã khiến chúng ta bị khắc sâu sự hiểu sai về hy sinh. Nhưng nếu chúng ta chiêm ngẫm về điều đó—như Ngài nói—cuộc sống sẽ thay đổi nhờ vào sự chiêm ngẫm ấy. Khi bạn chiêm ngưỡng sâu sắc một số điều nhất định như tình thương, chúng ta sẽ học được cách yêu thương. Vì vậy, sự chiêm ngẫm sâu sắc về một số phẩm tính nào đó thật sự khiến những phẩm tính ấy được biểu lộ như một năng lực trong con người đang chiêm ngẫm. Tôi cảm thấy có bổn phận phải nhìn vào điều này và chiêm ngẫm nó. |
|
Sacrifice is, technically speaking, the achievement of a state of bliss and of ecstasy |
Hy sinh, về mặt kỹ thuật, là sự đạt được trạng thái hạnh phúc và ngây ngất |
|
Just imagine realising the Will-to-Good of the great Planetary Logos or beyond, and then going into a state of ecstasy, standing by apart from your usual limitations of self, because |
Hãy tưởng tượng nhận ra Ý Chí-Hướng-Thiện của Hành Tinh Thượng đế vĩ đại, hoặc Đấng cao hơn, và sau đó đi vào trạng thái ngây ngất, đứng bên ngoài khỏi những giới hạn thông thường của bản thân bạn vì |
|
… it is the realization |
… đó là sự nhận thức |
|
Of what yet, |
Về điều gì nữa, |
|
… another divine aspect hitherto hidden by both the soul and the personality |
… một khía cạnh thiêng liêng khác vốn bị che giấu trước đây bởi cả linh hồn và phàm ngã |
|
So, even though the sacrifice petals are of the soul, when sacrifice becomes increasingly an aspect of our life, we realize that the soul has been hiding the full measure of sacrifice, which has been delivered or expressed by the planetary Logos. |
Vì vậy, dù các cánh hoa hy sinh thuộc về linh hồn, khi sự hy sinh ngày càng trở thành một phương diện trong đời sống chúng ta, chúng ta nhận ra rằng linh hồn đã che giấu mức độ hy sinh trọn vẹn—mức độ ấy vốn đã được trao truyền hay biểu lộ bởi Hành Tinh Thượng đế. |
|
And of course, just think of the solar logoic sacrifice and all the way on, Cosmic Logoi and greater Logoi, all have deeper and deeper modes of sacrifice. Without sacrifice, without this will to good, there is no creation possible. But when the will to good is streaming forth, creation is not only possible, but inevitable, and the will to good made creation possible. It is really the true cause of manifestation. |
Và dĩ nhiên, chỉ cần nghĩ đến sự hy sinh của Thái dương Thượng đế—rồi tiếp tục lên cao—các Thượng đế Vũ Trụ và những Thượng đế vĩ đại hơn nữa, tất cả đều có những cấp độ hy sinh ngày càng sâu sắc hơn. Không có hy sinh, không có Ý Chí-hướng Thiện này, thì không thể có sáng tạo nào xảy ra. Nhưng khi Ý Chí-hướng Thiện tuôn chảy ra, thì sự sáng tạo không chỉ là điều khả dĩ, mà còn là điều tất yếu. Chính Ý Chí-hướng Thiện làm cho sự sáng tạo khả thi. Nó thật sự là nguyên nhân chân chính của sự biểu lộ. |
|
Well, we have so much yet to understand. |
Vâng, chúng ta vẫn còn quá nhiều điều cần phải thấu hiểu. |
|
[6] |
|
|
When the disciple has gained the fruit of experience which is knowledge and is learning to transmute it into wisdom, when his objective is to live truly and in reality, and when the will-to-good is the crowning goal of his daily life, then he can begin to evoke the Will. This will make the link between the lower and the higher minds, between spirit and matter and between Monad and personality a definite and existent fact. Duality then supervenes upon [493] triplicity, and the potency of the central nucleus in the egoic vehicle destroys—at the fourth initiation—the three surrounding expressions. They disappear, and then the so-called destruction of the causal body has taken place. This is the true “second death”—death to form altogether. |
Khi người đệ tử đã thu hoạch được thành quả của kinh nghiệm, tức là tri thức, và đang học cách chuyển hoá nó thành minh triết, khi mục tiêu của y là sống một cách chân thực và thực tế, và khi Ý Chí – Hướng Thiện là mục tiêu tối thượng trong đời sống hàng ngày của y, thì y có thể bắt đầu triệu gọi Ý Chí. Điều này sẽ tạo ra mối liên kết giữa hạ trí và thượng trí, giữa tinh thần và vật chất, và giữa Chân thần và phàm ngã trở thành một sự thật cụ thể và hiện hữu. Khi đó nhị nguyên thay thế [493] tam phân, và năng lực của hạt nhân trung tâm trong thể chân ngã tiêu huỷ — tại lần điểm đạo thứ tư — ba biểu hiện bao quanh. Chúng biến mất, và khi đó cái gọi là sự tiêu hủy của thể nguyên nhân đã xảy ra. Đây chính là “cái chết thứ hai” thực sự — sự chết đối với hình tướng trên mọi phương diện. |
|
When the disciple has gained the fruit of experience which is knowledge and is learning to transmute it into wisdom |
Khi đệ tử đã thu hoạch được trái ngọt của kinh nghiệm là tri thức và đang học cách chuyển hóa nó thành minh triết |
|
We might say, |
Chúng ta có thể nói, |
|
[knowledge which is always so and has deep significance…] |
[Tri thức vốn luôn như vậy, và có thâm nghĩa sâu sắc. |
|
I’m using that word in the occult sense, because the world of significance is entered in the Triad |
Tôi đang sử dụng từ thâm nghĩa theo nghĩa huyền bí, vì thế giới của thâm nghĩa được bước vào trong Tam Nguyên |
|
… when his objective is to live truly In the divine mind and in reality |
… khi mục tiêu của y là sống thực sự trong tâm trí thiêng liêng và trong thực tại |
|
This is Realization upon the Atmic plane, |
Đây là sự chứng nghiệm trên cõi Atma, |
|
… and when the will-to-good is the crowning goal of his daily life, then he can begin to evoke the Will, |
… và khi ý chí-hướng-thiện là mục tiêu tối cao của cuộc sống hàng ngày của y, thì y có thể bắt đầu khơi dậy Ý Chí, |
|
What can we say here? Such requirements are what we have to have, before we can evoke Will, not just invoke it, but evoke it, which means that it does respond. |
Chúng ta có thể nói gì ở đây? Những đòi hỏi như thế là điều chúng ta phải có trước khi có thể gợi lên Ý Chí, không chỉ cầu khẩn nó mà còn gợi lên nó, điều này có nghĩa là nó thật sự đáp ứng. |
|
So that are the requirements before we can evoke the will |
Vì vậy, đó là những yêu cầu trước khi chúng ta có thể khơi dậy ý chí |
|
Then he can evoke the will |
Sau đó, y có thể khơi dậy ý chí |
|
So, let’s look at that and not minimize what it takes to evoke the will. |
Vì vậy, chúng ta hãy xem xét điều đó và đừng xem nhẹ những gì cần thiết để gợi lên Ý Chí. |
|
When the disciple has gained the fruit of experience which is knowledge |
Khi đệ tử đã thu hoạch được trái ngọt của kinh nghiệm là tri thức |
|
A very experienced disciple in terms of the reincarnation process |
Một đệ tử rất có kinh nghiệm xét về mặt quá trình tái sinh |
|
… and is learning to transmute it into wisdom, when his objective is to live truly and in reality, and when the will-to-good is the crowning goal of his daily lives, then he can begin to evoke the will |
… và đang học cách chuyển hóa nó thành minh triết, khi mục tiêu của y là sống thực sự và trong thực tế, và khi ý chí-hướng-thiện là mục tiêu tối cao của cuộc sống hàng ngày của y, thì y có thể bắt đầu khơi dậy ý chí |
|
That gives me pause. So I ask myself, am I transmuting knowledge into wisdom? Everyone can ask himself. See that knowledge is so specific to certain circumstances, but wisdom is generalized and always so in all circumstances. |
Điều này khiến tôi phải dừng lại suy nghĩ. Vì vậy, tôi tự hỏi mình: liệu tôi có đang chuyển hoá tri thức thành minh triết không? Mỗi người đều có thể tự hỏi mình như vậy. Hãy thấy rằng tri thức thì rất đặc thù với những hoàn cảnh nhất định, trong khi minh triết thì mang tính tổng quát và luôn đúng trong mọi hoàn cảnh. |
|
And when his objective is to live truly and in reality |
Và khi mục tiêu của y là sống thực sự và trong thực tại |
|
Really within the spiritual Triad just the way the members of the Hierarchy do |
Thực sự trong Tam Nguyên tinh thần, giống như cách mà các thành viên của Thánh đoàn làm |
|
… and when the will-to-good is the crowning |
… và khi ý chí-hướng-thiện là mục tiêu tối cao |
|
That tells us something about Mastership |
Điều đó cho chúng ta biết điều gì đó về các Chân sư |
|
… the crowning goal of his daily life then he can begin to evoke the will |
… mục tiêu tối cao của cuộc sống hàng ngày của y thì y có thể bắt đầu khơi dậy ý chí |
|
Crowning means mastership. |
Tối cao có nghĩa là địa vị Chân sư. |
|
This will make the link between the lower and the higher minds, between spirit and matter, and between monad and personality, a definite and existent fact |
Điều này sẽ tạo ra liên kết giữa hạ trí và thượng trí, giữa tinh thần và vật chất, và giữa Chân Thần và phàm ngã một cách rõ ràng và hiện hữu |
|
But let us not imagine that creating the antahkarana is somehow a mechanical or simply pedestrian activity. It really has these foundational requirements of a very impressive nature |
Nhưng chúng ta đừng tưởng tượng rằng việc tạo ra antahkarana là một hoạt động cơ học hoặc đơn giản là một hoạt động đi bộ. Nó thực sự có những yêu cầu nền tảng của một bản chất rất ấn tượng |
|
This will make the link between the higher lower Minds |
Điều này sẽ tạo ra liên kết giữa thượng trí và hạ trí |
|
That’s the first stage of the antahkarana, we might say, that’s between the lower mind, the mental unit, here on the fourth sub-plane, and the manasic permanent atom, higher mind, abstract mind, first sub-plane. So, that’s the link that’s needed there. |
Đó là giai đoạn đầu tiên của antahkarana, chúng ta có thể nói như vậy, nằm giữa hạ trí, đơn vị hạ trí ở cõi phụ thứ tư, và nguyên tử thường tồn manas, tức thượng trí, trí trừu tượng, ở cõi phụ thứ nhất. Vì vậy, đó chính là mối liên kết cần thiết ở nơi đó. |
|
… the link between the higher and lower minds, between spirit and matter |
… mối liên kết giữa thượng trí và hạ trí, giữa tinh thần và vật chất |
|
Matter is anything on the lower 21 subplanes in a way, and spirit is the Monad itself, and the very center central part of the Monad which is Pure Being and which is liberated to an extent after the sixth initiation, and into the seventh when this alchemical volatile essence rises onto the Logoic plane |
Vật chất, theo một cách hiểu, là bất kỳ điều gì nằm trong 21 cõi phụ thấp; còn tinh thần là chính Chân Thần, và phần trung tâm cốt lõi của Chân Thần, tức là Bản Thể Thuần Khiết, phần được giải phóng ở một mức độ nào đó sau lần điểm đạo thứ sáu, và tiến vào lần điểm đạo thứ bảy khi bản chất linh diệu dễ bay hơi trong tiến trình luyện kim này thăng lên cõi Thượng Đế. |
|
… and between monads and personality, definitely an existing fact |
… và giữa các Chân Thần và phàm ngã, đây chắc chắn là một thực tại hiện hữu |
|
Right now for us, it’s theory, and theory is good, but we have to turn it into reality |
Hiện nay đối với chúng ta, điều đó chỉ là lý thuyết, và lý thuyết thì tốt, nhưng chúng ta phải biến nó thành hiện thực |
|
Duality then supervenes upon [Page 493] triplicity, |
Nhị nguyên sau đó thay thế tam phân, |
|
This suggests the Technique of Duality which he talks about following the Techniques of Fusion |
Điều này gợi đến Kỹ Thuật Nhị Nguyên mà Ngài bàn đến sau các Kỹ Thuật Dung Hợp |
|
… and the potency of the central nucleus in the Egoic Lotus destroys |
… và quyền năng của nhân trung ương trong Hoa Sen Chân Ngã phá hủy |
|
At the first initiation |
Tại lần điểm đạo thứ nhất |
|
… the three surrounding expressions |
… ba biểu lộ bao quanh |
|
Let’s remember that the Monad is also involved in order to give the central nucleus the POWER it needs to destroy the surrounding expressions. |
Chúng ta hãy nhớ rằng Chân Thần cũng tham dự vào để ban cho nhân trung ương quyền năng cần thiết nhằm phá huỷ các biểu lộ bao quanh. |
|
They disappear, the surrounding expressions disappear, not the Monadic vehicle yet, but the causal body does, the petals do, the permanent atoms, the members of the atomic triangle do. They all disappear and |
Chúng biến mất, các biểu lộ bao quanh biến mất, không phải là hiện thể Chân Thần, nhưng thể nguyên nhân biến mất, các cánh hoa, các nguyên tử thường tồn, các thành phần của tam giác nguyên tử, tất cả chúng đều biến mất và… |
|
… then the so-called destruction of the causal body has taken place |
… sau đó cái gọi là sự phá hủy của thể nhân quả đã diễn ra |
|
So-called, DK hints with something else, because, in a way, the entirety of the causal body may be disintegrated, but it’s not yet dissipated, and still between the fourth and fifth degree that kind of individual supernova has to be cleared. |
Cái gọi là…, Chân sư DK ám chỉ điều gì đó khác, bởi vì theo một cách hiểu, toàn bộ thể nguyên nhân có thể bị phân rã, nhưng nó vẫn chưa bị làm tiêu tan, và giữa lần điểm đạo thứ tư và thứ năm, vẫn còn kiểu “siêu tân tinh” cá nhân vốn vẫn cần được thanh lọc. |
|
So, we have the complete radiance of the revelation of a higher life. I think, as long as the remnants of the causal body are hanging within the field of consciousness, we do not have the vision of the way that lies ahead. |
Vì vậy, chúng ta có được sự chói rạng hoàn toàn của sự mặc khải một sự sống cao cả hơn. Tôi cho rằng, chừng nào các tàn dư của thể nguyên nhân còn vương lại trong trường tâm thức, thì chúng ta chưa thể có được thị kiến về con đường phía trước. |
|
So, this word so-called is important because there’s still debris of the previous constituents of the causal body. |
Vì vậy, từ “cái gọi là” rất quan trọng, vì vẫn còn đó những mảnh vụn của các thành phần trước đây của thể nhân quả. |
|
… This is the true second death, death to form altogether |
… Đây là cái chết thứ hai thực sự, cái chết đối với hình tướng hoàn toàn |
|
What he’s telling us here is we have to wait until the fourth initiation for the second death to occur. Each initiation is a little death, obviously, but here we are being liberated together from the confines of even the regenerated personality, which has become the Dweller on the Threshold in a high form, and the sheath of the spiritual triad, the sheath of the soul. A beautiful temple of Solomon, but needing destruction in order to pave the way for our entry to the temple of Ezekiel, which is the monad at the sixth initiation. |
Điều Ngài đang nói với chúng ta ở đây là: chúng ta phải chờ đến lần điểm đạo thứ tư thì cái chết thứ hai mới xảy ra. Mỗi lần điểm đạo rõ ràng là một cái chết nhỏ, nhưng ở đây, chúng ta đang được giải phóng cùng nhau khỏi những giới hạn của ngay cả phàm ngã đã được tái sinh, vốn đã trở thành Kẻ Chận Ngõ ở một dạng cao cấp, và khỏi lớp vỏ của Tam nguyên tinh thần, lớp vỏ của linh hồn. Một ngôi đền tuyệt đẹp của Solomon, nhưng cần phải được phá huỷ để mở đường cho việc chúng ta bước vào ngôi đền của Ezekiel — tức là Chân Thần tại lần điểm đạo thứ sáu. |
|
[7] |
|
|
This is practically all that I can tell you anent the process of projection. It is a living process, growing out of the conscious daily experience and dependent upon the expression of the divine aspects in the life upon the physical plane, as far as is possible. Where there is an attempt to approximate the personality life to the demands of the soul and to use the intellect on behalf of humanity, love is beginning to control; and then the significance of the “divine sacrifice” is increasingly understood and becomes a natural, spontaneous expression of individual intention. Then it becomes possible to project the bridge. The vibration is then set up on lower levels of divine manifestation and becomes strong enough to produce response from the higher. Then, when the Word of Power is known and rightly used, the bridge is rapidly built. |
Đó gần như là tất cả những gì tôi có thể nói với các bạn về tiến trình phóng chiếu. Đây là một tiến trình sống động, phát sinh từ kinh nghiệm hữu thức hàng ngày và tùy thuộc vào mức độ biểu hiện của các khía cạnh thiêng liêng trong đời sống trên cõi trần, trong phạm vi có thể. Khi có một nỗ lực để đưa đời sống phàm ngã tiệm cận với các yêu cầu của linh hồn và sử dụng trí tuệ vì lợi ích nhân loại, thì tình thương bắt đầu kiểm soát; và khi đó ý nghĩa của “sự hy sinh thiêng liêng” được thấu hiểu ngày càng sâu sắc và trở thành một biểu hiện tự nhiên, tự phát của ý định cá nhân. Khi ấy việc phóng chiếu cây cầu trở nên khả thi. Rung động khi ấy được thiết lập trên các cấp độ thấp hơn của sự biểu lộ thiêng liêng và trở nên đủ mạnh để tạo ra sự đáp ứng từ cấp cao hơn. Rồi, khi Linh từ Quyền năng được biết đến và được sử dụng đúng cách, cây cầu sẽ được kiến tạo một cách nhanh chóng. |
|
Students need feel in no way discouraged by this picture. Much can happen on the inner planes where there is right intention, as well as occult intention (purpose and tension combined), and the bridge reaches stages of definite outline and structure long before the disciple is aware of it. |
Các học viên không cần cảm thấy nản lòng bởi bức tranh này. Nhiều điều có thể xảy ra trên các cõi nội giới khi có ý định đúng đắn, cũng như có ý định huyền môn (kết hợp giữa mục đích và điểm nhất tâm), và cây cầu sẽ đạt đến những giai đoạn có hình dạng và cấu trúc rõ rệt từ rất lâu trước khi người đệ tử nhận thức được điều đó. |
|
This is practically all that I can tell you anent the process of projection |
Đây là hầu hết những gì tôi có thể nói với bạn về quá trình phóng chiếu |
|
We’re going to have to think deeply if we want to go further. |
Chúng ta sẽ phải suy nghĩ sâu sắc nếu chúng ta muốn đi xa hơn. |
|
It is a living process growing out of a conscious daily experience and dependent upon the expression of the divine aspects in the life upon the physical plane as far as is possible |
Đó là một quá trình sống động phát triển từ kinh nghiệm có ý thức hàng ngày và phụ thuộc vào sự biểu hiện của các khía cạnh thiêng liêng trong cuộc sống trên cõi hồng trần trong phạm vi có thể |
|
Because not only are we drawing on energies from below, but also on the powers of the of the soul and of the Monad within the “Jewel in the Lotus”. |
Bởi vì không chỉ chúng ta đang thu hút các năng lượng từ bên dưới, mà còn từ các quyền năng của linh hồn và của Chân Thần bên trong “Viên Ngọc trong Hoa Sen”. |
|
So, a living process not just a mechanical process, and it’s becoming more organic and more spontaneous all the time because of our conscious daily experience with higher aspects of divinity, and with receiving through evocation the influences of those higher aspects of Divinity |
Vì vậy, đây là một tiến trình sống động chứ không phải cơ học, và nó ngày càng trở nên hữu cơ hơn, tự phát hơn, nhờ vào trải nghiệm có ý thức hằng ngày của chúng ta với các phương diện cao hơn của Thiêng Liêng, và nhờ việc tiếp nhận qua sự gợi lên các ảnh hưởng từ những phương diện cao hơn ấy của Thiêng Liêng. |
|
Where there is an attempt to approximate the personality life to the demands of the soul and to use the intellect on behalf of humanity, love is beginning to control; and then the significance of the “divine sacrifice” is increasingly understood and becomes a natural, spontaneous expression of individual intention |
Khi có một nỗ lực để tiếp cận cuộc sống phàm ngã với các yêu cầu của linh hồn và sử dụng trí tuệ vì lợi ích của nhân loại, tình thương bắt đầu kiểm soát; và sau đó ý nghĩa của “sự hy sinh thiêng liêng” ngày càng được hiểu và trở thành một biểu hiện tự nhiên, tự phát của ý định cá nhân |
|
And what it seems to me, that if there is no sacrifice, there is not going to be any projection and not any response. |
Và theo tôi cảm nhận, nếu không có sự hy sinh, sẽ không có sự phóng chiếu nào, và cũng sẽ không có sự đáp ứng nào cả. |
|
So, what were those three things? Knowledge Into Wisdom, and Love For The Whole, and Power To Renounce. |
Vậy ba điều đó là gì? Chuyển hoá Tri Thức thành Minh Triết, Tình Thương đối với Toàn Thể, và Quyền Năng để Từ Bỏ. |
|
…then it becomes possible to project the bridge |
… rồi khi ấy, việc phóng chiếu cây cầu mới trở nên khả thi. |
|
It is sacrifice which finally makes this possible. We might say that that sacrifice makes possible evocation of the higher potencies, and sacrifice is that awareness of the Will-to-Good. |
Chính sự hy sinh là yếu tố sau cùng làm cho điều này trở nên khả thi. Chúng ta có thể nói rằng, chính sự hy sinh làm cho việc gợi lên các quyền năng cao cả hơn trở nên khả dĩ, và sự hy sinh chính là sự nhận biết về Ý Chí-hướng Thiện. |
|
You know, beyond our own personal will there is something which is amazingly potent in which we have to call upon. It’s the great Will of our Planetary Logos that ought to be enough, even the will of the Christ and the Hierarchy, the will of Shambala that ought to be enough. But finally, it is the will of The Planetary Logos, this great Will-to-Good, an aspect of the Will-to-Good of the Solar Logos, and on and on, which we have to become aware of as it sweeps the higher energies into expression, so that the Divine Plan representing the Divine Purpose can be manifested. |
Các bạn biết, vượt khỏi ý chí cá nhân của chính mình, có một điều gì đó cực kỳ hùng mạnh mà chúng ta phải kêu gọi đến. Đó là đại Ý Chí của Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta — điều đó lẽ ra đã là đủ rồi — ngay cả ý chí của Đức Christ và Thánh Đoàn, ý chí của Shamballa — lẽ ra đã là đủ. Nhưng sau cùng, chính là ý chí của Hành Tinh Thượng Đế, đại Ý Chí-hướng Thiện này, một phương diện của Ý Chí-hướng Thiện nơi Thái dương Thượng đế, và cứ thế tiếp nối, mà chúng ta phải nhận biết, vì chính nó quét qua và đưa các năng lượng cao cả vào biểu lộ, để Thiên Cơ — vốn đại diện cho Thiên Ý — có thể được biểu hiện. |
|
The vibration is then set up on lower levels of divine manifestation and becomes strong enough to produce response from the higher. |
Rung động khi ấy được thiết lập trên các cấp độ thấp hơn của sự biểu lộ thiêng liêng và trở nên đủ mạnh để tạo ra sự đáp ứng từ cấp cao hơn. |
|
So, we must be working at a very high point of tension to really evoke response to the higher energies |
Vì vậy, chúng ta phải làm việc tại một điểm tập trung nhất tâm rất cao để thật sự gợi lên được sự đáp ứng từ các năng lượng cao cả. |
|
Then, when the Word of Power is known and rightly used, the bridge is rapidly built. |
Rồi, khi Linh Từ được biết đến và được sử dụng đúng cách, cây cầu được kiến tạo một cách nhanh chóng. |
|
And we escape from the confines of the so called “darkened chamber”, and that’s usually the personality, but from one perspective, it’s also the soul body. |
Và chúng ta thoát khỏi giới hạn của cái gọi là “gian phòng tăm tối,” và điều đó thường là phàm ngã, nhưng từ một góc nhìn khác, đó cũng là thể linh hồn. |
|
Students need feel in no way discouraged by this picture |
Các đạo sinh không cần cảm thấy nản lòng trước viễn cảnh này. |
|
DK anticipates how daunting it really looks |
Chân sư DK đã lường trước mức độ gây choáng ngợp thật sự của nó. |
|
… much can happen on the inner planes where there is right intention as well as occult intention |
… nhiều điều có thể xảy ra trên các cõi nội giới khi có ý định đúng đắn cũng như có ý định huyền linh |
|
Purpose and tension combined so this is the loving intention right intention and then a sense of purpose and accumulation of energy occult intention |
Thiên ý và điểm tập trung nhất tâm được kết hợp — nghĩa là có ý định đầy tình thương, ý định đúng đắn, rồi cảm thức về thiên ý và sự tích lũy năng lượng — ý định huyền linh. |
|
… and the bridge reaches stages of definite outline and structure long before the disciple is aware of it |
… và cây cầu đạt đến những giai đoạn có đường nét và cấu trúc rõ ràng từ lâu trước khi vị đệ tử nhận biết về nó. |
|
But of course the Master is thus aware. It takes faith to build something that you do not see but perhaps to begin to feel. Let’s put them like that. |
Nhưng dĩ nhiên Chân sư thì biết điều đó. Cần có đức tin để xây dựng một điều gì đó mà mình chưa thấy nhưng có lẽ bắt đầu cảm nhận được. Chúng ta hãy diễn đạt như thế. |
|
Well, we’ve come to that point so this is the end of Rays Initiations Webinar commentary number forty one, and today is the 15th of January 17th and the beginning of rays and initiation webinar commentary number 42. Can I not do that I don’t know |
Vâng, chúng ta đã đến điểm đó, vì vậy đây là phần kết thúc của phần bình giảng chương trình Webinar The Rays and the Initiations số bốn mươi mốt, và hôm nay là ngày 15 tháng Giêng, mùng 17, và cũng là phần khởi đầu của phần bình giảng số 42. Tôi có làm được điều đó không thì tôi không biết. |
|
It’s such a deep book, and we will do everything we can to assimilate into practice, and to somehow enter these worlds in a real way, filled with a realization and a practical kind of inner experience which is difficult to describe. |
Đây là một cuốn sách quá sâu sắc, và chúng ta sẽ làm tất cả những gì có thể để thẩm thấu vào thực hành, và bằng cách nào đó bước vào những thế giới này một cách chân thật — tràn đầy sự nhận biết và một loại trải nghiệm nội tâm mang tính thực tiễn mà rất khó mô tả. |
|
So, we will see what the problem is here and we will begin at page 493 when we take this up again. Okay so meanwhile thank you for attending. Thinking about these things and let us work in a manner that because it is obedient to the clear instruction of master DK does bring success to our efforts. |
Vì vậy, chúng ta sẽ xem vấn đề ở đây là gì, và chúng ta sẽ bắt đầu lại tại trang 493 khi tiếp tục chương trình. Được rồi, trong lúc chờ đợi, xin cảm ơn vì đã tham dự, đã suy nghĩ về những điều này, và chúng ta hãy làm việc theo cách vì nó tuân phục những chỉ dẫn rõ ràng của Chân sư DK nên mang lại thành công cho những nỗ lực của chúng ta. |
|
Okay we’ll see you then and thank you |
Được rồi, hẹn gặp lại các bạn, và xin cảm ơn. |